Hệ thống pháp luật

Điều 69 Dự thảo luật năng lượng nguyên tử 2025

Điều 69. Bồi thường thiệt hại hạt nhân

1. Thiệt hại hạt nhân là tổn thất đối với con người, tài sản, môi trường, bao gồm cả thiệt hại kinh tế do chi phí phát sinh cho việc khắc phục hậu quả do sự cố hạt nhân xảy ra trên phạm vi lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Chủ đầu tư hoặc tổ chức vận hành cơ sở hạt nhân chịu trách nhiệm sau đây:

a) Chỉ có chủ đầu tư trong giai đoạn vận hành thử hoặc chỉ có tổ chức vận hành phải chịu trách nhiệm về thiệt hại hạt nhân xảy ra ở bất kỳ nơi nào, khi có bằng chứng cho thấy thiệt hại đó là do sự cố hạt nhân tại cơ sở hạt nhân của chủ đầu tư hoặc tổ chức vận hành đó gây ra;

b) Trách nhiệm đối với thiệt hại hạt nhân do vật liệu hạt nhân bị trộm cắp, bị mất, bị thải bỏ hoặc bị bỏ rơi thuộc về tổ chức vận hành cuối cùng được phép sở hữu vật liệu đó;

c) Trách nhiệm đối với thiệt hại hạt nhân được áp dụng ở bất kỳ nơi nào bị thiệt hại.

3. Trong quá trình vận chuyển vật liệu hạt nhân, tổ chức gửi vật liệu hạt nhân phải chịu trách nhiệm về thiệt hại hạt nhân cho đến khi tổ chức nhận đã tiếp nhận vật liệu hạt nhân, trừ khi hai bên có thỏa thuận bằng văn bản để chuyển trách nhiệm sang giai đoạn khác của quá trình vận chuyển hoặc chuyển trách nhiệm sang tổ chức vận tải theo yêu cầu của tổ chức này. Trong trường hợp chuyển trách nhiệm sang tổ chức vận tải, tổ chức vận tải có trách nhiệm như tổ chức vận hành quy định tại khoản 2 Điều này.

4. Tổ chức vận hành cơ sở hạt nhân phải bồi thường thiệt hại hạt nhân gây ra cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sự cố xảy ra do chiến tranh, khủng bố. Tổ chức vận hành cơ sở hạt nhân được miễn trừ toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ bồi thường nếu chứng minh được rằng thiệt hại là do người bị thiệt hại cố ý hoặc bất cẩn gây ra thiệt hại.

5. Mức bồi thường thiệt hại mà chủ đầu tư hoặc tổ chức vận hành cơ sở hạt nhân phải chịu trách nhiệm, tổng mức bồi thường thiệt hại cho một sự cố hạt nhân thực hiện theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hạt nhân mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

6. Việc bồi thường thiệt hại hạt nhân được thực hiện theo nguyên tắc sau đây:

a) Tính chất, hình thức, phạm vi và việc phân bổ khoản bồi thường được xác định theo quy định của pháp luật về năng lượng nguyên tử;

b) Trường hợp yêu cầu bồi thường vượt quá hoặc có khả năng vượt quá tổng mức bồi thường thiệt hại cho một sự cố hạt nhân, ưu tiên bồi thường đối với thiệt hại tính mạng hoặc thương tích cá nhân và sau khi tất cả các yêu cầu bồi thường này được đáp ứng thì các yêu cầu bồi thường khác sẽ được giải quyết.

7. Thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại hạt nhân là 30 năm đối với thiệt hại tính mạng, sức khỏe, 10 năm đối với các thiệt hại khác, kể từ thời điểm xảy ra sự cố hạt nhân.

8. Thẩm quyền giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại hạt nhân thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, quy định khác của pháp luật có liên quan.

9. Chính phủ quy định chi tiết khoản 5 và khoản 6 Điều này.

Dự thảo luật năng lượng nguyên tử 2025

  • Số hiệu: Đang cập nhật
  • Loại văn bản: Luật
  • Ngày ban hành: Đang cập nhật
  • Nơi ban hành: Quốc hội
  • Người ký: Đang cập nhật
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: Đang cập nhật
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
MỤC LỤC VĂN BẢN
MỤC LỤC VĂN BẢN
HIỂN THỊ DANH SÁCH