Hệ thống pháp luật

Điều 32 Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng

Điều 32

Các quy định cuối cùng khác

32.1 Không hành động cụ thể nào được thực hiện chống lại việc trợ cấp của Thành viên khác, trừ khi được áp dụng theo các quy định của Hiệp định GATT 1994, được thể hiện ở Hiệp định này[56].

32.2 Không một bảo lưu về bất kỳ một quy định nào của Hiệp định này được chấp nhận nếu không đạt được sự đồng thuận của tất cả các Thành viên khác.

32.3 Căn cứ vào khoản 4, các quy định của Hiệp định này sẽ được áp dụng cho việc điều tra, rà soát các biện pháp hiện tại được khởi đầu theo đơn được lập vào ngày hoặc sau ngày Hiệp định WTO có hiệu lực đối với một Thành viên của Hiệp định WTO.

32.4 Theo khoản 3 Điều 21, các biện pháp đối kháng hiện tại sẽ được coi là áp dụng vào ngày không chậm hơn ngày Hiệp định WTO có hiệu lực đối với một Thành viên của Hiệp định WTO, trừ trường hợp pháp luật trong nước của Thành viên đó có hiệu lực vào ngày nói trên đã có thuộc loại đã quy định tại khoản 3.

32.5 Mỗi Thành viên kể từ ngày không chậm hơn ngày Hiệp định WTO có hiệu lực sẽ có những bước đi cần thiết, mang tính chất chung hoặc riêng biệt để đảm bảo mọi luật, quy định và thủ tục hành chính của mình phù hợp với các quy định của Hiệp định này, khi được áp dụng cho Thành viên liên quan.

32.6 Mỗi Thành viên sẽ thông báo cho Uỷ ban về bất kỳ sự thay đổi nào trong các luật và quy định liên quan tới Hiệp định này và trong việc thi hành các luật, quy định đó.

32.7 Hàng năm, Uỷ ban sẽ xem xét lại việc thực hiện và hiệu lực của Hiệp định này, có tính đến mục tiêu đã được đề ra tại Hiệp định. Uỷ ban sẽ thông báo hàng năm cho Hội đồng Thương mại Hàng hoá về những tiến triển trong thời kỳ được xem xét nói trên.

32.8 Các phụ lục của Hiệp định này là một bộ phận không tách rời của Hiệp định.

Phụ lục I

DANH MỤC MINH HỌA TRỢ CẤP XUẤT KHẨU

(a) Việc Chính phủ trợ cấp trực tiếp cho một hãng hoặc một ngành sản xuất trong nước tính theo kết quả xuất khẩu.

(b) Các chương trình giữ lại ngoại tệ hoặc việc làm tương tự có thưởng khuyến khích xuất khẩu.

(c) Vận chuyển nội địa và cước phí giao hàng xuất khẩu, được Chính phủ cung cấp hoặc giao quyền cung cấp, với những điều kiện thuận lợi hơn so với giao hàng nội địa.

(d) Chính phủ hoặc cơ quan Chính phủ cung cấp sản phẩm và dịch vụ nhập khẩu, hoặc sản xuất trong nước sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu, trực tiếp hay gián tiếp thông qua các chương trình được phép của Chính phủ, với những điều kiện thuận lợi hơn cung cấp cho các sản phẩm tương tự hoặc sản phẩm cạnh tranh trực tiếp hay dịch vụ để sử dụng trong sản xuất hàng tiêu thụ trong nước, nếu trong trường hợp là một sản phẩm, các điều kiện điều khoản đó thuận lợi hơn điều kiện thương mại thông thường sẵn có[57] trên thị trường thế giới dành cho nhà xuất khẩu của Thành viên đó.

(e) miễn, hay tạm ngừng thu toàn bộ hoặc một phần các khoản thuế trực thu[58] hay các khoản đóng góp xã hội mà doanh nghiệp sản xuất hay thương mại[59] đã hoặc phải thanh toán, chỉ áp dụng riêng với xuất khẩu,

(f) cho phép miễn giảm trực tiếp liên quan tới xuất khẩu hoặc kết quả xuất khẩu, vượt quá hay cao hơn những miễn giảm dành cho sản xuất để tiêu thụ trong nước, trong cách tính toán cơ sở để thu thuế trực tiếp.

(g) miễn hay hoàn thuế gián thu58 cao hơn mức áp dụng đối với sản xuất hay lưu thông một sản phẩm tương tự tiêu thụ trên thị trường nội địa, đối với sản xuất hay lưu thông xuất khẩu hàng hoá.

(h) miễn, hoàn hay chuyển thuế gián thu58 sang kỳ sau thuộc diện thu gộp cho cả các công khoản trước đây với hàng hoá hay dịch vụ được sử dụng trong sản xuất hàng xuất khẩu vượt quá mức được miễn, giảm hay hoãn thu với các khoản thuế gián thu gộp đánh vào sản phẩm hay dịch vụ thuộc các giai đoạntrước đây tương ứng được tiêu thụ trên thị trường trong nước; tuy nhiên với điều kiện là, các khoản thuế gián thu gộp được miễn, hoàn trả hay chuyển có thể áp dụng đối với hàng đã xuất khẩu mà không áp dụng với sản phẩm tương tự được tiêu thụ trong nước, khi các khoản thuế gián thu gộp được đánh vào vật tư đầu vào tiêu dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu (tạo thành hao phí thông thường)[60]. Điểm này có thể được hiểu một cách phù hợp với hướng dẫn về tiêu thụ đầu vào trong tiến trình sản xuất nêu tại Phụ lục II.

(i)hoàn trả hay giảm các khoản thu phí nhập khẩu58 vượt quá số thu đối với hàng nhập khẩu tiêu thụ ở đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu (tạo thành mức hao phí thông thường); tuy nhiên, nếu trong những trường hợp riêng biệt, một hãng có thể sử dụng một số lượng vật tư đầu vào trên thị trường trong nước ngang với hay có cùng chất lượng và đặc điểm như đầu vào nhập khẩu để thay thế đầu vào trong nước đó để có thể được hưởng lợi từ quy định này khi các hoạt động nhập khẩu và xuất khẩu tương ứng cùng phát sinh trong một thời kỳ hợp lý nhưng không quá hai năm. Điểm này có thể được hiểu một cách phù hợp với hướng dẫn về tiêu thụ đầu vào trong quá trình sản xuất nêu tại Phụ lục II và hướng dẫn để xác định xem chế độ giảm thuế áp dụng đối với đầu vào sản phẩm thay thế nhập khẩu như là trợ cấp xuất khẩu nêu tại Phụ lục III.

(j) Chính phủ (hoặc các cơ quan đặc biệt do Chính phủ quản lý) thực hiện các chương trình bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, các chương trình bảo hiểm hoặc bảo lãnh nhằm chống lại sự tăng chi phí sản phẩm xuất khẩu hay các chương trình về rủi ro ngoại hối, với phí thu thấp không hợp lý, không đủ để chi trả cho chi phí hoạt động dài hạn hoặc thâm hụt của các chương trình đó.

(k) Chính phủ (hoặc các cơ quan đặc biệt trực thuộc hoặc do Chính phủ quản lý) cấp các khoản tín dụng xuất khẩu với lãi suất thấp hơn mức mà họ thực tế phải trả để có được tiền thực hiện việc này (hay lẽ ra phải trả nếu vay trên thị trường vốn quốc tế để có được tiền với cùng thời hạn và các điều kiện tín dụng, và được tính bằng cùng một đồng tiền của tín dụng xuất khẩu), hoặc các cơ sở đó trả cho toàn bộ hay một phần chi phí phát sinh với nhà xuất khẩu hay với thể chế tài chính để có được tín dụng, trong chừng mực các khoản tín dụng đó được sử dụng để bảo đảm dành cho nhà xuất khẩu những lợi thế đáng kể trong lĩnh vực tín dụng xuất khẩu.

Tuy nhiên, với điều kiện là nếu một Thành viên có tham gia một liên kết quốc tế về tín dụng xuất khẩu mà, tính đến ngày 1 tháng 1 năm 1979, ít nhất mười hai Thành viên sáng lập của Hiệp định này là thành viên của liên kết đó (hay một hình thức kế tục của nó được các Thành viên sáng lập thông qua), hoặc trong thực hành một Thành viên áp dụng các quy định về lãi xuất của liên kết đó, thực hành tín dụng xuất khẩu phù hợp với các quy định đó sẽ không bị coi là trợ cấp xuất khẩu thuộc diện cấm theo Hiệp định này.

(l) Bất kỳ khoản thu nào từ ngân sách nhà nước tạo thành trợ cấp theo nội dung quy định tại Điều XVI GATT 1994.

Phụ lục II

HƯỚNG DẪN VỀ TIÊU THỤ ĐẦU VÀO TRONG QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT[61]

I

1. Các chương trình giảm thuế gián thu có thể cho phép miễn, hoàn hay chuyển việc thu những khoản thuế gián thu thuộc các giai đoạn trước đánh vào vật tư đầu vào được sử dụng trong sản xuất sản phẩm xuất khẩu (tính tới hao phí định mức thông thường). Tương tự như vậy, các chương trình giảm thuế có thể cho phép hoàn hay giảm những khoản thu đối với hàng nhập khẩu đánh vào đầu vào được tiêu thụ cho sản xuất hàng xuất khẩu (tính tới hao phí định mức thông thường).

2.Danh mục Minh họa trợ cấp xuất khẩu tại Phụ lục I của Hiệp định này sử dụng thuật ngữ “đầu vào được sử dụng trong sản xuất hàng xuất khẩu” tại điểm (h) và (i). Theo quy định tại điểm (h), các chương trình giảm thuế gián thu có thể tạo thành một trợ cấp xuất khẩu trong chừng mực các chương trình đó dẫn tới việc miễn, hoàn, giảm hay chuyển các khoản thuế gián thu vượt quá mức tương ứng thông thường vẫn đánh vào vật tư đầu vào tiêu dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu. Theo quy định của điểm (i), các chương trình giảm các khoản thu đánh vào hàng nhập khẩu có thể tạo thành một trợ cấp xuất khẩu trong chừng mực các chương trình đó dẫn tới việc hoàn, giảm hay chuyển các khoản thu vượt quá các khoản tương ứng vẫn thường áp dụng với đầu vào tiêu dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu. Cả hai điểm trên đều quy định rằng tỷ lệ hao phí thông thường phải căn cứ vào thực tế tiêu thụ vật tư đầu vào trong sản xuất hàng xuất khẩu. Điểm (i) cũng quy định về những sản phẩm thay thế.

II

 Khi xem xét liệu vật tư đầu vào có được tiêu dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu hay không có phải là một nội dung điều tra về thuế đối kháng theo Hiệp định này, cơ quan có thẩm quyền điều tra phải tiến hành theo cách thức sau:

1. Trong trường hợp nghi ngờ có một chương trình giảm thuế gián thu hay thoái thu có tính chất trợ cấp do hoàn thuế hay thoái thu quá mức với những khoản đã thu đối với nhập khẩu đầu vào tiêu dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu, cơ quan có thẩm quyền điều tra trước hết phải xác định xem Chính phủ Thành viên đang xuất khẩu hiện có và áp dụng một chương trình hay thủ tục như thế hay không để xác nhận được những vật tư đầu vào nào được tiêu dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu và với số lượng bao nhiêu . Khi đã xác định được có tồn tại một hệ thống như vậy, cơ quan có thẩm quyền điều tra sẽ tiếp tục xem xét xem hệ thống đó có hợp lý không, có hiệu lực để đạt mục tiêu đề ra không và có dựa trên những tập quán thương mại vẫn thường được chấp nhận tại nước xuất khẩu không. Cơ quan có thẩm quyền điều tra khi đó có thể thấy cần tiến hành thử nghiệm thực tế, theo đúng các quy định của khoản 6 Điều 12, nhằm xác minh thông tin và đảm bảo rằng một chương trình hay những thủ tục nói trên đang thực sự tồn tại.

2. Khi không tồn tại một chương trình hay thủ tục như vậy, hoặc một chương trình hay thủ tục đó không hợp lý, hoặc một chương trình hay thủ tục như vậy được coi là hợp lý nhưng trong thực tế lại không được áp dụng hoặc áp dụng không hiệu quả, Thành viên xuất khẩu cần tiếp tục tiến hành kiểm tra dựa trên lượng đầu vào thực sự sử dụng và xác định xem có thanh toán trội hơn không. Nếu cơ quan có thẩm quyền điều tra thấy cần thiết, thì có thể tiếp tục kiểm tra theo quy định tại khoản 1.

3. Các cơ quan có thẩm quyền điều tra phải coi các vật tư đầu vào là một khối thống nhất về mặt vật lý nếu như các vật tư đầu vào này được sử dụng trong quá trình sản xuất và trực tiếp hiện diện trong sản phẩm được xuất khẩu. Các Thành viên ghi nhận rằng nguyên liệu đầu vào không nhất thiết phải hiện diện trong sản phẩm cuối cùng dưới hình thức ban đầu khi tham gia quá trình sản xuất.

4. Khi xác định khối lượng của một loại đầu vào cụ thể được tiêu dùng để sản xuất hàng xuất khẩu, cần tính đến “ tỷ lệ hư hao thông thường”, và mức hư hao đó cũng được tính là đã tiêu dùng cho sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Thuật ngữ “hư hao” là tỷ lệ một loại đầu vào nhất định, không được sử dụng một cách độc lập trong quá trình sản xuất, không tiêu dùng cho sản xuất sản phẩm xuất khẩu, (với những lý do như là tính kém hiệu quả) và nhà chế tạo đó không thu hồi lại hoặc không bán được.

5. Việc cơ quan có thẩm quyền điều tra xác định một định mức hư hao đã đưa ra có được coi là "thông thường" hay không cần tính đến quá trình sản xuất, kinh nghiệm trung bình của ngành sản xuất tại nước xuất khẩu, và các nhân tố kỹ thuật khác, khi thấy thích hợp. cơ quan có thẩm quyền điều tra cần luôn ý thức rằng điều quan trọng là cơ quan có thẩm quyền tại Thành viên xuất khẩu đã tính toán khối lượng hư hao một cách hợp lý chưa, và khi nào khối lượng hư hao đó được tính với ý định bao hàm trong khoản miễn hay hoàn thuế, thoái thu thuế.

                                                               Phụ lục III

HƯỚNG DẪN XÁC ĐỊNH HỆ THỐNG THOÁI THU

ĐỐI VỚI SẢN PHẨM THAY THẾ ĐƯỢC COI LÀ TRỢ CẤP XUẤT KHẨU

I

 Hệ thống thoái thu có thể cho phép hoàn trả hoặc thoái thu các khoản thu nhập khẩu đánh vào đầu vào được tiêu thụ trong quá trình sản xuất một sản phẩm khác và khi sản phẩm này được xuất khẩu có mang một hàm lượng đầu vào có nguồn gốc trong nước có cùng chất lượng và đặc điểm của vật tư đầu vào thay thế cho hàng nhập khẩu. Theo quy định của khoản (i) Danh mục minh họa trợ cấp xuất khẩu nêu tại Phụ lục I, Hệ thống thoái thu áp dụng đối với sản phẩm thay thế có thể tạo thành một khoản trợ cấp xuất khẩu trong chừng mực hệ thống đó dẫn tới việc thoái thu vượt quá các khoản thu ban đầu đánh vào đầu vào nhập khẩu được yêu cầu thoái thu.

II

 Khi xem xét các hệ thống thoái thu với hàng thay thế với tính cách là một phần của cuộc điều tra về thuế đối kháng theo quy định của Hiệp định này, cơ quan có thẩm quyền điều tra cần tiến hành theo phương pháp sau.

1. Đoạn (i) của Danh mục minh họa quy định rằng đầu vào nguồn trong nước có thể thay thế đầu vào nguồn nhập khẩu trong sản xuất một sản phẩm dành cho xuất khẩu với điều kiện đầu vào từ hai nguồn này được tiêu thụ với số lượng ngang nhau và có cùng chất lượng và tính chất với đầu vào nhập khẩu được thay thế. Sự tồn tại của một hệ thống hay thủ tục kiểm tra là quan trọng bởi vì nó cho phép Chính phủ Thành viên xuất khẩu đảm bảo và chứng minh được rằng số lượng vật tư đầu vào yêu cầu được thoái thu không vượt quá số lượng sản phẩm tương tự đã xuất khẩu, dù dưới hình thức nào, và không có tình trạng thoái thu những khoản phí đánh vào hàng nhập khẩu vượt quá số đã thu ban đầu với hàng nhập khẩu liên quan.

2. Khi có lập luận cho rằng một hệ thống thoái thu dẫn tới một khoản trợ cấp, cơ quan có thẩm quyền điều tra trước hết phải tiến hành xác định xem chính phủ Thành viên xuất khẩu có và đang sử dụng một hệ thống hay thủ tục kiểm tra hay không. Khi đã xác định được có một hệ thống hay thủ tục như vậy đang được áp dụng, cơ quan có thẩm quyền điều tra sẽ tiến hành tiếp xem xét thủ tục kiểm tra có hợp lý, có hữu hiệu với mục tiêu được đặt ra, và có dựa trên những tập quán thương mại thông thường vẫn được chấp nhận tại nước xuất khẩu hay không. Trong chừng mực mà những thủ tục đó được xác định là đáp ứng yêu cầu kiểm tra và thực sự hữu hiệu, thì sẽ được coi là không có tồn tại trợ cấp (xuất khẩu). Cơ quan có thẩm quyền điều tra có thể tự thấy cần thiết phải tiến hành một số thử nghiệm thực tế, theo quy định tại khoản 6 Điều 12, nhằm kiểm tra thông tin và tự mình đánh giá xem thủ tục kiểm tra có thực sự được áp dụng không.

3. Có thể được coi là trợ cấp, khi không tồn tại thủ tục kiểm tra, hoặc những thủ tục đó không hợp lý, hoặc những thủ tục đó có tồn tại và được coi là hợp lý nhưng trong thực tế được xác định là không được áp dụng hoặc áp dụng một cách không có hiệu quả. Trong những trường hợp đó, Thành viên xuất khẩu cần tiến hành kiểm tra trên cơ sở các giao dịch thực tế liên quan để xác dịnh xem có trả vượt mức không. Nếu cơ quan có thẩm quyền điều tra thấy cần thiết, thì cần tiếp tục kiểm tra theo quy định tại khoản 2.

4. Sự tồn tại của một quy định về thoái thu đối với hàng thay thế (nhập khẩu) cho phép nhà xuất khẩu lựa chọn những chuyến hàng nhập khẩu và yêu cầu được thoái thu căn cứ vào các chuyến hàng đó chỉ tự nó không được coi là tạo thành một trợ cấp.

5.Thoái thu trội những khoản thu với hàng nhập khẩu theo nội dung khoản (i) được coi là có tồn tại khi một chính phủ thanh toán lãi cho bất kỳ khoản tiền thoái thu nào được trả trong khuôn khổ chương trình đó, với mức độ tương ứng những khoản đã hoặc có thể được thanh toán trội đó.

Phụ lục IV

TÍNH TOÁN GIÁ TRỊ GIA TĂNG TRONG TRỢ CẤP

( ĐIỂM1(A) ĐIỀU 6)[62]

1. Giá trị của trợ cấp theo điểm 1(a) Điều 6 phải được tính theo chi phí mà Chính phủ cấp trợ cấp phải trả.

2. Trừ những quy định từ khoản 3 đến khoản 5, khi xác định xem tổng mức trợ cấp có vượt quá 5% giá trị của sản phẩm hay không, thì giá trị của sản phẩm sẽ được tính toán như là tổng doanh số của công ty nhận trợ cấp[63]trong 12 tháng gần nhất trước thời kỳ trợ cấp[64] được cấp mà trong giai đoạn này số liệu về doanh số là sẵn có.

3. Khi việc trợ cấp được gắn với việc sản xuất hay bán ra một sản phẩm nhất định, giá trị của sản phẩm sẽ được tính toán như là tổng trị giá doanh số bán của sản phẩm đó của công ty nhận trợ cấp trong mười hai tháng gần nhất trước thời kỳ được cấp trợ cấp mà trong thời kỳ này số liệu về doanh số là sẵn có.

4. Nếu công ty tiếp nhận trợ cấp đang trong giai đoạn khởi đầu, tổn hại nghiêm trọng được coi là có tồn tại khi tổng mức trợ cấp vượt quá 15% của tổng vốn đầu tư. Theo khoản này, thời kỳ khởi đầu không được kéo dài quá một năm đầu bắt đầu sản xuất[65]

5. Nếu công ty nhận trợ cấp hoạt động tại một nước có nền kinh tế lạm phát cao, thì trị giá của sản phẩm sẽ được tính toán trên tổng doanh số của công ty nhận trợ cấp (hoặc doanh số của sản phẩm liên quan nếu trợ cấp là ràng buộc với sản phẩm đó) trong năm dương lịch trước đó tính theo mức lạm phát trong mười hai tháng trước khi được trợ cấp.

6. Khi tính tổng mức trợ cấp trong một năm, các khoản trợ cấp theo các chương trình khác nhau từ nguồn của các cơ quan có thẩm quyền khác nhau trên cùng lãnh thổ sẽ được tính gộp lại.

7. Những trợ cấp được cấp trước ngày Hiệp định WTO có hiệu lực, mà lợi ích có được từ những trợ cấp này thuộc thời kỳ sản xuất trong tương lai, sẽ được tính vào trong tổng mức trợ cấp.

8. Những khoản trợ cấp không dẫn tới hành động đối kháng theo những quy định liên quan trong Hiệp định này sẽ không được tính vào mức trợ cấp theo điểm 1(a) Điều 6.

Phụ lục V

TIẾN TRÌNH THU THẬP THÔNG TIN VỀ TỔN HẠI NGHIÊM TRỌNG

1. Mọi Thành viên sẽ hợp tác trong thu thập thông tin về các bằng chứng đưa ra xem xét tại ban hội thẩm trong tiến trình quy định từ khoản 4 đến khoản 6 Điều 7. Các bên tranh chấp hoặc bất kỳ Thành viên thứ ba nào liên quan sẽ thông báo cho Cơ quan giải quyết tranh chấp, ngay khi các quy định của khoản 4 Điều 7 được tham chiếu, về tổ chức chuyên trách cung cấp thông tin này trên lãnh thổ của Thành viên đó và các thủ tục cần tiến hành để được cung cấp thông tin.

2. Trường hợp những vấn đề được đưa ra DSB thuộc nội dung của khoản 4 Điều 7, khi được yêu cầu, DSB sẽ lập tức bắt đầu thủ tục để có được thông tin liên quan do Chính phủ của Thành viên đang áp dụng trợ cấp cung cấp cần thiết để xác định sự tồn tại và mức độ của trợ cấp, giá trị tổng doanh số của công ty được trợ cấp, cũng như những thông tin cần thiết khác để phân tích những tác hại do sản phẩm được trợ cấp gây ra[66]. Tiến trình này có thể bao gồm, nếu thấy cần thiết, đưa ra những câu hỏi cho Chính phủ của Thành viên áp dụng trợ cấp và Chính phủ có khiếu nại để thu thập thông tin, cũng như để làm sáng tỏ và đánh giá về những thông tin mà các bên tranh chấp hiện có thông qua thủ tục thông báo đã nêu tại Phần VII[67].

3. Trong trường hợp gây tác động đến thị trường một nước thứ ba, một bên tranh chấp có thể thu thập thông tin, kể cả thông qua việc đặt ra những câu hỏi với Chính phủ Thành viên thứ ba, cần thiết để phân tích tác động nghịch mà không thể có được từ Thành viên áp dụng trợ cấp hay có khiếu nại. Thủ tục này phải được tiến hành sao cho không tạo nên gánh nặng không cần thiết bất hợp lý cho Thành viên thứ ba đó, nhất là khi Thành viên đó không có ý định tiến hành phân tích thị trường hay giá cả vì mục tiêu điều tra. Việc cung cấp thông tin chỉ dừng lại ở những thông tin sẵn có, hoặc Thành viên đó có thể có ngay được (ví dụ như những thông tin gần nhất hiện có đã được tập hợp bởi các cơ quan thống kê liên quan nhưng chưa được công bố, số liệu hải quan về nhập khẩu, giá trị đã khai báo của sản phẩm liên quan v. v. ). Tuy nhiên, nếu một bên trong tranh chấp tự chịu chi phí để tiến hành phân tích thị trường chi tiết, Thành viên thứ ba đó sẽ tạo thuận lợi cho cá nhân hay hãng nhận tiến hành phân tích đó và cá nhân đó hay hãng đó sẽ được phép tiếp cận mọi thông tin thông thường không thuộc diện được Chính phủ coi là thông tin bí mật.

4. DSB sẽ chỉ định một đại diện có chức năng tạo thuân lợi cho việc thu thập thông tin. Mục đích duy nhất của đại diện là đảm bảo thu thập đúng hạn thông tin cần thiết để tạo thuân lợi cho việc xem xét trong khuôn khổ đa biên vấn đề tranh chấp. Đặc biệt, đại diện có thể gợi ý cách thức hiệu quả nhất có được thông tin cần thiết cũng như khích lệ các bên hợp tác cung cấp thông tin.

5.Tiến trình thu thập thông tin nêu từ khoản 2 đến khoản 4 sẽ được hoàn thành trong vòng 60 ngày kể từ ngày vấn đề được đưa ra DSB theo khoản 4 Điều 7, thông tin có được trong tiến trình đó sẽ được cung cấp cho ban hội thẩm, do DSB thành lập theo quy định tại Phần X. Thông tin đã nêu sẽ bao gồm, nhưng không giới hạn bởi, số liệu về tổng trợ cấp liên quan, (và khi có điều kiện thích hợp, gồm cả giá trị tổng doanh số của công ty được trợ cấp), giá cả sản phẩm được trợ cấp, giá cả của sản phẩm không được trợ cấp, giá cả của các nhà cung cấp khác trên thị trường, thay đổi về khả năng cung của sản phẩm được trợ cấp trên thị trường liên quan và thay đổi thị phần. Thông tin đó cũng cần nêu rõ các bằng chứng biện giải, cũng như các thông tin bổ sung mà ban hội thẩm thấy liên quan trong quá trình đi đến một kết luận.

6. Nếu một Thành viên đã áp dụng trợ cấp hay một nước thứ ba không hợp tác trong việc thu thập thông tin nói trên, thì Thành viên đang khiếu nại sẽ trình bày lập luận của mình về sự tồn tại của một tổn hại nghiêm trọng dựa vào những nhân tố chứng minh có được cũng như sự việc và tình trạng bất hợp tác của Thành viên đang áp dụng trợ cấp hay của Thành viên thứ ba. Trong trường hợp thông tin không sẵn có vì các Thành viên này bất hợp tác, ban hội thẩm có thể hoàn chỉnh hồ sơ theo yêu cầu dựa vào những thông tin có được từ các nguồn khác.

7.Khi có quyết định về việc xác định, ban hội thẩm phải loại trừ ảnh hưởng của việc suy diễn bất lợi do sự bất hợp tác của một bên tham dự trong tiến trình thu thập thông tin.

8. Khi xác định là cần phải sử dụng thông tin tốt nhất có được hay những suy diễn về trường hợp bất hợp tác, ban hội thẩm sẽ lấy ý kiến của đại diện DSB đã được chỉ định theo khoản 4 về tính chất hợp lý của yêu cầu cung cấp thông tin và những cố gắng đã có của các bên nhằm trả lời một cách kịp thời và trên tinh thần hợp tác.

9. Không có quy định nào về việc thu thập thông tin hạn chế khả năng của ban hội thẩm trong việc tìm kiếm thông tin bổ sung được cho là thiết yếu cho việc giải quyết tranh chấp một cách thoả đáng và là những thông tin chưa được yêu cầu hay chưa thu thập được một cách đầy đủ. Tuy nhiên, thông thường ban hội thẩm không nên yêu cầu những thông tin bổ sung để hoàn chỉnh hồ sơ trong trường hợp những thông tin đó tăng cường vị trí cho một bên cụ thể và việc không có thông tin là kết quả của sự bất hợp tác phi lý của bên đó trong việc thu thập thông tin.

Phụ lục VI

THỦ TỤC ĐIỀU TRA TẠI CHỖ THEO QUY ĐỊNH CỦA

KHOẢN 6 ĐIềU 12

1. Ngay khi bắt đầu một cuộc Điều tra, cơ quan có thẩm quyền của Thành viên xuất khẩu và các doanh nghiệp rõ ràng có liên quan sẽ phải được thông báo về ý định tiến hành điều tra tại chỗ.

2.Trong những trường hợp ngoại lệ, nếu có dự kiến đưa các chuyên gia không thuộc Chính phủ tham gia vào nhóm điều tra viên, các doanh nghiệp và cơ quan có thẩm quyền của Thành viên xuất khẩu phải được thông báo. Các chuyên gia này phải thực sự chịu trách nhiệm nếu vi phạm yêu cầu không tiết lộ thông tin.

3.Tập quán thông thường là phải được sự đồng ý rõ ràng của các doanh nghiệp liên quan của Thành viên xuất khẩu trước khi định ngày tới thăm và thu thập thông tin.

4.Cơ quan có thẩm quyền điều tra, ngay khi nhận được sự chấp nhận của các doanh nghiệp liên quan, phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của Thành viên xuất khẩu biết tên và địa chỉ của các doanh nghiệp sẽ cung cấp thông tin kể cả ngày dự kiến đã định.

5. Các doanh nghiệp liên quan phải được báo trước một thời gian hợp lý.

6.Việc gặp gỡ trực tiếp các doanh nghiệp để làm rõ các câu hỏi chỉ được tiến hành khi được các doanh nghiệp xuất khẩu yêu cầu. Trong trường hợp đó, cơ quan có thẩm quyền điều tra có thể sẵn sàng phục vụ các doanh nghiệp đó, buổi gặp chỉ được tiến hành khi (a) cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu đã thông báo cho đại diện chính quyền của Thành viên liên quan về việc đó, và (b) chính quyền Thành viên liên quan không phản đối.

7. Vì mục tiêu chính của cuộc điều tra tại chỗ là nhằm kiểm tra thông tin đã được cung cấp hoặc tìm kiếm thông tin chi tiết hơn, nên cuộc điều tra này chỉ được tiến hành sau khi đã nhận được các câu trả lời về các câu hỏi đã đặt ra, trừ khi doanh nghiệp chấp nhận khác , và nếu chính quyền của Thành viên xuất khẩu đã được cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm điều tra thông báo trước về cuộc gặp hoặc cuộc điều tra và đã không phản đối; ngoài ra tập quán thực hành thông thường yêu cầu là trước khi đến doanh nghiệp, phải thông báo cho họ biết tính chất chung của thông tin cần kiểm tra và cần được cung cấp, nhưng điều đó không hạn chế việc yêu cầu những chi tiết bổ sung cho những thông tin có được khi làm việc tại chỗ.

8.Các câu hỏi hay yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền và các doanh nghiệp của Thành viên xuất khẩu cần thiết cho việc tiến hành điều tra tại chỗ phải được biết vào bất cứ khi nào có thể trước khi tiến hành cuộc gặp .

                                                               Phụ lục VII

CÁC THÀNH VIÊN ĐANG PHÁT TRIỂN NÊU TẠI KHOẢN 2 ĐIỀU 27

Các Thành viên đang phát triển không chịu sự Điều chỉnh của các quy định tại điểm 1 (a) Điều 3 theo các điều kiện quy định tại khoản 2 (a) Điều 27 gồm những nước sau đây:

a) Các nước chậm phát triển theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc là Thành viên WTO.

b) Từng nước đang phát triển dưới đây là Thành viên WTO sẽ chịu sự điều chỉnh áp dụng đối với những Thành viên đang phát triển khác theo khoản 2 Điều 27 khi thu nhập quốc dân tính theo đầu[68] người đạt mức 1000 USD mỗi năm: Bolivia, Cameroon, Congo, Bờ biển Ngà (Côte d’ Ivoire), Cộng hoà Dominica, Hy lạp, Ghana, Guyana, ấn độ, Indonesia, Kenya, Ma-rốc, Nicaragua, Nigeria, Pakistan, Phillipines, Senegal, Sri Lanca, và Zimbabue.

[1] Phù hợp với các quy định của Điều XVI GATT 1994 ( Ghi chú Điều XVI) và các quy định của Phụ lục từ I đến III thuộc Hiệp định này, việc miễn thuế xuất khẩu hay các loại thuế khác cho các sản phẩm tương tự tiêu dùng trong nước, hoặc thoái thu thuế xuất khẩu hay thuế khác không vượt qúa các khoản đã nộp, sẽ không bị coi là trợ cấp.

[2] Các tiêu chí và điều kiện khách quan nêu ở đây là những tiêu chí và điều kiện tự nhiên, không ưu ái cho một số doanh nghiệp hơn một số doanh nghiệp khác, là những biện pháp mang tính chất kinh tế, áp dụng chung như số lượng nhân viên hay quy mô doanh nghiệp.

[3] Về vấn đề này, cần tính đến các thông tin về mức độ thường xuyên một trợ cấp được chấp nhận hay từ chối và lý do của quyết định đó.

[4] Tiêu chuẩn này được đáp ứng khi thực tế cho thấy rằng việc cấp trợ cấp, dù không được áp dụng theo luật dựa trên kết quả xuất khẩu, nhưng lại gắn với tình hình xuất khẩu hiện tại hoặc trong tương lai hay những thu nhập về xuất khẩu. Thực tế là việc trợ cấp được cấp cho các doanh nghiệp xuất khẩu không vì thế mà có thể bị coi là trợ cấp xuất khẩu hiểu theo nghĩa của Điều này.

[5] Các biện pháp nêu tại Phụ lục I không thuộc loại trợ cấp xuất khẩu sẽ không bị cấm theo quy định này hay bất kỳ quy định nào của Hiệp định này.

[6] Mọi thời hạn nêu tại Điều này có thể được gia hạn nếu được các bên thoả thuận.

[7] Như quy định tại Điều 24.

[8] Nếu cuộc họp của DSB không không tổ chức trong thời gian này, thì cuộc họp như vậy sẽ tổ chức.

[9] Cách diễn đạt này không nhằm cho phép áp dụng các biện pháp đối kháng không tương xứng với thực tế nội dung trợ cấp bị cấm theo các quy định này.

[10] Cách diễn đạt này không nhằm cho phép áp dụng các biện pháp đối kháng không tương xứng với thực tế nội dung trợ cấp bị cấm theo các quy định này.

[11] Thuật ngữ “gây tổn hại cho ngành sản xuất trong nước” được sử dụng ở đây có cùng nghĩa như quy định tại Phần V.

[12] Thuật ngữ ‘làm suy giảm hoặc vô hiệu’ được sử dụng trong Hiệp định này có cùng nghĩa như các quy định liên quan của Hiệp định GATT 1994, và sự tồn tại của những “suy giảm hoặc vô hiệu” như vậy sẽ được định rõ phù hợp với việc thi hành các quy định này.

[13] Thuật ngữ “tổn hại nghiêm trọng tới quyền lợi của một Thành viên khác” được sử dụng trong Hiệp định này có cùng nghĩa như quy định tại khoản 1 Điều XVI của GATT 1994, và kể cả mối đe doạ tổn hại nghiêm trọng.

[14] Tổng trị giá trợ cấp sẽ được tính toán phù hợp với các quy định của Phụ lục IV.

[15] Vì biết trước rằng máy bay dân dụng sẽ được điều chỉnh theo quy định riêng thuộc hệ thống đa biên giới hạn này không áp dụng với máy bay dân dụng.

[16] Các Thành viên thừa nhận rằng khi trợ cấp trên cơ sở phí trả định kỳ cho chương trình về máy bay dân dụng không được hoàn trả hết do mức bán ra hiện tại thấp hơn mức dã dự kiến, thì việc này tự nó không tạo ra thiệt hại nghiêm trọng nêu tại điểm này.

[17] Trừ khi có thoả thuận đa biên về các quy tắc cụ thể áp dụng đối với sản phẩm hay hàng hoá đã nêu ra.

[18] Việc khoản này đề cập đến một số tình huống nhất định không tự nó tạo nên nâng lực pháp lý dù theo GATT 1994 hay theo Hiệp định này. Những tình huống đó không mang tính chất đơn lẻ, nhất thời hay phi ý nghĩa theo một cách khác.

[19] Trong trường hợp yêu cầu liên quan tới một trợ cấp được coi là dẫn đến tổn thất nghiêm trọng hiểu theo nghĩa của khoản 1 Điều 6, thì tính sẵn có của bằng chứng gây ra tổn hại nghiêm trọng có thể chỉ giới hạn ở những bằng chứng về việc có đáp ứng được những điều kiện nêu tại khoản 1 Điều 6 hay không.

[20] Bất kỳ thời hạn nào nêu tại Điều này cũng có thể được gia hạn nếu được các bên cùng chấp nhận.

[21] Nếu cuộc họp của DSB không được tổ chức trong thời gian này, một cuộc họp như vậy sẽ được tổ chức.

[22] Nếu cuộc họp của DSB không được tổ chức trong thời gian này, một cuộc họp như vậy sẽ được tổ chức.

[23] Thừa nhận rằng các Thành viên thực hiện một cách rộng rãi sự hỗ trợ của Chính phủ nhằm những mục đích khác nhau và rằng sự hỗ trợ thuần tuý như vậy có thể không được coi là trợ cấp không dẫn tới hành động đối kháng theo các quy định của Điều này không hạn chế khả năng của các Thành viên áp dụng những hỗ trợ đó.

[24] Vì biết trước rằng máy bay dân dụng được điều chỉnh theo quy định riêng thuộc hệ thống đa biên , giới hạn này không áp dụng đối với máy bay dân dụng.

[25] Không chậm hơn 18 tháng, kể từ ngày hiệp định WTO có hiệu lực, Uỷ ban về trợ cấp và các biện pháp đối kháng quy định tại Điều 24 (trong Hiệp định này gọi tắt là “Uỷ ban’) phải xem xét việc thi hành các quy định của điểm 2(a) nhằm có những sửa đổi cần thiết để các quy định này thi hành tốt hơn. Khi xem xét sửa đổi , Uỷ ban sẽ cân nhắc cẩn thận những gì đã được xác định thuộc loại nêu trong khoản này dựa trên những kinh nghiệm của các Thành viên khi thực thi các chương trình nghiên cứu và công việc của các tổ chức quốc tế liên quan.

[26] Các quy định của Hiệp định này không áp dụng đối với các hoạt động nghiên cứu cơ bản do hệ thống giáo dục cao cấp hay các thiết chế (cơ quan chuyên nghiên cứu) tiến hành độc lập. Thuật ngữ nghiên cứu cơ bản mang ý nghĩa mở rộng hiểu biết về khoa học và kỹ thuật/ công nghệ chung không gắn với mục tiêu công nghiệp và thương mại.

[27] Mức cho phép với những hỗ trợ không đối kháng nêu tại điểm này sẽ được tính trên cơ sở tham khảo tổng chi phí phát sinh trong thời gian tiến hành từng dự án.

[28] Thuật ngữ "nghiên cứu công nghiệp" là việc tìm kiếm những kiến thức mới nhằm sử dụng hữu ích trong phát triển những sản phẩm mới, quy trình hay dịch vụ mới, hoặc cải tiến đáng kể sản phẩm mới, quy trình hay dịch vụ mới.

[29] Thuật ngữ “ các hoạt động phát triển sản phẩm tiền cạnh tranh” nghĩa là việc chuyển kết quả nghiên cứu công nghiệp thành kế hoạch, bản thiết kế, bản vẽ của những sản phẩm, quy trình hay dịch vụ, mới được điều chỉnh cải tiến, dù là nhằm mục đích bán ra hay để sử dụng, kể cả việc bản vẽ mẫu ban đầu, không có tính chất sử dụng thương mại. ở đây có thể bao gồm cả việc hình thành ý tưởng, thiết kế sản phẩm, quy trình hay dịch vụ, sự thể hiện hay đề án thử nghiệm hay trung gian hay, miễn là chính những đề án vẫn giữ nguyên như vậy không được chuyển đổi trực tiếp hay sử dụng cho ứng dụng công nghiệp hay khai thác thương mại. ở đây không bao gồm những công việc sửa đổi điều chỉnh thường nhật hay định kỳ đối với sản phẩm hiện có, những dây chuyền sản xuất, quy trình chế tác, dịch vụ hay những hoạt động đang được thực hiện dù rằng những sửa đổi điều chỉnh này có thể là những cải tiến.

[30] Đối với những chương trình bao gồm cả nghiên cứu công nghiệp và phát triển sản phẩm tiền cạnh tranh, mức cho phép trợ giúp không dẫn đến khởi kiện không cao hơn mức cho phép trợ giúp không dẫn tới khởi kiện trung bình áp dụng cho hai chủng loại nêu trên, tính trên cơ sở mọi chi phí tương ứng như nêu tại điểm (i) đến điểm (v) của khoản này.

[31] Một "chương trình chung phát triển vùng" có nghĩa là những chương trình trợ cấp vùng là bộ phận của một chính sách phát triển vùng đồng bộ từ bản thân chính sách và được áp dụng chung, và là trợ cấp phát triển vùng không được cấp cho một địa điểm địa lý riêng biệt không đem lại hay về thực chất không đem lại tác động đến sự phát triển của vùng.

[32] “Các tiêu chí trung lập và khách quan” nghĩa là những tiêu chí không ưu đãi một vùng nhất định quá mức thích hợp để loại trừ hay giảm bớt sự khác biệt giữa các vùng trong khuôn khổ chính sách phát triển vùng. Về vấn đề này, các chương trình trợ cấp vùng sẽ bao gồm những giới hạn tối đa về giá trị trợ giúp có thể được cấp cho mỗi dự án được trợ cấp. Các giới hạn tối đa đó phải khác nhau căn cứ vào trình độ phát triển khác biệt giữa các vùng được trợ cấp và được thể hiện theo chi phí đầu tư hay chi phí tạo việc làm. Trong phạm vi của những giới hạn đó, sự phân bổ trợ giúp sẽ phải đủ mức rộng và đồng đều để tránh việc chỉ một số doanh nghiệp nhất định sử dụng chủ yếu trợ cấp hoặc việc cấp một cách thiên lệch những khoản lớn trợ cấp cho một số doanh nghiệp như quy định tại Điều 2.

[33] Thuật ngữ “những điều kiện hạ tầng hiện có” nghĩa là những điều kiện hạ tầng đã hoạt động được ít nhất hai năm trước khi những yêu cầu về môi trường được áp dụng.

[34] Thừa nhận rằng không có gì trong các quy định về thông báo yêu cầu phải cung cấp thông tin không phỏ biến, kể cả những thông tin về kinh doanh.

[35] Các quy định của Phần II hay Phần III có thể được áp dụng cùng với những quy định tại Phần V; tuy nhiên, với những tác động của một trợ cấp nhất định trên thị trường trong nước của Thành viên nhập khẩu, chỉ được vận dụng một hình thức tu chỉnh (hoặc là thuế đối kháng nếu đáp ứng được những yêu cầu của phần V, hoặc là biện pháp đối kháng được quy định tại Điều 4 hoặc 7). Các quy định của Phần III và V sẽ không được áp dụng đối với những biện pháp được coi là không thể đối kháng theo quy định tại Phần IV. Tuy nhiên những biện pháp nêu tại điểm 1(a) Điều 8 cũng có thể được điều tra để xác định xem chúng có mang tính chất riêng biệt theo quy định của Điều 2. Ngoài ra trong trường hợp trợ cấp nêu tại khoản 2 Điều 8 được áp dụng theo một chương trình chưa được thông báo theo khoản 3 Điều 8, có thể áp dụng các quy định của các Phần từ III đến V, nhưng những trợ cấp đó sẽ được xem như là không thể đối kháng nếu chúng phù hợp với những tiêu chuẩn nêu tại khoản 2 Điều 8.

[36] Thuật ngữ "thuế đối kháng" được hiểu là một khoản thuế riêng biệt áp dụng nhằm mục đích triệt tiêu trợ cấp dành trực tiếp hay gián tiếp cho việc chế tạo, sản xuất hoặc xuất khẩu bất kỳ sản phẩm hàng hoá, như quy định tại khoản 3 Điều VI GATT 1994.

[37] Thuật ngữ "bắt đầu" như được sử dụng kể từ khoản này trở đi nghĩa là những thủ tục mà một Thành viên khởi đầu việc điều tra nêu tại Điều 11.

[38] Đối với những ngành sản xuất trong nước phân tán bao gồm một số lượng lớn bất thường những nhà sản xuất, thì Cơ quan có thẩm quyền có thể xác định tiếng nói ủng hộ hay phản đối căn cứ vào kỹ thuật lấy mẫu thống kê có hiệu lực.

[39] Các Thành viên ý thức rằng trên lãnh thổ của một số Thành viên, nhân viên của các nhà sản xuất trong nước sản xuất sản phẩm tương tự hoặc đại diện của những nhân viên này có thể đưa ra hay ủng hộ một đề nghị điều tra theo khoản 1.

[40] Quy tắc chung là, giới hạn thời gian đối với nhà xuất khẩu sẽ được tính từ khi nhận được danh mục các câu hỏi, và thời điểm nhận được sẽ được tính là sau một tuần, kể từ ngày được gửi cho người nhận hoặc kể từ ngày danh mục đó được chuyển cho đại diện ngoại giao thích hợp của Thành viên xuất khẩu, hoặc trong trường hợp liên quan tới một lãnh thổ thuế quan Thành viên WTO, thì kể từ ngày được chuyển cho đại diện của lãnh thổ đang xuất khẩu.

[41] Hiểu rằng, khi số lượng các nhà xuất khẩu quá lớn, nội dung đầy đủ của bản đề nghị sẽ chỉ được chuyển tới cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu hoặc các tổ chức xuất khẩu liên quan và họ sẽ phải chuyển tiếp bản sao cho những nhà xuất khẩu liên quan.

[42] Các Thành viên cũng ý thức rằng trên lãnh thổ của những Thành viên nhất định việc phổ biến thông tin có thể phải tuân thủ những quy định bảo hộ thông tin chặt chẽ.

[43] Các Thành viên nhất trí rằng yêu cầu bảo đảm không tiết lộ thông tin không thể bị gạt bỏ một cách độc đoán, các Thành viên cũng nhất trí rằng cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra có thể yêu cầu bỏ tính không tiết lộ thông tin chỉ đối với những thông tin liên quan đến việc điều tra.

[44] Căn cứ theo các quy định của khoản này, vấn đề đặc biệt quan trọng là khi chưa tạo cơ hội tham vấn hợp lý, không thể có sự xác định khẳng định dù có là xác định sơ bộ hay xác định cuối cùng. Những tham vấn như vậy có thể tạo ra cơ sở để tiến hành theo các quy định của Phần II, III, X.

[45] Theo Hiệp định này, thuật ngữ “tổn hại”, nếu không có quy định gì khác, sẽ được hiểu là tổn hại vật chất gây ra cho ngành sản xuất trong nước, đe doạ gây tổn hại vật chất cho ngành sản xuất trong nước hoặc gây chậm trễ thực sự cho việc thiết lập một ngành sản xuất trong nước và sẽ được hiểu phù hợp với các quy định của Điều này.

[46] Trong toàn bộ Hiệp định này, thuật ngữ "sản phẩm tương tự" được hiểu là một sản phẩm giống hệt ví dụ như giống hệt sản phẩm đang được xem xét về mọi mặt hoặc nếu không tồn tại một sản phẩm như vậy, một sản phẩm khác dù không tương đồng về mọi mặt, nhưng có những đặc điểm tính chất rất giống sản phẩm đang được xem xét.

[47] Như đã nêu tại khoản 2 và 4.

[48] Theo khoản này, nhà sản xuất sẽ được coi là có liên quan đến những nhà xuất khẩu hay nhập khẩu nếu (a) một trong hai kiểm soát bên còn lại một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; (b) của hai cùng chịu sự kiểm soát của một bên thứ ba một cách trực tiếp hay gián tiếp; hoặc (c) cả hai cùng kiểm soát một bên thứ ba một cách trực tiếp hay gián tiếp và có cơ sở để cho rằng hoặc nghi ngờ rằng mối liên hệ đó có tác động dẫn đến nguyên nhân nhà sản xuất liên quan ứng xử khác so với những nhà sản xuất không có mối liên hệ. Theo khoản này, một người/hãng được coi là kiểm soát hãng khác khi người/ hãng đó ở vị trí pháp lý hay trong hoạt động có thể hạn chế hay chỉ đạo với người/hãng kia.

[49] Thuật ngữ “có thể” sẽ được hiểu là cho phép tiếp tục đồng thời những tiến trình triển khai cam kết, trừ những quy định tại khoản 4.

[50] Theo khoản này, thuật ngữ “các bên trong nước quan tâm” sẽ bao gồm cả những người tiêu dùng, người sử dụng trong công nghiệp sản phẩm nhập khẩu đang bị điều tra.

[51] Khi sử dụng trong Hiệp định này, thuật ngữ ‘đánh thuế’ sẽ được hiểu là sự đánh giá về pháp lý đã xác định hoặc cuối cùng việc thu các khoản thuế hải quan, thuế nội địa hoặc các khoản khác.

[52] Khi giá trị thuế đối kháng được đánh giá trên cơ sở hồi tố, kết quả trong cuộc điều tra gần nhất là không dánh thuế đối kháng (duty) tự nó không là yêu cầu đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền chấm dứt áp dụng thuế chính thức.

[53] Khi cơ quan có thẩm quyền cung cấp thông tin và giải thích theo quy định của Điều này tại một báo cáo riêng, họ sẽ đảm bảo rằng báo cáo đó sẽ sẵn sàng được cung cấp cho công chúng.

[54] Uỷ ban sẽ lập ra một Nhóm công tác để xem xét nội dung và hình thức danh mục câu hỏi như thuộc nội dung bản BISD -194.

[55] Đối với một Thành viên đang phát triển hoặc không có trợ cấp xuất khẩu vào thời điểm Hiệp định WTO có hiệu lực, khoản này sẽ áp dụng trên cơ sở mức áp dụng trợ cấp vào năm 1986.

[56] Khoản này không nhằm ngăn cản các hành động theo những quy định khác của Hiệp định GATT 1994, khi thích hợp.

[57] Thuật ngữ “thương mại thông thường sẵn có” nghĩa là sự lựa chọn giữa sản phẩm trong nước và nhập khẩu không bị hạn chế và chỉ dựa vào sự xem xét thuần tuý thương mại.

[58] Theo Hiệp định này:· thuật ngữ "thuế trực thu" là thuế đánh vào tiền lương, lợi nhuận, lãi tiền vay, , tiền thu được từ việc cho thuê, thuế tài nguyên, và mọi hình thức thu nhập khác và các khoản thuế đánh vào quyền sở hữu bất động sản;· thuật ngữ “khoản thu đối với hàng nhập khẩu” là thuế quan, thuế và các khoản thu về thuế nội địa, phí khác không nêu rõ tại những mục khác trong mục giải thích này được đánh vào hàng nhập khẩu. · thuật ngữ “thuế gián thu” là các loại thuế bán hàng, thuế hàng hoá, thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, thuế đại lý mượn danh, lệ phí , chuyển tiền, thuế với hàng dự trữ trong kho và thiết bị, phí tại biên giới và mọi loại thu khác không phải là thuế trực thu hay khoản thu với hàng nhập khẩu;· thuế gián thu “công đoạn trước ” là thuế đánh vào sản phẩm hay dịch vụ được sử dụng trực tiếp hay gián tiếp trong chế tạo sản phẩm. · thuế gián thu “gộp” là thuế trong nhiều công đoạn được đánh khi không có công cụ để tách thuế riêng biệt khi hàng hoá hoặc dịch vụ chịu thuế tại một giai đoạn sản xuất được sử dụng cho những công đoạn liên tiếp trong sản xuất;· "thoái thu thuế" là hoàn trả hoặc giảm một phần thuế;· "thoái thu hoặc hoàn thuế" bao gồm cả miễn toàn bộ hay một phần hoặc cho lui việc nộp những khoản thu khi nhập khẩu;

[59] Các Thành viên thừa nhận rằng việc cho lùi thời gian nộp thuế không nhất thiết sẽ dẫn đến trợ cấp xuất khẩu, ví dụ trong trường hợp có thu lãi xuất với số tiến chậm trả. Các Thành viên khẳng định nguyên tắc rằng giá cả hàng hoá trong giao dịch giữa các doanh nghiệp xuất khẩu và người mua nước ngoài dưới sự kiểm soát của họ hay dưới cùng một sự kiểm soát sẽ là, nhằm mục đích thu thuế, giá giao dịch giữa những doanh nghiệp độc lập trong diện thường giao dịch. Bất kỳ Thành viên nào cũng có thể lưu ý một Thành viên khác trước những hành vi hành chính hay hành vi khác có thể đi ngược lại nguyên tắc này và có thể dẫn đến kết quả là giảm thuế trực thu với giao dịch xuất khẩu. Trong những trường hợp đó các Thành viên thông thường cố gắng giải quyết sự khác biệt đó bằng cách khai thác cơ chế hiện có trong các hiệp ước song biên hay các cơ chế quốc tế riêng, không tổn hại đến quyền và nghĩa vụ Thành viên của GATT 1994, kể cả quyền tham vấn có được trong quy định của câu trước câu này.

Điểm (e) không có ý định hạn chế một Thành viên áp dụng những biện pháp để tránh đánh thuế hai lần những khoản thu nhập từ nước ngoài của các doanh nghiệp của nước mình hay của một Thành viên khác.

[60] Điểm (h) không áp dụng với thuế trị giá gia tăng và điều chỉnh thuế biên tại cửa khẩu, vấn đề thoái thu phần vượt trội thuế trị giá gia tăng chỉ chịu sự điều chỉnh của điểm (g).

[61] Đầu vào tiêu thụ trong quá trình sản xuất là những đầu vào thống nhất về mặt vật lý, như năng lượng, chất đốt, dầu sử dụng cho công đoạn sản xuất và những chất xúc tác trong quá trình được sử dụng để có được sản phẩm đã xuất khẩu.

[62] Khi cần thiết giữa các Thành viên cần có sự thông cảm về những vấn đề không được quy định trong Phụ lục này hoặc những vấn đề cần được làm sáng tỏ nhằm mục đích nêu tại điểm 1(a) Điều 6.

[63] Công ty tiếp nhận trợ cấp là một công ty nằm trên lãnh thổ của Thành viên áp dụng trợ cấp.

[64] Trong trường hợp trợ cấp liên quan tới thuế, giá trị của sản phẩm sẽ được tính toán như là tổng trị giá doanh số của công ty tiếp nhận trợ cấp trong năm tài chính có được biện pháp liên quan đến thuế đó.

[65] Tình huống mới bắt đầu kinh doanh bao gồm những công đoạncó cam kết tài chính để phát triển sản phẩm hay xây dựng điều kiện hạ tầng để chế biến sản phẩm được hưởng trợ cấp, dù là sản xuất chưa bắt đầu.

[66] Trong trường hợp cần chứng minh có sự tổn hại nghiêm trọng.

[67] Khi tiến hành thu thập thông tin, DSB sẽ tính đến nhu cầu bảo vệ thông tin không phổ biến hay được một Thành viên liên quan tới tiến trình cung cấp trên cơ sở không được tiết lộ.

[68] Việc đưa một Thành viên đang phát triển vào danh sách nêu tại khoản (b ) dựa phải trên số liệu gần nhất của Ngân hàng Thế giới về thu nhập quốc dân trên đầu người.

 (Các văn bản này chỉ có giá trị tham khảo. Ngày ban hành trong văn bản này chỉ mang tính tương đối).

Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng

  • Số hiệu: Khôngsố20
  • Loại văn bản: Điều ước quốc tế
  • Ngày ban hành: 12/12/1994
  • Nơi ban hành: Quốc hội
  • Người ký: ***
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 27/12/1994
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
MỤC LỤC VĂN BẢN
MỤC LỤC VĂN BẢN
HIỂN THỊ DANH SÁCH