Hệ thống pháp luật

BỘ TƯ PHÁP
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------

Số: 724/BTP-VP
V/v trả lời kiến nghị của UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

Hà Nội, ngày 25 tháng 01 năm 2013

 

Kính gửi: Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

Trên cơ sở tổng hợp kiến nghị của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ Tư pháp năm 2012, Bộ Tư pháp xin gửi Bản tổng hợp và trả lời đối với các kiến nghị của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Đề nghị các đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chỉ đạo việc nghiên cứu và tiếp thu những giải đáp của Bộ Tư pháp để nhằm thực hiện tốt hơn công tác pháp chế, tư pháp, thi hành án của địa phương trong thời gian tới./.

 


Nơi nhận:
- Như trên;
- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Các Thứ trưởng (để báo cáo);
- Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (để nghiên cứu, tiếp thu);
- Lưu: VT, TH.

KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG




Hoàng Thế Liên

 

BẢN TỔNG HỢP VÀ TRẢ LỜI KIẾN NGHỊ CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG VÀ CÁC BỘ, NGÀNH ĐỐI VỚI CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA BỘ TƯ PHÁP NĂM 2012

I. LĨNH VỰC XÂY DỰNG, THẨM ĐỊNH VĂN BẢN, ĐỀ ÁN VÀ THEO DÕI THI HÀNH PHÁP LUẬT

1. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm trình Chính phủ báo cáo Quốc hội hợp nhất Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2008 và Luật Ban hành VBQPPL của Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) năm 2004. Trong đó, cần cụ thể hóa một số vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra như: công tác kiểm tra, kiểm soát các quyết định hành chính ban hành trên cơ sở VBQPPL trái pháp luật; quy định về chức danh thẩm định viên, kiểm tra viên... (UBND thành phố Hải Phòng); Bộ Tư pháp tổ chức đánh giá tác động của việc thi hành của Luật Ban hành VBQPPL để xác định tính hợp lý, tính khả thi của các quy định. Từ đó, đề xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ sung (Bộ Y tế).

Trả lời:

Dự án Luật Ban hành VBQPPL (hợp nhất) đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội Khóa XIII. Theo Kế hoạch thì Dự án Luật ban hành VBQPPL (hợp nhất) sẽ được trình Quốc hội thông qua vào năm 2014.

Hiện, Bộ Tư pháp đang chủ trì, phối hợp với Bộ, ngành và địa phương tiến hành tổng kết Luật Ban hành VBQPPL năm 2004 và đánh giá tình hình thi hành Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 để xây dựng một Luật Ban hành VBQPPL áp dụng chung cho cả cơ quan ở Trung ương và địa phương. Từ đó đánh giá tác động và xác định tính hợp lý, tính khả thi của các quy định và đề xuất nội dung sửa đổi, bổ sung quy định.

Một trong những định hướng xây dựng Luật Ban hành VBQPPL (hợp nhất) là tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng ban hành VBQPPL theo hướng: đơn giản hóa quy trình nhưng vẫn bảo đảm tiến độ và chất lượng soạn thảo VBQPPL; quy định quy trình ban hành VBQPPL chặt chẽ nhưng cũng cần có sự linh hoạt trong một số trường hợp nhất định cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn như nghiên cứu quy định về chức danh thẩm định viên, kiểm tra viên... Đồng thời, Bộ Tư pháp cũng có kế hoạch xây dựng Luật Ban hành quyết định hành chính, hiện đang đề xuất đưa vào chương trình chuẩn bị năm 2014, sẽ xử lý những vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra như: công tác kiểm tra, kiểm soát các quyết định hành chính ban hành trên cơ sở VBQPPL trái pháp luật.

2. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm chủ trì xây dựng văn bản hướng dẫn về kỹ thuật và kinh phí triển khai Pháp lệnh Hợp nhất VBQPPL và Pháp lệnh Pháp điển hệ thống VBQPPL (Bộ Y tế).

Trả lời:

- Về xây dựng văn bản hướng dẫn về kỹ thuật và kinh phí triển khai Pháp lệnh Hợp nhất VBQPPL:

Thứ nhất, về việc xây dựng văn bản hướng dẫn về kỹ thuật hợp nhất VBQPPL.

Hiện nay, Bộ Tư pháp đang tiến hành xây dựng Sổ tay hướng dẫn kỹ thuật hợp nhất văn bản trên cơ sở tổng hợp phản hồi của các Bộ, ngành về những vấn đề cần hướng dẫn trong Sổ tay trong đó sẽ hướng dẫn các nội dung về kỹ thuật triển khai Pháp lệnh hợp nhất VBQPPL. Bộ Tư pháp xin ghi nhận đề nghị của Quý cơ quan và trong quá trình triển khai thực hiện sẽ xem xét việc ban hành văn bản hướng dẫn về kỹ thuật hợp nhất VBQPPL.

Thứ hai, về việc xây dựng văn bản hướng dẫn về kinh phí triển khai Pháp lệnh hợp nhất VBQPPL.

- Về kinh phí cho công tác hợp nhất VBQPPL được ban hành trước ngày Pháp lệnh có hiệu lực (trước ngày 01/7/2012): Chỉ thị số 26/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/9/2012 về việc triển khai thi hành Pháp lệnh Hợp nhất VBQPPL và Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, đã giao trách nhiệm cho Bộ trưởng Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định kinh phí thực hiện việc hợp nhất văn bản theo quy định tại khoản 2 Điều 19 của Pháp lệnh hợp nhất VBQPPL. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu, đề xuất ban hành văn bản hướng dẫn về định mức kinh phí cho công tác hợp nhất này. Bên cạnh đó, Kế hoạch của Chính phủ về hợp nhất VBQPPL được ban hành theo Quyết định số 63/QĐ-TTg ngày 07/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ trước ngày Pháp lệnh Hợp nhất VBQPPL có hiệu lực cũng giao trách nhiệm cho Bộ Tài chính bố trí kinh phí cho các Bộ, ngành có liên quan thực hiện hợp nhất theo quy định tại khoản 2 Điều 19 của Pháp lệnh và các Bộ, ngành có trách nhiệm lập dự toán kinh phí để thực hiện Kế hoạch và tổng hợp chung vào dự toán của cơ quan mình, gửi Bộ Tài chính tổng hợp, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt dự toán ngân sách theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.

- Về kinh phí cho công tác hợp nhất VBQPPL được ban hành sau ngày Pháp lệnh có hiệu lực (sau ngày 01/7/2012): Để đảm bảo tính chủ động trong việc hợp nhất, bảo đảm thực hiện đúng tinh thần Chỉ thị số 26/CT-TTg Bộ Tư pháp đề nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ tập trung các nguồn lực có chất lượng, củng cố tổ chức pháp chế và các điều kiện cần thiết khác để bảo đảm triển khai kịp thời, hiệu quả, đúng thẩm quyền và trình tự, thủ tục; đúng kỹ thuật việc hợp nhất VBQPPL và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật theo quy định, thì trong thời gian chưa có văn bản hướng dẫn, các Bộ, ngành cần chủ động bố trí kinh phí hợp nhất trong tổng số ngân sách nhà nước của cơ quan mình.

- Về xây dựng văn bản hướng dẫn về kỹ thuật và kinh phí triển khai Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật:

Ngày 16/4/2012, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật có hiệu lực từ ngày 01/7/2013.

Thực hiện nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao về việc triển khai thi hành Pháp lệnh pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, ngày 29/6/2012, Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Pháp lệnh, trong đó có việc xây dựng dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh và Thông tư của Bộ Tư pháp hướng dẫn về kỹ thuật thực hiện pháp điển quy phạm pháp luật. Theo Kế hoạch trên, dự thảo Nghị định sẽ được trình Chính phủ trong tháng 3/2013. Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 28/09/2012 của Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp quy định việc sử dụng kinh phí thực hiện cho công tác pháp điển theo quy định tại Điều 17 của Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, ban hành trong Quý I năm 2013. Hiện, Bộ Tư pháp đang phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính xây dựng dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn nội dung nêu trên.

3. Khẩn trương tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính để có thể triển khai thực hiện ngay khi Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực từ ngày 1/7/2013 (UBND thành phố Hồ Chí Minh, UBND tỉnh Hưng Yên).

Trả lời:

Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2012, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2013. Để triển khai thi hành Luật kịp thời, đồng bộ, thống nhất và hiệu quả, ngày 05/10/2012 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1473/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch triển khai và Danh mục nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính (tổng số văn bản cần phải ban hành là 56 Nghị định). Quyết định cũng đã phân công rõ nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ, ngành trong việc xây dựng văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính và thời điểm trình; trình Chính phủ vào tháng 3 năm 2013 để Chính phủ xem xét, ban hành, đảm bảo thời điểm có hiệu lực của các Nghị định trùng với thời điểm có hiệu lực của Luật.

Theo Quyết định này, Bộ Tư pháp được giao chủ trì soạn thảo 04 Nghị định, trong đó có 03 Nghị định dự kiến thời gian trình Chính phủ vào tháng 3 năm 2013. Bộ Tư pháp đang tiến hành xây dựng các Nghị định theo đúng tiến độ để kịp bảo đảm thời gian trình Chính phủ và hiệu lực thi hành của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Riêng Nghị định của Chính phủ quy định cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính cũng sẽ trình Chính phủ vào tháng 10 năm 2013 để kịp có hiệu lực vào ngày 01/01/2014 (cùng hiệu lực của 3 biện pháp xử lý vi phạm hành chính).

4. Tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định về rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật (UBND tỉnh Quảng Nam).

Trả lời:

Năm 2013, Bộ Tư pháp đã đề xuất xây dựng dự thảo Nghị định, đã trình Chính phủ xem xét, cho ý kiến theo đúng quy trình của Luật Ban hành VBQPPL đưa vào Chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ năm 2013.

5. Đề nghị Bộ Tư pháp tham mưu cho Quốc hội, Chính phủ khi ban hành Luật, Nghị định cần thống nhất đồng bộ, tránh sự chồng chéo trong các VBQPPL, đặc biệt về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ giữa các cấp, các ngành và tránh tình trạng Luật ban hành chờ Nghị định quy định chi tiết, Thông tư hướng dẫn thực hiện (UBND tỉnh Phú Thọ); đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, đề xuất các cơ quan có thẩm quyền xây dựng các quy định để xác định trách nhiệm cụ thể của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực xây dựng pháp luật để công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật được thực hiện nghiêm túc, góp phần đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (Bộ Nội vụ); hệ thống văn bản hướng dẫn xây dựng VBQPPL chưa đồng bộ dẫn đến việc thẩm định văn bản khó (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Nhìn chung, trong thời gian qua công tác xây dựng, ban hành VBQPPL được thực hiện đúng thẩm quyền, tuân thủ trình tự, thủ tục và hình thức theo quy định của Luật ban hành VBQPPL, bảo đảm tính khả thi, đồng bộ, nhằm hạn chế tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các VBQPPL các bộ, cơ quan ngang bộ đã chấp hành nghiêm quy định của Luật Ban hành VBQPPL liên quan đến trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành VBQPPL, trong đó có yêu cầu về tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá các VBQPPL hiện hành có liên quan đến VBQPPL; khảo sát đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến nội dung chính của dự thảo văn bản.

Bên cạnh đó, các cơ quan thẩm định, thẩm tra cũng đã tuân thủ đúng yêu cầu của Luật Ban hành VBQPPL. Trong đó, chú trọng thẩm tra về tính thống nhất, đồng bộ của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật hiện hành để tránh sự chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn giữa các VBQPPL. Trong thời gian qua, các Ủy ban của Quốc hội cũng tăng cường công tác giám sát việc ban hành VBQPPL của các cơ quan nhà nước ở trung ương và của HĐND, UBND để phát hiện hạn chế, bất cập trong công tác ban hành VBQPPL; đặc biệt là tìm ra các quy định chồng chéo, mâu thuẫn trong các VBQPPL do các cơ quan nói trên ban hành để có giải pháp khắc phục. Chính phủ cũng đã chỉ đạo Bộ Tư pháp tăng cường công tác “hậu kiểm” đối với VBQPPL do các bộ, cơ quan ngang bộ, HĐND và UBND ban hành. Kết quả đạt được trong thời gian qua là khả quan, đã phát hiện nhiều văn bản được ban hành sai thẩm quyền, hình thức; một số văn bản mâu thuẫn, chồng chéo và đã đề nghị xử lý theo quy định hiện hành.

Tuy nhiên, nhìn chung tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các VBQPPL vẫn chưa được khắc phục triệt để như ý kiến của các cơ quan đã nêu.

Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp đã và tiếp tục tăng cường tham mưu cho Chính phủ thực hiện các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan có liên quan của Quốc hội trong toàn bộ quá trình soạn thảo, trình các dự án luật, pháp lệnh từ khâu lập dự kiến chương trình, soạn thảo, thẩm tra đến khâu tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo ý kiến của đại biểu Quốc hội; tham gia các cuộc họp định kỳ do Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức để bàn về công tác phối hợp giữa Chính phủ và Quốc hội trong công tác xây dựng pháp luật nhằm nâng cao chất lượng của công tác này và xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh.

Thứ hai, nâng cao nhận thức của lãnh đạo bộ, ngành về tầm quan trọng đặc biệt của công tác xây dựng VBQPPL trong hoạt động quản lý nhà nước; triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định của Luật Ban hành VBQPPL năm 2008, trong đó có quy định về việc lập dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, lấy ý kiến của đối tượng chịu tác động của VBQPPL, tổng kết thi hành pháp luật, đánh giá tác động của dự thảo văn bản.

Thứ ba, nghiên cứu đổi mới phương thức và tăng cường kỷ luật trong hoạt động của các ban soạn thảo luật; nâng cao chất lượng thẩm định, thẩm tra dự án luật, pháp lệnh; kiên quyết chưa trình Chính phủ và Quốc hội những dự án luật chưa đạt chất lượng.

Thứ tư, tiến hành sơ kết ba năm thi hành Luật Ban hành VBQPPL năm 2008, tổng kết việc thi hành Luật Ban hành VBQPPL của HĐND và UBND năm 2004 để xây dựng Luật Ban hành VBQPPL (hợp nhất).

Thứ năm, nghiên cứu để kiến nghị với Chính phủ và Quốc hội về khả năng giao cho một cơ quan độc lập soạn thảo VBQPPL theo mô hình hiện nay ở một số nước trên thế giới nhằm bảo đảm tính chuyên nghiệp và khách quan trong công tác soạn thảo VBQPPL.

Thứ sáu, khẩn trương kiện toàn tổ chức pháp chế bộ, ngành theo quy định tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP của Chính phủ; tăng cường năng lực cho đội ngũ trực tiếp làm công tác soạn thảo VBQPPL; tăng cường sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học vào quá trình soạn thảo luật; tăng kinh phí thích đáng cho công tác xây dựng pháp luật.

6. Qua triển khai thực hiện Luật Ban hành VBQPPL và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nghị định 122/2004/NĐ-CP (được thay thế bằng Nghị định 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế) và Nghị định 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 về kiểm soát thủ tục hành chính thấy có sự chồng chéo về trách nhiệm và quyền hạn trong việc góp ý, thẩm định văn bản đối với các nội dung liên quan đến thủ tục hành chính. Tuy nhiên, do chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền nên việc xác định quyền, trách nhiệm giữa tổ chức pháp chế và cơ quan kiểm soát thủ tục hành chính chưa rõ ràng, tạo khó khăn khi triển khai thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với Văn phòng Chính phủ có phương hướng giải quyết vấn đề này (Bộ Nội vụ)

Trả lời:

Ngày 08/11/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định chuyển nhiệm vụ và bộ máy tổ chức của Cục Kiểm soát thủ tục hành chính từ Văn phòng Chính phủ sang Bộ Tư pháp kể từ 29/11/2012.

Sau tiếp nhận, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo tại Hội nghị toàn ngành Tư pháp nghiên cứu sửa đổi Nghị định 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010, Nghị định số 20/2008/NĐ-CP ngày 14/02/2008 để gắn kết giữa công tác kiểm soát thủ tục hành chính và công tác xây dựng, thẩm định VBQPPL đảm bảo hợp lý, đơn giản quá trình thực hiện.

Văn phòng Chính phủ đã có Công văn đề nghị triển khai nhiệm vụ xây dựng các Nghị định trong đó dự kiến đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chuyển giao công tác kiểm soát thủ tục hành chính từ văn phòng các Bộ, cơ quan ngang Bộ sang tổ chức pháp chế; từ Văn phòng UBND cấp tỉnh sang Sở Tư pháp để thống nhất công tác xây dựng, thẩm định và kiểm soát thủ tục hành chính.

7. Đề nghị sớm ban hành Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định 59/2012/NĐ-CP ngày 23-7-2012 về theo dõi tình hình thi hành pháp luật (UBND thành phố Hồ Chí Minh, UBND tỉnh Quảng Nam); kịp thời có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các nhiệm vụ về theo dõi thi hành pháp luật để việc triển khai thực hiện đạt hiệu quả cao hơn (UBND tỉnh Phú Yên).

Trả lời:

Ngày 23/7/2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2012/NĐ-CP về theo dõi tình hình thi hành pháp luật, có hiệu lực từ ngày 01/10/2012. Nghị định quy định cụ thể về nội dung, hoạt động, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong theo dõi tình hình thi hành pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng để các Bộ, ngành, địa phương triển khai công tác theo dõi thi hành pháp luật một cách thống nhất, hiệu quả.

Để triển khai Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, Bộ Tư pháp đã khẩn trương hoàn thiện việc xây dựng Bộ tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ rất cụ thể, chi tiết cung cấp cho các Bộ, ngành, địa phương. Trong tháng 11/2012, Bộ Tư pháp đã tổ chức các Hội nghị tập huấn nghiệp vụ chuyên sâu cho Lãnh đạo Sở Tư pháp, chuyên viên Sở Tư pháp trực tiếp làm công tác theo dõi thi hành pháp luật và chuyên viên nội chính Văn phòng UBND của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Ngay sau các Hội nghị này, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ tổ chức Hội nghị tập huấn cho người làm công tác theo dõi thi hành pháp luật của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện để công tác này được triển khai một cách kịp thời, thống nhất và hiệu quả trong cả nước.

Để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc triển khai thực hiện công tác theo dõi thi hành pháp luật trong những năm tiếp theo, hiện nay Bộ Tư pháp đang phối hợp với các cơ quan hữu quan nghiên cứu xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ tiêu thống kê quốc gia (để thực hiện Quyết định số 43/2010/QĐ-TTg ngày 02/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ); các Bộ, ngành cũng đang nghiên cứu xây dựng, ban hành chỉ tiêu thống kê ngành làm cơ sở cho việc xem xét, đánh giá tình hình thi hành pháp luật theo quy định tại Nghị định.

Bộ Tư pháp xin ghi nhận kiến nghị của các cơ quan và trong quá trình thực hiện, Bộ Tư pháp sẽ tổng hợp những khó khăn, vướng mắc để kịp thời ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn giải quyết.

8. Kiến nghị Chính phủ tăng kinh phí cho công tác xây dựng văn bản (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội); đề nghị Bộ Tư pháp sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể quy định chế độ chính sách đặc thù đối với người làm công tác xây dựng, thẩm định văn bản và pháp chế, tham mưu trình Chính phủ quy định chức danh thẩm định viên, kiểm tra viên đối với công chức chuyên trách làm công tác xây dựng pháp luật và chế độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác này, những người này cần phải qua khóa đào tạo kỹ năng, cấp chứng chỉ mới có thể được bổ nhiệm (UBND các tỉnh: Hưng Yên, Lào Cai, Quảng Nam, Sơn La).

Trả lời:

- Về kinh phí cho công tác xây dựng văn bản: Để triển khai Luật Ban hành VBQPPL và khắc phục một phần bất cập về kinh phí chi cho công tác xây dựng VBQPPL, trong năm 2010, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ ban hành Thông tư số 192/2010/TTLT-BTC-BTP-VPCP về hướng dẫn lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng VBQPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật (thay thế Thông tư số 100/2006/TT-BTC ngày 23/10/2006 của Bộ Tài chính).

Theo Thông tư số 192/2010/TTLT-BTC-BTP-VPCP thì mức chi cho các hoạt động xây dựng pháp luật đã được nâng lên từ 70 - 100% so với mức chi theo Thông tư số 100/2006/TT-BTC ngày 23/10/2006 trước đây. Chẳng hạn như mức chi cho xây dựng 01 Thông tư theo Thông tư 100 là 7.000.000 đồng, nay theo Thông tư số 192/2010/TTLT-BTC-BTP-VPCP thì mức này được nâng lên 15.000.000 đồng.

Tiếp đó, liên Bộ Tài chính - Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 47/2012/TTLT-BTC-BTP quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng và hoàn thiện VBQPPL của HĐND, UBND (thay thế Thông tư liên tịch số 09/2007/TTLT- BTP-BTC ngày 15/11/2007) của liên bộ Bộ Tài chính - Tư pháp. Các mức chi theo Thông tư liên tịch số 47/2012/TTLT-BTC-BTP cũng đã được nâng lên đáng kể so với mức chi quy định trong Thông tư liên tịch số 09/2007/TTLT- BTP-BTC trước đây.

Mặc dù đã được nâng lên một bước, nhìn chung mức chi theo 02 Thông tư nêu trên vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu chi thực tế trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản pháp luật; chưa khuyến khích được đội ngũ công chức làm công tác xây dựng pháp luật toàn tâm, toàn ý với công việc, cũng như chưa huy động được sự đóng góp thực sự có chất lượng của các chuyên gia, nhà khoa học và xã hội vào quá trình xây dựng thể chế ở nước ta. Bộ Tư pháp sẽ tích cực phối hợp với các Bộ liên quan nhất là Bộ Tài chính nghiên cứu, trình Chính phủ đề xuất việc tăng kinh phí cho công tác xây dựng VBQPPL.

- Về chế độ chính sách đặc thù đối với người làm công tác xây dựng, thẩm định văn bản: Theo quy định của pháp luật hiện hành (Luật Ban hành VBQPPL năm 2008, Nghị định số 204/2004/NĐ-CP...) thì đội ngũ những người làm công tác thẩm định và kiểm tra VBQPPL chưa được xác định là hoạt động nghề theo chức danh thẩm tra viên, kiểm tra viên và cũng chưa được hưởng chế độ phụ cấp đặc thù.

Để xây dựng được một đội ngũ công chức làm công tác xây dựng và thẩm định văn bản có trình độ cao về chuyên môn, chuyên nghiệp về kỹ năng soạn thảo và thẩm định văn bản, Bộ Tư pháp đồng tình với ý kiến của UBND tỉnh Hưng Yên và UBND tỉnh Lào Cai là các Bộ liên quan như Bộ Tư pháp, Nội vụ, Tài chính... cần phải nghiên cứu, trình Chính phủ quy định chức danh chuyên môn thẩm định văn bản và chế độ tương xứng cho chức danh này. Với nhiệm vụ được Chính phủ giao, hiện nay Bộ Tư pháp đang tổng kết thi hành Luật Ban hành VBQPPL năm 2008, Luật Ban hành VBQPPL của HĐND, UBND năm 2004, xây dựng Luật Ban hành VBQPPL chung (hợp nhất), Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu để xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của đội ngũ những người làm công tác thẩm định và kiểm tra VBQPPL, từ đó xác định tính chất công việc để có thể xây dựng, trình Chính phủ quy định về chức danh; trình Thủ tướng Chính phủ quy định chế độ phụ cấp đặc thù cho đội ngũ những người làm công tác thẩm định, kiểm tra VBQPPL và quy định chế độ đào tạo kỹ năng để cấp chứng chỉ.

9. Đề nghị Bộ Tư pháp đưa ra hướng dẫn về việc xây dựng VBQPPL theo trình tự thủ tục rút gọn, đặc biệt là đối với văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ trưởng (Bộ Tài nguyên và Môi trường).

Trả lời:

Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 đã dành riêng một chương (Chương VIII, từ Điều 75 đến Điều 77) quy định về xây dựng, ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn. Luật đã quy định cụ thể về: (1) trường hợp được áp dụng quy trình rút gọn; (2) loại văn bản được áp dụng quy trình này; (3) các bước của quy trình xây dựng và ban hành văn bản theo trình tự, thủ tục rút gọn. Cụ thể như sau:

- Về trường hợp được áp dụng quy trình rút gọn: Luật quy định trình tự, thủ tục rút gọn chỉ được thực hiện trong trường hợp khẩn cấp hoặc cần sửa đổi ngay cho phù hợp với văn bản mới được ban hành.

- Về loại văn bản được áp dụng quy trình này: theo quy định của Luật thì thủ tục rút gọn chỉ áp dụng đối với việc xây dựng, ban hành VBQPPL của Quốc hội, UBTV Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

- Về các bước của quy trình xây dựng và ban hành văn bản theo trình tự, thủ tục rút gọn: Các Điều 76 và 77 của Luật cho rút gọn và đẩy nhanh thời hạn thực hiện một số khâu, cụ thể là: (1) không nhất thiết phải thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập; (2) không bắt buộc tổ chức lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về dự thảo văn bản; (3) Cơ quan thẩm định có trách nhiệm thẩm định dự thảo văn bản ngay sau khi nhận được hồ sơ thẩm định; cơ quan thẩm tra có trách nhiệm thẩm tra dự thảo văn bản ngay sau khi nhận được hồ sơ thẩm tra; (4) hồ sơ trình chỉ gồm: Tờ trình về dự án, dự thảo; Dự thảo văn bản; Báo cáo thẩm định đối với dự thảo nghị định của Chính phủ, dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; báo cáo thẩm tra đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; (5) trong trường hợp khẩn cấp hoặc cần sửa đổi ngay cho phù hợp với VBQPPL mới được ban hành thì việc xây dựng, ban hành luật, Quốc hội xem xét, thông qua dự án, dự thảo văn bản tại một kỳ họp; Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ xem xét, thông qua dự án, dự thảo văn bản tại một phiên họp.

Như vậy, Luật Ban hành VBQPPL đã quy định cụ thể, chi tiết về trình tự, thủ tục xây dựng VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn.

II. LĨNH VỰC PHÁP CHẾ

1. Đề nghị Bộ Tư pháp với chức năng, nhiệm vụ là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lĩnh vực tư pháp, công tác xây dựng pháp luật cần có sự phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành trong việc tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ làm công tác pháp chế, công tác xây dựng VBQPPL; đặc biệt chú trọng việc đổi mới hình thức, phương pháp, nội dung tập huấn; trong Kế hoạch công tác năm của Bộ Tư pháp, cần nêu rõ kế hoạch mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về theo dõi thi hành pháp luật, kiểm tra thực hiện pháp luật, PBGDPL năm 2013 cho pháp chế các Bộ, ngành. Riêng đối với đối tượng phóng viên, biên tập viên của các cơ quan báo chí cần có các lớp tập huấn về công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật để “mỗi phóng viên báo chí là một tuyên truyền viên pháp luật” (Bộ Nội vụ, Bộ Công thương, Bộ Quốc phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam).

Trả lời:

Hàng năm, Bộ Tư pháp đều có kế hoạch và bố trí một khoản kinh phí đáng kể dành cho việc tổ chức công tác tập huấn, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có cán bộ pháp chế và giao cho các đơn vị chuyên môn tổ chức thực hiện. Ngày 03/4/2012, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 524/QĐ-BTP giao Học viện Tư pháp chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức các hội nghị, lớp tập huấn, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng tổ chức công tác pháp chế, trên cơ sở nguyên tắc lấy thu bù chi.

Trong năm 2012, Bộ Tư pháp đã tổ chức các hội nghị tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng tổ chức công tác pháp chế theo quy định của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP và quán triệt nội dung một số văn bản mới ban hành, theo đó đã tổ chức 01 Hội nghị tập huấn nghiệp vụ cho các Bộ, ngành tại Hà Nội và 03 Hội nghị cho cán bộ Tư pháp, pháp chế địa phương tại ba miền Bắc, Trung, Nam.

2. Phối hợp với Bộ Nội vụ sớm ban hành Thông tư hướng dẫn về tổ chức, bộ máy, biên chế, tiêu chuẩn của người làm công tác pháp chế (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND tỉnh Phú Thọ); sớm hoàn chỉnh dự thảo và ban hành Thông tư hướng dẫn về chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với người làm công tác pháp chế để kịp thời động viên cán bộ làm công tác pháp chế và việc thu hút, tuyển chọn đội ngũ này thuận lợi (Thông tấn xã Việt Nam, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Quốc phòng, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giao thông - Vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND tỉnh Phú Thọ); quan tâm xây dựng cơ chế, chính sách cho hoạt động soạn thảo VBQPPL; hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ cho các hoạt động mới của công tác pháp chế Bộ, ngành và có hướng dẫn cụ thể việc triển khai và kinh phí thực hiện cho các hoạt động này (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội); sớm có văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ để đảm bảo quyền và lợi ích cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác pháp chế, tăng cường vị trí, vai trò của tổ chức pháp chế (Bộ Công thương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, UBND tỉnh Sóc Trăng, UBND tỉnh Hưng Yên, Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang); Bộ Tư pháp cùng các Bộ, ngành Trung ương hướng dẫn để thống nhất thành lập tổ chức pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh. Phân bổ biên chế để thực hiện chuyên trách trong công tác pháp chế theo quy định tại Nghị định số 55 (UBND tỉnh Quảng Nam); kiến nghị Bộ Tư pháp yêu cầu Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bố trí biên chế thành lập mới và kiện toàn tổ chức pháp chế theo quy định trong thời gian sớm nhất để bộ máy đi vào hoạt động ổn định (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch); đề nghị Bộ Tư pháp có kiến nghị cụ thể với Chính phủ và Bộ Nội vụ tăng biên chế cho Bộ Ngoại giao phù hợp với yêu cầu công tác pháp chế (Bộ Ngoại giao).

Trả lời:

Thực hiện chức năng giúp Chính phủ quản lý công tác pháp chế, Lãnh đạo Bộ Tư pháp luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị chức năng thuộc Bộ cần nghiêm túc tiếp nhận và khẩn trương chủ động phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để trả lời kiến nghị, hướng dẫn hoạt động cụ thể trên các mặt công tác pháp chế cho các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp nhà nước.

Thực hiện Kế hoạch triển khai Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ, Kế hoạch công tác năm 2011, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ và các cơ quan, tổ chức có liên quan tiến hành xây dựng Dự thảo Quyết định về chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với người làm công tác pháp chế. Ngày 06/12/2011, tại Tờ trình số 42/TTr-BTP Bộ Tư pháp đã trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Quyết định nêu trên. Trên cơ sở Kế hoạch xây dựng Đề án cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công, ngày 19/3/2012, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 3515/VPCP-KGVX thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ về việc giao Bộ Nội vụ chủ trì nghiên cứu chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với người làm công tác pháp chế trong Đề án cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công. Mặc dù không chủ trì chính sách trên, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp luôn chủ động phối hợp với Bộ Nội vụ để thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Ngoài ra, thực hiện Kế hoạch triển khai Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, đồng thời để tạo điều thuận lợi hơn cho các tổ chức pháp chế trong việc thực hiện các nhiệm vụ của mình, nhất là các nhiệm vụ, quyền hạn mới được giao theo các văn bản vừa được ban hành trong thời gian qua như theo dõi thi hành pháp luật, pháp điển, hợp nhất VBQPPL..., Bộ Tư pháp đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan xây dựng dự thảo Thông tư hướng dẫn nghiệp vụ của các tổ chức pháp chế; Thông tư liên tịch Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính hướng dẫn hướng dẫn về tổ chức, biên chế, tiêu chuẩn của người làm công tác pháp chế và đang tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan.

Sau khi Nghị định số 55/2011/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định số 55/2011/NĐ-CP (Quyết định số 1477/QĐ-BTP ngày 23/8/2011) trong đó có đề nghị các Bộ, ngành nghiên cứu, tổ chức kiện toàn tổ chức pháp chế và nâng cao năng lực đội ngũ những người làm công tác pháp chế theo các quy định của Nghị định; tổ chức quán triệt, phổ biến, giới thiệu Nghị định và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Nghị định.

Bên cạnh đó, ngày 6/10/2011, Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã có Công văn đề nghị Ban Cán sự đảng các Bộ, ngành, Tỉnh ủy, Thành ủy và Đảng ủy các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo triển khai công tác pháp chế, theo đó yêu cầu xây dựng đề án thành lập mới, củng cố, kiện toàn các tổ chức pháp chế trực thuộc, trong đó xác định rõ việc thành lập mới ở những nơi chưa có tổ chức pháp chế; củng cố, kiện toàn các tổ chức pháp chế hiện có; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng tổ chức pháp chế; các biện pháp, giải pháp cụ thể về biên chế, chế độ, điều kiện bảo đảm cho hoạt động của các tổ chức pháp chế theo quy định của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP và các văn bản pháp luật khác có liên quan; đồng thời, xây dựng quy hoạch và thực hiện kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn luật cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức pháp chế, đảm bảo sau 5 năm đạt tiêu chuẩn theo quy định của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP.

3. Tổng hợp chung số liệu tất cả các Bộ, ngành để có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng chuyên ngành về luật (Kết quả rà soát đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế của Bộ; doanh nghiệp cho thấy, số người làm công tác pháp chế chưa có trình độ cử nhân luật để đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định của Nghị định 55/2011/NĐ-CP chiếm gần 50%. Đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, mở lớp đào tạo chuyên ngành luật tại các trường đại học trực thuộc Bộ Tư pháp cho đối tượng là cán bộ đang làm công tác pháp chế tại các Bộ, ngành, địa phương mà chưa có trình độ cử nhân luật) (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải).

Trả lời:

Trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã chú trọng tạo nguồn nhân lực pháp luật cho đất nước và địa phương nhất là năm 2012 Trường Đại học Luật Hà Nội là cơ sở đào tạo luật thuộc Bộ Tư pháp đã tăng quy mô hàng năm 10%, đảm bảo chất lượng đào tạo. Trường đã áp dụng nhiều giải pháp đảm bảo chất lượng như: rà soát, chỉnh lý chương trình, bổ sung đội ngũ giảng viên, đổi mới phương pháp đào tạo, phương pháp đánh giá kết quả học tập của sinh viên, học viên, mở các lớp đào tạo theo hình thức vừa làm vừa học ở một số địa phương, nhất là các tỉnh có điều kiện tự nhiên, xã hội khó khăn.

Kết quả đào tạo năm 2012 như sau: Đối với hệ chính quy: Chỉ tiêu tuyển sinh là 1900; số thực tuyển: 2045. Ngoài ra Trường còn tổ chức các lớp đào tạo hệ cử tuyển, đào tạo nguồn nhân lực cho các tỉnh có điều kiện tự nhiên, xã hội khó khăn theo Nghị quyết 30a của Chính phủ và đào tạo nguồn nhân lực cho các tỉnh Tây Bắc theo cơ chế đặc thù do Bộ Giáo dục và Đào tạo giao. Tổng chỉ tiêu các sinh viên theo hình thức này là 167.

Để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực pháp luật cho các địa phương, Trường Đại học Luật Hà Nội sẵn sàng tăng quy mô. Tuy nhiên, chỉ tiêu đào tạo do Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định, Trường không thể tăng quy mô quá quy định. Trường sẽ đăng ký thêm chỉ tiêu đào tạo năm 2013 phù hợp với năng lực của Trường và nhu cầu của các địa phương. Đề nghị các bộ, ngành và UBND các địa phương có ý kiến:

- Chỉ đạo các Sở Giáo dục và Đào tạo xác định nhu cầu, đăng ký chỉ tiêu với Bộ Giáo dục và Đào tạo để cử người theo học dưới hình thức cử tuyển, theo Nghị quyết 30a của Chính phủ và các Đề án phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc, các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, Tây Nam bộ theo Công văn số 5425/BGDĐT-GDDH ngày 21/08/2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc đào tạo nhân lực cho các tỉnh thành phố thuộc khu vực Tây bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ.

- Chỉ đạo các Sở có Công văn đề nghị Trường mở các lớp vừa làm vừa học ở các địa phương thiếu cán bộ pháp luật, đặc biệt là các tỉnh có điều kiện tự nhiên - xã hội khó khăn, các tỉnh còn thiếu nhiều cán bộ pháp luật.

Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cho chủ trương và chỉ tiêu cần thiết để Trường mở lớp hình thức vừa làm vừa học đối với đội ngũ cán bộ pháp chế cho các Bộ, ngành (hiện nay còn 50% số cán bộ pháp chế các Bộ, ngành chưa qua đào tạo đại học luật). Cả nước hiện có 200.000 cán bộ công chức hành chính làm việc tại các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, các xã, phường, thị trấn cần phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu cán bộ pháp chế cho các bộ, ngành và các địa phương, Trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng, cần thiết phải mở các lớp đào tạo trình độ cử nhân luật với hình thức, quy mô và chất lượng phù hợp để đáp ứng nhu cầu cán bộ pháp luật cho đất nước.

Trên cơ sở các ý kiến và số liệu trên, Bộ Tư pháp sẽ tổng hợp và đề nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào năng lực đào tạo của Trường Đại học Luật Hà Nội để Trường tăng quy mô cho các hệ đào tạo và xin chỉ tiêu mở lớp đào tạo cán bộ pháp chế cho các Bộ, ngành.

III. LĨNH VỰC RÀ SOÁT, KIỂM TRA VĂN BẢN

1. Hiện nay việc triển khai thực hiện Nghị định 40/2010/NĐ-CP về kiểm tra và xử lý VBQPPL đã phát sinh bất cập. Theo Nghị định này, cùng một đối tượng điều chỉnh có sự kiểm tra của cả 02 cơ quan là Bộ Tư pháp (trực tiếp là Cục kiểm tra văn bản) và Bộ, ngành (trực tiếp là tổ chức pháp chế). Cùng một công việc có 02 cơ quan thực hiện sẽ dẫn đến chồng chéo về chức năng nhiệm vụ. Bên cạnh đó, việc kiểm tra văn bản được kết hợp với công tác theo dõi thi hành pháp luật sẽ giúp các Bộ, ngành có thực tiễn pháp lý cần thiết góp phần nâng cao, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nếu trong khoảng thời gian nhất định Bộ Tư pháp và Bộ, ngành cùng tổ chức kiểm tra với một đối tượng sẽ gây khó khăn cho các Bộ, ngành khi triển khai thực hiện kế hoạch và tạo phiền hà cho đối tượng chịu sự kiểm tra, đặc biệt là các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản ở cấp tỉnh. Đề nghị Bộ Tư pháp cần có hướng dẫn hoặc quy chế phối hợp giữa Cục Kiểm tra văn bản với tổ chức pháp chế để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức pháp chế thực hiện tốt nhiệm vụ trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, ngành (Bộ Nội vụ).

Trả lời:

- Về thẩm quyền kiểm tra: theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý VBQPPL thì:

“1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ kiểm tra các văn bản có quy định liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, ngành mình do các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ khác, HĐND và UBND cấp tỉnh ban hành”.

Người đứng đầu tổ chức pháp chế Bộ, cơ quan ngang Bộ giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ thực hiện việc kiểm tra các văn bản thuộc thẩm quyền kiểm tra của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.

Người đứng đầu tổ chức pháp chế cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp với tổ chức pháp chế Bộ, cơ quan ngang Bộ có nhiệm vụ quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực hoạt động của cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện việc kiểm tra theo thẩm quyền các văn bản thuộc lĩnh vực hoạt động của cơ quan thuộc Chính phủ.

“2. Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện thẩm quyền kiểm tra văn bản theo quy định tại khoản 1 Điều này và giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra:

a) Thông tư do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ đó hoặc liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước;

b) Thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ; nội dung thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ trong thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;

c) Nghị quyết do Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước.

Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp kiểm tra các văn bản thuộc thẩm quyền kiểm tra của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Như vậy, theo quy định trên thì thẩm quyền của các Bộ trưởng là tương đối độc lập và không có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ cũng như là cùng một đối tượng điều chỉnh có sự kiểm tra của 02 cơ quan.

Còn đối văn bản là Thông tư do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ đó ... thì Bộ Tư pháp giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra. Đây là thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ (cụ thể hóa quy định tại Luật ban hành VBQPPL). Vì vậy, không có sự chồng chéo như quý Bộ nêu.

- Về phối hợp kiểm tra: thực hiện quản lý nhà nước về công tác này, Bộ Tư pháp thường tổ chức các Đoàn công tác để kiểm tra, nắm tình hình về công tác kiểm tra, xử lý văn bản, trong đó có kết hợp kiểm tra văn bản theo địa bàn (thành phần kiểm tra gồm cả pháp chế các bộ, ngành có liên quan) và khi phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật thuộc thẩm quyền của Bộ khác thì Bộ Tư pháp (Cục Kiểm tra văn bản) đều thông tin cho địa phương, cũng như Bộ, ngành liên quan. Tuy nhiên, để công tác này đạt hiệu quả cao hơn, trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tăng cường hơn nữa công tác thông tin, phối hợp với pháp chế các bộ, ngành liên quan, trong đó có pháp chế - Bộ Nội vụ.

2. Bộ Tư pháp sớm ban hành quy định cụ thể về trình tự, thủ tục rà soát, hệ thống hóa VBQPPL để áp dụng thống nhất trên toàn quốc; biên soạn tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa VBQPPL; hướng dẫn các địa phương về nghiệp vụ kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa VBQPPL nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của địa phương, đồng thời góp phần tích cực vào việc bảo đảm tính thống nhất, hợp pháp của hệ thống pháp luật (UBND tỉnh Lào Cai).

Trả lời:

- Về ban hành quy định cụ thể về trình tự, thủ tục rà soát, hệ thống hóa VBQPPL để áp dụng thống nhất trên toàn quốc: trình tự, thủ tục rà soát, hệ thống hóa VBQPPL sẽ được quy định cụ thể trong Nghị định rà soát, hệ thống hóa văn bản. Hiện nay, Bộ Tư pháp đã hoàn thiện dự thảo Nghị định rà soát, hệ thống hóa văn bản và trình Chính phủ trong thời gian tới.

- Về biên soạn tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ: trong năm 2011, Bộ Tư pháp đã biên soạn, xuất bản sách nghiệp vụ hướng dẫn công tác kiểm tra, rà soát hệ thống hóa VBQPPL cấp phát miễn phí cho UBND, Sở Tư pháp các tỉnh thành trong cả nước và gửi cho đại biểu tham gia các lớp tập huấn nghiệp vụ kiểm tra, rà soát hệ thống hóa VBQPPL trong năm 2012.

- Về hướng dẫn nghiệp vụ: tháng 10/2012, Bộ Tư pháp đã tổ chức lớp tập huấn về công tác kiểm tra, rà soát hệ thống hóa VBQPPL cho đối tượng là các Pháp chế bộ ngành và Sở Tư pháp địa phương trên toàn quốc tại Hà Nội trong thời gian 02 ngày (30 - 31/10/2012).

Năm 2013, sau khi Chính phủ ban hành Nghị định về rà soát, hệ thống hóa VBQPPL, Bộ Tư pháp sẽ triển khai tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ cho các Bộ ngành và địa phương về vấn đề này.

3. Sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể quy định chế độ chính sách đặc thù đối với người làm công tác kiểm tra, rà soát VBQPPL về cả quyền lợi và trách nhiệm, đề xuất Chính phủ quy định chức danh chuyên môn kiểm tra văn bản và chế độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra văn bản (UBND các tỉnh: Lào Cai, Hưng Yên).

Trả lời:

Trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã xây dựng Đề án tăng cường năng lực trong công tác kiểm tra, xử lý VBQPPL trong đó có nghiên cứu, đề xuất Chính phủ quy định chức danh chuyên môn kiểm tra văn bản và chế độ đặc thù cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra văn bản. Tuy nhiên, Chính phủ vẫn chưa phê duyệt Đề án này.

Năm 2010, khi triển khai xây dựng Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL, trong nội dung của Dự thảo, Cục cũng đã đề xuất xây dựng chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề cho người làm công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL. Nội dung này chưa được Chính phủ thông qua. Tuy nhiên, tại Điều 41 Nghị định 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 Chính phủ đã giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể về kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra và người làm công tác kiểm tra VBQPPL. Để triển khai nội dung này, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BTC-BTP ngày 17/8/2011 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL, trong đó tại khoản 7 Điều 3 Thông tư liên tịch 122/2011/TTLT-BTC-BTP có quy định mức chi hỗ trợ cho người làm công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL.

4. Đề nghị Bộ Tư pháp quan tâm hướng dẫn thực hiện: Xây dựng cơ sở dữ liệu VBQPPL lưu trữ tập trung, thống nhất VBQPPL do các cơ quan có thẩm quyền từ trung ương đến HĐND, UBND các cấp ban hành trên môi trường mạng Internet để thuận tiện cho việc khai thác, sử dụng, kiểm tra, rà soát văn bản; phục vụ việc tra cứu, nghiên cứu và áp dụng được thuận tiện và chuẩn hóa các VBQPPL phục vụ công tác kiểm tra, rà soát để áp dụng thống nhất trong các tổ chức pháp chế Bộ, ngành (UBND tỉnh Lào Cai, Bộ Quốc phòng).

Trả lời:

- Về CSDL pháp luật thống nhất từ Trung ương đến địa phương: theo Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015, Bộ Tư pháp đã giao Cục Công nghệ thông tin là chủ đầu tư thực hiện Dự án Phát triển Hệ thống thông tin văn bản quy phạm pháp luật thống nhất từ Trung ương tới các địa phương. Hệ thống được thiết kế bao gồm cả các chức năng hỗ trợ công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL. Đồng thời kết quả kiểm tra, rà soát hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật cũng sẽ được công bố công khai trên hệ thống.

Dự kiến cuối năm 2013, các tính năng này của hệ thống sẽ được triển khai đưa vào hoạt động hỗ trợ cho công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL của Bộ, ngành và địa phương.

- Về CSDL phục vụ công tác kiểm tra, xử lý VBQPPL: CSDL phục vụ công tác kiểm tra, xử lý VBQPPL đã được quy định tại Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý VBQPPL và được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số 20/2010/TT-BTP ngày 30/11/2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 40/2010/NĐ-CP.

- Về CSDL rà soát, hệ thống hóa VBQPPL: Bộ Tư pháp đang giúp Chính phủ xây dựng Nghị định về rà soát, hệ thống hóa VBQPPL trong đó có nội dung về CSDL rà soát, hệ thống hóa văn bản. Để tránh lãng phí trong việc xây dựng, sử dụng các CSDL, sau khi Nghị định này được ban hành, Bộ Tư pháp sẽ có hướng dẫn cụ thể về việc xây dựng, cập nhật và sử dụng CSDL phục vụ chung cho công tác kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa VBQPPL. Phần dữ liệu về VBQPPL trong CSDL phục vụ công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL sẽ được kết nối với Hệ thống thông tin về VBQPPL thống nhất từ Trung ương đến địa phương.

5. Đề nghị Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức các hoạt động trao đổi nghiệp vụ; tăng cường tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp ở cơ sở, địa phương, đặc biệt về các lĩnh vực: kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL; tiếp tục hướng dẫn, chỉ đạo các Vụ chuyên môn của Bộ, các địa phương tổ chức tập huấn nghiệp vụ lồng ghép các chuyên đề đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả (UBND các tỉnh: Phú Thọ, Gia Lai, Quảng Nam, thành phố Hồ Chí Minh, Sơn La, Quảng Ngãi).

Trả lời:

- Về công tác trao đổi nghiệp vụ: Bộ Tư pháp thường xuyên trao đổi, hướng dẫn nghiệp vụ kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản cho các Bộ, ngành và địa phương thông qua hình thức trả lời trực tiếp hoặc có công văn trả lời. Trong năm 2012, Bộ Tư pháp (Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật) đã có 15 Công văn hướng dẫn nghiệp vụ kiểm tra, xử lý VBQPPL gửi các Bộ, ngành, địa phương.

- Về tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ: trong năm 2012, Cục Kiểm tra VBQPPL thuộc Bộ Tư pháp đã phối hợp với Học viện Tư pháp tổ chức 01 lớp tập huấn nghiệp vụ kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL cho cán bộ làm công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL ở các Bộ, ngành và địa phương.

- Về hướng dẫn, chỉ đạo các Vụ chuyên môn của Bộ, các địa phương tổ chức tập huấn nghiệp vụ lồng ghép các chuyên đề đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả: trong những năm qua, Văn phòng Bộ đã phối hợp chặt chẽ với các Vụ chuyên môn thuộc Bộ trong việc tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ lồng ghép các chuyên đề nhằm đảm bảo tiết kiệm, chất lượng và hiệu quả.

IV. LĨNH VỰC HÀNH CHÍNH TƯ PHÁP

LĨNH VỰC HỘ TỊCH

1. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm ban hành kế hoạch triển khai Luật Hộ tịch ngay sau khi được Quốc hội thông qua, đồng thời báo cáo xin chủ trương của Thủ tướng Chính phủ đối với các trường hợp là người không quốc tịch xin nhập quốc tịch Việt Nam cư trú ổn định tại Việt Nam dưới 20 năm, đặc biệt là số cư trú tại các xã biên giới trên địa bàn tỉnh Sơn La (UBND tỉnh Sơn La).

Trả lời:

Thứ nhất, thực hiện Nghị quyết số 07/2011/QH13 ngày 06/8/2011 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng dự án Luật Hộ tịch (sau đây gọi là dự án Luật). Ngày 24/8/2012, Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự án Luật này. Tại phiên họp thứ 11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 13/9/2012, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Luật này tại phiên họp thứ 11 (ngày 13/9/2012).

Do dự án Luật có nhiều nội dung mới là những vấn đề quan trọng liên quan đến tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, do đó Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu Chính phủ triển khai xây dựng Đề án tổng thể quản lý nhà nước về dân cư làm cơ sở hoàn thiện dự án Luật Hộ tịch trình Quốc hội vào kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII (tháng 5/2013).

Hiện nay, Bộ Tư pháp đang khẩn trương phối hợp với các Bộ: Công an, Lao động, Thương binh và Xã hội; Tài chính; Y tế; Nội vụ; Ngoại giao xây dựng và hoàn thiện Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư và hoàn thiện dự án Luật Hộ tịch.

Bộ Tư pháp ghi nhận ý kiến của UBND tỉnh Sơn La và sẽ ban hành kế hoạch triển khai Luật Hộ tịch ngay sau khi được Quốc hội thông qua.

Thứ hai, đối với người không quốc tịch cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam dưới 20 năm xin nhập quốc tịch Việt Nam, Bộ Tư pháp đề nghị UBND tỉnh Sơn La chỉ đạo các cơ quan tư pháp rà soát lại những trường hợp này. Đối với các trường hợp sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam, tại thời điểm sinh ra có cha và mẹ là người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam hoặc có mẹ là người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam, còn cha không rõ là ai thì không phải làm thủ tục nhập quốc tịch Việt Nam, mà các cơ quan có thẩm quyền tại địa phương tiến hành các thủ tục đăng ký hộ tịch trong đó ghi quốc tịch Việt Nam cho họ theo quy định tại Điều 17 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (chỉ áp dụng đối với trẻ em). Những trường hợp còn lại xin nhập quốc tịch Việt Nam thì phải áp dụng các Điều 19, 20, 21 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 và Điều 5 Nghị định số 78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam. Đối với những trường hợp không có Thẻ thường trú, UBND tỉnh Sơn La xem xét, chỉ đạo cơ quan Công an cấp tỉnh cấp Thẻ thường trú cho những người nêu trên để tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong việc xin nhập quốc tịch Việt Nam.

2. Yêu cầu về Giấy chứng tử khi nộp hồ sơ để làm các thủ tục về phân chia tài sản thừa kế, khai nhận tài sản thừa kế. Đối với những trường hợp chết đã quá lâu (từ 1975 trở về trước) mà không có Giấy chứng tử, nay để làm các thủ tục về thừa kế người dân có thể làm xác nhận của các nhân chứng có xác nhận của chính quyền địa phương về việc chết để thay thế cho Giấy chứng tử. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng để làm các thủ tục về thừa kế, bắt buộc phải có Giấy chứng tử và không chấp nhận Giấy xác nhận của các nhân chứng, xác nhận của chính quyền địa phương về việc chết. Thực tế để thực hiện việc đăng ký quá hạn, đăng ký lại việc tử đối với những trường hợp này rất khó khăn, do sự kiện chết xảy ra đã quá lâu nên khó xác định được ngày, giờ chết; địa điểm, nguyên nhân chết. Đề nghị Bộ có hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, công dân khi làm các thủ tục về thừa kế (Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế).

Trả lời:

Về thủ tục đăng ký khai tử quá hạn được thực hiện theo quy định tại Điều 43, 44 và Điều 45 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.

Về thủ tục đăng ký lại việc tử được thực hiện theo quy định tại Điều 46, 47 và Điều 48, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP.

Khi giải quyết thủ tục đăng ký lại việc tử, đăng ký khai tử quá hạn thì tùy theo từng trường hợp cơ quan đăng ký hộ tịch cần căn cứ vào các giấy tờ, hồ sơ do đương sự xuất trình, kết hợp với việc xác minh (nếu có). Tùy theo từng trường hợp sẽ có cách giải quyết khác nhau cho đương sự. Do vậy, nếu các Sở Tư pháp có vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định trên, đề nghị có Công văn, Bộ Tư pháp sẽ có Công văn hướng dẫn đối với từng trường hợp cụ thể.

3. Tại Điều 126 Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật Nhà ở quy định về quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong một số trường hợp của các đối tượng mà được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp Giấy miễn thị thực và được phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ chung cư tại Việt Nam để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam. Đề nghị Bộ Tư pháp có hướng dẫn cụ thể cách tính như thế nào là tạm trú “từ ba tháng trở lên”? (Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế).

Quy định về quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quy định tại Luật Cư trú, Luật Đất đai, Luật Nhà ở và Nghị định số 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở.

Do vậy, kiến nghị về hướng dẫn cụ thể cách tính như thế nào là tạm trú “từ ba tháng trở lên” do Bộ Công an phối hợp với Bộ Xây dựng hướng dẫn.

V. LĨNH VỰC BỔ TRỢ TƯ PHÁP

LĨNH VỰC CÔNG CHỨNG

1. Các kiến nghị liên quan đến việc đề nghị Bộ Tư pháp sớm sửa đổi Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành để địa phương dễ áp dụng, khắc phục những vấn đề phát sinh trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước (UBND thành phố Hải Phòng, UBND tỉnh Sóc Trăng, UBND thành phố Hồ Chí Minh, Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Ngày 06/8/2011, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 07/2011/QH13 về chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2012 và điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011, trong đó có dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công chứng sẽ được trình Quốc hội thông qua trong năm 2013. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang nghiên cứu, sửa đổi Luật này theo hướng tiếp tục hoàn thiện thể chế về công chứng, đẩy mạnh xã hội hóa công chứng, phát triển mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng, nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động công chứng, xây dựng đội ngũ công chứng viên đủ về số lượng, vững về chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức và uy tín nghề nghiệp; tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về công chứng, phân cấp hợp lý trong quản lý Nhà nước về công chứng bảo đảm sự điều hành thông suốt từ Trung ương đến cơ sở.

2. Đề nghị Bộ Tư pháp có kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định về miễn đào tạo nghề công chứng, đấu giá đối với những người có thâm niên công tác trong ngành tư pháp lâu năm như trợ giúp viên, công chức tham mưu công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tư pháp; theo hướng các đối tượng này được miễn đào tạo nghề công chứng, đấu giá nếu đạt các điều kiện để được miễn đào tạo nghề công chứng, đấu giá như các chức danh tư pháp khác để tạo nguồn công chứng viên, đấu giá viên cho tỉnh (UBND tỉnh Gia Lai).

Trả lời:

- Về vấn đề miễn đào tạo nghề công chứng đối với những người có thâm niên công tác trong ngành Tư pháp như Trợ giúp viên pháp lý, công chức tham mưu công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tư pháp: Bộ Tư pháp xin ghi nhận kiến nghị của cơ quan và sẽ nghiên cứu trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Công chứng.

- Về vấn đề miễn đào tạo nghề đấu giá viên: Điều 7 Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản đã quy định cụ thể những trường hợp được miễn đào tạo nghề đấu giá viên, cụ thể là:

a) Giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ luật; giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ kinh tế; luật sư, thừa phát lại;

b) Đã là thẩm tra viên chính ngành Tòa án, kiểm tra viên chính ngành Kiểm sát; thanh tra viên chính; thẩm tra viên chính thi hành án; chuyên viên chính; nghiên cứu viên chính, giảng viên chính trong lĩnh vực pháp luật hoặc kinh tế;

c) Đã là thẩm tra viên cao cấp ngành Tòa án, kiểm tra viên cao cấp ngành Kiểm sát; thanh tra viên cao cấp; thẩm tra viên cao cấp thi hành án; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật hoặc kinh tế;

d) Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, đấu giá viên, công chứng viên, chấp hành viên.

3. Đề nghị Bộ Tư pháp giao Hải Phòng thí điểm nghiên cứu, xây dựng và thực hiện hệ thống liên kết thông tin công chứng và đăng ký giao dịch bất động sản, đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất tiến tới xây dựng và quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin bất động sản; từ đó ban hành quy định thực hiện thống nhất trong toàn quốc (UBND thành phố Hải Phòng).

Trả lời:

Vấn đề này đã được Bộ Tư pháp nghiên cứu và đưa vào dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 của Chính phủ về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng, Nghị định này đã được trình Chính phủ để ban hành trong thời gian tới; đồng thời Bộ Tư pháp đang nghiên cứu trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Công chứng.

4. Khoản 2, điều 39 Luật Công chứng quy định về việc thực hiện công chứng ngoài trụ sở, có nội dung việc thực hiện công chứng ngoài trụ sở được thực hiện khi có “lý do chính đáng khác”, nhưng chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể trường hợp nào được coi là lý do chính đáng. Đề nghị Bộ Tư pháp có hướng dẫn cụ thể (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Tại Điều 39 của Luật Công chứng quy định về địa điểm công chứng đã quy định rõ:

“1. Việc công chứng phải được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, trừ các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Việc công chứng có thể được thực hiện ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng trong trường hợp người yêu cầu công chứng là người già yếu không thể đi lại được, người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng”.

Việc hướng dẫn khoản 2 Điều 39 Luật Công chứng, ngày 27/6/2011, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 11/2011/TT-BTP hướng dẫn thực hiện một số nội dung về công chứng viên, tổ chức và hoạt động công chứng, quản lý nhà nước về công chứng, tại Điều 11 của Thông tư đã quy định rõ:

“Việc công chứng phải được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng. Việc công chứng ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng chỉ thực hiện trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 39 của Luật Công chứng và do tổ chức hành nghề công chứng chịu trách nhiệm xem xét từng trường hợp cụ thể để quyết định thực hiện việc công chứng ngoài trụ sở. Khi thực hiện công chứng ngoài trụ sở, công chứng viên phải ghi rõ lý do và địa điểm công chứng vào văn bản công chứng”.

Như vậy, việc xác định “lý do chính đáng khác” để thực hiện việc công chứng ngoài trụ sở do tổ chức hành nghề công chứng tự xem xét và chịu trách nhiệm tùy trường hợp cụ thể.

5. Trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay, việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở theo Luật Nhà ở năm 2005 chưa được thực hiện. Do vậy, việc công chứng các hợp đồng, giao dịch liên quan đến nhà ở (các căn hộ chung cư) không được thực hiện, đề nghị Bộ Tư pháp có hướng dẫn cụ thể (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 91 Luật Nhà ở năm 2005 thì một trong các điều kiện để nhà ở được tham gia giao dịch (trong đó có thế chấp) là phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở.

Điểm đ khoản 1 Điều 35 Luật Công chứng cũng quy định khi thực hiện công chứng các giao dịch về nhà ở, người yêu cầu công chứng phải xuất trình giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản đó.

Như vậy, trong trường hợp người dân chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở theo quy định thì UBND chỉ đạo cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở cho người dân.

6. Trong Luật Công chứng, Luật Nhà ở, Luật Đất đai: Việc quy định thẩm quyền công chứng, chứng thực, hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất không thống nhất, vì vậy có hiện tượng chồng chéo, đùn đẩy trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này giữa các cơ quan, tổ chức. Đề nghị Bộ Tư pháp có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Vấn đề quy định về thẩm quyền công chứng, chứng thực nhà ở và quyền sử dụng đất còn chưa thống nhất giữa Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Công chứng đã được Bộ Tư pháp rà soát, kiến nghị trong quá trình phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường tổng kết thi hành Luật Đất đai và xây dựng Luật Đất đai (sửa đổi). Bộ Tư pháp xin ghi nhận kiến nghị của cơ quan và đang nghiên cứu để kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về công chứng để đảm bảo tính đồng bộ.

7. Bộ Tư pháp cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về trách nhiệm, quyền hạn của Công chứng viên và trình tự, thủ tục công chứng đối với hợp đồng bán đấu giá tài sản phải có công chứng (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Pháp luật về bán đấu giá không có quy định bắt buộc phải có công chứng viên tham dự cuộc bán đấu giá. Việc công chứng hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá được thực hiện theo quy định của pháp luật về công chứng và pháp luật liên quan đến tài sản bán đấu giá. Luật Công chứng năm 2006 đã dành hẳn Chương IV quy định về thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch. Hợp đồng bán đấu giá tài sản cũng là một dạng giao dịch, do vậy công chứng viên cần nghiên cứu Luật Công chứng, các Luật và văn bản hướng dẫn Luật để giải quyết yêu cầu công chứng của nhân dân theo thẩm quyền.

8. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm ban hành: Quy tắc đạo đức nghề công chứng và Quy chế tập sự Công chứng viên (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Ngày 30/10/2012, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 11/2012/TT-BTP ban hành Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng, có hiệu lực từ ngày 20/11/2012.

9. Có cơ chế thúc đẩy sớm thành lập Hiệp hội nghề công chứng của cả nước và ở tất cả các địa phương (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Trong điều kiện đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng, thì việc thành lập tổ chức xã hội - nghề nghiệp, trong đó có việc thành lập Hiệp hội Công chứng toàn quốc của công chứng viên là rất cần thiết nhằm góp phần giảm tải gánh nặng quản lý về tổ chức và hoạt động công chứng cho Nhà nước, tăng cường công tác giám sát việc tuân theo pháp luật và thực hiện quy tắc đạo đức hành nghề công chứng, tạo điều kiện để các công chứng viên trao đổi, học tập kinh nghiệm nghề nghiệp và phát huy tính tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp công chứng. Căn cứ quy định của pháp luật, Bộ Tư pháp đã hướng dẫn thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng, tỉnh Hải Dương thành lập Hội công chứng.

Bộ Tư pháp dự kiến sẽ có văn bản hướng dẫn các tỉnh sớm thành lập các hội công chứng và trao đổi thống nhất với Bộ Nội vụ để xử lý những vấn đề vướng mắc trong việc thành lập hội để hướng dẫn trong cả nước và tiến tới sẽ thành lập Hiệp hội Công chứng toàn quốc của công chứng viên.

10. Bộ Tư pháp cần có văn bản hướng dẫn việc xử lý các Công chứng viên vi phạm cho rõ ràng cụ thể, ví dụ như mức độ bồi thường thiệt hại do lỗi của Công chứng viên, hoặc Công chứng viên hành nghề sai quy định (như trường hợp của Công chứng viên Hoàng Thị Bình chưa có giấy phép hành nghề của Sở Tư pháp đã thực hiện công chứng tại Văn phòng Công chứng Tất Đạt) (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 quy định về xử phạt trong lĩnh vực tư pháp, trong đó có xử phạt trong hoạt động công chứng, còn việc quy định mức độ bồi thường thiệt hại do lỗi của công chứng viên thì căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà các bên thỏa thuận hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định mức bồi thường phù hợp (bồi thường dân sự).

11. Bộ Tư pháp có văn bản về việc hướng dẫn vận dụng về điều kiện bổ nhiệm Công chứng viên của các Phòng Công chứng có trụ sở tại vùng sâu, vùng xa theo hướng rút ngắn yêu cầu thời gian công tác pháp luật, thời gian tập sự để đáp ứng yêu cầu công chứng cho cá nhân tổ chức tại vùng sâu, vùng xa (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Tại Điều 13 Luật Công chứng đã quy định rõ về tiêu chuẩn công chứng viên, do vậy khi một người muốn trở thành công chứng viên phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của Luật Công chứng.

12. Bộ Tư pháp và Bộ Tài Chính: Sớm thống nhất về mức thu phí công chứng và lệ phí chứng thực cho cùng một sản phẩm dịch vụ công chứng, chứng thực; có quy định về nguồn kinh phí quản lý hồ sơ khi chuyển giao hồ sơ lưu trữ của các Văn phòng Công chứng chấm dứt hoạt động và Phòng công chứng giải thể cho một tổ chức hành nghề công chứng khác (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Vấn đề quy định về thống nhất mức thu phí công chứng, chứng thực cho cùng một sản phẩm dịch vụ về công chứng, chứng thực và quy định mức phí quản lý hồ sơ khi chuyển giao lưu trữ hồ sơ của các văn phòng công chứng chấm dứt hoạt động và Phòng công chứng giải thể đang được Bộ Tư pháp nghiên cứu để sửa đổi Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn liên quan.

13. Đối với hồ sơ yêu cầu công chứng hợp đồng chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất trong khối tài sản chung hợp nhất: Có ý kiến cho rằng đối với hợp đồng chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất nhất thiết phải có hồ sơ tách thửa (theo quy định tại Điểm b Mục 1.2 Phần II Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-BTP-BTNMT của Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên - Môi trường). Nhưng cũng có ý kiến cho rằng đây là các trường hợp xác lập tài sản chung theo quy định tại điều 215 Bộ luật dân sự. Việc chuyển nhượng một phần giá trị quyền sử dụng đất chỉ làm thay đổi chủ sử dụng đất, còn hiện trạng, diện tích thửa đất vẫn giữ nguyên không thay đổi, nên không có hồ sơ tách thửa vẫn phù hợp và đúng quy định. Theo quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định việc định đoạt quyền sử dụng đất chung hợp nhất. Do đó việc chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất trong khối tài sản chung hợp nhất cần phải có quy định và hướng dẫn cụ thể. Kính đề nghị Bộ Tư pháp cho ý kiến chỉ đạo đối với trường hợp này (Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế)

Trả lời:

Theo quy định tại các điều 116, điều 117 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003 thì trước khi thực hiện thủ tục hành chính đối với việc thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với một phần thửa đất thì phải tiến hành thủ tục hành chính đối với việc tách thửa.

Đồng thời, điểm b mục 1.2 phần II Thông tư liên tịch số 04/2006/TTLT-BTP-BTNMT quy định hợp đồng chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất phải có “Đơn xin tách thửa, hợp thửa trong trường hợp thực hiện quyền của người sử dụng đất đối với một phần thửa đất”.

Như vậy, đối chiếu với các quy định trên thì trước khi công chứng hợp đồng chuyển nhượng một phần thửa đất, phải tiến hành thủ tục tách thửa theo quy định. Trình tự, thủ tục tách thửa được quy định tại Điều 145 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003; Điều 19 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ. Ngoài ra, còn phải tuân thủ điều kiện về diện tích tối thiểu được tách theo quy định tại Điều 17 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP.

14. Đối với việc công chứng hợp đồng thế chấp phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện thủy nội địa, phương tiện giao thông đường sắt: Căn cứ Khoản 9 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về giao dịch bảo đảm thì trong trường hợp tài sản thế chấp là tàu bay, tàu biển hoặc phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện thủy nội địa, phương tiện giao thông đường sắt thì bên thế chấp giữ bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy đăng ký phương tiện giao thông trong thời hạn hợp đồng thế chấp có hiệu lực. Do chưa có kết nối thông tin giữa các tổ chức hành nghề công chứng và các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm nên việc tra cứu thông tin về tài sản và cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch của các tổ chức hành nghề công chứng không thực hiện được, tiềm ẩn nguy cơ tranh chấp có thể xảy ra khi một tài sản được dùng để giao dịch nhiều lần, rủi ro trong việc công chứng loại hợp đồng này là rất cao. Đề nghị Bộ có hướng dẫn cụ thể (Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế)

Trả lời:

Hiện nay, Bộ Tư pháp đang tích cực chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an soạn thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn việc trao đổi, cung cấp thông tin về tài sản bảo đảm giữa cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm với tổ chức hành nghề công chứng, cơ quan thi hành án dân sự và cơ quan đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền lưu hành tài sản. Theo dự thảo Thông tư liên tịch nêu trên, khi công chứng hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản bảo đảm, tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Cơ quan đăng ký tàu bay, tàu biển hoặc Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản cung cấp thông tin về tài sản bảo đảm theo thẩm quyền. Hiện nay, các đơn vị có liên quan đang khẩn trương thực hiện các thủ tục cần thiết để trình Lãnh đạo Bộ ký ban hành.

Ngoài ra, khi công chứng hợp đồng thế chấp tài sản là phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện thủy nội địa, phương tiện giao thông đường sắt, các tổ chức hành nghề công chứng có quyền tìm hiểu thông tin về tài sản bảo đảm đó tại các Trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm theo hướng dẫn tại Thông tư số 05/2011/TT-BTP ngày 16/2/2011 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện tử tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp (Điều 19, 20 và 21) hoặc tìm hiểu thông tin miễn phí qua hệ thống đăng ký trực tuyến (địa chỉ là: dktructuyen.moj.gov.vn) theo hướng dẫn tại Thông tư số 22/2010/TT-BTP ngày 6/12/2010 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về đăng ký, cung cấp thông tin trực tuyến giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi hành án (Điều 19, 20 và 21 và 22).

15. Thời gian vừa qua, nhiều cá nhân đến các tổ chức hành nghề công chứng yêu cầu công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản hoặc khai nhận di sản. Trong số các đồng thừa kế có một số người hiện đang định cư tại nước ngoài. Người yêu cầu công chứng đã xuất trình các văn bản tặng cho quyền hưởng di sản thừa kế, giấy ủy quyền, vv... do cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại nước sở tại chứng thực hoặc do Công chứng viên của nước sở tại công chứng và đã hợp pháp hóa lãnh sự. Nhưng các cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài chỉ chứng nhận chữ ký trên các văn bản này mà không chứng nhận nội dung, vấn đề này có nhiều quan điểm khác nhau, có ý kiến cho rằng Nghị định 138/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài và khoản 2 điều 142 Bộ luật dân sự thì các văn bản này là phù hợp quy định của pháp luật, ý kiến khác lại yêu cầu các văn bản này nhất thiết phải được chứng nhận nội dung mới có giá trị sử dụng. Đề nghị Bộ Tư pháp có ý kiến chỉ đạo đối với trường hợp này (Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế).

Trả lời:

Vấn đề liên quan đến chứng nhận nội dung hay chữ ký trên giấy ủy quyền, văn bản tặng cho quyền hưởng di sản thừa kế do cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại nước sở tại chứng thực hoặc do công chứng viên của nước sở tại công chứng, đã được hợp pháp hóa lãnh sự như Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế đã nêu. Bộ Tư pháp sẽ trao đổi thêm với Bộ Ngoại Giao trên cơ sở căn cứ vào quy định tại Luật công chứng, Pháp lệnh Lãnh sự, Nghị định số 189/HĐBT Ngày 04/06/1992 của Hội đồng Bộ trưởng Quy định chi tiết thi hành pháp lệnh lãnh sự, Thông tư số 01/1999/TT-NG ngày 03/6/1999 của Bộ Ngoại Giao quy định thể lệ hợp pháp hóa giấy tờ, tài liệu để trả lời Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên - Huế và hướng dẫn chung cho cả nước về nội dung và giá trị các giấy tờ, văn bản do cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam tại nước sở tại chứng thực hoặc do công chứng viên của nước sở tại công chứng.

16. Vấn đề một tài sản đảm bảo cho hai hay nhiều nghĩa vụ: Theo Khoản 3 Điều 47 Luật Công chứng quy định Hợp đồng thế chấp tiếp theo phải do công chứng viên đã công chứng hợp đồng thế chấp lần đầu thực hiện công chứng, quy định này đã gây khó khăn trong quá trình thực hiện do trường hợp công chứng viên đã ký hợp đồng thế chấp lần đầu ốm hoặc nghỉ phép hoặc công tác đột xuất sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện công chứng hợp đồng này. Đề nghị Bộ Tư pháp xem xét, kiến nghị đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế (Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế).

Trả lời:

Vấn đề mà Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế nêu về việc một tài sản bảo đảm cho hai hay nhiều nghĩa vụ quy định tại Khoản 3 Điều 47 Luật Công chứng là một trong những vướng mắc trong thực tiễn hiện nay, vấn đề này đang được Bộ Tư pháp nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung trong quá trình xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công chứng, dự kiến Luật này sẽ được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 6, tháng 10 năm 2013.

17. Theo quy định tại khoản 3 điều 11 Thông tư 17/2009/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường: Đối với các địa phương chưa có điều kiện thực hiện ngay việc in mã vạch thì vẫn phải thiết lập hệ thống mã hồ sơ gốc (MHS) bắt đầu từ hồ sơ cấp Giấy chứng nhận đầu tiên theo quy định tại Thông tư này; từ ngày 01/7/2010 các địa phương này phải thực hiện việc in mã vạch trên Giấy chứng nhận. Tuy nhiên, hiện nay ở thành phố Huế cũng như một số huyện, thị xã trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế có một số Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cấp sau ngày 01/7/2010 không in mã vạch. Do đó, khi thụ lý các hồ sơ này Công chứng viên không biết giải quyết như thế nào để vừa đúng quy định của pháp luật vừa không gây phiền hà cho người yêu cầu công chứng. Đề nghị Bộ Tư pháp cho ý kiến chỉ đạo (Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế).

Trả lời:

Vấn đề Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế nêu là vấn đề mới phát sinh trong hoạt động công chứng. Bộ Tư pháp xin tiếp thu kiến nghị trên và phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu, có hướng dẫn sau.

18. Khoản 1 Điều 342 Bộ luật dân sự quy định: “Tài sản thế chấp cũng có thể là tài sản được hình thành trong tương lai” và “Tài sản hình thành trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm cả tài sản đã tồn tại vào thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên bảo đảm” (khoản 2 Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ và khoản 15 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP của Chính phủ); Luật Nhà ở, Luật Đất đai lại không có quy định về thế chấp nhà ở, quyền sử dụng đất hình thành trong tương lai. Trên thực tế, có một số tổ chức hành nghề công chứng từ chối không công chứng hợp đồng thế chấp tài sản hình thành trong tương lai là nhà ở, quyền sử dụng đất. Tại Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về giao dịch bảo đảm quy định: Tài sản hình thành trong tương lai không bao gồm quyền sử dụng đất (Điểm c Khoản 2 Điều 1). Vấn đề nhà ở hình thành trong tương lai có được thế chấp hay không vẫn còn bỏ ngỏ. Tuy nhiên, tại Công văn số 6893/BTP-ĐKGDBĐ ngày 24/8/2012 của Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm - Bộ Tư pháp khuyến cáo các công chứng viên tại thời điểm này nên từ chối yêu cầu công chứng thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai. Với những quy định không thống nhất như vậy các công chứng viên gặp rất nhiều khó khăn trong khi thực hiện nhiệm vụ. Đề nghị Bộ Tư pháp hướng dẫn cụ thể (Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế).

Trả lời:

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 91 Luật Nhà ở năm 2005 thì một trong các điều kiện để nhà ở được tham gia giao dịch (trong đó có thế chấp) là phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản năm 2009 gọi là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất). Tuy nhiên, nhằm kịp thời tháo gỡ vướng mắc, khó khăn cho các tổ chức, cá nhân khi thực hiện thế chấp nhà ở, trên cơ sở quy định của Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi là Nghị định số 88/2009/NĐ-CP), Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT ngày 18/11/2011 quy định về trường hợp đăng ký thế chấp tài sản gắn liền với đất (bao gồm cả nhà ở) đã hình thành nhưng chưa được chứng nhận trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. (khoản 2 Điều 11, Điều 22). Theo đó, người yêu cầu đăng ký sẽ thực hiện thủ tục đăng ký thế chấp đồng thời với thủ tục chứng nhận quyền sở hữu nhà ở theo hồ sơ được quy định tại Nghị định số 88/2009/NĐ-CP và văn bản hướng dẫn thi hành. Do đó, khi thực hiện công chứng đối với các hợp đồng thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai, công chứng viên phải xem xét, đảm bảo các giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu chứng nhận quyền sở hữu nhà ở phù hợp với quy định của Nghị định số 88/2009/NĐ-CP.

19. Đề nghị Bộ Tư pháp có ý kiến đối với Bộ Nội vụ, với UBND tỉnh giao biên chế sự nghiệp cho Sở Tư pháp để thành lập Phòng Công chứng số 2 và Phòng Công chứng số 3 theo Quyết định số 949/QĐ-UBND ngày 14/4/2011 của Chủ tịch UBND tỉnh về phê duyệt Đề án quy hoạch và phát triển các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Bình Phước đến năm 2020. Bố trí nguồn kinh phí để thực hiện việc xây dựng kho và mua sắm trang bị phục vụ cho công tác lưu trữ (UBND tỉnh Bình Phước).

Trả lời:

Theo quy định của Luật Công chứng 2006, thì Phòng Công chứng là đơn vị sự nghiệp, vì vậy, việc quản lý biên chế và các chế độ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp Công lập được thực hiện theo quy định của Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, Thông tư liên tịch số 02/2010/TTLT-BTP-BNV ngày 11/02/2010 của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn xếp hạng các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành Tư pháp và Thông tư liên tịch số 11/2010/TTLT-BTP-BNV ngày 17/06/2010 hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế, quản lý và sử dụng viên chức đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành Tư pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.

Như vậy, phân bổ biên chế viên chức cho các đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp để thành lập Phòng Công chứng số 2 và Phòng Công chứng số 3 của Sở Tư pháp Bình Phước thuộc thẩm quyền quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước. Do đó, Bộ Tư pháp đề nghị Sở Tư pháp xây dựng Đề án thành lập Phòng Công chứng số 2 và Phòng Công chứng số 3 trong đó, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vị trí việc làm, số lượng viên chức của từng Phòng Công chứng từ đó làm cơ sở để đề nghị cơ quan có thẩm quyền phân bổ biên chế viên chức cho phù hợp.

LĨNH VỰC ĐẤU GIÁ

20. Hiện nay, một số huyện thành lập Hội đồng bán đấu giá tài sản để tổ chức bán đấu giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tịch thu sung quỹ nhà nước thuộc thẩm quyền xử lý của cấp huyện và cấp xã mà không ký hợp đồng với Tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp để cử Đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá tài sản là trái với quy định tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản và Thông tư số 23/2010/TT-BTP ngày 06/12/2010 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP của Chính phủ. Tuy nhiên, hành vi vi phạm này chưa được quy định tại Nghị định số 60/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp nên không đủ cơ sở pháp lý để xử lý vi phạm đối với những trường hợp này (UBND tỉnh Quảng Ngãi).

Trả lời:

Hiện nay, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp còn thiếu chế tài xử phạt đối với việc Hội đồng bán đấu giá tài sản tổ chức bán đấu giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tịch thu sung quỹ nhà nước thuộc thẩm quyền xử lý của cấp huyện và cấp xã mà không ký hợp đồng với Tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp để cử Đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá. Khi xây dựng Nghị định triển khai Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, thay thế Nghị định 60/2009/NĐ-CP Bộ Tư pháp xin tiếp thu kiến nghị của cơ quan và nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế.

21. Hiện nay, hầu hết các chức danh tư pháp (trợ giúp viên, kiểm sát viên, chấp hành viên, thẩm tra viên, công chứng viên...) đều hưởng chế độ phụ cấp nghề, trong đó có một số chức danh được hưởng phụ cấp thâm niên, nhưng đến nay đấu giá viên chưa được hưởng phụ cấp nghề. Đề nghị Bộ Tư pháp xem xét đề xuất tham mưu Chính phủ ban hành văn bản quy định chế độ phụ cấp nghề đối với đấu giá viên nhằm tương xứng với trách nhiệm được giao và tạo điều kiện cho đội ngũ Đấu giá viên yên tâm phục vụ công tác (UBND các tỉnh: Tiền Giang, Phú Thọ, Quảng Ngãi).

Trả lời:

Hiện nay đấu giá viên đang làm việc tại các doanh nghiệp bán đấu giá hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và Trung tâm dịch vụ bán đấu giá là đơn vị sự nghiệp hoạt động theo quy định của Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 05/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

Thực hiện chủ trương xã hội hóa, Điều 4 Nghị định số 43/2006/NĐ-CP quy định khuyến khích các đơn vị sự nghiệp công lập chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp để phát huy mọi khả năng trong hoạt động của đơn vị. Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản ban hành cũng với chủ trương xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bán đấu giá tài sản, trong đó Điểm b Khoản 2 Điều 52 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP quy định Sở Tư pháp xây dựng Đề án chuyển đổi Trung tâm dịch vụ bán đấu giá sang mô hình doanh nghiệp đối với các tỉnh, thành phố có từ 02 doanh nghiệp đấu giá trở lên. Theo báo cáo của các Sở Tư pháp và qua trao đổi thì đến nay trong tổng số 63 Trung tâm thì có 14 Trung tâm tự chủ 100 %; 09 Trung tâm vẫn bao cấp hoàn toàn còn lại 40 Trung tâm đã tự chủ một phần. Trong thời gian tới các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản sẽ chuyển sang mô hình doanh nghiệp, hoạt động theo Luật doanh nghiệp và khi chuyển sang doanh nghiệp thì không quy định phụ cấp đối với đấu giá viên.

22. Trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản đề nghị Bộ Tư pháp ban hành quy định và biện pháp chế tài đối với các tổ chức thẩm định giá nhằm nâng cao trách nhiệm và các tổ chức này, giá tài sản được đưa ra bán đấu giá phải phù hợp với giá thị trường (UBND tỉnh Bình Dương).

Trả lời:

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 11 Thông tư số 23/2010/TT-BTP quy định đối với doanh nghiệp bán đấu giá tài sản đồng thời có chức năng thẩm định giá, nếu doanh nghiệp hoặc chi nhánh của doanh nghiệp hoặc các tổ chức trực thuộc doanh nghiệp, đơn vị kinh tế mà doanh nghiệp đó có cổ phần chi phối đã tiến hành thẩm định giá tài sản để bán đấu giá thì doanh nghiệp bán đấu giá tài sản không được đồng thời tiến hành bán đấu giá tài sản đó. Trong phạm vi, chức năng quản lý của Bộ Tư pháp thì hoạt động thẩm định giá không thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp. Vì vậy, Bộ Tư pháp không thể ban hành quy định và biện pháp chế tài đối với các tổ chức thẩm định giá. Bộ Tư pháp xin ghi nhận kiến nghị của cơ quan và sẽ tích cực phối hợp và có ý kiến với các Bộ ngành liên quan rà soát, sửa đổi, ban hành các quy định pháp luật quy định trong lĩnh vực thẩm định giá cho phù hợp.

23. Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 quy định về bán đấu giá tài sản có quy định một số trường hợp được miễn, giảm đào tạo nghề đấu giá. Đề nghị Bộ Tư pháp xem xét lại vì những người này, trong quá trình điều hành phiên đấu giá có thể gây hậu quả xấu (do không được đào tạo chính thức) và hậu quả đó (nếu có xảy ra) thì xử lý như thế nào? (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Trong quá trình xây dựng pháp luật về bán đấu giá tài sản, các trường hợp được miễn đào tạo nghề đấu giá đã được cân nhắc, thảo luận và thống nhất quy định cụ thể tại Điều 7 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản. Pháp luật về bán đấu giá tài sản đã quy định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của đấu giá viên. Vì vậy, đối với các trường hợp được miễn đào tạo nghề đấu giá mà trong quá trình hành nghề đấu giá có vi phạm thì cũng sẽ bị xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật về bán đấu giá và pháp luật xử lý vi phạm hành chính. Bộ Tư pháp đề nghị các Sở Tư pháp thực hiện tốt công tác quản lý, tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý theo quy định pháp luật đối với những hành vi vi phạm.

LĨNH VỰC GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP

24. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Giám định tư pháp và các văn bản hướng dẫn khác để địa phương nhanh chóng triển khai thực hiện. Đồng thời, phối hợp với cơ quan liên quan xây dựng, nâng cao chế độ chính sách cho đội ngũ làm công tác giám định tư pháp, nhất là đối với người giám định tư pháp theo vụ việc để thu hút đội ngũ này tích cực tham gia vào hoạt động giám định (UBND các tỉnh: Quảng Ngãi, Hưng Yên).

Trả lời:

Luật Giám định tư pháp được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2012 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013. Để bảo đảm việc triển khai thi hành Luật Giám định tư pháp được thống nhất, thuận lợi và hiệu quả, Bộ Tư pháp đã trình, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1549/QĐ-TTg ngày 16/10/2012 về ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Giám định tư pháp. Kế hoạch này bao gồm tổng thể các biện pháp, nhiệm vụ cụ thể nhằm bảo đảm triển khai thi hành Luật trong cuộc sống, gắn với phân công, giao nhiệm vụ cụ thể, trách nhiệm tổ chức thực hiện của từng Bộ, ngành và địa phương, trong đó có Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Giám định tư pháp và các văn bản về chế độ, chính sách đãi ngộ đối với người giám định tư pháp.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan xây dựng trình Chính phủ xem xét, ban hành Nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp. Dự kiến năm 2013, Bộ Tư pháp sẽ xây dựng Dự thảo Quyết định thay thế Quyết định số 74/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp.

25. Bộ Tư pháp cần nghiên cứu đề xuất giao nhiệm vụ mà Sở Tư pháp không có nghiệp vụ trực tiếp thực hiện (công tác quản lý nhà nước về giám định Tư pháp) về các cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý trực tiếp sẽ hợp lý hơn. Mặc dù thời gian qua Sở Tư pháp đã cố gắng triển khai thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước đối với nhiệm vụ này nhưng do không trực tiếp thực hiện nghiệp vụ mà phải phối hợp (ngay cả số liệu báo cáo cũng phải chờ sự phối hợp của các cơ quan thực hiện trong khi các cơ quan này không thuộc quyền quản lý của Sở Tư pháp) nên không chủ động được trong việc quản lý nhà nước về các mặt công tác nói trên và cũng thấy rằng chưa phù hợp với nguyên tắc quản lý nhà nước là không có sự chồng chéo, trùng lắp giữa các cơ quan chuyên môn với nhau (UBND tỉnh Sóc Trăng).

Trả lời:

Trong quá trình xây dựng Dự án Luật Giám định tư pháp, Bộ Tư pháp đã từng đưa ra phương án chuyển toàn bộ nhiệm vụ quản lý nhà nước về cho các Bộ, ngành chuyên môn chủ quản vì bản thân Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp không trực tiếp quản lý con người, kinh phí, cơ sở vật chất... Tuy nhiên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho rằng, vẫn cần phải có cơ quan đầu mối giúp Chính phủ, UBND cấp tỉnh trong việc quản lý giám định tư pháp trong toàn quốc và trong từng địa phương. Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giám định tư pháp, Luật Giám định tư pháp đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh, trong đó tại khoản 2 Điều 43 đã phân định rõ trách nhiệm của Sở Tư pháp và các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh trong quản lý về giám định tư pháp như sau:

“Sở Tư pháp có trách nhiệm giúp UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước về giám định tư pháp ở địa phương; chủ trì, phối hợp với cơ quan chuyên môn giúp UBND cấp tỉnh quản lý về hoạt động của Văn phòng giám định tư pháp.

Cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh giúp UBND cùng cấp quản lý nhà nước về lĩnh vực giám định tư pháp chuyên ngành, chịu trách nhiệm trước UBND cấp tỉnh về tổ chức, hoạt động giám định tư pháp thuộc lĩnh vực quản lý; phối hợp với Sở Tư pháp giúp UBND cùng cấp trong quản lý nhà nước về giám định tư pháp ở địa phương”.

LĨNH VỰC LUẬT SƯ

26. Nghiên cứu và đánh giá một cách toàn diện đối với các quy định của Luật Luật sư và các văn bản hướng dẫn thi hành, phục vụ cho công tác sửa đổi, bổ sung các quy định không còn phù hợp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động hành nghề luật sư; xây dựng trang web về tên gọi các các tổ chức hành nghề luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư (Việt Nam và nước ngoài) trên toàn quốc để phục vụ cho công tác tra cứu và quản lý (UBND thành phố Hồ Chí Minh).

Trả lời:

- Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư: vấn đề này đã được tiếp thu trong quá trình xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật và đã được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013.

Về các văn bản hướng dẫn thi hành, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu và xây dựng các văn bản hướng dẫn theo đúng quy định của Luật ban hành VBQPPL.

- Về Trang thông tin điện tử về các tổ chức hành nghề luật sư: hiện nay, Bộ Tư pháp đã có Trang thông tin điện tử bổ trợ tư pháp là trang thành phần của Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, trong đó có danh sách các tổ chức hành nghề luật sư trên phạm vi cả nước phục vụ việc tra cứu, tìm hiểu thông tin về hoạt động luật sư.

LĨNH VỰC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ

1. Kiến nghị Bộ Tư pháp sớm rà soát các văn bản pháp luật có liên quan đến trợ giúp pháp lý và đề xuất Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 07/2007/NĐ-CP để hạn chế những bất cập cũng như bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý thống nhất cho hoạt động trợ giúp pháp lý (UBND thành phố Hồ Chí Minh).

Trả lời:

Hàng năm Bộ Tư pháp đều chỉ đạo Cục Trợ giúp pháp lý và các đơn vị có liên quan phối hợp, tiến hành rà soát, kịp thời phát hiện những quy định có mâu thuẫn, chồng chéo hoặc các quy định không khả thi, không còn phù hợp với thực tiễn để đề nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất, phù hợp với thực tiễn đáp ứng yêu cầu của công tác trợ giúp pháp lý (TGPL).

Thực hiện Chương trình công tác năm 2012 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, khắc phục những hạn chế, khó khăn, vướng mắc của địa phương trong quá trình triển khai thực hiện công tác TGPL, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật TGPL. Hiện nay, Dự thảo Nghị định đã được hoàn thiện và trình Chính phủ; Văn phòng Chính phủ đang tổng hợp ý kiến các thành viên Chính phủ dự kiến Chính phủ sẽ xem xét, ban hành đầu năm 2013.

2. Đề nghị Cục Trợ giúp pháp lý - Bộ Tư pháp tiếp tục huy động các nguồn tài trợ của các tổ chức cá nhân trong nước và ngoài nước để hỗ trợ nguồn kinh phí cho các địa phương triển khai hoạt động trợ giúp pháp lý đạt hiệu quả hơn; tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ để các cán bộ của Trung tâm có điều kiện học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ trợ giúp pháp lý; Hỗ trợ nguồn kinh phí cho trung tâm mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho công tác thay thế các trang thiết bị đã cũ, hết thời hạn sử dụng (máy photocopy) (UBND tỉnh Lào Cai).

Trả lời:

- Về việc huy động các nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân cho hoạt động TGPL: trước năm 2010, Bộ Tư pháp (Cục TGPL) đã tranh thủ sự giúp đỡ từ các tổ chức quốc tế để huy động các nguồn tài trợ cho hoạt động TGPL ở Việt Nam, thông qua Dự án “Hỗ trợ hệ thống TGPL tại Việt Nam, giai đoạn 2005 - 2009”. Dự án đã khắc phục những khó khăn, vướng mắc nhất là về tài chính trong điều kiện hoạt động TGPL ở Việt Nam mới hình thành và phát triển cần được ưu tiên hỗ trợ, tài trợ. Tuy nhiên, sau khi nước ta tuyên bố thoát khỏi nước nghèo, các tổ chức quốc tế đã chuyển các nguồn hỗ trợ sang các nước nghèo hơn, đặc biệt trong hoàn cảnh kinh tế thế giới và Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn nên rất khó thu hút các nguồn tài trợ từ phía các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Để bảo đảm thực hiện Luật TGPL, những năm qua Chính phủ và các địa phương đã quan tâm đầu tư kinh phí từ ngân sách nhà nước cho công tác này thông qua các Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, Chương trình 135 giai đoạn II (Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg) và cấp kinh phí bảo đảm hoạt động hàng năm cho cơ quan TGPL nhà nước theo Thông tư liên tịch số 81/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 25/9/2008 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan TGPL nhà nước.

Hàng năm, Quỹ TGPL Việt Nam (trực thuộc Cục TGPL - Bộ Tư pháp) cũng đã hỗ trợ cho các địa phương có khó khăn về kinh tế thuộc diện ngân sách Trung ương phải hỗ trợ qua nguồn kinh phí ngân sách nhà nước cấp hàng năm cho Quỹ và nguồn kinh phí để thực hiện chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo giai đoạn 2011 - 2020 (Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg). Trong đó, Trung tâm TGPL tỉnh Lào Cai cũng nằm trong diện được hỗ trợ từ nguồn kinh phí của Quỹ TGPL Việt Nam.

Năm 2012, Bộ Tư pháp đã nghiên cứu, xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 59/2012/QĐ-TTg ngày 24/12/2012 về chính sách TGPL cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã nghèo giai đoạn 2013-2020. Quyết định này sẽ được triển khai thực hiện ngay từ đầu năm 2013, sẽ hỗ trợ cho 45 tỉnh có các xã nghèo theo Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020.

Bên cạnh việc đầu tư từ ngân sách nhà nước cho công tác TGPL, việc huy động các nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho hoạt động TGPL để giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước cũng đã và đang được Bộ Tư pháp chú trọng thực hiện, về thể chế, trong năm 2013, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án huy động các nguồn lực xã hội cho hoạt động TGPL. Sau khi Đề án được ban hành, Bộ Tư pháp sẽ cùng các Bộ, ngành triển khai các giải pháp cụ thể để huy động được các nguồn lực trong và ngoài nước cho hoạt động TGPL. Bộ Tư pháp cũng đang nghiên cứu xây dựng các chương trình, chính sách hợp tác quốc tế về lĩnh vực pháp luật về nhân quyền, trong đó có TGPL.

- Về hỗ trợ kinh phí mua sắm trang thiết bị: theo Luật TGPL và các văn bản hướng dẫn thi hành, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất cho Trung tâm TGPL và Chi nhánh của Trung tâm từ nguồn ngân sách địa phương. Vì vậy, hàng năm Trung tâm cần lập dự toán kinh phí hoạt động bao gồm kinh phí chi thường xuyên, kinh phí chi hoạt động nghiệp vụ TGPL (chi cho các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ như TGPL lưu động, hỗ trợ sinh hoạt Câu lạc bộ TGPL, chi trả thù lao chế độ bồi dưỡng và công tác phí cho Trợ giúp viên pháp lý, Cộng tác viên TGPL khi triển khai các hoạt động nghiệp vụ TGPL, chi mua sắm trang thiết bị làm việc,...) để Sở Tư pháp tổng hợp trình UBND cấp tỉnh quyết định. Vì vậy, Bộ Tư pháp trân trọng đề nghị UBND tỉnh Lào Cai tiếp tục quan tâm đầu tư kinh phí bảo đảm cho công tác TGPL của địa phương từ ngân sách cấp tỉnh.

Trong phạm vi nguồn ngân sách của Quỹ TGPL Việt Nam, Bộ Tư pháp sẽ chỉ đạo Cục TGPL và Quỹ TGPL Việt Nam tiếp tục xem xét hỗ trợ kinh phí từ nguồn ngân sách Trung ương cấp hàng năm cho Quỹ để hỗ trợ cho các địa phương có khó khăn thuộc diện ngân sách Trung ương phải hỗ trợ, trong đó có mục chi hỗ trợ mua sắm trang thiết bị. Trung tâm TGPL tỉnh Lào Cai cần chủ động lập dự toán và gửi đề xuất hỗ trợ hợp lý về Quỹ TGPL Việt Nam để Quỹ cân đối thực hiện việc hỗ trợ theo quy định hiện hành.

3. Đề nghị Bộ Tư pháp chỉ đạo Cục TGPL có kế hoạch cấp kinh phí theo Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg ngày từ đầu năm để chủ động trong triển khai thực hiện (UBND các tỉnh: Phú Thọ, Quảng Ngãi).

Trả lời:

Sau khi Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo giai đoạn 2011 - 2020 (Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg) được ban hành, việc triển khai thực hiện chậm do cơ chế tạm ứng, cấp phát, quản lý và sử dụng, quyết toán kinh phí được ban hành chậm, trong khi Quốc hội, Chính phủ đã thông qua dự kiến phân bổ ngân sách nhà nước năm 2011 nên phải chờ Quốc hội điều chỉnh bổ sung ngân sách trong 6 tháng cuối năm 2011, vì vậy, kinh phí hỗ trợ thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg trong năm 2011 được cấp muộn làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện. Do cơ chế thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg phức tạp, triển khai thực hiện với thời gian ngắn, các địa phương được hỗ trợ chậm báo cáo kết quả hoạt động và báo cáo tài chính ảnh hưởng đến việc duyệt dự toán và cấp phát kinh phí do phải chờ Quyết định điều chỉnh kinh phí từ năm 2011 sang năm 2012. Năm 2012, kinh phí thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg được Bộ Tài chính phân bổ tháng 6/2012 nên Kế hoạch hỗ trợ kinh phí năm 2012 muộn hơn so với năm ngân sách và việc phân bổ kinh phí để triển khai thực hiện các hoạt động ở địa phương thường chậm, phần nào gây khó khăn cho các địa phương ở vùng sâu, vùng xa, vùng có thời tiết không thuận lợi.

Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn 2 năm thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo Cục TGPL phối hợp với các địa phương tổng kết 2 năm thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg và sớm đề ra các giải pháp khắc phục những vướng mắc, bất cập và sẽ rút kinh nghiệm để triển khai thực hiện tốt hơn trong năm 2013 và các năm tiếp theo, đồng thời kiến nghị Bộ Tài chính cấp kinh phí hỗ trợ được sớm hơn, tạo thuận lợi cho các địa phương triển khai thực hiện.

4. Xem xét hỗ trợ nguồn ngân sách từ Quỹ trợ giúp pháp lý cho Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh Quảng Nam (UBND tỉnh Quảng Nam); đề nghị Bộ Tư pháp tiếp tục hỗ trợ kinh phí từ nguồn ngân sách Trung ương để Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi. Về thời gian cấp kinh phí, đề nghị Bộ Tư pháp xem xét cấp ngay từ đầu năm để chủ động trong việc triển khai các hoạt động trợ giúp pháp lý (UBND tỉnh Quảng Ngãi).

Trả lời:

Trong năm 2011, Quảng Nam được Quỹ TGPL hỗ trợ 344.800.000 đồng để thực hiện các hoạt động theo Quyết định số 52/QĐ-TTg, tuy nhiên, do thời gian ngắn, Trung tâm không thực hiện, trả lại toàn bộ kinh phí, còn Sở Tư pháp từ chối không thực hiện. Năm 2012 Quỹ TGPL hỗ trợ cho Sở Tư pháp Quảng Nam là 90.200.000 đồng, Trung tâm là 431.000.000 đồng để triển khai các hoạt động theo Quyết định số 52/QĐ-TTg.

Về hỗ trợ từ nguồn Quỹ TGPL Việt Nam theo Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam (Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg): Trong năm 2012, Quảng Nam là một trong những tỉnh thuộc diện được hỗ trợ theo Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg và nguồn kinh phí của Quỹ do ngân sách Trung ương cấp còn hạn chế nên chỉ tập trung nguồn lực hỗ trợ cho một số địa phương có nhiều khó khăn hơn nên Quảng Nam không thuộc diện được xem xét hỗ trợ từ nguồn Quỹ TGPL Việt Nam theo Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg. Trong năm 2013 Bộ Tư pháp sẽ chỉ đạo Cục TGPL xem xét, cân nhắc việc hỗ trợ kinh phí cho Trung tâm từ nguồn Quỹ TGPL Việt Nam. Đề nghị Sở Tư pháp tỉnh Quảng Nam chỉ đạo Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh xây dựng dự toán phù hợp với các quy định của pháp luật để đề xuất Quỹ TGPL Việt Nam xem xét, hỗ trợ.

5. Đề nghị Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp quan tâm hỗ trợ kinh phí cho việc sinh hoạt các Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý ở các xã nghèo, các xã vùng sâu, vùng xa của tỉnh từ nguồn Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam (UBND tỉnh Tiền Giang).

Trả lời:

Theo Luật TGPL, UBND tỉnh có trách nhiệm bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất cho công tác TGPL của địa phương (trong đó có kinh phí cho việc sinh hoạt các Câu lạc bộ TGPL). Từ năm 2010, trong điều kiện dự án hợp tác quốc tế về TGPL và các Chương trình giảm nghèo kết thúc, các Câu lạc bộ TGPL tại các xã nghèo không được hỗ trợ kinh phí sinh hoạt (2.000.000/năm), Bộ Tư pháp đã có Công văn số 2372/BTP-TGPL ngày 29/4/2012 đề nghị UBND tỉnh quan tâm, hỗ trợ nguồn kinh phí này. Sau khi Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo và Chương trình 135 giai đoạn II kết thúc, Bộ Tư pháp đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chính sách TGPL cho đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã nghèo giai đoạn 2013 - 2020 trong đó có kinh phí hỗ trợ sinh hoạt Câu lạc bộ TGPL. Trong năm 2012, do kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, nguồn kinh phí hỗ trợ từ Quỹ TGPL Việt Nam được cấp không nhiều, vì thế, để tập trung nguồn lực cho một số địa phương còn nhiều khó khăn, tỉnh Tiền Giang không thuộc diện được hỗ trợ từ nguồn Quỹ TGPL Việt Nam cho sinh hoạt Câu lạc bộ TGPL.

6. Đề nghị Bộ Tư pháp mở các lớp tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở các địa phương, đặc biệt cán bộ, công chức làm công tác trợ giúp pháp lý (UBND tỉnh Phú Yên).

Trả lời:

Trên cơ sở khảo sát nhu cầu tập huấn, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật mới và kỹ năng TGPL, hàng năm, Bộ Tư pháp (Cục TGPL) thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nguồn bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý (trung bình 02 khóa/năm, mỗi khóa từ 60 - 80 người) và 04 - 05 lớp tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL thường xuyên theo khu vực. Ngoài ra, Bộ Tư pháp còn chỉ đạo Cục TGPL nghiên cứu, chỉnh sửa, bổ sung tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn để nâng cao năng lực, trình độ của người thực hiện TGPL trong toàn quốc. Căn cứ nhu cầu bồi dưỡng nghiệp vụ và yêu cầu nhiệm vụ công tác TGPL, trên cơ sở nội dung đã được Cục TGPL tập huấn, các Trung tâm cần chủ động xây dựng kế hoạch bồi dưỡng tập huấn thường xuyên đội ngũ người thực hiện TGPL cho phù hợp với yêu cầu công việc và điều kiện thực tiễn của địa phương.

Do hạn chế về kinh phí, Cục TGPL chỉ tổ chức được các lớp tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ lãnh đạo hoặc một số Trợ giúp viên pháp lý, Cộng tác viên TGPL mà không thể tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho tất cả đội ngũ người thực hiện TGPL ở địa phương. Để nâng cao trình độ nghiệp vụ và kỹ năng cho đội ngũ người thực hiện TGPL ở địa phương, các Trung tâm cần chủ động, có kế hoạch bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng TGPL cho người thực hiện TGPL ở địa phương.

UBND tỉnh cần hỗ trợ kinh phí tổ chức các lớp tập huấn cập nhật kiến thức pháp luật mới và nâng cao trình độ nghiệp vụ TGPL ở địa phương để Sở Tư pháp chỉ đạo Trung tâm tham mưu tổ chức các khóa tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho người thực hiện TGPL tại địa phương theo đúng chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm.

7. Việc hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động trợ giúp pháp lý cho các huyện nghèo cấp rất muộn (khoảng T7.8) trong khi đó lại chỉ cấp 70% kinh phí (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Theo Khoản 3 Điều 4 Quyết định số 4103/QĐ-BTP ngày 19/10/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện Quyết định số 52/QĐ-TTg thì mức tạm ứng tối đa là 80%. Quỹ TGPL Việt Nam đã cấp tạm ứng tối đa theo định mức để tạo thuận lợi cho địa phương trong quá trình triển khai hoạt động hỗ trợ. Thực tế cho thấy, mức tạm ứng này là tương đối phù hợp, thậm chí, có một số địa phương còn không thực hiện hết mức tạm ứng. Bên cạnh đó, việc quy định mức tạm ứng này một mặt đã khắc phục hạn chế so với quy định tại Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 08/QĐ-BTP ngày 8/12/2008 (tạm ứng 30% kinh phí hoạt động). Mặt khác, còn ràng buộc các Trung tâm triển khai có hiệu quả các hoạt động được hỗ trợ (sau khi thực hiện hết các hoạt động, Quỹ tiến hành nghiệm thu, thanh lý mới chuyển nốt số kinh phí còn lại).

8. Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý (ban hành kèm theo Quyết định số 11/2008/QĐ-BTP ngày 29/12/2008) còn trừu tượng, khó áp dụng (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Hiện nay, Bộ Tư pháp đã tiến hành tổng kết 04 năm thực hiện Bộ Tiêu chuẩn; đã chỉ đạo Cục TGPL phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ và các địa phương tiến hành khảo sát, đánh giá thực tiễn; phân tích và làm rõ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn và đề xuất Bộ trưởng Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung Bộ Tiêu chuẩn. Đến nay, Dự thảo Bộ Tiêu chuẩn sửa đổi, bổ sung đã được hoàn thiện, dự kiến Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ xem xét ban hành trong thời gian tới, trong đó khắc phục các tiêu chuẩn về định tính; làm rõ các căn cứ đánh giá; hình thức đánh giá; thẩm quyền đánh giá và các vấn đề có liên quan. Sau khi được ban hành, Bộ Tiêu chuẩn sẽ khắc phục được những vướng mắc, bất cập nêu trên.

9. Kiến nghị sửa đổi Thông tư liên tịch số 81/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 25/9/2008 hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan TGPL nhà nước, nhất là kinh phí chi trả cho Luật sư - Cộng tác viên TGPL (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Hiện nay, Dự thảo Thông tư liên tịch thay thế Thông tư liên tịch số 81/2008/TTLT-BTC-BTP đã được Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính hoàn thiện trên cơ sở ý kiến đóng góp của UBND các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương. Dự kiến trong thời gian tới, Lãnh đạo Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp sẽ xem xét, ký ban hành. Sau khi được ban hành, Thông tư sẽ khắc phục được những vướng mắc, bất cập nêu trên.

10. Đề nghị Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ quy định chế độ đãi ngộ tương xứng cho cán bộ, viên chức làm công tác TGPL; kiến nghị Chính phủ về việc áp dụng chế độ phụ cấp công vụ đối với cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp không có thu, chủ yếu sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước như Trung tâm TGPL Nhà nước, do ngân sách nhà nước đảm bảo toàn bộ (UBND T.P Hồ Chí Minh, UBND các tỉnh: Lào Cai, Phú Thọ).

Trả lời:

Về vấn đề này đang được Bộ Tư pháp nghiên cứu, đề xuất Bộ Tài chính và Bộ Nội vụ hướng dẫn chế độ, chính sách đối với người làm công tác TGPL theo chế độ đối với đơn vị sự nghiệp hoạt động hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách nhà nước trong năm 2013.

VII. LĨNH VỰC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

1. Đề nghị sớm có các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật (UBND tỉnh Hưng Yên).

Trả lời:

Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2012 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013. Tại Điều 41 của Luật quy định: “Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật”. Theo Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Chính phủ được giao quy định chi tiết về xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) (Điều 4); về Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 8) và về bảo đảm tổ chức, cán bộ, cơ sở vật chất và phương tiện cho công tác PBGDPL (Điều 38).

Để quy định chi tiết các điều luật được giao nêu trên cùng một số nội dung khác nhằm bảo đảm việc tổ chức thực hiện Luật được thuận lợi, hiệu quả giúp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, bất cập từ thực tiễn công tác PBGDPL, Bộ Tư pháp đã đề xuất với Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật phổ biến, giáo dục pháp luật. Hiện nay, Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ xem xét, ban hành.

2. Đề nghị Bộ Tư pháp cần có kế hoạch tiếp tục tham mưu Chính phủ ban hành Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật của Chính phủ từ năm 2013 - 2016 và các đề án liên quan như Đề án 212, Đề án II... để làm cơ sở cho các cơ quan, địa phương thực hiện, tránh việc từ khi ban hành Chương trình tới khi triển khai các văn bản từ Trung ương xuống cơ sở quá lâu hoặc như Đề án 212 đến nay không tiếp tục triển khai được (UBND tỉnh Quảng Ngãi).

Trả lời:

- Về tiếp tục tham mưu Chính phủ ban hành Chương trình PBGDPL từ năm 2013 - 2016: để tập trung triển khai thực hiện Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 và Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/04/2012 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) (Quyết định số 409/QĐ-TTg) nên trong giai đoạn 2013-2016 không xây dựng Chương trình PBGDPL từ năm 2013-2016.

- Về việc đề nghị Bộ Tư pháp cần có kế hoạch tiếp tục tham mưu Chính phủ ban hành các Đề án liên quan như Đề án của chương trình 212, Đề án 2... để làm cơ sở cho các cơ quan địa phương thực hiện: là cơ quan có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, theo dõi các cấp, các ngành thực hiện có hiệu quả Chương trình và các Đề án của Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2008 - 2012, Bộ Tư pháp đã tham mưu, đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép được tiếp tục triển khai các Đề án của Chương trình 212 và Chương trình PBGDPL của Chính phủ từ năm 2008-2012 đến năm 2016. Theo quy định tại điểm 4 phần III Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 9/04/2012 của Thủ tướng Chính phủ thì trên cơ sở tổng kết các Đề án thuộc Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010, rà soát, chọn lọc để kế thừa, phát huy các kết quả đạt được, khắc phục hạn chế, tồn tại, yếu kém, xác định nhu cầu, phương hướng, nhiệm vụ và cách thức để triển khai thực hiện cho phù hợp với tình hình mới trong giai đoạn tiếp theo đến năm 2016 hoặc tiến hành lồng ghép việc thực hiện các Đề án đó vào các Đề án phổ biến, giáo dục pháp luật đang được triển khai một cách thiết thực, phù hợp, có hiệu quả; tiến hành sơ kết, tổng kết việc thực hiện các Đề án phổ biến, giáo dục pháp luật thuộc Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2008 - 2012 và xây dựng kế hoạch tiếp tục triển khai các nội dung, mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả".

Theo quy định của Phụ lục ban hành kèm theo Quyết định 409/QĐ-TTg thì 04 Đề án của Chương trình PBGDPL của Chính phủ giai đoạn 2008-2012 đều được tiếp tục triển khai thực hiện đến năm 2016, hiện các Bộ, ngành chủ trì các Đề án đang xây dựng kế hoạch thực hiện đến năm 2016. Các Đề án của Chương trình 212 được tiếp tục triển khai 02 Đề án: Đề án “Tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2012 - 2016” (Thanh tra Chính phủ chủ trì) và Đề án: “Tiếp tục xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư giai đoạn 2012-2016” (Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì). Hiện nay, các cơ quan được giao chủ trì 02 Đề án này đang xây dựng Đề án mới cho giai đoạn 2013-2016 để trình Chính phủ ban hành.

3. Đề nghị Bộ Tư pháp mở các lớp tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở các địa phương, đặc biệt cán bộ, công chức làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (UBND tỉnh Phú Yên).

Trả lời:

Việc bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ, năng lực và kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức làm công tác PBGDPL nói riêng nhằm bảo đảm cho đội ngũ này phục vụ tốt hơn công việc chuyên môn là nhiệm vụ quan trọng, luôn được Bộ Tư pháp quan tâm triển khai thực hiện thường xuyên.

Thời gian gần đây, Bộ Tư pháp đã tổ chức triển khai nhiều hoạt động tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ, trong đó có kỹ năng nghiệp vụ PBGDPL cho đội ngũ cán bộ công chức làm công tác PBGDPL ở địa phương, đặc biệt là cán bộ pháp chế, cán bộ, công chức cơ quan Tư pháp các cấp. Triển khai thực hiện Đề án “củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển của đất nước” (ban hành kèm theo Quyết định số 270/QĐ-TTg ngày 27/02/2009 của Thủ tướng Chính phủ), trong 04 năm vừa qua, định kỳ hàng năm Bộ Tư pháp đều tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng cho cán bộ, công chức địa phương theo khu vực Bắc và Nam, trong đó kết hợp giới thiệu, phổ biến kiến thức pháp luật (chủ yếu là các Luật mới ban hành) với bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ PBGDPL. Ngoài ra, trong tổ chức thực hiện các chương trình, đề án khác về PBGDPL do Bộ Tư pháp chủ trì, Bộ còn chú trọng tổ chức lồng ghép bảo đảm cán bộ công chức ở địa phương được tham gia tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ thường xuyên hơn, liên tục hơn.

Thời gian tới, với chủ trương xã hội hóa công tác PBGDPL thì nguồn nhân lực tham gia công tác này (bao gồm cả cán bộ công chức) sẽ phát triển hơn, vì vậy, việc tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nói chung và kỹ năng nghiệp vụ PBGDPL nói riêng cho lực lượng này đòi hỏi sự tham gia tích cực của các ngành, các cấp. Với vai trò của mình, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục duy trì các hoạt động tập huấn bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ, chú trọng bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ Báo cáo viên pháp luật Trung ương, Báo cáo viên, tập huấn viên nguồn của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đồng thời quan tâm tổ chức bồi dưỡng, tập huấn trực tiếp cho một số đối tượng, một số địa bàn cần ưu tiên hơn

4. Đề nghị Lãnh đạo Bộ sửa đổi quy chế hoạt động đối với đội ngũ Báo cáo viên pháp luật các cấp theo hướng quan tâm đến quy chế quản lý; chế độ, phụ cấp hỗ trợ cho đội ngũ Báo cáo viên pháp luật (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Chế độ, phụ cấp hỗ trợ cho đội ngũ Báo cáo viên pháp luật hiện nay được Bộ Tư pháp rất quan tâm nhằm hỗ trợ, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ này. Chính vì vậy, Bộ đã đề xuất giao Bộ Tài Chính quy định chế độ của Báo cáo viên pháp luật tại Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật. Theo Kế hoạch, Dự thảo Nghị định sẽ trình Chính phủ tháng trong thời gian tới. Sau khi Nghị định được ban hành, năm 2013, Bộ Tư pháp xây dựng Thông tư thay thế Thông tư số 18/TT-BTP ngày 5/11/2010 quy định về Báo cáo viên pháp luật để phù hợp với quy định của Luật PBGDPL và giải quyết được những khó khăn trong thực tiễn đối với hoạt động của Báo cáo viên pháp luật.

5. Bộ Tư pháp thành lập nhiều Hội đồng và Ban chỉ đạo với các thành phần trùng lặp nhưng chưa có hiệu quả cao (ví dụ: Ban chỉ đạo 270, Ban Chỉ đạo về thực hiện tăng cường Phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên), đề nghị Bộ Tư pháp xem xét về vấn đề này (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Nhận thấy việc thành lập Hội đồng hoặc Ban chỉ đạo thực hiện các chương trình, đề án về PBGDPL là cần thiết, do đây là cơ quan Thường trực có vai trò đầu mối theo dõi, quản lý, điều hành và phối hợp tổ chức thực hiện Đề án. Vì vậy, sau khi Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và để tổ chức triển khai các Đề án này có hiệu quả, nghiêm túc ở các địa phương, với vai trò của cơ quan chủ trì, Bộ Tư pháp đã chủ động xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn các địa phương tổ chức triển khai Đề án, thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Đề án... Kết quả tổng kết thực hiện các chương trình, đề án thời gian qua cho thấy, Ban chỉ đạo các Đề án ở một số địa phương còn tồn tại một số hạn chế như tổ chức, thành phần và hoạt động của Ban chỉ đạo còn mang tính hình thức, chưa phát huy được vai trò của thành viên Ban chỉ đạo, sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị tham gia Đề án còn thiếu chặt chẽ, có nơi thành lập nhiều Ban chỉ đạo hoặc một người tham gia nhiều Ban chỉ đạo, có sự chồng chéo, trùng lặp về thành phần...

Để khắc phục, thời gian gần đây khi triển khai thực hiện các Đề án “củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham gia công tác PBGDPL nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển của đất nước”, Đề án “tăng cường công tác PBGDPL nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011-2015”..., Bộ Tư pháp đã hướng dẫn việc thành lập Ban chỉ đạo Đề án theo hướng để các địa phương chủ động, linh hoạt lựa chọn việc thành lập mới hoặc củng cố, bổ sung thành phần vào Ban chỉ đạo của Đề án khác đã thành lập. Chẳng hạn, đối với Đề án “tăng cường công tác PBGDPL nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011-2015” (ban hành kèm theo Quyết định số 2160/QĐ-TTg ngày 26/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ), ngày 28/02/2011, Bộ Tư pháp có Công văn số 802/BTP-PBGDPL gửi các bộ, ngành, đoàn thể và địa phương để hướng dẫn triển khai thực hiện Đề án này. Tiểu mục 1.2 mục 1 của Công văn hướng dẫn cụ thể việc thành lập Ban chỉ đạo Đề án như sau:

“Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp rà soát Ban chỉ đạo các Chương trình, Đề án trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã được thành lập ở cấp mình (Ban chỉ đạo Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ từ năm 2008 đến năm 2012, Ban chỉ đạo các Đề án trọng tâm của Chương trình: Đề án thứ nhất: “tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số”, Đề án thứ hai: “củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển của đất nước”, Đề án thứ ba: “nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường” và Đề án thứ tư: “tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp”). Trên cơ sở kết quả rà soát, Sở Tư pháp tham mưu Ủy ban nhân dân củng cố, kiện toàn, bổ sung thêm thành viên vào một trong các mô hình Ban chỉ đạo đã có để triển khai các nhiệm vụ và nội dung của Đề án tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011 - 2015 nhằm tránh chồng chéo, hạn chế tình trạng thành lập nhiều Ban chỉ đạo, đồng thời đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả trong hoạt động của Ban chỉ đạo Đề án”.

Như vậy, có thể nhận thấy, Bộ Tư pháp đã rút kinh nghiệm và kịp thời có biện pháp khắc phục. Bộ Tư pháp yêu cầu Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quán triệt, triển khai nghiêm túc theo sự hướng dẫn của Bộ Tư pháp, có như vậy mới có thể góp phần hạn chế dần những bất cập hiện nay. Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục quan tâm, hướng dẫn việc thành lập Ban chỉ đạo thống nhất trong triển khai các chương trình, đề án về PBGDPL bảo đảm các Chương trình, Đề án PBGDPL được theo dõi, điều hành thống nhất, hiệu quả.

6. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm ban hành văn bản hướng dẫn mức chi đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với tình hình thực tế hiện nay (UBND tỉnh Lào Cai); cần quy định chế độ bồi dưỡng thỏa đáng nhằm khuyến khích những người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật như: báo cáo viên, tuyên truyền viên và có giải pháp khuyến khích vật chất cho người dân tham gia tìm hiểu pháp luật (sửa đổi Thông tư số 73/2010/TTLT-BTC-BTP) (UBND tỉnh Quảng Ngãi); mặc dù đã có Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP nhưng trong quá trình áp dụng vẫn còn nhiều vướng mắc. Đề nghị Lãnh đạo Bộ xem xét điều chỉnh mức trả kinh phí chi cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho phù hợp với từng địa phương và phù hợp với Luật hòa giải cơ sở (chuẩn bị được thông qua) (Sở Tư pháp Bắc Giang).

Trả lời:

Ngày 14/5/2010, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Việc ban hành Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP đã tạo điều kiện thuận lợi cho các bộ, ngành, địa phương chủ động trong việc bố trí ngân sách hàng năm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cũng như cụ thể hóa các mức chi thực hiện công tác này. Tuy nhiên, sau hơn hai năm triển khai thực hiện, theo phản ánh của các bộ, ngành, địa phương và khảo sát thực tiễn, một số nội dung của Thông tư liên tịch không còn phù hợp với tình hình thực tế cũng như so với một số văn bản hướng dẫn về kinh phí đối với một số công việc có nội dung tương tự. Bên cạnh đó, trước yêu cầu và nhiệm vụ của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong tình hình mới, có nhiều nội dung hoạt động cần được bố trí kinh phí để triển khai, thực hiện bảo đảm công tác nhất là từ khi Quốc hội Khóa XIII thông qua Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật tại kỳ họp thứ 3. Vì vậy, Bộ Tư pháp nhất trí với kiến nghị xây dựng Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP.

Theo Kế hoạch triển khai thực hiện Luật phổ biến, giáo dục pháp luật, trong năm 2013, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, ngành, địa phương tiến hành rà soát, xây dựng văn bản mới thay thế Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP. Để việc sửa đổi, bổ sung lần này được toàn diện, phù hợp, thiết thực, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong tình hình mới, Bộ Tư pháp rất mong các bộ, ngành, địa phương quan tâm, tích cực phối hợp trong quá trình xây dựng, hoàn thiện văn bản.

7. Đề nghị tham mưu cho Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ hỗ trợ địa phương kinh phí thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật (UBND tỉnh Lào Cai).

Trả lời:

Trước hết phải khẳng định rằng, việc Quốc hội ban hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/3/2008 phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012, Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 ban hành Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW...đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với công tác PBGDPL, trong đó tiếp tục dành sự đầu tư tập trung (trong đó có kinh phí) để đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở.

Cơ chế tài chính phục vụ cho hoạt động PBGDPL được thực hiện theo quy định thống nhất về phân cấp ngân sách tại Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật; đồng thời, được cụ thể hóa tại Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP, đó là: nguồn kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thuộc cấp nào do ngân sách cấp đó bảo đảm theo phân cấp ngân sách hiện hành và được bố trí trong dự toán của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Chính vì vậy, cũng có một thực tế là việc dành kinh phí cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật phụ thuộc vào điều kiện ngân sách ở từng cơ quan, đơn vị, địa phương, cũng như sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp đối với công tác này. Qua theo dõi cho thấy tại nhiều địa phương đã bố trí một khoản kinh phí không nhỏ cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, tạo điều kiện cho công tác này được triển khai một cách thuận lợi và trên diện rộng. Vì vậy, để bảo đảm nguồn kinh phí phục vụ cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, cơ quan Tư pháp các cấp cần phát huy vai trò chủ động của mình trong tham mưu, kiến nghị HĐND, UBND các cấp về việc bố trí kinh phí cho hoạt động này.

Trong thời gian qua, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật được tổ chức, triển khai trên cơ sở các chương trình, kế hoạch ngắn hạn, hàng năm hoặc dài hạn (5 năm). Thông qua các kế hoạch, chương trình đó, trên cơ sở kinh phí được phân bổ, Bộ Tư pháp đều chú trọng quan tâm đến việc hỗ trợ nâng cao năng lực cho các địa phương (cấp phát tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật như sách, tờ gấp, băng đĩa hình; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật...) hoặc hỗ trợ kinh phí như: hỗ trợ kinh phí phục vụ cho việc thành lập, hoạt động của các câu lạc bộ pháp luật (Câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật”, “Nông dân với pháp luật”, “Tuổi trẻ phòng, chống tội phạm”); hỗ trợ một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện chỉ đạo điểm theo các Đề án như Đề án 2 thuộc Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 - 2012; Đề án “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh thiếu niên giai đoạn 2011 - 2015”...

Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tích cực, chủ động phối hợp với các đề án khác của các bộ, ngành, đoàn thể trung ương, mở rộng hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước để tranh thủ sự giúp đỡ về tài chính, đồng thời khẩn trương xây dựng, trình Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật phổ biến, giáo dục pháp luật để cụ thể hóa, tạo tiền đề, cơ sở pháp lý vững chắc cho việc triển khai công tác PBGDPL nói chung, trong đó có việc tăng cường bố trí, hỗ trợ về kinh phí phục vụ công tác này nói riêng. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng đề nghị các địa phương (Sở Tư pháp) cần chủ động hơn nữa trong việc lập dự toán kinh phí, báo cáo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định.

8. Đề nghị tăng cường kinh phí hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật những năm tiếp theo để Bộ Quốc phòng tổ chức triển khai công tác này ngày càng mang lại hiệu quả vững chắc, ổn định (Bộ Quốc phòng); đề nghị Bộ Tư pháp kiến nghị Chính phủ tăng kinh phí cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội).

Trả lời:

Việc thông qua Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XIII có hiệu lực thi hành từ ngày 01/1/2013, đã thể hiện rõ quyết tâm của Nhà nước ta trong việc tiếp tục tăng cường, đẩy mạnh công tác PBGDPL, dành sự đầu tư tập trung và tạo tiền đề các điều kiện bảo đảm giúp công tác này hoạt động ổn định, bền vững, có hiệu quả, trong đó có biện pháp đảm bảo về kinh phí. Điều 39 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật đã quy định như sau:

“1. Kinh phí phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan, tổ chức thụ hưởng ngân sách do ngân sách nhà nước bảo đảm và huy động từ các nguồn hợp pháp khác. Ngân sách trung ương hỗ trợ kinh phí phổ biến, giáo dục pháp luật cho các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách.

2. Hàng năm, căn cứ vào nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật của năm sau, cơ quan, tổ chức xây dựng dự toán kinh phí phổ biến, giáo dục pháp luật và tổng hợp chung vào dự toán ngân sách nhà nước của cấp mình trình cấp có thẩm quyền quyết định theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước”.

Như vậy, việc đảm bảo kinh phí phục vụ cho hoạt động PBGDPL được quy định tại văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất đã tạo nền tảng cơ sở quan trọng để các bộ, ngành, địa phương bố trí kinh phí đáp ứng yêu cầu của công tác PBGDPL. Để tăng cường kinh phí phục vụ công tác này trong những năm tới, với tư cách là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác PBGDPL, Bộ Tư pháp xác định tập trung triển khai vào một số hoạt động sau:

+ Về thể chế: Tập trung xây dựng, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó cần cụ thể hóa các quy định về vấn đề kinh phí tại Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật; tập trung rà soát, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan hữu quan xây dựng văn bản mới thay thế Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác PBGDPL, trong đó tập trung sửa đổi các nội dung chi và mức chi cho phù hợp với tình hình thực tế; nghiên cứu cơ chế, cách thức, trình tự, thủ tục về thanh, quyết toán kinh phí phổ biến, giáo dục pháp luật...;

+ Về công tác tham mưu, hướng dẫn, chỉ đạo: Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục tham mưu, đề xuất Chính phủ và các bộ, ngành chức năng, các địa phương quan tâm, có cơ chế hỗ trợ, tạo điều kiện bố trí kinh phí phục vụ công tác PBGDPL thông qua các chương trình, đề án và hoạt động PBGDPL thường xuyên. Trong công tác hướng dẫn, chỉ đạo chung về công tác này, Bộ cũng lưu ý hơn về vấn đề kinh phí phục vụ cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng đề nghị các bộ, ngành, địa phương tích cực, chủ động tham mưu, đề xuất các cơ quan, đơn vị chức năng và Lãnh đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương quan tâm, tạo điều kiện về kinh phí phục vụ công tác này.

9. Đề nghị Bộ Tư pháp (Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật) tiếp tục tạo điều kiện hỗ trợ TTXVN trong việc tham gia triển khai thực hiện các đề án về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của Bộ Tư pháp và của Chính phủ (Thông tấn xã Việt Nam).

Trả lời:

Trong thời gian qua, các phương tiện thông tin đại chúng được xác định là một trong những kênh quan trọng để thực hiện nhiệm vụ PBGDPL, đưa pháp luật đến với nhân dân một cách sâu rộng, nhanh nhạy, kịp thời và hiệu quả nhất. Chính vì vậy, trong kế hoạch PBGDPL hàng năm cũng như thực hiện các Chương trình, Đề án về PBGDPL, Bộ Tư pháp đều tập trung hướng dẫn, chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện PBGDPL thông qua kênh thông tin này. Về phía Bộ Tư pháp, hàng năm Bộ cũng tích cực, chủ động phối hợp với các cơ quan báo chí của Trung ương, của Ngành để triển khai thực hiện các chuyên trang, chuyên mục, chương trình PBGDPL một cách hiệu quả. Trong đó, hoạt động phối hợp triển khai thực hiện PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chúng của Thông tấn xã Việt Nam cũng được Bộ quan tâm, tích cực triển khai thông qua việc hỗ trợ xây dựng và thực hiện các chuyên trang, chuyên mục, các tin, bài, phóng sự phản ánh hoạt động PBGDPL và công tác Tư pháp trên kênh Truyền hình Thông tấn, Tạp chí Luật Việt Nam và Diễn đàn pháp lý, Tin Nội chính, Ban Tin trong nước... Qua đánh giá bước đầu cho thấy việc phối hợp triển khai này là hiệu quả và có chất lượng. Vì vậy, trong thời gian tới, Bộ vẫn chủ trương tiếp tục và mở rộng việc tổ chức triển khai thực hiện các chuyên trang, chuyên mục PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chúng của Thông tấn xã Việt Nam.

VIII. LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1. Đề nghị Bộ Tư pháp chỉ đạo xây dựng Quy chế phối hợp giữa Sở Tư pháp và Cơ quan Thi hành án (UBND thành phố Hải Phòng), kiến nghị sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể quy định chức năng quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự của Sở Tư pháp (thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế, chính sách...) để thống nhất thực hiện trong phạm vi cả nước và ở từng địa phương (UBND tỉnh Hưng Yên); kịp thời có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các nhiệm vụ về quản lý nhà nước về thi hành án dân sự để việc triển khai thực hiện đạt hiệu quả cao hơn (UBND tỉnh Phú Yên).

Trả lời:

Các vấn đề nêu trên, Bộ Tư pháp đã giao Tổng cục Thi hành án dân sự phối hợp với các đơn vị có liên quan nghiên cứu, đánh giá tình hình thực tế, những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện để có giải pháp hướng dẫn, tháo gỡ trong thời gian tới. Hiện nay Vụ Tổ chức cán bộ - Tổng cục Thi hành án dân sự đã xây dựng xong Dự thảo Quy chế phối hợp giữa Sở Tư pháp và Cơ quan thi hành án, đang khẩn trương hoàn thiện để ban hành trong thời gian tới.

2. Kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương cho mở rộng chế định Thừa phát lại và trước mắt cho tiếp tục thực hiện thí điểm Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh; hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại (UBND thành phố Hồ Chí Minh).

Trả lời:

Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIII vừa qua, Bộ Tư pháp đã trình Chính Phủ báo cáo Quốc hội dự thảo Nghị quyết về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại. Dự thảo Nghị quyết đã được Quốc hội thông qua ngày 23/11/2012. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang tiến hành các công việc cần thiết để triển khai việc thực hiện Nghị quyết trên.

3. Sửa đổi, bổ sung một số quy định trong các văn bản pháp luật liên quan đến công tác thi hành án như: Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở... nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ trong việc áp dụng pháp luật (UBND tỉnh Tiền Giang)

Trả lời:

Hiện nay, Bộ Tư pháp đã và đang phối hợp với cơ quan, đơn vị có thẩm quyền trong việc nghiên cứu, chuẩn bị xây dựng các Luật, Bộ luật nêu trên. Trong quá trình tham gia vào các đề án nghiên cứu, Ban soạn thảo, Tổ biên tập sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai,... Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung những quy định liên quan đến công tác thi hành án nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ trong việc áp dụng pháp luật.

4. Các Bộ, ngành Trung ương sớm đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Thi hành án dân sự, Nghị định 58/2009/NĐ-CP của Chính phủ và các văn bản khác cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Ban hành văn bản hướng dẫn mang tính chất liên ngành trong việc phối hợp hỗ trợ công tác thi hành án giữa thi hành án dân sự với thi hành án phạt tù và các tổ chức liên quan khác (UBND tỉnh Tiền Giang).

Trả lời:

Bộ Tư pháp đang triển khai xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 58/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục Thi hành án dân sự; sẽ triển khai Đề án nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự trong năm 2013. Đối với hoạt động phối hợp liên ngành, Bộ Tư pháp đang chủ trì, phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an xây dựng Quy chế phối hợp liên ngành trong hoạt động Thi hành án dân sự, dự kiến sẽ ban hành vào đầu năm 2013.

IX. LĨNH VỰC ĐÀO TẠO, TỔ CHỨC, CÁN BỘ

1. Bổ sung biên chế quản lý nhà nước cho các Sở Tư pháp thực hiện những nhiệm vụ mới như: Lý lịch tư pháp, Bồi thường của Nhà nước, theo dõi thi hành pháp luật, đăng ký giao dịch bảo đảm (UBND các tỉnh: Phú Thọ, Bình Phước, Sở Tư pháp Thừa Thiên - Huế)

Trả lời:

Trong thời gian qua, Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp địa phương đã được giao thêm nhiều nhiệm vụ mới trong các lĩnh vực lý lịch tư pháp, trách nhiệm bồi thường của nhà nước, theo dõi thi hành pháp luật. Việc bổ sung biên chế, bảo đảm đủ cán bộ triển khai nhiệm vụ luôn được Bộ Tư pháp quan tâm, đặc biệt, việc bổ sung biên chế, tăng cường đội ngũ cán bộ triển khai thực hiện các nhiệm vụ mới, cụ thể: Bộ Tư pháp đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2369/QĐ-TTg ngày 28/12/2010 phê duyệt Đề án “Xây dựng Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia và kiện toàn tổ chức thuộc Sở Tư pháp để xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp”; ngày 19/10/2011, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 18/2011/TTLT-BTP-BNV ngày 19/10/2011 hướng dẫn nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức biên chế của Sở Tư pháp thuộc UBND cấp tỉnh và Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện về bồi thường Nhà nước. Về phía Ban Cán sự đảng Bộ Tư pháp và Bộ Tư pháp đã có Công văn số 35-CV/BCSĐ ngày 06/5/2011 gửi Ban thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc đề nghị phối hợp triển khai Luật lý lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết thi hành, Công văn số 7093/BTP-BTNN ngày 16/11/2011 gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc đề nghị bố trí biên chế tại Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp để thực hiện công tác bồi thường nhà nước và Công văn số 3520/BTP-BTNN ngày 07/5/2012 gửi UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Bộ, cơ quan ngang Bộ về việc phối hợp thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường.

Đồng thời, theo quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND, Nghị định số 21/2010/NĐ-CP ngày 08/3/2010 của Chính phủ quy định về quản lý biên chế công chức thì việc xây dựng, thẩm định và phân bổ chỉ tiêu biên chế hành chính của địa phương thuộc trách nhiệm của UBND và HĐND cấp tỉnh. Do đó, Bộ Tư pháp đề nghị Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp cần chủ động, tích cực trong việc phối hợp với cơ quan có liên quan của địa phương xây dựng, lập kế hoạch biên chế cho triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao, trình UBND cùng cấp phê duyệt, bố trí thực hiện.

2. Biên soạn tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ tư pháp cấp phát miễn phí cho Tư pháp địa phương (UBND tỉnh Phú Yên).

Trả lời:

Triển khai thực hiện Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, từ năm 2011 Bộ Nội vụ đã cấp cho Bộ Tư pháp kinh phí để triển khai xây dựng 02 Bộ tài liệu Đào tạo, Bồi dưỡng công chức Tư pháp - Hộ tịch xã, thị trấn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khu vực đồng bằng và khu vực miền núi (02 Bộ tài liệu đã được Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt tại Quyết định số 455/QĐ-BTP ngày 19/3/2012). Năm 2012, Bộ Nội vụ tiếp tục cấp kinh phí cho Bộ Tư pháp để tổ chức các lớp bồi dưỡng và chuyển giao tài liệu cho các địa phương, cụ thể đã chuyển 02 bộ tài liệu nói trên kèm theo đĩa VCD cho 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Năm 2013, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục đề xuất với Bộ Nội vụ xem xét, cấp phát miễn phí tài liệu cho Tư pháp địa phương.

3. Đề nghị Bộ Tư pháp tham mưu giúp Chính phủ ban hành Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp; phối với Bộ Nội vụ sớm ban hành Thông tư liên tịch Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Tư pháp cấp xã thay thế Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV (UBND các tỉnh: Hưng Yên, Phú Thọ)

Trả lời:

Triển khai thực hiện Quyết định số 1992/QĐ-TTg, Bộ Tư pháp đã có Kế hoạch xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 93/2008/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV.

- Đối với Nghị định thay thế Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp (sau đây gọi là Nghị định thay thế Nghị định số 93/2008/NĐ-CP): hiện nay, Bộ Tư pháp đã xây dựng xong dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 93/2008/NĐ-CP và gửi Bộ Nội vụ thẩm định, trình Chính phủ ban hành Nghị định này (dự kiến trong tháng 01/2013).

- Đối với dự thảo Thông tư liên tịch thay thế Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV: Bộ Tư pháp đang phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng dự thảo Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV. Dự kiến sau khi Chính phủ ban hành các Nghị định thay thế Nghị định số 93/2008/NĐ-CP; Nghị định thay thế Nghị định 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04/12/2008 của Chính phủ Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Bộ Tư pháp sẽ khẩn trương phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch thay thế Thông tư số 01/2009/TTLT-BTP-BNV.

4. Nhóm các kiến nghị của địa phương về đào tạo, bồi dưỡng: Đề nghị Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức các hoạt động trao đổi nghiệp vụ; tăng cường tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp ở cơ sở, địa phương (UBND các tỉnh: Phú Yên, Phú Thọ, Gia Lai, Quảng Nam, thành phố Hồ Chí Minh, Sơn La, Quảng Ngãi).

Trả lời:

Căn cứ Khoản 2 Điều 1 Thông tư số 139/2010/TT-BTC ngày 21/9/2010 của Bộ Tài Chính quy định việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức quy định:

“a) Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức được bố trí trong dự toán ngân sách hàng năm của các Bộ, cơ quan trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ được sử dụng để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức thuộc phạm vi quản lý.

b) Đối với những đối tượng tuy không thuộc phạm vi quản lý nhưng theo yêu cầu của cấp có thẩm quyền phải được đào tạo, bồi dưỡng thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trung ương giao nhiệm vụ và giao kinh phí cho các cơ quan, đơn vị làm nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng thực hiện”.

Theo đó, kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức, viên chức ở địa phương đã được bố trí trong kinh phí đào tạo, bồi dưỡng của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng phân bổ cho các Bộ, ngành Trung ương hàng năm chỉ có thể chi đào tạo, bồi dưỡng cho các đối tượng không thuộc phạm vi quản lý trong các trường hợp đặc biệt theo yêu cầu của cấp có thẩm quyền. Thực tế trong thời gian qua, trên cơ sở huy động các nguồn vốn từ các đề án, dự án của Chính phủ, Bộ Tư pháp cũng đã tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ theo thẩm quyền cho công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã cho các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27/8/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo; theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”.

Tuy nhiên, để tăng cường cũng như tạo sự chủ động trong đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan Tư pháp ở địa phương, đề nghị Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ động xây dựng Kế hoạch và phối hợp với Sở Nội vụ báo cáo UBND cấp tỉnh xem xét, phân bổ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ công chức, viên chức các cơ quan Tư pháp ở địa phương. Trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình, Bộ Tư pháp cũng sẽ tiếp tục xem xét, hỗ trợ địa phương trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp ở cơ sở theo quy định.

5. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm triển khai các nội dung đã ký kết trong Chương trình phối hợp với tỉnh Sơn La về xây dựng Trường Trung cấp Luật Tây Bắc để đảm bảo tiến độ, kế hoạch đề ra (UBND tỉnh Sơn La)

Trả lời:

Trường Trung cấp Luật Tây Bắc được thành lập tháng 7/2012. Ngay sau khi Trường được thành lập, Bộ Tư pháp đã tiến hành các thủ tục bổ nhiệm Quyền Hiệu trưởng và đang khẩn trương kiện toàn đội ngũ cán bộ, viên chức cho Nhà trường sớm đi vào hoạt động.

Đến nay, Trường Trung cấp Luật Tây Bắc đang tích cực phối hợp với các đơn vị chức năng của Bộ Tư pháp, các đơn vị chức năng của tỉnh Sơn La, Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên để chuẩn bị các điều kiện xây dựng Trường và tổ chức tuyển sinh Khóa 1 theo tiến độ đề ra.

6. Về chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức: đề nghị Bộ Tư pháp kiến nghị với Chính phủ nghiên cứu sửa đổi Điều 7 và Khoản 10 Điều 8 Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức, nội dung cụ thể là: Việc quy định thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức của Sở Tư pháp ở các vị trí thực hiện các công việc như Hộ tịch, cấp Phiếu Lý lịch tư pháp,... (tại khoản 10, điều 8 Nghị định số 158/2007/NĐ-CP) khi đủ 36 tháng phải thực hiện chuyển đổi đang có nhiều bất cập, bởi số công chức này được biên chế tại Phòng Hành chính tư pháp, ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ trên còn được phân công phụ trách các lĩnh vực công tác đòi hỏi phải có kinh nghiệm, có nghiệp vụ về quản lý trách nhiệm bồi thường nhà nước, lý lịch tư pháp, nuôi con nuôi, quốc tịch..., khi thành thạo, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ thì lại đủ thời gian thực hiện chuyển đổi vị trí công tác, cơ quan phải bố trí công chức mới, dẫn đến kết quả công việc thấp, lúng túng, khó hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đề nghị kéo dài thời gian thực hiện chuyển đổi vị trí công tác từ 36 tháng như hiện nay thành 60 tháng (Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế).

Trả lời:

Thực hiện Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ Quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1277/QĐ-BTP ngày 09/7/2008 ban hành Danh mục các vị trí công tác phải thực hiện định kỳ chuyển đổi trong các lĩnh vực chuyên môn thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp và Kế hoạch 4018/KH-BTP ngày 09/12/2011 của Bộ Tư pháp thực hiện việc định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc Bộ Tư pháp. Hàng năm, các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp có các vị trí của cán bộ, công chức, viên chức thuộc danh mục phải định kỳ chuyển đổi vị trí công tác, nhìn chung thực hiện nghiêm túc việc chuyển đổi vị trí công tác. Đồng thời báo cáo Bộ Nội vụ về kết quả thực hiện chuyển đổi vị trí công tác để Bộ Nội vụ theo dõi, chỉ đạo. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ đã bộc lộ những bất cập, hạn chế, cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế đặt ra. Theo chương trình xây dựng pháp luật năm 2012, hiện nay Bộ Nội vụ đang phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến hành xây dựng Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ, do đó, ghi nhận ý kiến phản ánh của địa phương, Bộ Tư pháp sẽ xem xét và có ý kiến tham gia trong quá trình sửa đổi, bổ sung Nghị định số 158/2007/NĐ-CP. Tuy nhiên, trong khi Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 158/2007/NĐ-CP của Chính phủ chưa được ban hành, đề nghị Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế tiếp tục thực hiện nghiêm túc Nghị định số 158/2007/NĐ-CP.

7. Về luân chuyển cán bộ: đề nghị Bộ Tư pháp kiến nghị Chính phủ, Bộ Nội vụ quy định cụ thể về điều kiện, thời gian luân chuyển với chức danh lãnh đạo, quản lý trong cơ quan hành chính, sự nghiệp nhà nước, nhằm đảm bảo nguồn bố trí, sử dụng công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, đặc biệt là các đơn vị nhạy cảm, đề cao trách nhiệm và phòng ngừa tham nhũng (Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế).

Trả lời:

Luân chuyển cán bộ là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Để thực hiện chủ trương này, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy định về luân chuyển cán bộ như: Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 25/01/2002 của Bộ Chính trị về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý; Kết luận số 24-KL/TW ngày 05/6/2012 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo; Nhà nước cũng đã ban hành các văn bản quan trọng quy định về luân chuyển cán bộ như: Luật Cán bộ, công chức, Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và Quyết định số 27/2003/QĐ-TTg ngày 19/02/2003 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo. Đối với Bộ Tư pháp, ngày 28/11/2012, Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Nghị quyết số 152-NQ/BCS ngày 28/11/2012 về việc đẩy mạnh công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý của Bộ Tư pháp đến năm 2020 và những năm tiếp theo.

Quá trình triển khai thực hiện các quy định của Đảng và Nhà nước về luân chuyển cán bộ trong thực tiễn đã đặt ra vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện các quy định có liên quan để đẩy mạnh hơn nữa công tác luân chuyển cán bộ trong thời gian tới, vì vậy hiện nay Quyết định số 27/2003/QĐ-TTg ngày 19/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ đang được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Trong phạm vi trách nhiệm được giao của mình, Bộ Tư pháp đã có văn bản thẩm định đối với dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 27/2003/QĐ-TTg gửi Bộ Nội vụ, trong đó đề nghị dự thảo quy định rõ về đối tượng, thời gian và đặc biệt là chế độ, chính sách đối với cán bộ luân chuyển và phải coi luân chuyển cán bộ là một trong những nội dung quan trọng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

8. Đề nghị Bộ Tư pháp quan tâm tăng cường đào tạo các chức danh tư pháp để bố trí cán bộ và luân chuyển cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công tác chuyên môn (UBND tỉnh Sơn La).

Trả lời:

Cho đến năm 2012, Bộ Tư pháp (Học viện Tư pháp) chưa tổ chức lớp đào tạo nghiệp vụ nào riêng cho tỉnh Sơn La. Trong số các học viên theo học các khóa đào tạo nghiệp vụ tại Học viện như đào tạo nghiệp vụ thẩm phán, đào tạo nghiệp vụ luật sư và các chức danh tư pháp khác, cũng có học viên có địa chỉ ở Sơn La. Tuy nhiên học viên đó học xong có về làm việc tại Sơn La hay không thì không thuộc diện quản lý của Học viện. Năm 2013 và các năm tiếp theo, Bộ Tư pháp (Học viện Tư pháp) sẵn sàng xây dựng kế hoạch đào tạo để đáp ứng nhu cầu của địa phương nếu địa phương có văn bản đề xuất.

9. Đề nghị Bộ Tư pháp cần thường xuyên tổ chức các hoạt động trao đổi nghiệp vụ; tăng cường tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp ở cơ sở, địa phương, đặc biệt về các lĩnh vực: Xây dựng, thẩm định, theo dõi tình hình thi hành VBQPPL ... chú trọng một số lĩnh vực mới triển khai hoặc có nhiều khó khăn, vướng mắc như: công tác theo dõi thi hành pháp luật, công tác pháp chế để thống nhất nhận thức và phương pháp triển khai thực hiện trên cả nước; tiếp tục hướng dẫn, chỉ đạo các Vụ chuyên môn của Bộ, các địa phương tổ chức tập huấn nghiệp vụ lồng ghép các chuyên đề đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả (UBND các tỉnh: Phú Thọ, Gia Lai, Quảng Nam, thành phố Hồ Chí Minh, Sơn La, Quảng Ngãi, Bình Dương, Phú Yên, Bộ Công thương).

Trả lời:

Hàng năm, Bộ Tư pháp đều có các kế hoạch về tổ chức các hội nghị, tọa đàm, đặc biệt là định kỳ hàng quý, hàng năm tổ chức các Hội nghị sinh hoạt pháp chế Bộ, ngành, doanh nghiệp nhà nước và các buổi làm việc giữa lãnh đạo Bộ Tư pháp với lãnh đạo các Bộ, ngành, doanh nghiệp nhà nước về công tác pháp chế. Đây chính là cơ hội để cho các tổ chức pháp chế, đội ngũ những người làm công tác pháp chế gặp gỡ, trao đổi về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như các kỹ năng, kinh nghiệm tổ chức, hoạt động trên các lĩnh vực công tác pháp chế.

Hiện nay, Bộ Tư pháp đang triển khai xây dựng Kế hoạch và tổ chức thực hiện Đề án Quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành Tư pháp giai đoạn 2011 - 2015. Trên cơ sở quy hoạch cán bộ ngành Tư pháp đã được phê duyệt, các Sở Tư pháp có trách nhiệm chủ động xây dựng quy hoạch cán bộ tư pháp của địa phương và quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ này, trong đó tập trung vào xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ thạo việc; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng gắn với quy hoạch và trên cơ sở quy hoạch.

Giống như các cơ quan tư pháp địa phương, đối với các tổ chức pháp chế, Bộ Tư pháp có trách nhiệm xây dựng chương trình, tài liệu bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế ở các Bộ, ngành (mỗi đơn vị chuyên ngành chuẩn bị các nội dung cụ thể theo lĩnh vực được phân công). Về phía các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ: có trách nhiệm xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ những người làm công tác pháp chế trong phạm vi quản lý. Các Sở Tư pháp có trách nhiệm đề xuất kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ những người làm công tác pháp chế đáp ứng yêu cầu của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP).

10. Đề nghị Bộ Tư pháp kiến nghị Chính phủ tăng kinh phí cho công tác bồi dưỡng cán bộ (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội)

Trả lời:

Kinh phí đào tạo và bồi dưỡng công chức hàng năm của các Bộ, ngành và địa phương do Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét, phân bổ trên cơ sở đề xuất hàng năm của các Bộ, ngành và địa phương.

Vì vậy, kiến nghị Chính phủ tăng kinh phí cho công tác bồi dưỡng cán bộ sẽ do Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất, báo cáo Chính phủ xem xét, phê duyệt.

X. LĨNH VỰC KẾ HOẠCH - TÀI CHÍNH

1. Sớm sửa đổi Thông tư số 08/2011/TT-BTP ngày 05/4/2011: Về các kỳ báo cáo; thời hạn gửi báo cáo thống kê và thẩm quyền ký một số biểu mẫu, báo cáo chuyên đề, báo cáo sơ kết, tổng kết của Sở Tư pháp (UBND tỉnh Phú Thọ).

Trả lời:

Trước hết có thể khẳng định: việc ban hành các Thông tư hướng dẫn về công tác thống kê của Ngành Tư pháp, trong đó có Thông tư số 08/2011/TT-BTP hướng dẫn một số nội dung về công tác thống kê của Ngành Tư pháp là một trong những giải pháp quan trọng về mặt thể chế, nhằm tạo ra khung pháp lý cần thiết góp phần củng cố, nâng cao chất lượng công tác thống kê của Ngành.

Tuy nhiên, do phạm vi điều chỉnh của Thông tư này khá rộng, đối tượng áp dụng đa dạng, kèm theo một hệ thống biểu mẫu thống kê tương đối đồ sộ, nên nội dung Thông tư không tránh khỏi có những điểm bất cập, khó thực hiện trên thực tế. Sau khi triển khai thực hiện Thông tư đã có một số cơ quan, đơn vị, địa phương kiến nghị về việc sửa đổi Thông tư này cho phù hợp hơn với thực tế quản lý của Ngành nhất là phù hợp hơn với thực tế triển khai của đa số địa phương. Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã nghiên cứu, tiếp thu để hướng dẫn, giải đáp nghiệp vụ và trả lời những kiến nghị nói trên, đồng thời, nghiên cứu, sửa đổi Thông tư số 08/2011/TT-BTP trong năm 2013, theo hướng: phù hợp với những thay đổi về thể chế trong công tác tư pháp trong một năm qua, giảm bớt số lượng các biểu mẫu và đơn giản hóa hơn nội dung các biểu mẫu báo cáo thống kê, tạo thuận lợi cho các địa phương, cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện chế độ báo cáo thống kê của ngành Tư pháp; đồng thời phù hợp với thực tế công tác quản lý của Ngành.

Bộ Tư pháp giải thích rõ hơn về một số vấn đề mà các địa phương kiến nghị như sau:

- Về kỳ báo cáo thống kê: Thông tư số 08/2011/TT-BTP quy định báo cáo thống kê định kỳ được lập theo định kỳ sáu tháng và hàng năm:

- Đối với báo cáo thống kê 06 tháng, thời điểm lấy số liệu tính từ ngày 01 tháng 10 năm trước đến ngày 31 tháng 3 năm sau.

- Đối với báo cáo thống kê hàng năm, thời điểm lấy số liệu tính từ ngày 01 tháng 10 năm trước đến ngày 30 tháng 9 năm sau.

Thực tiễn hoạt động của Bộ, Ngành Tư pháp nhiều năm qua cho thấy, công tác báo cáo thống kê cơ bản theo hai kỳ 6 tháng, 1 năm và đều lấy số liệu báo cáo năm từ thời điểm 01/10 năm trước đến 30/9 năm sau. Khi ban hành Thông tư số 08/2011/TT-BTP, thời điểm lấy số liệu báo cáo vẫn được quy định như vậy nhằm đảm bảo yếu tố so sánh và đảm bảo thời gian tổng hợp số liệu của Bộ Tư pháp phục vụ báo cáo Chính phủ, Quốc hội, phục vụ công tác sơ kết, tổng kết Ngành hàng năm. Quy định như vậy về cơ bản là phù hợp với đặc thù nhiệm vụ và thực tiễn hoạt động của Ngành hiện nay. Bên cạnh đó, việc quy định chế độ báo cáo và thời điểm báo cáo thống kê theo kỳ hạn như trên cũng đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa các Thông tư quy định về công tác thống kê của Ngành Tư pháp (Thông tư 08/2011/TT-BTP và hai thông tư thống kê chuyên ngành trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý và THADS).

Tuy nhiên, các địa phương phản ánh hiện nay còn có sự khác nhau giữa quy định của Thông tư số 08/2011/TT-BTP và quy định báo cáo thống kê của địa phương về thời điểm chốt số liệu, gây khó khăn cho địa phương trong việc báo cáo thống kê.

Về vấn đề này, Bộ Tư pháp thấy rằng: Theo quy định của pháp luật thống kê hiện hành, thời điểm lấy số liệu báo cáo thống kê định kỳ (ở cấp Bộ, Ngành) thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, căn cứ vào yêu cầu quản lý đặc thù của từng Bộ, ngành, vấn đề này cũng chưa được Chính Phủ hướng dẫn, quy định nên còn chưa có sự thống nhất trong toàn quốc. Do vậy, thời điểm “chốt” số liệu thống kê tổng hợp để đánh giá tình hình quản lý kinh tế - xã hội giữa địa phương và Trung ương đương nhiên cũng chưa thống nhất được. Lý do chủ yếu xuất phát từ sự khác nhau về phạm vi quản lý, về yêu cầu đặc thù thực hiện nhiệm vụ chính trị theo chức năng, nhiệm vụ được giao đối với Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh.

Vấn đề xác định thời điểm lấy số liệu báo cáo là vấn đề quan trọng và phức tạp, cần được nghiên cứu, xem xét toàn diện thấu đáo. Bộ Tư pháp sẽ tham gia góp ý kiến với Bộ Kế hoạch và Đầu tư (cơ quan giúp Chính Phủ quản lý nhà nước về thống kê) nghiên cứu, kiến nghị Chính phủ có hướng dẫn cụ thể về thời điểm lấy số liệu báo cáo thống kê trên toàn quốc (theo hướng thống nhất), để các kết quả thống kê của các Bộ, ngành (trong đó có Bộ Tư pháp) vừa phục vụ đắc lực cho hoạt động hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô, đồng thời cũng góp phần tích cực phục vụ cho quá trình hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương.

- Về thời hạn gửi báo cáo thống kê: Trong từng biểu mẫu thống kê ban hành kèm theo Thông tư số 08/2011/TT-BTP đều có quy định cụ thể “ngày nhận báo cáo thống kê”. Quy định này vừa nhằm thực hiện đúng các quy định về chuyên môn thống kê, vừa để cơ quan thực hiện báo cáo biết thời gian đơn vị cấp trên phải nhận được báo cáo, từ đó chủ động thực hiện và gửi báo cáo thống kê đúng thời hạn. Tổng cộng thời gian báo cáo thống kê qua 3 cấp (xã, huyện, tỉnh) tối đa là 25 ngày. Riêng các báo cáo thống kê tổng hợp gửi đến Bộ Tư pháp (Vụ Kế hoạch - Tài chính) thì thời hạn nhận chậm nhất là 25 ngày kể từ ngày kết thúc kỳ thống kê.

Mặc dù trên 70% nội dung các biểu mẫu thống kê không mới và lâu nay vẫn thuộc trách nhiệm báo cáo định kỳ của các cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, Bộ Tư pháp cũng nhận thấy, do lĩnh vực thống kê về công tác tư pháp hiện nay còn nhiều yếu kém, kỷ luật báo cáo thống kê ở không ít cơ quan, đơn vị còn buông lỏng; đa số các bộ ngành, địa phương đều gặp khó khăn về biên chế, về trình độ cán bộ thống kê... Do đó, với số lượng không nhỏ báo cáo thống kê, đi kèm với những yêu cầu khá chặt chẽ về thời điểm gửi báo cáo như quy định hiện nay thì có thể sẽ gây khó khăn, lúng túng nhất định cho đơn vị thực hiện báo cáo.

Kiến nghị của các địa phương về vấn đề này, Bộ Tư pháp xin ghi nhận và sẽ tổ chức khảo sát, nghiên cứu để đưa ra những quy định về thời hạn gửi báo cáo thống kê phù hợp nhất khi sửa Thông tư số 08/2011/TT-BTP.

- Về thẩm quyền ký một số biểu mẫu thống kê của UBND cấp tỉnh: Bộ Tư pháp khẳng định: Thông tư 08/2011/TT-BTP quy định lãnh đạo UBND cấp tỉnh có trách nhiệm ký 05 biểu mẫu thống kê trong các lĩnh vực: tự kiểm tra VBQPPL, kiểm tra VBQPPL theo thẩm quyền, rà soát VBQPPL và bồi thường nhà nước là hướng dẫn đúng theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn, cụ thể như sau:

+ Khoản 1 Điều 36 Nghị định 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật quy định: định kỳ 6 tháng và hàng năm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm báo cáo Bộ Tư pháp về công tác kiểm tra văn bản.

+ Khoản 1 Điều 42 Nghị định 40/2010/NĐ-CP quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm rà soát các văn bản do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp mình ban hành để xây dựng Hệ cơ sở dữ liệu làm cơ sở pháp lý phục vụ cho việc kiểm tra, xử lý văn bản.

+ Khoản 2 Điều 11 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước quy định “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường; hàng năm, báo cáo Bộ Tư pháp về công tác bồi thường của địa phương mình”

+ Điểm d khoản 1 Điều 24 Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định trách nhiệm của UBND cấp tỉnh “Định kỳ sáu tháng và hàng năm thống kê, tổng kết, đánh giá việc thực hiện bồi thường trong phạm vi do mình quản lý, gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp, báo cáo Chính phủ”.

Vì vậy, đề nghị giám đốc các Sở Tư pháp trao đổi rõ với Lãnh đạo Văn Phòng Ủy ban để thống nhất cơ chế phối hợp nội bộ giữa các cơ quan tham mưu của Ủy ban trong việc trình Lãnh đạo UBND cấp tỉnh ký các báo cáo thống kê về công tác tư pháp nói trên theo đúng thẩm quyền và thời hạn quy định tại Thông tư số 08/2011/TT-BTP.

2. Đối với công tác báo cáo thống kê của Ngành: thời gian qua Bộ Tư pháp đã tổ chức tập huấn để triển khai Thông tư 08/2011/TT-BTP, tuy nhiên quá trình thực hiện có khó khăn vướng mắc cần tập huấn để tháo gỡ cho cán bộ tư pháp các cấp (UBND tỉnh Bình Dương).

Trả lời:

Sau khi ban hành Thông tư 08/2011/TT-BTP được 2 tháng, trong các tháng 6 - 7/2011, để kịp thời triển khai thực hiện Thông tư này trong phạm vi toàn quốc, bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng các quy định, Bộ Tư pháp đã tổ chức các lớp tập huấn triển khai Thông tư.

Đối tượng tập huấn trên 1000 người, gồm: đại diện lãnh đạo các Sở Tư pháp, một số cán bộ trực tiếp hoặc liên quan nhiều đến việc thực hiện nhiệm vụ thống kê ở Sở Tư pháp, các Phòng Tư pháp trong toàn quốc; một số cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã ở những nơi có số lượng thống kê lớn, đại diện cho các vùng miền trong phạm vi 30 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cán bộ làm công tác thống kê ở các tổ chức pháp chế Bộ, Ngành.

Tại các lớp tập huấn, các cán bộ tham dự đã được trang bị những kiến thức cơ bản về thống kê (định nghĩa thống kê, các thuật ngữ thống kê xét dưới khía cạnh pháp lý và những nội dung chủ yếu của Thông tư số 08/2011/TT-BTP (chế độ báo cáo thống kê cơ sở, chế độ báo cáo thống kê tổng hợp; vấn đề công bố, xử lý và quản lý thông tin thống kê...), về hệ thống biểu mẫu thống kê ban hành kèm theo Thông tư số 08/2011/TT-BTP. Trong đó các báo cáo viên tập trung giải thích một số biểu mẫu có nội dung mới hoặc phức tạp (về cách thức thu thập số liệu thống kê; phương pháp tính...).

Trong năm 2012, Bộ Tư pháp không tổ chức tập huấn về thống kê mà tập trung tổ chức biên soạn các cuốn Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ thống kê về công tác tư pháp (đã tổ chức một Hội thảo vào tháng 11-2012 tại Đồ Sơn để lấy ý kiến đóng góp của các địa phương vào Dự thảo Cuốn Sổ tay). Bộ Tư pháp dự kiến in và phát hành Sổ tay đến Sở Tư pháp trong quý I/2013. Nội dung Sổ tay không những tập trung hướng dẫn chi tiết các kỹ năng, nghiệp vụ thống kê theo nhóm lĩnh vực chuyên môn công tác tư pháp, mà còn dành một phần không nhỏ nội dung để giải đáp những câu hỏi, những vướng mắc về nghiệp vụ thống kê trong quá trình triển khai thực hiện Thông tư số 08/2011/TT-BTP.

Bên cạnh đó, trong năm 2012, Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp các tỉnh Thanh Hóa và Hà Giang đã phối hợp tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cán bộ tư pháp ở 2 địa phương này. Trong chương trình bồi dưỡng có nội dung bồi dưỡng nghiệp vụ về thống kê.

Vụ Kế hoạch - Tài chính (đơn vị trực tiếp giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý công tác thống kê của Bộ, Ngành Tư pháp) đều thường xuyên tổ chức nghiên cứu, giải đáp, dưỡng dẫn kịp thời đề nghị hướng dẫn, giải đáp vướng mắc về nghiệp vụ thống kê của các cơ quan, đơn vị trong Ngành

Bộ Tư pháp tiếp thu ý kiến của UBND tỉnh Bình Dương và các địa phương khác, từ năm 2013 trở đi sẽ chú trọng hơn nữa hoạt động tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác thống kê của các đơn vị thuộc Bộ. Đề nghị các Giám đốc Sở Tư pháp chủ động tham mưu Lãnh đạo Ủy ban quan tâm chỉ đạo các Sở ban ngành có liên quan phối hợp, tạo điều kiện cho Sở Tư pháp trong việc hướng dẫn nghiệp vụ thống kê công tác tư pháp cho cán bộ cấp huyện, xã trên địa bàn tỉnh.

3. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm xây dựng chương trình phần mềm về thống kê theo Thông tư 08/2011/TT-BTP để giải quyết được những khó khăn như đã nêu (UBND thành phố Hồ Chí Minh).

Trả lời:

Nhận thức rõ vai trò của công nghệ thông tin đối với hoạt động thống kê, Đề án Đổi mới công tác thống kê trong Ngành Tư pháp (phê duyệt năm 2010) đã đưa ra nhiều giải pháp, trong đó có giải pháp: Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động thống kê. Năm 2012, Bộ Tư pháp đã triển khai xây dựng Phần mềm theo dõi việc thực hiện chế độ báo cáo thống kê của Ngành Tư pháp theo quy định tại Thông tư 08/2011/TT-BTP.

Trong chờ xây dựng phần mềm ứng dụng vào hoạt động tổng hợp, xử lý số liệu thống kê áp dụng trong toàn quốc, trong năm 2012 Bộ Tư pháp cũng đã tổ chức nghiên cứu, xây dựng Đề án Áp dụng giải pháp tin học hỗ trợ việc tổng hợp số liệu thống kê trong ngành Tư pháp. Sản phẩm chính của Đề án này là hệ thống các biểu mẫu báo cáo thống kê ban hành theo Thông tư số 08/2011/TT-BTP được chuyển sang định dạng excel, lập và khóa công thức đối với từng biểu mẫu. Giải pháp ứng dụng tin học này sẽ giúp việc tổng hợp, xử lý số liệu thống kê ở các cơ quan, đơn vị được kịp thời, đầy đủ, chính xác hơn. Dự kiến sản phẩm ứng dụng tin học này sẽ được áp dụng thí điểm từ kỳ báo cáo công tác 6 tháng đầu năm 2013, trước khi triển khai áp dụng rộng rãi trong toàn quốc.

4. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm sửa đổi Thông tư số 08/2011/TT-BTP ngày 05/4/2011 về thẩm quyền ký báo cáo chuyên đề, báo cáo sơ kết, tổng kết của Sở Tư pháp (UBND tỉnh Phú Thọ).

Trả lời:

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp đã được xác định theo quy định tại Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 của Chính phủ, theo đó: “Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: công tác xây dựng và thi hành pháp luật; kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; hành chính tư pháp; bổ trợ tư pháp và các công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ”.

Khoản 3 và khoản 4 Điều 9 Quy chế làm việc của Chính phủ (ban hành kèm theo Nghị định số 08/2012/NĐ-CP ngày 16/02/2012 của Chính phủ) quy định:

“3. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện các nhiệm vụ công tác thuộc ngành, lĩnh vực mình phụ trách; quản lý chặt chẽ các đơn vị thuộc quyền đóng tại địa phương, kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh, xử lý các việc làm sai trái.

4. Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo, chuẩn bị nội dung, bố trí lịch làm việc, dự họp với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ khi được yêu cầu”.

- Điều 2, Luật Tổ chức HĐND và UBND các cấp quy định: “Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở”.

- Điều 1 Thông tư số 01/2009/TTLT-BTP-BNV ngày 28/4/2009 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc UBND cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện và Công tác Tư pháp của UBND cấp xã quy định:

“1. Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh), tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: công tác xây dựng và thi hành văn bản quy phạm pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; công chứng; chứng thực; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; trọng tài thương mại; hộ tịch; quốc tịch; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; trợ giúp pháp lý; giám định tư pháp; hòa giải ở cơ sở; bán đấu giá tài sản và công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

2. Sở Tư pháp có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Tư pháp”.

Như vậy, với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương, UBND có trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo với Bộ Tư pháp - cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác tư pháp theo quy định của pháp luật.

Trong thời gian qua, nhiều Sở Tư pháp đã thực hiện tốt chức năng tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh thực hiện chế độ báo cáo định kỳ gửi về Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, vẫn còn một số địa phương chưa thực sự quan tâm đến công tác tư pháp (thuộc chức năng quản lý nhà nước của UBND). Do vậy, Bộ Tư pháp đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục có sự quan tâm chỉ đạo hơn nữa đối với công tác tư pháp, đưa công tác tư pháp bám sát các nhiệm vụ chính trị - xã hội trên địa bàn, trong đó có việc quan tâm chỉ đạo Sở Tư pháp thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo về công tác theo định kỳ.

XI. LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

1. Nguồn kinh phí chi cho hoạt động công nghệ thông tin theo quy định còn hạn hẹp, do đó việc triển khai ứng dụng Công nghệ thông tin của Sở còn khó khăn; đề nghị Bộ Tư pháp có cơ chế hỗ trợ các địa phương phần mềm ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực hoạt động của Ngành như: quản lý hộ tịch, công chứng, giao dịch bảo đảm, lý lịch tư pháp, thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, xây dựng phần mềm thông tin trực tuyến về công tác thẩm định văn bản QPPL tại các địa phương trong cả nước (UBND thành phố Hải Phòng).

Trả lời:

- Các kiến nghị về các phần mềm ứng dụng CNTT trong các lĩnh vực của Ngành: Quản lý hộ tịch, công chứng, giao dịch bảo đảm, lý lịch tư pháp, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật: đã được đề cập đến trong Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Ngành Tư pháp giai đoạn 2011 - 2015 (đã được Bộ trưởng phê duyệt tại Quyết định số 2889/QĐ-BTP ngày 17/12/2010).

Sau khi các phần mềm được xây dựng, Bộ sẽ triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương theo như kế hoạch cho các Sở Tư pháp, hỗ trợ công tác quản lý hộ tịch, công chứng, giao dịch bảo đảm, lý lịch tư pháp, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Riêng với lĩnh vực giao dịch bảo đảm và công tác lý lịch tư pháp, Hệ thống đăng ký trực tuyến giao dịch bảo đảm và phần mềm Quản lý LLTP dùng chung cho các Sở Tư pháp đã được triển khai trên toàn quốc.

- Về phần mềm thông tin trực tuyến về công tác thẩm định văn bản QPPL tại các địa phương trong cả nước: theo Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015, Cục Công nghệ thông tin - Bộ Tư pháp được giao là chủ đầu tư thực hiện Dự án Phát triển Hệ thống thông tin văn bản quy phạm pháp luật thống nhất từ Trung ương tới các địa phương. Hệ thống được thiết kế bao gồm cả các chức năng hỗ trợ công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể: đối với mỗi dự thảo VBQPPL trình thẩm định sẽ được quản lý các thông tin sau:

- Cho phép cập nhật thông tin dự thảo VBQPPL

- Các bản dự thảo của một văn bản (Luật/Pháp lệnh/Nghị quyết/Nghị định/Quyết định)

- Bản tổng hợp các ý kiến góp ý cho các dự thảo

- Bản tiếp thu ý kiến đóng góp

- Văn bản thẩm định của dự thảo

- Tờ trình ban hành dự thảo

- Báo cáo đánh giá tác động

Dự kiến cuối năm 2013, các tính năng này của hệ thống sẽ được triển khai đưa vào hoạt động hỗ trợ cho công tác thẩm định VBQPPL của Bộ, ngành và địa phương.

2. Sớm triển khai phần mềm về đăng ký và quản lý hộ tịch, lý lịch tư pháp, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác báo cáo thống kê (UBND tỉnh Quảng Nam).

Trả lời:

- Về phần mềm Quản lý LLTP: hiện nay đã được đưa vào sử dụng, đề nghị UBND tỉnh Quảng Nam chỉ đạo Sở Tư pháp tiếp tục phối hợp với Cục Công nghệ thông tin thuộc Bộ Tư pháp trong việc sử dụng phần mềm.

- Về phần mềm về quản lý hộ tịch: nội dung này cũng đã được đưa vào Kế hoạch Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Ngành Tư pháp giai đoạn 2011 - 2015 (đã được Bộ trưởng phê duyệt tại Quyết định số 2889/QĐ-BTP ngày 17 tháng 12 năm 2010) và dự thảo Luật Hộ tịch

- Về ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác báo cáo thống kê: Ngày 14/6/2012, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1032/QĐ-BTP phê duyệt Kế hoạch của Ngành Tư pháp triển khai thực hiện Đề án Đổi mới đồng bộ các hệ thống chỉ tiêu thống kê theo Quyết định số 312/QĐ-TTg và Chiến lược phát triển thống kê Việt Nam giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trong Quyết định đã đề cập đến nội dung ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thống kê. Trong năm 2012, Cục CNTT đã phối hợp với Vụ Kế hoạch - Tài chính xây dựng phần mềm theo dõi việc thực hiện chế độ báo cáo thống kê của Ngành Tư pháp theo quy định tại Thông tư 08/2011/TT-BTP.

3. Hoàn thiện phần mềm quản lý lý lịch tư pháp thực hiện thống nhất trong toàn quốc (UBND tỉnh Hưng Yên).

Trả lời:

Hiện nay Bộ Tư pháp đã xây dựng và đưa phần mềm Quản lý LLTP dùng chung sử dụng thống nhất cho các Sở Tư pháp trên toàn quốc. Hầu hết các Sở đã tham gia sử dụng phần mềm. Qua trao đổi trực tiếp, Sở Tư pháp tỉnh Hưng Yên có kế hoạch sử dụng phần mềm này vào đầu Quý I/2013.

4. Về phần mềm lý lịch tư pháp: Thực hiện Công văn số 359/BTP-CNTT ngày 16/01/2012 của Bộ Tư pháp về việc triển khai thử nghiệm phần mềm quản lý Lý lịch tư pháp, Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế đã triển khai thực hiện tuy nhiên phần mềm này vẫn còn nhiều lỗi cần khắc phục, nâng cấp như sau:

+ Việc nhập tội danh, tòa xử theo phần mềm này là bắt buộc theo đầu vào của phần mềm nên khi nhập rất mất thời gian.

+ Mẫu danh sách án tích gửi Trung tâm LLTP quốc gia thiết kế chưa phù hợp nên rất mất thời gian chỉnh sửa lại khi in danh sách.

+ Trong phần án tích bắt buộc phải có ngày chấp hành bản án (được mặc định là kiểu dd/mm/yyyy) là chưa phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

+ Chưa có phần ghi án tích của đương sự (đối với những người đã có tiền án trước đây).

+ Mục “Ghi chú” trong phần án tích bị giới hạn ký tự. Nếu nội dung dài thì không thể ghi tiếp được.

Đề nghị Bộ Tư pháp khẩn trương chỉnh lý, nâng cấp đối với phiên bản phần mềm lý lịch tư pháp để phù hợp, thuận tiện hơn trong quá trình quản lý, sử dụng (Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế)

Trả lời:

Sau khi triển khai thử nghiệm, Bộ Tư pháp đã tập huấn về việc sử dụng phần mềm này cho các Sở Tư pháp. Trên cơ sở góp ý, phản hồi của các Sở, Bộ Tư pháp (Cục Công nghệ thông tin) đã chỉnh sửa lại phần mềm để phù hợp và thuận tiện hơn với thực tiễn hoạt động của các Sở Tư pháp.

XII. LĨNH VỰC DÂN SỰ - KINH TẾ

1. Bộ Tư pháp cần nghiên cứu đề xuất giao các nhiệm vụ mà Sở Tư pháp không có nghiệp vụ trực tiếp thực hiện (công tác quản lý nhà nước về hỗ trợ pháp lý Doanh nghiệp) về các cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý trực tiếp sẽ hợp lý hơn. Mặc dù thời gian qua Sở Tư pháp đã cố gắng triển khai thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước đối với nhiệm vụ này nhưng do không trực tiếp thực hiện nghiệp vụ mà phải phối hợp (ngay cả số liệu báo cáo cũng phải chờ sự phối hợp của các cơ quan thực hiện trong khi các cơ quan này không thuộc quyền quản lý của Sở Tư pháp) nên không chủ động được trong việc quản lý nhà nước về các mặt công tác nói trên và cũng thấy rằng chưa phù hợp với nguyên tắc quản lý nhà nước là không có sự chồng chéo, trùng lắp giữa các cơ quan chuyên môn với nhau (UBND tỉnh Sóc Trăng).

Trả lời:

Các nội dung liên quan đến công tác quản lý nhà nước về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp hiện nay được quy định tại Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ (viết tắt là Nghị định số 66), qua nghiên cứu, chúng tôi cho rằng các quy định tại Nghị định này hoàn toàn không có sự chồng chéo, trùng lắp giữa các cơ quan chuyên môn vì:

Thứ nhất, tại Khoản 1, 2 Điều 10 Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp quy định:

“1. Doanh nghiệp có quyền yêu cầu các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải đáp pháp luật trong phạm vi ngành, lĩnh vực do mình quản lý có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp.

2. Trong trường hợp việc giải đáp pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nêu tại khoản 1 Điều này chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp thì doanh nghiệp có quyền yêu cầu các Bộ có liên quan giải đáp”.

Như vậy, việc giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp thuộc trách nhiệm của từng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh (Ví dụ: các vấn đề liên quan tới thuế, hải quan, doanh nghiệp sẽ trực tiếp tham vấn ý kiến của Sở Tài chính; đối với lĩnh vực pháp luật cạnh tranh, chống bán phá giá, trách nhiệm thuộc Sở Công Thương,...). Vì vậy, không phải lĩnh vực nào Sở Tư pháp cũng chịu trách nhiệm trực tiếp trả lời doanh nghiệp, trong những trường hợp này, Sở Tư pháp hướng dẫn doanh nghiệp tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn khác. Ở đây, hoàn toàn không có sự chồng chéo về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc trả lời doanh nghiệp.

Thứ hai, tại Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 66 quy định về việc tiếp nhận kiến nghị của doanh nghiệp và hoàn thiện pháp luật:

“Tổ chức pháp chế thuộc Bộ, Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan giúp Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các nhiệm vụ quy định tại khoản 1 Điều này”.

Như vậy, chỉ duy nhất nhiệm vụ tiếp nhận kiến nghị của doanh nghiệp và hoàn thiện pháp luật là do Sở Tư pháp chủ trì thực hiện, quy định này hoàn toàn không có sự chồng chéo, trùng lắp giữa các cơ quan chuyên môn.

Vì vậy, Bộ Tư pháp cho rằng, kiến nghị của UBND tỉnh Sóc Trăng là không có cơ sở pháp lý.

2. Nghiên cứu, sửa đổi một số điều của Luật đất đai về quyền của người sử dụng đất cho rõ ràng, cụ thể, xác định rõ người sử dụng đất ở có được quyền chuyển đổi QSDĐ hay không (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Hiện nay, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đang được đưa ra trình Quốc hội khóa XIII xem xét, cho ý kiến, trong đó đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định nhằm làm rõ, cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.

Về vấn đề chuyển đổi quyền sử dụng đất, theo quy định tại Khoản 2, Điều 113, Luật Đất đai năm 2003 thì: “Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê có các quyền và nghĩa vụ sau: chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp trong cùng một xã, phường, thị trấn với hộ gia đình, cá nhân khác”. Như vậy, quyền chuyển đổi quyền sử dụng đất chỉ đặt ra đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp và việc chuyển đổi chỉ được thực hiện với hộ gia đình, cá nhân khác trong cùng một xã. Do đó, người sử dụng đất ở không có quyền chuyển đổi quyền sử dụng đất ở.

XIII. LĨNH VỰC BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC

1. Đề nghị sớm có văn bản hướng dẫn thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (UBND tỉnh Hưng Yên).

Trả lời:

Để bảo đảm sự kịp thời, thống nhất trong việc tổ chức triển khai thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước (TNBTCNN), ngày 06/10/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 1565/CT-TTg về triển khai thi hành Luật TNBTCNN yêu cầu các Bộ, ngành liên quan xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn thi hành Luật TNBTCNN. Đến nay, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành 08 văn bản, cụ thể:

- Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TNBTCNN;

- Thông tư liên tịch số 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP ngày 26/11/2010 của liên Bộ Tư pháp, Tài chính, Thanh tra Chính phủ hướng dẫn thực hiện TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính;

- Thông tư liên tịch số 18/2011/TTLT-BTP-BNV ngày 19/10/2011 của liên Bộ Tư pháp, Nội vụ hướng dẫn thực nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và biên chế của Sở Tư pháp thuộc UBND cấp tỉnh, phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện;

- Thông tư liên tịch số 24/2011/TTLT-BTP-BQP ngày 15/12/2011 của liên Bộ Tư pháp, Quốc phòng hướng dẫn thực hiện TNBTCNN trong hoạt động thi hành án dân sự;

- Thông tư liên tịch số 71/2012/TTLT-BTP-BTC ngày 09/5/2012 của liên Bộ Tài chính, Tư pháp quy định việc lập dự toán, quyết toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện TNBTCNN;

- Thông tư liên tịch số 01/2012/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 18/9/2012 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện TNBTCNN trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính;

- Thông tư số 55/2012/TT-BCA ngày 17/9/2012 của Bộ Công an quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong công an nhân dân;

- Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC-BNN&PTNT ngày 02/11/2012 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hướng dẫn thực hiện TNBTCNN trong hoạt động tố tụng hình sự.

Việc ban hành các văn bản này đã kịp thời hướng dẫn các quy định của Luật TNBTCNN, một mặt giúp cơ quan có trách nhiệm bồi thường và cơ quan quản lý nhà nước về công tác bồi thường thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ về bồi thường nhà nước, mặt khác, tạo điều kiện thuận lợi giúp người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình, đáp ứng yêu cầu đưa Luật TNBTCNN vào cuộc sống.

Bên cạnh việc ban hành các văn bản theo yêu cầu của Chỉ thị 1565/CT-TTg, Bộ Tư pháp và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đang xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường để bảo đảm tính khả thi của cơ chế bồi thường nhà nước (TTLT hướng dẫn thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động tố tụng; TTLT hướng dẫn thực hiện quản lý nhà nước về bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự; Thông tư hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính). Các văn bản này sẽ được trình Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành có liên quan ban hành vào thời gian tới.

2. Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm có văn bản hướng dẫn Điều 13 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước áp dụng trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).

Trả lời:

Về nội dung này, ngày 26/11/2010 liên Bộ Tư pháp, Tài chính và Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư liên tịch số 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP hướng dẫn thực hiện TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính đã hướng dẫn một số nội dung của Điều 13 Luật TNBTCNN. Trong quá trình thực hiện, Thông tư liên tịch số 19 đã bộc lộ một số nội dung cần sửa đổi, bổ sung và theo kế hoạch công tác năm 2012, liên Bộ Tư pháp, Tài chính, Thanh tra Chính phủ sẽ ban hành Thông tư liên tịch sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch 19/2010/TTLT-BTP-BTC-TTCP. Đến nay, công tác soạn thảo Thông tư liên tịch này đã hoàn thành, dự kiến Thông tư liên tịch sẽ được ban hành trong thời gian tới.

3. Đề nghị Bộ Tư pháp hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ cho pháp chế các Bộ, ngành để đội ngũ cán bộ pháp chế Bộ, ngành có đủ năng lực và chuyên môn về trách nhiệm bồi thường nhà nước (Bộ Y tế).

Trả lời:

Trong thời gian vừa qua, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng các văn bản tạo cơ sở pháp lý cho các Bộ, ngành và địa phương áp dụng. Bên cạnh đó, trong phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ quan, đơn vị của các Bộ, ngành đã phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc giải quyết một số vụ việc cụ thể về bồi thường nhà nước thông qua hình thức mời họp (ví dụ như trong hoạt động tố tụng: TANDTC đã mời Bộ Tư pháp trao đổi ý kiến về vụ việc yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với TAND tỉnh Hải Dương); Cục Bồi thường nhà nước đã phối hợp với Tổng cục Thi hành án dân sự trao đổi nghiệp vụ bồi thường trong nhiều vụ việc liên quan đến bồi thường trong thi hành án dân sự v.v.. Để hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương thực hiện phối hợp quản lý nhà nước về công tác bồi thường, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 3520/BTP-BTNN ngày 7/5/2012 hướng dẫn thực hiện công tác này.

Ngày 19/6/2012, Bộ Tư pháp đã tổ chức Hội nghị tập huấn bồi dưỡng kiến thức pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và nghiệp vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường cho hơn 80 đồng chí là cán bộ, công chức làm quản lý nhà nước về công tác bồi thường tại các tổ chức pháp chế Bộ, ngành trên địa bàn thành phố Hà Nội. Mặt khác, Bộ Tư pháp đã cử báo cáo viên giới thiệu về Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước và hướng dẫn cụ thể thủ tục giải quyết bồi thường theo đề nghị của một số cơ quan, đơn vị như: Bộ Thông tin và truyền thông, Bộ Y tế, Bộ Công thương v.v...

Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tăng cường công tác phối hợp với các Bộ, ngành trong hoạt động bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ bồi thường nhà nước cho cán bộ làm công tác pháp chế của Bộ, ngành. Khi các Bộ, ngành có nhu cầu bồi dưỡng, tăng cường kỹ năng nghiệp vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường, Bộ Tư pháp sẽ cử Lãnh đạo, công chức của Cục Bồi thường nhà nước trực tiếp phối hợp, tổ chức các lớp tập huấn cho Bộ, ngành đó hoặc chỉ đạo Cục Bồi thường nhà nước đưa vào chương trình công tác để thực hiện.

4. Kịp thời có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các nhiệm vụ trách nhiệm bồi thường của nhà nước để việc triển khai thực hiện đạt hiệu quả cao hơn (UBND tỉnh Phú Yên).

Trả lời:

Bộ Tư pháp đã giao cho Cục Bồi thường nhà nước hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết bồi thường nhà nước đối với các cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án. Theo thống kê từ tháng 3 đến tháng 11 năm 2012, Cục Bồi thường nhà nước tiến hành trả lời hơn 20 trường hợp yêu cầu hướng dẫn nghiệp vụ đối với các vụ việc phát sinh yêu cầu bồi thường của một số cơ quan, đơn vị trên cả nước trong lĩnh vực chủ yếu là hoạt động quản lý hành chính và thi hành án. Cục Bồi thường nhà nước đã trực tiếp cử cán bộ về địa phương nắm tình hình cụ thể, tăng cường phối hợp với cơ quan, đơn vị ở địa phương giải quyết dứt điểm các trường hợp phát sinh bồi thường nhà nước. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động tập huấn, tăng cường kĩ năng nghiệp vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường tại các địa phương, Cục Bồi thường nhà nước đã tổng hợp lại các khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng Luật TNBTCNN của các địa phương và báo cáo, xin ý kiến Lãnh đạo Bộ để nhằm đưa ra những giải pháp khắc phục. Vì vậy, khi có khó khăn trong quá trình thực hiện các áp dụng Luật TNBTCNN hoặc có các vụ việc phát sinh, cần giải quyết thuộc lĩnh vực bồi thường nhà nước, đề nghị các cơ quan, đơn vị gửi yêu cầu hướng dẫn về Cục Bồi thường nhà nước để nhận được sự hướng dẫn cụ thể.

5. Về đề nghị Bộ Tư pháp cần thường xuyên tổ chức tập huấn, đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế tại địa phương, đơn vị nhằm nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, chú trọng một số lĩnh vực mới như công tác quản lý nhà nước về TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính; đặc biệt chú trọng việc đổi mới hình thức, phương pháp nội dung tập huấn (Bộ Nội vụ, Bộ Công thương, Bộ Quốc phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bảo hiểm xã hội Việt Nam).

Trả lời:

- Đối với đề nghị Bộ Tư pháp cần thường xuyên tổ chức tập huấn, đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế tại địa phương, đơn vị nhằm nâng cao nghiệp vụ chuyên môn trong lĩnh vực mới như công tác quản lý nhà nước về TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính: Bộ Tư pháp đã tổ chức các buổi hội nghị tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường tại một số tỉnh, thành phố như (Khánh Hòa, Quảng Bình, Lạng Sơn, Hải Phòng, Yên Bái, Tây Ninh v.v... với gần 2000 lượt cán bộ pháp chế các sở, ngành của địa phương và một số tỉnh lân cận tham dự. Thông qua các buổi Hội nghị này, Bộ Tư pháp đã giới thiệu nội dung quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính theo quy định của Luật TNBTCNN và Nghị định số 16/2010/NĐ-CP; nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp trong việc tham mưu giúp UBND cấp tỉnh, cấp huyện về công tác bồi thường. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng giới thiệu nội dung dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn công tác phối hợp quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án. Việc kịp thời tổ chức các hội nghị tập huấn nghiệp vụ bồi thường nhà nước đã từng bước trang bị kiến thức pháp luật và kỹ năng thực hiện công tác bồi thường nhà nước cho đội ngũ cán bộ, công chức được giao thực hiện nhiệm vụ này. Tuy nhiên, bồi thường nhà nước là một lĩnh vực mới, phức tạp, yêu cầu phải áp dụng trình tự, thủ tục pháp luật chặt chẽ, thống nhất nên các địa phương đều kiến nghị cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về công tác bồi thường nhà nước để đáp ứng yêu cầu của thực tế. Căn cứ vào nhu cầu của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn cả nước gửi về Bộ Tư pháp, Bộ Tư pháp sẽ chỉ đạo Cục Bồi thường nhà nước thường xuyên tổ chức tập huấn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác bồi thường nhà nước cho các địa phương.

- Đối với đề nghị đổi mới hình thức, phương pháp nội dung tập huấn: sau mỗi lần tổ chức các hội nghị tập huấn tăng cường kỹ năng, nghiệp vụ quản lý, tọa đàm giải đáp vướng mắc pháp luật về TNBTCNN, Bộ Tư pháp đều tổ chức các cuộc họp rút kinh nghiệm cho các hoạt động tương tự sẽ diễn ra tại các địa phương khác. Nội dung chủ yếu tập trung vào chất lượng, hiệu quả của các buổi tập huấn, tọa đàm trong một số khâu như “hình thức tổ chức; nội dung tọa đàm, tập huấn; phương pháp thực hiện, công tác chuẩn bị tài liệu, bố trí cán bộ phụ trách, tiếp thu những nhận xét, đề nghị của cá nhân, tổ chức tham dự các buổi tọa đàm, tập huấn v.v..” để đạt được đầy đủ yêu cầu, mục tiêu như kế hoạch đã đề ra. Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu để đổi mới nội dung chương trình, thời gian tập huấn, bảo đảm phù hợp với từng đối tượng để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước cũng như giải quyết bồi thường trong từng hoạt động thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước.

6. Theo quy định tại khoản 2, Điều 1, Thông tư số 18/TT-BTP ngày 05/11/2011, công tác bồi thường nhà nước được giao cho Phòng Hành chính tư pháp thuộc Sở Tư pháp, trong quá trình hoạt động, Sở Tư pháp Bắc Giang nhận thấy việc giao này không phù hợp, Sở kiến nghị giao nhiệm vụ này cho Phòng Theo dõi thi hành pháp luật, Thanh tra thì phù hợp hơn (STP Bắc Ninh giao nhiệm vụ này cho Phòng Theo dõi thi hành pháp luật; STP Hưng Yên giao nhiệm vụ này cho Thanh tra) (Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang).

Trả lời:

Bộ Tư pháp ghi nhận kiến nghị của địa phương, trong thời gian tới nếu có chủ trương sửa đổi, bổ sung Thông tư nêu trên thì Bộ Tư pháp sẽ đưa vào nội dung nghiên cứu, sửa đổi.

XIV. LĨNH VỰC ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

1. Sửa đổi Thông tư liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT ngày 18/11/2011 của Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên và Môi trường theo hướng bỏ quy định về thời hạn đăng ký thế chấp (UBND tỉnh Quảng Ngãi).

Trả lời:

Thời hạn đăng ký thế chấp không quá năm (05) ngày kể từ ngày ký kết hợp đồng tín dụng được quy định tại Điều 130 Luật Đất đai năm 2003. Quá trình tổng kết thực tiễn cho thấy, quy định về thời hạn đăng ký thế chấp không phù hợp với thực tiễn ký kết, thực hiện hợp đồng bảo đảm của các tổ chức tín dụng, do đó Bộ Tư pháp cũng đã có văn bản kiến nghị bãi bỏ quy định này trong quá trình soạn thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Sau khi Luật Đất đai được Quốc hội thông qua, Bộ Tư pháp sẽ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát, sửa đổi Thông tư liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT, trong đó có việc bãi bỏ quy định về thời hạn đăng ký thế chấp để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và phù hợp với văn bản có giá trị pháp lý cao hơn.

2. Kịp thời có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ về giao dịch bảo đảm để việc triển khai thực hiện đạt hiệu quả cao hơn (UBND tỉnh Phú Yên).

Trả lời:

Triển khai Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 về đăng ký giao dịch bảo đảm (sau đây gọi là Nghị định số 83/2010/NĐ-CP), Bộ Tư pháp đã triển khai nhiều hoạt động quan trọng nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật về giao dịch bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm, ví dụ như: Tổ chức Hội nghị triển khai, phổ biến và quán triệt nội dung của Nghị định số 83/2010/NĐ-CP; ban hành văn bản chỉ đạo việc tổ chức triển khai Nghị định số 83/2010/NĐ-CP trong toàn quốc; ban hành các văn bản hướng dẫn Nghị định; chỉ đạo việc xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Sở Tư pháp, Sở Tài nguyên và Môi trường; tổ chức tuyên truyền, tập huấn; giải đáp vướng mắc về nghiệp vụ của tổ chức, cá nhân khi có yêu cầu; tổ chức nhiều Đoàn công tác liên ngành tiến hành kiểm tra công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất... Tuy nhiên, đây là lĩnh vực quản lý mới, phức tạp, trong khi chính sách, pháp luật vẫn chưa thực sự đồng bộ, do đó bên cạnh việc chỉ đạo của Bộ Tư pháp thì Sở Tư pháp cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như: bố trí cán bộ chuyên trách để kịp thời tham mưu, theo dõi công tác này tại địa phương; chủ động phối hợp với các Sở, ngành có liên quan (Sở Tài nguyên và Môi trường, Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước...) để triển khai các nhiệm vụ; thường xuyên phối hợp với đơn vị chuyên môn của Bộ Tư pháp (Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm) để thống nhất cách thức giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn... Ngoài ra, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ khẩn trương nghiên cứu, đề xuất việc ban hành Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 28/CT-TTg ngày 13/11/2012. Đồng thời, Bộ sẽ chỉ đạo Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm bám sát hơn nữa để kịp thời tham mưu, đề xuất các giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn trong lĩnh vực giao dịch bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm tại các địa phương.

3. Bộ Tư pháp cần nghiên cứu đề xuất giao nhiệm vụ mà Sở Tư pháp không có nghiệp vụ trực tiếp thực hiện (Công tác quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm) về các cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý trực tiếp sẽ hợp lý hơn. Mặc dù thời gian qua Sở Tư pháp đã cố gắng triển khai thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước đối với nhiệm vụ này nhưng do không trực tiếp thực hiện nghiệp vụ mà phải phối hợp (ngay cả số liệu báo cáo cũng phải chờ sự phối hợp của các cơ quan thực hiện trong khi các cơ quan này không thuộc quyền quản lý của Sở Tư pháp) nên không chủ động được trong việc quản lý nhà nước về các mặt công tác nói trên và cũng thấy rằng chưa phù hợp với nguyên tắc quản lý nhà nước là không có sự chồng chéo, trùng lắp giữa các cơ quan chuyên môn với nhau (UBND tỉnh Sóc Trăng).

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 46 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP thì Sở Tư pháp chịu trách nhiệm giúp UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm tại địa phương. Quy định nêu trên xuất phát từ bản chất của hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm là hoạt động mang tính hành chính - tư pháp, được thiết lập nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch, cũng như quyền lợi của người thứ ba trong sự ổn định và hài hòa các quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại. Ngoài ra, việc Nghị định số 83/2010/NĐ-CP giao Sở Tư pháp giúp UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước đối với công tác đăng ký giao dịch bảo đảm tại địa phương còn nhằm đảm bảo tính “xuyên suốt” trong chỉ đạo, điều hành từ Trung ương đến địa phương trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm.

Thực tế cho thấy, việc triển khai thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong hai (02) năm qua đã từng bước đi vào nề nếp và đạt được những kết quả quan trọng. Riêng đối với tỉnh Sóc Trăng, qua theo dõi cho thấy, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Nghị định; Quy chế phối hợp giữa các Sở, ban, ngành tại địa phương; trình HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết về phí, lệ phí; tổ chức đoàn kiểm tra liên ngành về công tác đăng ký tại địa phương; tổ chức hội nghị tuyên truyền, tập huấn. Do đó, nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp đề nghị Sở Tư pháp tỉnh Sóc Trăng tăng cường hơn nữa hoạt động kiểm tra, giám sát và tổ chức thực thi có hiệu quả pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh, trên cơ sở đó kịp thời kiến nghị với UBND tỉnh các giải pháp quyết liệt, khả thi.

XV. LĨNH VỰC HỢP TÁC QUỐC TẾ

1. Đề nghị Bộ Tư pháp quan tâm tạo điều kiện cho Lãnh đạo các Sở Tư pháp, UBND ở địa phương được tham dự các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức theo chương trình hợp tác pháp luật với nước ngoài của Bộ Tư pháp. Tạo điều kiện để các Sở Tư pháp địa phương được tham gia các đề tài, đề án, các nghiên cứu khoa học của Bộ thực hiện tại địa phương (UBND tỉnh Hưng Yên).

Trả lời:

- Về đề nghị tạo điều kiện để các Sở Tư pháp địa phương được tham gia các đề tài, đề án, các nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp thực hiện tại địa phương: trong những năm vừa qua, tùy theo nội dung, tính chất công việc cũng như mục tiêu, phạm vi nghiên cứu Bộ Tư pháp đã chủ động lập kế hoạch triển khai, phối hợp với các Sở, Ủy ban, trong đó có rất nhiều Sở Tư pháp, UBND các tỉnh, thành phố đã tham gia tổ chức về tập huấn điều tra, khảo sát như: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Lào Cai, Ninh Bình, Lạng Sơn, Hưng Yên...., cụ thể trong năm 2011, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Sở Tư pháp, UBND tỉnh Hưng Yên tổ chức tập huấn về “Chương trình triển khai các hoạt động tăng cường năng lực tham gia xây dựng pháp luật và kiểm tra VBQPPL về bảo vệ môi trường của cán bộ ngành Tư pháp”. Với đề xuất hiện tại của UBND tỉnh Hưng Yên, căn cứ vào định hướng nghiên cứu hàng năm và căn cứ vào nhiệm vụ công tác trọng tâm của Bộ, Bộ Tư pháp sẽ xây dựng kế hoạch nghiên cứu để các cơ quan, đơn vị đề xuất.

- Về đề nghị tạo điều kiện cho Lãnh đạo các Sở Tư pháp, UBND ở địa phương được tham dự các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức theo chương trình hợp tác pháp luật với nước ngoài: Bộ Tư pháp xin ghi nhận, trong năm 2013, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục cố gắng để đẩy mạnh hơn nữa vai trò điều phối các hoạt động hợp tác quốc tế trong phạm vi Bộ, ngành tư pháp; liên hệ hoặc hỗ trợ liên hệ với các đối tác để tìm kiếm cơ hội hợp tác cho các Sở Tư pháp địa phương. Tuy nhiên, các Sở Tư pháp cũng cần chủ động đề xuất nhu cầu với Bộ Tư pháp (thông qua Vụ Hợp tác quốc tế) để có cơ sở để trao đổi với các đối tác và điều phối các hoạt động đối ngoại.

2. Đề nghị Bộ Tư pháp hỗ trợ Lào Cai triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật với Trung Quốc trong lĩnh vực Luật sư và Công chứng (UBND tỉnh Lào Cai)

Trả lời:

Các Vụ chuyên môn của Bộ Tư pháp (Vụ Hợp tác quốc tế và Vụ Bổ trợ tư pháp) đã phối hợp rà soát, kết quả cho thấy hiện nay chưa có hoạt động hợp tác về tư pháp và pháp luật nào với Trung Quốc trong lĩnh vực luật sư và công chứng. Vì vậy, thời gian tới, trong các hoạt động hợp tác với Trung Quốc, Bộ Tư pháp sẽ cố gắng đưa các đề xuất hoạt động hợp tác trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật của tỉnh Lào Cai vào chương trình hợp tác chung của Bộ (nếu có).

Ngoài ra, đề nghị Sở Tư pháp tỉnh Lào Cai sẽ làm đầu mối tham mưu cho UBND tỉnh ký kết các thỏa thuận về hợp tác trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật nói chung cũng như lĩnh vực luật sư, công chứng nói riêng theo nhu cầu với UBND cấp tỉnh của Trung Quốc có chung đường biên giới với tỉnh Lào Cai.

XVI. LĨNH VỰC LÝ LỊCH TƯ PHÁP

1. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm ban hành Thông tư hướng dẫn về công tác lưu trữ, bảo vệ cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp để xây dựng kho lưu trữ thống nhất, hiện đại (UBND thành phố Hải Phòng).

Trả lời:

Năm 2012, trong quá trình xây dựng Dự thảo “Thông tư hướng dẫn quản lý, sử dụng và khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp” và Dự thảo “Thông tư hướng dẫn việc lưu trữ và bảo vệ cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp”, Bộ Tư pháp thấy rằng đưa các nội dung hướng dẫn về lưu trữ và bảo vệ cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp vào nội dung của Dự thảo “Thông tư hướng dẫn quản lý, sử dụng và khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp” để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hướng dẫn thi hành pháp luật. Dự kiến Thông tư sẽ được ban hành trong thời gian tới.

2. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp Bộ Công an có giải pháp trong việc bảo đảm thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp đối với những trường hợp công dân Việt Nam đã cư trú ở nhiều nơi hoặc có thời gian cư trú ở nước ngoài, người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam vì hiện nay đối với việc tra cứu, xác minh thông tin lý lịch tư pháp đối với các trường hợp này thường không bảo đảm thời gian theo quy định (Gia Lai có 32% Phiếu lý lịch tư pháp được cấp quá thời hạn; Theo Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế, thời hạn tra cứu, xác minh thông tin đối với những trường hợp nêu trên tại Phòng Hồ sơ nghiệp vụ Công an tỉnh thường kéo dài khoảng từ 25-30 ngày, có trường hợp kéo dài hơn 40 ngày). Bên cạnh đó, UBND tỉnh Quảng Ngãi cũng kiến nghị đối với kết quả trả lời xác minh của cơ quan Công an cấp tỉnh cần phải rõ ràng, đầy đủ và cụ thể về tình trạng án tích của đương sự để Sở Tư pháp có cơ sở cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho công dân (UBND các tỉnh: Gia Lai, Quảng Ngãi, Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế).

Trả lời:

Hiện nay, do cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp đang trong quá trình xây dựng, nên việc tra cứu thông tin lý lịch tư pháp phục vụ việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp (thường là đối với thông tin lý lịch tư pháp đã có từ trước ngày 01/7/2010 - Ngày Luật Lý lịch tư pháp có hiệu lực pháp luật), Sở Tư pháp, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia phải phối hợp với các cơ quan có liên quan: Công an, Tòa án, Viện kiểm sát... để tra cứu, xác minh thông tin lý lịch tư pháp. Do vậy, việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp nhiều khi chưa bảo đảm thời gian theo Luật định. Để có giải pháp kịp thời tháo gỡ vướng mắc này, ngày 30/11/2012, Bộ Tư pháp đã tổ chức cuộc họp liên ngành, trong đó, có trao đổi, thống nhất với đại diện cơ quan Công an về việc kịp thời có giải pháp xử lý hiệu quả nhằm bảo đảm thời gian tra cứu, xác minh thông tin lý lịch tư pháp, phục vụ việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho người dân đúng thời hạn Luật định. Hiện nay, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia dự kiến sẽ trao đổi, làm việc trực tiếp với Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát (C53), Bộ Công an để bàn giải pháp tháo gỡ vướng mắc này.

Về kiến nghị của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi liên quan đến kết quả trả lời xác minh của cơ quan Công an cấp tỉnh cần phải rõ ràng, đầy đủ và cụ thể về tình trạng án tích của đương sự để Sở Tư pháp có cơ sở cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho công dân. Theo mẫu thông báo kết quả xác minh thông tin lý lịch tư pháp (Mẫu số 04/TTLT-LLTP) ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp thì trong Phiếu thông báo kết quả xác minh, cơ quan Công an cần ghi rõ có hoặc không có án tích. Trường hợp có án tích thì ghi rõ các thông tin theo nội dung hướng dẫn trong biểu mẫu như số bản án; ngày, tháng, năm tuyên án; Tòa án tuyên án; tội danh - Điều khoản của Bộ luật Hình sự được áp dụng; hình phạt chính; hình phạt bổ sung (nếu có); tình trạng thi hành án. Tuy nhiên, hệ thống hồ sơ nghiệp vụ của ngành Công an được xây dựng với mục đích chủ yếu là phục vụ hoạt động điều tra, phá án của ngành Công an và một số mục đích khác. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, trong hệ thống hồ sơ này chỉ lưu trữ những thông tin về hành vi vi phạm pháp luật nhưng không có kết quả xử lý. Theo quy định của Nghị định số 111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Lý lịch tư pháp, Thông tư liên tịch số 04, trong trường hợp kết quả tra cứu thông tin lý lịch tư pháp của cơ quan Công an vẫn chưa đủ căn cứ để kết luận hoặc nội dung về tình trạng án tích của đương sự có điểm chưa rõ ràng, đầy đủ thì Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia hoặc Sở Tư pháp liên hệ với Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án hoặc Tòa án đã xét xử phúc thẩm vụ án liên quan đến đương sự để tra cứu hồ sơ, nhằm khẳng định người được cấp Phiếu lý lịch tư pháp có án tích hay không có án tích.

3. Bộ Tư pháp phối hợp với các Bộ, ngành liên quan chỉ đạo cụ thể đối với các cơ quan, đơn vị thuộc ngành quản lý trong công tác phối hợp tra cứu, xác minh, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp nhằm đưa công tác xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp được đầy đủ, kịp thời, chính xác phục vụ tốt việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức và công dân (UBND tỉnh Quảng Ngãi).

Trả lời:

Để từng bước đưa công tác lý lịch tư pháp đi vào nền nếp, Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã có Công văn số 35-CV/BCS ngày 06/5/2011 gửi Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc đề nghị phối hợp triển khai thực hiện Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết thi hành Luật. Theo Công văn này, Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đề nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm, phối hợp lãnh đạo, chỉ đạo các ngành có liên quan tăng cường phối hợp trong việc cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin lý lịch tư pháp theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp và Nghị định số 111/2010/NĐ-CP để bảo đảm xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại địa phương và phục vụ việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đặc biệt quan tâm thực hiện cung cấp trích lục bản án hình sự, bản sao bản án hình sự, các quyết định liên quan đến thi hành bản án hình sự từ Tòa án nhân dân cho Sở Tư pháp; chỉ đạo UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bố trí đủ số biên chế làm công tác lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp và bố trí kinh phí mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc, kinh phí cho hoạt động xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại địa phương, trong đó chú trọng việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin đối với việc xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.

Tiếp đó, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 3101/BTP-TTLLTPQG ngày 31/5/2011 gửi Tòa án nhân dân tối cao về việc đề nghị cơ quan này quan tâm chỉ đạo các Tòa án nhân dân địa phương cung cấp đầy đủ, kịp thời, thường xuyên các thông tin lý lịch tư pháp cho Sở Tư pháp. Ngày 26/7/2011, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 4311/BTP-TTLLTPQG gửi Bộ Công an về việc đề nghị Bộ Công an quan tâm, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan cung cấp thông tin lý lịch tư pháp cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp theo đúng quy định của Luật Lý lịch tư pháp, Luật Thi hành án hình sự và Nghị định số 111/2010/NĐ-CP; Công văn số 7104/BTP-TTLLTPQG ngày 31/8/2012 gửi Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về việc đề nghị các cơ quan này thông báo cho Bộ Tư pháp tình hình triển khai thực hiện Thông tư liên tịch số 04 trong phạm vi ngành của mình ở Trung ương và địa phương, đặc biệt là tình hình tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Trên cơ sở thông báo của các Bộ, ngành, ngày 30/11/2012, Bộ Tư pháp đã chủ trì tổ chức cuộc họp liên ngành với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng để trao đổi, đánh giá về những kết quả đã đạt được, trao đổi, bàn bạc để đưa ra các giải pháp tháo gỡ những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện và đề nghị các Bộ, ngành tới tiếp tục quan tâm, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc ngành mình từ trung ương đến địa phương trong toàn quốc theo chức năng, nhiệm vụ của mình thường xuyên phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trong việc phối hợp trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp cho Sở Tư pháp và Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia theo đúng quy định của Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật, đặc biệt là Thông tư liên tịch số 04.

4. Đề nghị không chuyển cơ quan Công an có ý kiến để cấp phiếu Lý lịch tư pháp đối với các trường hợp sau: Cán bộ, đảng viên đang làm việc trong các cơ quan nhà nước; Cán bộ mới nghỉ hưu, nghỉ chế độ nay tham gia tổ chức của các hội, đoàn thể; Trẻ em từ 14 đến 18 tuổi đang học ở các trường học (UBND tỉnh Tiền Giang)

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật Lý lịch tư pháp “Phiếu lý lịch tư pháp là phiếu do cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cấp có giá trị chứng minh cá nhân có hay không có án tích, bị cấm hay không bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản”.

Thủ tục giải quyết yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp được thực hiện theo các quy định cụ thể tại Chương IV Luật Lý lịch tư pháp, Chương III Nghị định số 111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Lý lịch tư pháp và Chương III Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp, theo đó, không có quy định cá biệt áp dụng đối với những đối tượng là cán bộ, đảng viên đang làm việc trong các cơ quan nhà nước; cán bộ mới nghỉ hưu, nghỉ chế độ nay tham gia tổ chức của các hội, đoàn thể khi cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp đối với những trường hợp này vẫn phải tuân thủ đúng theo các quy định của Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Riêng đối với trường hợp cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho người từ đủ 14 tuổi trở lên kể từ ngày 01/7/2010 (ngày Luật Lý lịch tư pháp có hiệu lực pháp luật), nếu người đó có một nơi thường trú duy nhất tại một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thì việc tra cứu thông tin để cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho người đó được thực hiện tại Sở Tư pháp nơi người đó thường trú (khoản 1 Điều 47 Luật Lý lịch tư pháp khoản 1 Điều 23 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT); trường hợp người đó đã cư trú ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thì việc tra cứu thông tin lý lịch tư pháp được thực hiện tại Sở Tư pháp nơi tiếp nhận yêu cầu và Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia (khoản 2 Điều 47 Luật Lý lịch tư pháp).

Để có cơ sở tra cứu thông tin án tích, các địa phương cần tăng cường việc xử lý thông tin lý lịch tư pháp, lập Lý lịch tư pháp, đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp.

5. Đề nghị Bộ Tư pháp mở các lớp tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở các địa phương, đặc biệt cán bộ, công chức làm công tác lý lịch tư pháp (UBND tỉnh Phú Yên).

Trả lời:

Bên cạnh công tác đào tạo, Bộ Tư pháp cũng chú trọng, quan tâm đến công tác bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ lý lịch tư pháp. Năm 2011, Bộ Tư pháp đã tổ chức 02 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ lý lịch tư pháp tại Hà Nội và Cần Thơ; Bộ Tư pháp sẽ tổ chức 02 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ lý lịch tư pháp cho công chức, viên chức làm công tác lý lịch tư pháp tại Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp: 01 lớp cho các tỉnh phía Bắc, 01 lớp cho các tỉnh phía Nam trong quý I/2013.

Việc tổ chức lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ làm công tác lý lịch tư pháp sẽ được thực hiện trong Quý I năm 2013.

6. Theo Thông tư số 174/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp Phiếu lý lịch tư pháp quy định: số tiền trích để lại cho cơ quan thu lệ phí cấp Phiếu lý lịch tư pháp được xác định là 100%, trong đó, cơ quan thu lệ phí trích chuyển 60% cho cơ quan hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát phối hợp trong công tác xác minh, tương ứng với số lượng hồ sơ yêu cầu xác minh đã được hoàn thành và 4% cho Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia. Việc quy định mức trích để lại theo Thông tư 174/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính là quá cao, không hợp lý, không đảm bảo cho Sở Tư pháp phục vụ công tác xây dựng, khai thác, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Đề nghị Bộ Tư pháp kiến nghị Bộ Tài chính sửa đổi mức lệ phí trích chuyển để phù hợp với thực tiễn giải quyết công việc của Sở Tư pháp (Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế).

Trả lời:

Hiện nay, do cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp đang trong quá trình xây dựng nên việc tra cứu thông tin lý lịch tư pháp phục vụ việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp (thường là đối với thông tin lý lịch tư pháp đã có từ trước ngày 01/7/2010, ngày Luật Lý lịch tư pháp có hiệu lực pháp luật), Sở Tư pháp, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia phải phối hợp với các cơ quan có liên quan: Công an, Tòa án, Viện kiểm sát... để tra cứu, xác minh thông tin lý lịch tư pháp. Do vậy, để bảo đảm bù đắp về việc tra cứu, xác minh thông tin lý lịch tư pháp có trước ngày 01/7/2010 do cơ quan Công an thực hiện, đồng thời, để hỗ trợ cho việc xây dựng, quản lý, vận hành và khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Thông tư số 174/2011/TT-BTC ngày 02/12/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp Phiếu lý lịch tư pháp quy định cụ thể Cơ quan thu lệ phí thực hiện trích chuyển cho cơ quan Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát phối hợp trong công tác xác minh 60% số tiền lệ phí được để lại, tương ứng với số lượng hồ sơ yêu cầu xác minh đã được hoàn thành. Sở Tư pháp các địa phương trích chuyển 4% số tiền lệ phí được để lại cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia để hỗ trợ cho việc xây dựng, quản lý, vận hành và khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia. Việc quy định như vậy là hoàn toàn phù hợp với các văn bản pháp luật có liên quan và điều kiện thực tế thực hiện công việc tại các cơ quan vì về nguyên tắc, lệ phí cấp Phiếu lý lịch tư pháp không phải là khoản lấy thu để bù chi. Khoản lệ phí được trích để lại chỉ là khoản kinh phí bù đắp một phần, hỗ trợ cho hoạt động trực tiếp liên quan đến hoạt động thu lệ phí. Khoản lệ phí được trích để lại không phải là khoản kinh phí để bảo đảm cho hoạt động xây dựng, quản lý, khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.

Bên cạnh đó, để thực hiện thống nhất quy định của Thông tư số 174/2011/TT-BTC, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 736/BTP-TTLLTPQG ngày 08/02/2012 gửi Giám đốc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc triển khai thực hiện Thông tư số 174/2011/TT-BTC , trong đó, Bộ Tư pháp có lưu ý các Sở Tư pháp đối với phần lệ phí được trích để lại sau khi đã thực hiện trích chuyển theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Thông tư số 174/2011/TT-BTC được sử dụng để trang trải chi phí cho công tác thu lệ phí theo quy định tại khoản 8 Thông tư số 45/2006/TT-BTC ngày 25/5/2006 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung Thông tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/7/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật về phí và lệ phí. Do tính chất đặc thù của công tác lý lịch tư pháp, đề nghị các Sở Tư pháp quan tâm, dành một phần lệ phí được trích lại để hỗ trợ chi phí cho việc xây dựng, quản lý, vận hành và khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp.

7. Về Đề án lý lịch tư pháp: Theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành thì lưu trữ thông tin lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp được thực hiện theo nguyên tắc cá thể hóa dữ liệu lý lịch tư pháp của từng cá nhân, tức là sắp xếp toàn bộ thông tin lý lịch tư pháp của mỗi cá nhân riêng biệt để tránh nhầm lẫn thông tin lý lịch tư pháp của người này với người kia. Để thực hiện vấn đề này đòi hỏi phải có kho lưu trữ hồ sơ lý lịch tư pháp riêng để đảm bảo nguyên tắc quản lý, khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và được đầu tư trang thiết bị, phương tiện làm việc như: bàn, ghế, tủ hồ sơ chuyên dụng, máy tính cá nhân, máy in, máy chủ, các thiết bị mạng, máy fax, máy photocopy,... Đề nghị Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính có Thông tư hướng dẫn việc quản lý, sử dụng và khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, để Sở Tư pháp thực hiện tốt Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Lý lịch tư pháp của Chính phủ (Sở Tư pháp tỉnh Thừa Thiên Huế).

Trả lời:

Theo Kế hoạch công tác năm 2012, Bộ Tư pháp sẽ ban hành “Thông tư hướng dẫn quản lý, sử dụng và khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp”. Đồng thời Bộ Tư pháp đã bước đầu xây dựng Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia lý lịch tư pháp, trong đó có xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp bằng văn bản giấy và dữ liệu lý lịch tư pháp điện tử. Các vấn đề liên quan đến giải pháp đầu tư kho lưu trữ, cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị, phương tiện làm việc để xây dựng hồ sơ lý lịch tư pháp bằng giấy dự kiến sẽ được nghiên cứu, đề xuất trong dự thảo Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia lý lịch tư pháp và một phần được quy định trong Thông tư hướng dẫn quản lý, sử dụng và khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.

XVII. LĨNH VỰC VĂN PHÒNG

Đề nghị rà soát và cụ thể hóa những nội dung báo cáo công tác tư pháp đối với cấp hành chính, phân định phù hợp chức năng quản lý nhà nước của UBND tỉnh với việc báo cáo thực hiện chức năng, nhiệm vụ chuyên ngành của Sở Tư pháp với Bộ Tư pháp; trong đó có thời điểm báo cáo (UBND tỉnh Quảng Nam); đề nghị Bộ Tư pháp thống nhất hệ thống báo cáo để tránh tình trạng một nội dung phải thực hiện báo cáo nhiều đơn vị của Bộ Tư pháp (Bộ Y tế).

Trả lời:

- Về phân định thẩm quyền báo cáo giữa UBND và Sở Tư pháp: Thực hiện Điều 9 Quy chế làm việc của Chính phủ (ban hành kèm theo Nghị định số 08/2012/NĐ-CP ngày 16/02/2012 của Chính phủ) và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị toàn quốc triển khai công tác tư pháp năm 2013: “Công tác tư pháp là của chính quyền địa phương”, định kỳ 6 tháng và hàng năm Bộ Tư pháp đều có Công văn gửi UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc báo cáo công tác tư pháp, đồng thời có Đề cương hướng dẫn việc báo cáo gửi kèm theo, trong đó đã rà soát và cụ thể hóa những nội dung liên quan đến lĩnh vực tư pháp thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp tỉnh theo quy định tại Điều 94 Luật Tổ chức HĐND và UBND các cấp.

Bên cạnh đó, thực hiện Thông tư số 08/2011/TT-BTP ngày 05/4/2011 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số nội dung về công tác thống kê của Ngành Tư pháp, Bộ Tư pháp cũng đã đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chế độ báo cáo thống kê đối với các lĩnh vực quản lý nhà nước về công tác tư pháp thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

- Về thời điểm báo cáo: Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Bộ, Ngành, định kỳ 6 tháng và hàng năm Bộ Tư pháp đều có Công văn đề nghị các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện báo cáo về kết quả công tác pháp chế, đồng thời có hướng dẫn cụ thể về các nội dung báo cáo.

Theo quy định tại Điều 11 Quy chế làm việc của Chính phủ, trước ngày 30 tháng 11 hàng năm, các Bộ, cơ quan gửi Văn phòng Chính phủ Báo cáo kiểm điểm chỉ đạo điều hành của Bộ, ngành mình và danh mục những đề án cần trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong năm sau; đồng thời theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Thông tư số 08/2011/TT-BTP thì thời điểm lấy số liệu đối với báo cáo 6 tháng được tính từ ngày 01/10 năm trước đến 31/3 năm sau và thời điểm lấy số liệu đối với báo cáo năm được tính từ ngày 01/10 năm trước đến ngày 30/9 năm sau, do vậy, thời điểm Bộ Tư pháp yêu cầu báo cáo và lấy số liệu đều phù hợp với các quy định nêu trên.

Ngoài các yêu cầu báo cáo theo định kỳ, Bộ Tư pháp còn đề nghị các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện việc báo cáo đột xuất về các nội dung theo quy định.

Do Bộ Tư pháp quản lý đa ngành, đa lĩnh vực nên có nhiều loại báo cáo. Bộ Tư pháp đang nghiên cứu kết hợp các loại báo cáo có thể để đơn giản hóa thủ tục hành chính. Đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo sát sao công tác báo cáo, thống kê.

Việc đề nghị các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ báo cáo thuộc thẩm quyền của Bộ Tư pháp, các đơn vị chuyên môn của Bộ Tư pháp không có thẩm quyền trên hoặc chỉ được đề nghị các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ báo cáo nếu được thừa lệnh của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Do vậy, đối với kiến nghị của Quý cơ quan, Bộ Tư pháp sẽ thực hiện việc rà soát đồng thời có văn bản chấn chỉnh các đơn vị thuộc Bộ trong việc ban hành các văn bản, giấy tờ hành chính liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Bộ, Ngành./.

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Công văn 724/BTP-VP năm 2013 trả lời kiến nghị của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ Tư pháp ban hành

  • Số hiệu: 724/BTP-VP
  • Loại văn bản: Công văn
  • Ngày ban hành: 25/01/2013
  • Nơi ban hành: Bộ Tư pháp
  • Người ký: Hoàng Thế Liên
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 25/01/2013
  • Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực
Tải văn bản