
Thuật ngữ pháp lý
Đang xem kết quả 151 đến 180 trong tổng số 191 thuật ngữ
LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP NĂM 1997
Đạo luật quy định chế độ thu thuế đối với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập, được Quốc hội Khóa IX, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10.5.1997, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.1999.
Luật được ban hành nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển và động viên một phần thu nhập vào ngân sách, bảo đảm sự đóng góp công bằng, hợp lý giữa các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa các tổ chức, cá nhân trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất, kinh doanh dịch vụ có thu nhập.
Phạm vi điều chỉnh của Luật là quan hệ thu, nộp thuế giữa Nhà nước với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập.
Cùng với việc ban hành các luật thuế để tiếp tục thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 4 năm 1989 về cải cách chế độ thu ngân sách nhà nước, ngày 30.8.1990 Luật thuế lợi tức được ban hành và được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 1993. Luật thuế lợi tức năm 1990 đã phát huy vai trò là công cụ thu ngân sách nhà nước, nhất thể hóa chế độ thu thuế lợi tức áp dụng chung cho các cơ sở kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, Luật này bộc lộ một số hạn chế cơ bản như tên thuế lợi tức theo quy định của Luật này không phản ánh được tính chất của nguồn tài chính là nhiều hình thức thu nhập của các cơ sở sản xuất, kinh doanh cần được đánh thuế; các bậc thuế suất theo quy định của Luật thuế lợi tức có sự phân biệt với khoảng cách lớn so với các bậc thuế lợi tức áp dụng đối với doanh nghiệp thuộc diện nộp thuế lợi tức được quy định trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997 được ban hành là một bước phát triển quan trọng trong việc thực hiện chính sách công bằng, hợp lý đối với nguồn thu ngân sách nhà nước từ thu nhập của các cơ sở kinh doanh. Luật gồm Lời nói đầu, 8 chương với 34 điều và có những nội dung cơ bản sau: 1) Quy định đối tượng nộp thuế, đối tượng không thuộc diện nộp thuế; các nguyên tắc thu, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp; 2) Quy định các loại thu nhập chịu thuế, cách xác định thu nhập chịu thuế, các mức thuế suất thu thuế thu nhập doanh nghiệp; 3) Quy định về kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế; miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; 4) Quy định về khen thưởng, xử lý vi phạm; khiếu nại, thời hiệu giải quyết khiếu nại về thuế thu nhập doanh nghiệp.
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997 đặt cơ sở pháp lý quan trọng cho việc chấm dứt sự phân biệt trong việc thu thuế thu nhập giữa các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong nước và nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Qua 6 năm thi hành, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997 đã được tổng kết, xem xét các mặt được và chưa được, thực tế cho thấy, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997 đã có nhiều vấn đề về kỹ thuật lập pháp, các chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp cần được sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản và xây dựng thành một Luật mới thay thế. Ngày 17.6.2003, Quốc hội Khóa XI kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.2004
LUẬT THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT NĂM 1990
Đạo luật quy định chế độ thu thuế đối với tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hóa thuộc danh mục chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, được Quốc hội Khóa VIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 30.6.1990, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.10.1990.
Mục tiêu của việc ban hành Luật là nhằm điều tiết sản xuất, tiêu dùng và thu nhập của người tiêu dùng đối với một số hàng hóa, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Phạm vi điều chỉnh của Luật là quan hệ thu, nộp thuế giữa Nhà nước với các đối tượng nộp thuế là các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế sản xuất hàng hóa thuộc danh mục chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Ở Việt Nam, trước khi có Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990, Nhà nước thu thuế hàng hóa (tương tự thuế tiêu thụ đặc biệt) nhưng chỉ áp dụng đối với thành phần kinh tế tập thể và cá thể. Việc cải cách chế độ thu ngân sách nhà nước trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội Khóa VIII, kỳ họp thứ 4 năm 1989, thực hiện theo nguyên tắc là thuế áp dụng thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế đã đặt ra yêu cầu bảo đảm sự bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế. Thực hiện nguyên tắc đó, Luật này là văn bản luật đầu tiên quy định thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với tất cả các thành phần kinh tế. Luật gồm Lời nói đầu, 8 chương với 34 điều và có những nội dung cơ bản như sau: 1) Quy định tổ chức, cá nhân là đối tượng nộp thuế tiêu thụ đặc biệt; nguyên tắc thu thuế tiêu thụ đặc biệt; 2) Quy định danh mục hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (thuốc lá, rượu bia các loại, pháo, bài lá, vàng mã); 3) Quy định căn cứ tính thuế tiêu thụ đặc biệt; 4) Quy định giảm, miễn thuế tiêu thụ đặc biệt; 5) Quy định xử lý vi phạm, khen thưởng, khiếu nại liên quan đến thu, nộp thuế tiêu thụ đặc biệt.
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990 có một số hạn chế cơ bản sau: diện hàng hóa chịu thuế chỉ bao gồm hàng hóa sản xuất trong nước, không thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hoạt động cung ứng dịch vụ; danh mục hàng hóa chịu thuế còn ít, chưa phản ánh đúng nhu cầu điều tiết sản xuất, tiêu dùng của xã hội.
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt được ban hành đã quy định một phương thức thu nộp thuế mới, đối với xã hội Việt Nam đang chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang một nền kinh tế thị trường có những quy định chưa thật chặt chẽ. Cũng vì vậy, để bảo đảm tính khả thi, tính hiệu quả của các quy định của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thuế tiêu thụ đặc biệt vào năm 1993 và năm 1995, ngày 20.8.1998 Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 3 sửa đổi, bổ sung, ban hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1998, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.1999 và năm 2003, Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 3, ngày 17.6.2003 ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1998 đảm bảo để các quy định pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt kịp thời đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực nộp và thu thuế tiêu thụ đặc biệt, bảo đảm được nguồn thu của ngân sách nhà nước. Đồng thời, khuyến khích được các đối tượng nộp thuế ngày càng phải đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ đóng thuế với Nhà nước.
LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU NĂM 1991
Đạo luật quy định thu thuế đối với tổ chức, cá nhân có hàng hóa được phép xuất khẩu, nhập khẩu khi thực hiện xuất, nhập khẩu, được Quốc hội Khóa VIII, kỳ họp thứ 10, thông qua ngày 26.12.1991, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.3.1992.
Mục tiêu của việc ban hành Luật là nhằm quản lý các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại; góp phần phát triển và bảo vệ sản xuất, định hướng tiêu dùng trong nước; tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Phạm vi điều chỉnh của Luật là quan hệ thu, nộp thuế giữa Nhà nước với tổ chức, cá nhân có hàng hóa được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, kể cả hàng hóa từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước, khi thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu.
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước thực hiện độc quyền ngoại thương nên chỉ có các tổ chức của Nhà nước mới được phép xuất, nhập khẩu hàng hóa và phải thực hiện nghĩa vụ bằng một khoản nộp gọi là chênh lệch ngoại thương. Đạo luật đầu tiên quy định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch được Quốc hội thông qua ngày 29.12.1987. Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch năm 1987 chỉ quy định thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng mậu dịch nên có sự phân biệt giữa hàng hóa xuất, nhập khẩu theo các hợp đồng ngoại thương và các loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu khác.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991 quy định việc thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không phân biệt hàng hóa xuất, nhập khẩu mậu dịch hay phi mậu dịch, áp dụng đối với mọi thành phần kinh tế. Luật gồm Lời nói đầu, 7 chương với 25 điều và có những nội dung cơ bản như sau: 1) Quy định đối tượng nộp thuế, hàng hóa thuộc diện chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; hàng hóa xuất, nhập khẩu được áp dụng miễn nộp thuế theo điều ước quốc tế; 2) Quy định căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; 3) Quy định miễn, giảm thuế, hoàn lại thuế xuất, nhập khẩu; 4) Quy định về xử lý vi phạm Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991 là văn bản luật thể chế hóa những yêu cầu cơ bản chính sách của Nhà nước trong việc phát triển xuất, nhập khẩu trong giai đoạn đầu của thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường hướng tới hội nhập quốc tế. Để kịp thời bổ sung, sửa đổi, thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Nhà nước trong quá trình xây dựng nền kinh tế mở, trong điều kiện hội nhập, toàn cầu hóa, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991 đã qua một số lần sửa đổi, bổ sung một số điều. Lần thứ nhất bằng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991 được Quốc hội Khóa IX, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 05.7.1993 và lần thứ hai bằng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991 được Quốc hội Khóa X, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20.5.1998.
LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 1997
Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các hành vi thương mại, xác định địa vị pháp lý của thương nhân và quy định những nguyên tắc, chuẩn mực trong hoạt động thương mại tại Việt Nam.
Luật thương mại được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa IX, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 10.5.1997, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.1998, là cơ sở pháp lý để phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ thương mại, mở rộng giao lưu thương mại với nước ngoài; góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất, người tiêu dùng và lợi ích hợp pháp của thương nhân; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại Việt Nam là các hoạt động thương mại mà chủ thể là thương nhân. Song hoạt động thương mại theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại gắn liền với hoạt động mua bán hàng hóa (gồm 14 hành vi: mua bán hàng hóa; đại diện cho thương nhân; môi giới thương mại; Ủy thác mua bán hàng hóa; đại lý mua bán hàng hóa; gia công trong thương mại; đấu giá hàng hóa; đấu thầu hàng hóa; dịch vụ giao nhận hàng hóa; dịch vụ giám định hàng hóa; khuyến mại; quảng cáo; trưng bày, giới thiệu hàng hóa; hội chợ, triển lãm thương mại. Đối tượng hàng hóa trong hoạt động thương mại mà Luật thương mại quy định cũng được giới hạn chủ yếu là các động sản như máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng và các động sản khác được phép lưu thông trên thị trường, thêm nữa là nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua, bán, còn các đối tượng hàng hóa là bất động sản (không phải nhà ở), các quyền về tài sản như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các tài sản là quyền sở hữu trí tuệ... cùng các hoạt động thương mại khác như: thương mại hàng hải; dịch vụ hàng không; dịch vụ bưu chính - viễn thông; dịch vụ ngân hàng; dịch vụ bảo hiểm; các dịch vụ tài chính, thuê, mua tài chính... thì không thuộc đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại Việt Nam năm 1997. Xét về phạm vi điều chỉnh, ngoài việc xác định quy chế thương nhân, điều chỉnh một số hoạt động thương mại do thương nhân thực hiện, Luật thương mại Việt Nam còn quy định những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại và chính sách thương mại của Nhà nước.
Hiến pháp năm 1992 ra đời, thừa nhận cùng với hai thành phần kinh tế chủ đạo là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, sự tồn tại của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, thừa nhận và bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của công dân về tư liệu sản xuất, vốn và các tài sản khác, ghi nhận quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng của các chủ thể kinh doanh trước pháp luật đã làm cho các quan hệ sản xuất, kinh doanh có sự biến đổi sâu sắc cả về chất và lượng. Trong bối cảnh đó, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua và ban hành Luật thương mại.
Về bố cục và nội dung cơ bản, Luật thương mại Việt Nam gồm Lời nói đầu và 6 chương với 264 điều. Mỗi chương, điều đều có tên gọi phản ánh nội dung chính của chương và điều luật đó. Chương I (4 mục với 44 điều) là những quy định chung về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại và chính sách thương mại của Nhà nước Việt Nam, quy định về quy chế thương nhân trong nước, thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam. Chương II (15 mục với 174 điều) quy định về hoạt động thương mại bao gồm 14 loại hành vi thương mại; nội dung thực hiện các hành vi đó; quyền và nghĩa vụ của các bên trong các quan hệ mua bán hàng hóa; đại diện cho thương nhân; môi giới thương mại; Ủy thác mua bán hàng hóa; đại lý mua bán hàng hóa; gia công trong thương mại; đấu giá hàng hóa; đấu thầu hàng hóa; dịch vụ giao nhận hàng hóa; dịch vụ giám định hàng hóa; khuyến mại; quảng cáo thương mại; trưng bày, giới thiệu hàng hóa; hội chợ, triển lãm thương mại. Chương III (3 điều) quy định về thương phiếu - là một loại chứng chỉ (hối phiếu và lệnh phiếu) mà thương nhân được sử dụng để thanh toán trong hoạt động thương mại. Chương IV (2 mục với 22 điều) quy định các chế tài trong thương mại và việc giải quyết tranh chấp trong thương mại. Chương V (3 mục với 19 điều) quy định về quản lý nhà nước về thương mại, trong đó quy định nội dung quản lý nhà nước về thương mại; thanh tra thương mại; khen thưởng và xử lý vi phạm. Chương VI gồm 2 điều quy định điều khoản thi hành.
Ngày 14.6.2005 tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội Khóa XI đã thông qua Luật thương mại mới thay thế Luật thương mại năm 1997 và có hiệu lực từ ngày 01.01. 2006.
LUẬT TỔ CHỨC CHÍNH PHỦ NĂM 2001
Đạo luật quy định tổ chức và hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, đồng thời quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng, các Thứ trưởng được Quốc hội Khóa X, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25.12.2001.
Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ lần đầu tiên được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Khóa II, kỳ họp thứ nhất thông qua ngày 14.7.1960. Văn bản này đã thể chế hóa các quy định về Hội đồng Chính phủ trong Hiến pháp năm 1959 như thành phần, cơ cấu, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Chính phủ và các thành viên của Hội đồng Chính phủ.
Khi đất nước hoàn toàn thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội thì Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ năm 1960 được sửa đổi, thay thế bằng Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng năm 1981 cho phù hợp với Hiến pháp năm 1980, đáp ứng tình hình thực tế lúc bấy giờ. Luật này quy định cơ cấu tổ chức bộ máy, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng Bộ trưởng, các thành viên Hội đồng Bộ trưởng và các cơ quan trực thuộc. Đến năm 1992, Luật này được tiếp tục sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của công cuộc đổi mới. Theo Luật tổ chức Chính phủ năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng lại được đổi lại tên gọi là Chính phủ với cơ cấu của Chính phủ bao gồm các bộ và các cơ quan ngang bộ do Quốc hội quyết định. Thành phần của Chính phủ gồm có: Thủ tướng Chính phủ; các Phó Thủ tướng; các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Người đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng lãnh đạo và điều hành hoạt động của Chính phủ. Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chính phủ tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Qua 10 năm thực hiện, trước yêu cầu của công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia, Luật tổ chức Chính phủ năm 1992 đã được thay thế bởi Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 trên cơ sở kế thừa các Luật năm 1960, 1981, 1992.
Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 được ban hành nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Chính phủ cho phù hợp với những sửa đổi, bổ sung của Hiến pháp năm 1992 cũng như phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong thời kỳ mới. Việc ban hành Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 còn nhằm kiện toàn chế độ pháp lý về tổ
LUẬT TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN NHÂN DÂN NĂM 1994
Đạo luật quy định cơ cấu tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp; quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các đại biểu Hội đồng nhân dân; việc bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân, việc đề cử, ứng cử, bầu và bãi nhiệm các chức danh như Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, các trưởng ban và các thành viên khác...
Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, trước yêu cầu của việc kiện toàn bộ máy chính quyền địa phương, Luật tổ chức chính quyền địa phương đầu tiên năm 1958 được ban hành. Luật năm 1958 quy định về hệ thống tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và chế độ làm việc của chính quyền địa phương các cấp, quan hệ giữa đại biểu Hội đồng nhân dân và cử tri, các cơ quan chuyên môn ở địa phương và quan hệ giữa Ủy ban hành chính với các cơ quan đó. Theo quy định tại Luật này, các khu tự trị, các thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh, châu, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, xã, thị trấn có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính. Các huyện có Ủy ban hành chính. Các khu phố ở các thành phố và thị xã lớn có Ban hành chính khu phố. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, lề lối làm việc của Ban hành chính khu phố do Thủ tướng Chính phủ quy định. Các thành phố có thể chia thành khu phố có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính.
Để phù hợp và trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp được ban hành vào ngày 27.10.1962.
Nét đặc trưng tiêu biểu là thiết lập hệ thống Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở cả ba cấp hành chính tỉnh, huyện và cấp xã trong cả nước và các khu tự trị. Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, trên cơ sở Hiến pháp năm 1980, Quốc hội Khóa VI đã thống nhất ban hành Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 30.6.1983 chung của cả nước. Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường với chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện cơ chế mở cửa, yêu cầu đặt ra là phải tăng cường hơn nữa hiệu quả hoạt động và quản lý của các cơ quan chính quyền địa phương, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1989 được ban hành. Tiếp đó, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1994 ra đời, một mặt, đáp ứng yêu cầu hoàn thiện cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp cho phù hợp với các quy định của Hiến pháp năm 1992 mới được ban hành, mặt khác, nhằm bảo đảm sự phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong thời kỳ đổi mới, tiếp tục kiện toàn chế độ pháp lý về tổ chức, hoạt động của các chế định pháp lý cụ thể không thể thiếu cấu thành nên Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp.
Trên cơ sở kế thừa, có những điểm mới cơ bản so với quy định của Luật năm 1983 và năm 1989; nguyên tắc làm việc của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân là xuất phát từ lợi ích chung của đất nước, lợi ích của nhân dân địa phương để quyết định và bảo đảm thực hiện các chủ trương, biện pháp nhằm phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân địa phương và làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với Nhà nước, tuân theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nội dung Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1994 cũng dành một chương riêng quy định cụ thể về thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cấp tương đương, huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã và các ban của Hội đồng nhân dân các cấp. Đây là quy định mới thể hiện tầm quan trọng của hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn của thường trực Hội đồng nhân dân các cấp, nhất là trong khoảng thời gian giữa hai kỳ họp của Hội đồng nhân dân.
Sau 9 năm thi hành Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1994 đã bộc lộ những bất cập trước yêu cầu của công cuộc đổi mới. Vì vậy, ngày 26.11.2003 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XI đã thông qua Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003. So với Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1994, Luật này có rất nhiều nội dung mới, có 6 chương và 140 điều.
LUẬT TỔ CHỨC QUỐC HỘI NĂM 2001
Đạo luật quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, về nhiệm vụ, quyền hạn của các đại biểu Quốc hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 được Quốc hội Khóa X, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25.12.2001, Chủ tịch nước công bố ngày 07.01.2002.
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 14/SL ngày 08.9.1945 tổ chức cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước để bầu ra Quốc dân đại hội - Quốc hội đầu tiên của nước ta.
Văn bản luật về tổ chức Quốc hội đầu tiên được ban hành vào ngày 14.7.1960, là sự cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1959 về cơ cấu tổ chức, nguyên tắc hoạt động của Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Khi đất nước hoàn toàn thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Luật tổ chức Quốc hội năm 1960 đã được thay thế bằng Luật tổ chức Quốc hội năm 1980 nhằm bảo đảm sự phù hợp với Hiến pháp năm 1980 và đòi hỏi của tình hình thực tế trong giai đoạn phát triển mới. Theo các quy định của Luật năm 1980, cơ cấu tổ chức của Quốc hội có sự thay đổi cơ bản. Quốc hội có Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội, có Hội đồng Nhà nước vừa là cơ quan cao nhất, là cơ quan hoạt động thường xuyên của Quốc hội, vừa là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một số thành viên của các Hội đồng, Ủy ban của Quốc hội được phân công làm việc theo chế độ chuyên trách. Số lượng đại biểu quốc hội không quá 400 người.
Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp của thời kỳ đổi mới, đã có sự thay đổi trong tổ chức bộ máy nhà nước, trong đó thiết chế Hội đồng Nhà nước theo Hiến pháp 1980, sau 12 năm thực hiện, tỏ ra không hoàn toàn thích hợp với bộ máy nhà nước của một Nhà nước dân chủ, đã được thay thế và thiết chế Ủy ban thường vụ Quốc hội, cơ quan thường trực của Quốc hội và chức danh Chủ tịch nước, người đứng đầu Nhà nước theo Hiến pháp năm 1959 đã được tái lập và để kịp thời thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức Quốc hội mới năm 1992 đã được Quốc hội thông qua.
Qua 10 năm thực hiện, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước và yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền, tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước đặc biệt là Quốc hội, Luật tổ chức Quốc hội mới năm 2001 đã được ban hành, có hiệu lực kể từ ngày 01.7.2002. Mục tiêu của việc ban hành Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 là nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Quốc hội, các bộ phận cấu thành nên Quốc hội như Ủy ban thường vụ quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội cho phù hợp với những sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 vào cuối năm 2001, cũng như phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong thời kỳ mới, nhằm kiện toàn chế độ pháp lý về tổ chức, hoạt động của các chế định pháp lý cụ thể để cấu thành nên cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là đại biểu Quốc hội và Chủ tịch Quốc hội.
Về đối tượng và phạm vi điều chỉnh, Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 xác định những quan hệ về tổ chức, hoạt động của Quốc hội và các bộ phận hợp thành của Quốc hội. Trong đó, nhấn mạnh đặc biệt và khẳng định trước hết là vị trí, chức năng, tính chất của Quốc hội trong tổ chức bộ máy nhà nước. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ hoạt động của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, của Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các ủy ban và đại biểu Quốc hội.
Về cơ cấu, Luật tổ chức Quốc hội có 7 chương, 94 điều với những nội dung cơ bản như sau: những quy định chung; quy định về Ủy ban thường vụ quốc hội và Chủ tịch quốc hội; quy định về Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; quy định về đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội; quy định về kỳ họp Quốc hội; quy định về bộ máy giúp việc và kinh phí hoạt động của Quốc hội.
LUẬT TỔ CHỨC TÒA ÁN NHÂN DÂN NĂM 2002
Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật quy định và điều chỉnh về tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân.
Luật tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 02.4.2002, được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 12.4.2002, thay thế Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992, được sửa đổi, bổ sung vào năm 1993 và năm 1995. Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật là tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Tòa án quân sự; các Tòa án khác do luật định. Tòa án thực hiện việc xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Chế độ bổ nhiệm Thẩm phán được thực hiện đối với hệ thống Tòa án các cấp. Chế độ bầu Hội thẩm nhân dân được thực hiện đối với các Tòa án nhân dân địa phương. Chế độ cử Hội thẩm quân nhân được thực hiện đối với các Tòa án quân sự quân khu và tương đương, các Tòa án quân sự khu vực. Việc xét xử ở Tòa án có các Hội thẩm tham gia theo quy định của pháp luật tố tụng. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, đồng thời, Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật.
Sau khi Hiến pháp năm 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới ra đời, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 cũng được ban hành làm cơ sở để bảo đảm cho hệ thống Tòa án nhân dân hoạt động hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của quá trình đổi mới. Luật này cũng đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1993 và 1995. Sau 10 năm phát huy hiệu lực, góp phần đáng kể vào việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Luật năm 1992 cần được thay thế bằng một luật tổ chức Tòa án nhân dân mới, trong đó vấn đề cần được quan tâm là công tác quản lý Tòa án địa phương, Tòa án quân sự về mặt tổ chức; cơ cấu và hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao; thẩm quyền của Tòa án các cấp, đặc biệt là thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện...
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 có 7 chương với 48 điều. Chương I - Những quy định chung, gồm 17 điều, quy định chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án, bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời, quy định về chế độ bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án các cấp, chế độ bầu Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm quân nhân; về nguyên tắc xét xử, chế độ xét xử, các nguyên tắc phối hợp trong xét xử và phòng ngừa tội phạm; nguyên tắc quản lý và phối hợp quản lý các Tòa án nhân dân địa phương và các Tòa án quân sự về mặt tổ chức... Chương II, quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao, gồm 9 điều, xác định Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; nêu rõ cơ cấu, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân tối cao: cơ cấu, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền của Hội đồng Thẩm phán và các Tòa chuyên trách, Tòa phúc thẩm thuộc Tòa án nhân dân tối cao; nhiệm vụ và quyền hạn của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao... Chương III, quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân địa phương, gồm 2 mục với 7 điều: Mục A, gồm 5 điều, quy định cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền của các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung Ương; cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban Thẩm phán, các Tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: nhiệm vụ và quyền hạn của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh; Mục B, gồm 2 điều, quy định cơ cấu tổ chức, thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện. Chương IV, gồm 3 điều, quy định về cơ cấu tổ chức các Tòa án quân sự. Tổ chức và hoạt động của các Tòa án quân sự do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định. Chương V, quy định về Thẩm phán và Hội thẩm, gồm 7 điều, quy định về tiêu chuẩn, điều kiện để được tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán, bầu hoặc cử làm Hội thẩm; các quy định về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán và Hội thẩm; thời hạn nhiệm kỳ của Thẩm phán và Hội thẩm; thời hạn nhiệm kỳ của Thẩm phán, các chức danh Chánh án, Phó Chánh án Tòa án các cấp; nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm quân nhân... Chương VI, quy định về những bảo đảm hoạt động của Tòa án, gồm 4 điều, các quy định về chế độ tiền lương, phụ cấp, tổng biên chế, kinh phí hoạt động, sự phối hợp của lực lượng công an và cảnh vệ trong quân đội về việc dẫn giải bị cáo và bảo vệ phiên Tòa. Chương VII - Điều khoản thi hành.
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 là cơ sở pháp lý vững chắc để ngành Tòa án kiện toàn về cơ cấu tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động, đáp ứng các yêu cầu của công cuộc đổi mới, cải cách tư pháp, cải cách hành chính, tiến tới xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
LUẬT TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN NĂM 2002
Văn bản pháp luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 02.4.2002, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.10.2002.
Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật là toàn bộ các vấn đề về tổ chức và hoạt động của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân trong cả nước, bao gồm vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân; các công tác thực hiện chức năng; quyền và nghĩa vụ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp, của Ủy ban kiểm sát, của Kiểm sát viên và các vấn để khác bảo đảm hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Lần đầu tiên Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được ban hành năm 1960. Trước đó, tổ chức và hoạt động của các cơ quan công tố chủ yếu được điều chỉnh bằng sắc lệnh số 13 ngày 24.01.1946, Sắc lệnh số 51 ngày 27.4.1946, sắc lệnh số 85 ngày 25.5.1950 và Nghị định số 256 ngày 01.7.1959 của Chính phủ.
Để đảm bảo cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thắng lợi, yêu cầu đặt ra là phải thiết lập và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngày 15.7.1960, kỳ họp thứ nhất Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Khóa II đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, đánh dấu một bước phát triển và hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của các hệ thống cơ quan thuộc bộ máy nhà nước.
Trong giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1992, hai Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 và năm 1992 lần lượt được ban hành, thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, sau 15 năm thi hành Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, đã đặt ra yêu cầu phải kịp thời cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung cuối năm 2001 về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vào lĩnh vực kiểm sát, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân mới năm 2002 đã được Quốc hội ban hành.
Về cấu trúc và nội dung cơ bản, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 có 11 chương với 55 điều. Mỗi chương đều có tên gọi phản ánh những nội dung chính của chương. Chương I - Những quy định chung, quy định chức năng, nhiệm vụ, các công tác thực hiện; trách nhiệm và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân; nguyên tắc tập trung thống nhất; vai trò, trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp và của Kiểm sát viên, Điều tra viên. Chương II - Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. Trong chương này lần đầu tiên đã có sự phân biệt các hoạt động thực hành quyền công tố với các hoạt động kiểm sát điều tra ở các điều luật riêng và quy định cụ thể những nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Chương III - Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Trong chương này, lần đầu tiên đã quy định rõ chức năng của Viện kiểm sát nhân dân là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự ở các điều luật riêng. Sự phân biệt này đã khắc phục được những sai lầm trong nhận thức đã tồn tại từ lâu trong ngành kiểm sát nhân dân coi thực hành quyền công tố chỉ là một quyền năng tố tụng, một nội dung của công tác kiểm sát xét xử hình sự, đồng thời, quy định cụ thể những nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn xét xử. Chương IV - Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng. Chương V - Kiểm sát việc thi hành án, quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện công tác kiểm sát thi hành án và trách nhiệm của Tòa án nhân dân, Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị. cá nhân có liên quan trong việc thực hiện các yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân. Chương VI - Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, quy định cụ thể về nhiệm vụ và quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong việc phát hiện và xử lý vi phạm trong tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù; trách nhiệm của cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát nhân dân. Chương VII - Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Chương VIII - Viện kiểm sát quân sự, quy định những vấn đề chung về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát quân sự các cấp. Chương IX - Kiểm sát viên và Điều tra viên, quy định tiêu chuẩn chung của Kiểm sát viên, Điều tra viên. Trong chương này, lần đầu tiên quy định cụ thể nhiệm kỳ của Kiểm sát viên và Điều tra viên là 5 năm. Chương X - Bảo đảm hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, quy định những vấn đề chung về biên chế; chế độ tiền lương, phụ cấp, giấy chứng minh, trang phục đối với cán bộ ngành kiểm sát; kinh phí hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Chương XI - Điều khoản thi hành.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam có những quy định tương tự Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân một số nước như Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Tuy nhiên, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân nước ta có những quy định cụ thể hơn về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong đó có chứa đựng một số quyền năng tố tụng mà Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân các nước khác không quy định.
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
Ngành luật trong hệ thống pháp luật, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự để bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.
Luật tố tụng dân sự quy định những vấn đề về trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự bảo đảm cho việc giải quyết vụ án dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; giáo dục mọi người ý thức tôn trọng và tự giác tuân theo pháp luật và góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự là các quan hệ xã hội giữa Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án, những người tham gia tố tụng phát sinh trong tố tụng dân sự. Luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng phương pháp mệnh lệnh và định đoạt.
Nguồn của luật tố tụng dân sự bao gồm: Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh thi hành án dân sự, Pháp lệnh trọng tài thương mại. Trong đó, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 là nguồn quan trọng nhất của luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được Quốc hội Khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 5 ngày 15.6.2004. Việc ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định một cách có hệ thống các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; thẩm quyền của Tòa án nhân dân; nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự; trình tự và thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự... Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 được Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua ngày 14.01.2004 quy định đối tượng, trình tự, thủ tục và các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Bộ luật tố tụng dân sự đang có hiệu lực là Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2015.
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Luật tố tụng hình sự có đối tượng điều chỉnh là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự là những cách thức dùng để tác động đến các quan hệ tố tụng hình sự, có hai phương pháp: phương pháp quyền uy, phương pháp phối hợp và chế ước. Phương pháp quyền uy điều chỉnh quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng với những người tham gia tố tụng, trong đó cơ quan tiến hành tố tụng có quyền áp dụng các biện pháp tố tụng còn những người tham gia tố tụng có nghĩa vụ chấp hành theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Phương pháp phối hợp và chế ước điều chỉnh mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, trong đó các cơ quan này có nhiệm vụ phối hợp với nhau để giải quyết vụ án đồng thời cũng chế ước nhau, bảo đảm sao cho mỗi cơ quan đều thực hiện đúng chức năng của mình, tránh sự lạm quyền, vi phạm pháp luật.
Luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng và của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý kịp thời, công minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Luật tố tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, giáo dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và tôn trọng quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Bộ luật tố tụng hình sự đang có hiệu lực là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.
LUẬT TÒA ÁN
Pháp luật của nước nơi có trụ sở của Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án.
Luật tòa án là một trong những hệ thuộc cơ bản của quy phạm pháp luật xung đột, thường được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tố tụng dân sự - kinh tế - thương mại có yếu tố nước ngoài. Nó còn được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Ví dụ: về việc ly hôn “nếu một người cư trú trên lãnh thổ của bên ký kết này, còn người kia cư trú trên lãnh thổ của bên ký kết kia thì áp dụng pháp luật của bên ký kết có Tòa án đang giải quyết việc ly hôn" (khoản 2 Điều 26 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga).
LUẬT TỤC
Những quy tắc xử sự mang tính chất bắt buộc do các cộng đồng làng xã xây dựng nên và được truyền từ đời này qua đời khác.
Luật tục có thể tồn tại bằng truyền miệng hoặc được ghi thành văn bản. Văn bản luật tục có thể tồn tại dưới hình thức đơn giản như "hương ước" nhưng cũng có thể được xây dựng dưới dạng bộ luật như Bộ luật tục của dân tộc Êđê có 11 chương với 236 điều. Luật tục khác với tập quán thông thường là có tính bắt buộc thực hiện. Luật tục là pháp luật của các cộng đồng làng xã hoặc của cả một cộng đồng dân tộc thiểu số. Luật tục, khi có nội dung phù hợp với tiến bộ xã hội, tạo được công bằng, công lý và trật tự xã hội, thì thường được Nhà nước thừa nhận và trở thành pháp luật tập quán, còn nếu cổ hủ, lạc hậu hoặc mang tính chất mê tín, dị đoan thì sẽ bị Nhà nước cấm đoán (Xt. Pháp luật tập quán).
LUẬT XUẤT BẢN NĂM 2004
Văn bản luật chứa đựng có hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh chế độ, hoạt động xuất bản ở Việt Nam, dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự do ngôn luận, bảo đảm quyền sáng tạo và phổ biến tác phẩm của công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - kinh tế - xã hội, lực lượng vũ trang qua hình thức xuất bản phẩm; tăng cường sự quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của hoạt động xuất bản trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Luật xuất bản được Quốc hội Khóa IX thông qua ngày 07.7.1993, Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 19.7.1993, sau hơn 10 năm phát huy hiệu lực, đã được thay thế bởi Luật xuất bản được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03.12.2004.
Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật xuất bản năm 2004 là toàn bộ những vấn đề thuộc chế độ xuất bản và hoạt động xuất bản ở Việt Nam, gồm các lĩnh vực xuất bản, in ấn, phát hành xuất bản phẩm với các loại hình: sách, tài liệu, tranh, ảnh, áp phích, catalog, tờ rơi, tờ gấp, lịch, bản đồ, át lát, bản nhạc, cờ, truyền đơn, khẩu hiệu, câu đối, cuốn thư, băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình thay sách hoặc kèm theo sách. Tác giả có quyền phổ biến tác phẩm của mình thông qua nhà xuất bản, được hưởng các quyền lợi về tinh thần và vật chất đối với tác phẩm theo quy định của Luật xuất bản, các quy định khác của pháp luật về quyền tác giả, được Nhà nước bảo hộ quyền tác giả. Đồng thời, tác giả phải chịu trách nhiệm về nội dung tác phẩm của mình trước pháp luật. Luật xuất bản cũng quy định quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức đối với hoạt động xuất bản; những vấn đề thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về xuất bản; quyền và nghĩa vụ của Giám đốc, Tổng biên tập nhà xuất bản, tác giả, cơ quan chủ quản và cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản, các cơ sở in, nhân bản, các tổ chức phát hành xuất bản phẩm. Không một tổ chức, cá nhân nào được cản trở quyền phổ biến tác phẩm, quyền hoạt động xuất bản hợp pháp của các nhà xuất bản; nghiêm cấm các hành vi lợi dụng quyền phổ biến tác phẩm, quyền hoạt động xuất bản làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và của công dân; nghiêm cấm việc phát hành những xuất bản phẩm đã có quyết định thu hồi, tịch thu hoặc cấm lưu hành.
Chế độ xuất bản ở nước ta lần đầu được pháp luật quy định tại sắc luật số 003/SLT ngày 18,6.1957. Cho đến thời kỳ đổi mới, nhằm phát huy vai trò của hoạt động xuất bản trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường sự quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản, bảo đảm cho các hoạt động xuất bản tiến hành đúng pháp luật, có kế hoạch, trật tự, ngăn chặn mọi tư tưởng, hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam.
Về bố cục và nội dung cơ bản, Luật xuất bản năm 2004 có Lời nói đầu, 6 chương và 45 điều, mỗi chương đều có tên gọi và các điều luật phản ánh những nội dung chính của chương đó. Chương I - Những quy định chung (4 điều) xác định hoạt động xuất bản là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng thông qua việc sản xuất, phổ biến những xuất bản phẩm đến nhiều người và không phải là hoạt động kinh doanh đơn thuần. Mục đích chủ yếu của hoạt động xuất bản là phổ biến những tác phẩm về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật; giới thiệu những di sản văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa thế giới, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước trên thế giới... Nhà nước thống nhất quản lý hoạt động xuất bản trong cả nước, có các biện pháp để bảo vệ hoạt động xuất bản đúng pháp luật. Chương quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức đối với hoạt động xuất bản. Công dân, tổ chức có quyền phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất bản phẩm thông qua nhà xuất bản, chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung xuất bản phẩm và được Nhà nước bảo hộ về quyền tác giả. Chương quy định về tổ chức và hoạt động xuất bản gồm 3 mục chính: xuất bản; in; phát hành xuất bản phẩm.
Việc thành lập các nhà xuất bản phải tuân theo đúng thủ tục mà Luật xuất bản quy định khi đáp ứng các điều kiện nhất định. Nhà xuất bản thực hiện việc xuất bản, tái bản tác phẩm theo hợp đồng xuất bản đã ký kết với tác giả, đảm bảo đúng tôn chỉ, mục đích, không được xuất bản những xuất bản phẩm có nội dung bị pháp luật nghiêm cấm. Các cơ sở in, nhân bản chỉ được phép in, nhân bản xuất bản phẩm khi có giấy phép xuất bản hợp pháp và sau khi đã ký hợp đồng kinh tế với nhà xuất bản theo đúng quy định của pháp luật. Tổ chức phát hành của Nhà nước có trách nhiệm phát hành xuất bản phẩm của các nhà xuất bản tới người sử dụng. Tổ chức, cá nhân kinh doanh trong lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm chỉ được phép hoạt động sau khi có giấy phép của cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản và hoàn thành các thủ tục khác theo quy định của pháp luật. Chương IV quy định về nội dung quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản, gồm: cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản trong cả nước là Bộ Văn hóa - Thông tin. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện việc quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản ở địa phương. Bộ Văn hóa - Thông tin xây dựng hệ thống tổ chức thanh tra chuyên ngành về hoạt động xuất bản trong cả nước. Chương V quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm. Các tổ chức, cá nhân có thành tích trong hoạt động xuất bản, in, phát hành sẽ được khen thưởng theo quy định của Nhà nước. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về xuất bản đều bị xử lý nghiêm minh, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà áp dụng các chế tài kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Chương VI quy định về điều khoản thi hành.
LỤC BỘ
Sáu bộ (Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công) - cơ quan trung ương của Nhà nước phong kiến, có chức năng cao cấp trong triều đình, đứng đầu mỗi bộ là một vị Thượng thư, giúp việc có tả, hữu Thị lang (thời Lý, Trần, Lê) hoặc Tham tri (nhà Nguyễn).
Năm 1089, Lý Nhân Tông bắt đầu đặt ra các bộ, nhưng chưa đủ lục bộ. Dưới thời nhà Trần, các bộ được đặt dưới sự điều khiển của tướng quốc. Đầu thời kỳ Lê sơ, có 2 bộ là Bộ Lại và Bộ Lễ (theo "dư địa chí” của Nguyễn Trãi thi còn có một bộ nữa là Bộ Dân - tức là Bộ Hộ). Đến đời Lê Nghi Dân, đã đặt đủ lục bộ (sáu bộ).
Dưới triều vua Lê Thánh Tông vẫn giữ nguyên sáu bộ và đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của Vua. Các triều đại sau đó tiếp tục duy trì sáu bộ, trong đó, Bộ Lại phụ trách việc tuyển bổ, khảo hạch, thăng giáng quan lại, phong tước... Bộ Lễ phụ trách lễ nghi, tế tự, thiên văn, tôn giáo, âm nhạc, đối ngoại, giáo dục, thi cử; Bộ Hộ quản lý ruộng đất, thuế khóa, kho tàng, dân số và cấp phát lương bổng; Bộ Binh quản lý quân đội, quân trang, vũ khí, phòng thủ biên cương; Bộ Hình phụ trách tư pháp và xét xử; Bộ Công phụ trách xây dựng, giao thông, bảo vệ đê điều, rừng...
LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN
bao gồm quân nhân dự bị và phương tiện kỹ thuật dự bị được đăng ký, quản lý và sắp xếp vào đơn vị dự bị động viên để sẵn sàng bổ sung cho lực lượng thường trực của Quân đội nhân dân.
(Theo Khoản 1, Điều 2, Luật Lực lượng dự bị động viên 2019)
LỤC SỰ
Chức danh của viên chức làm nghiệp vụ bảo đảm hoạt động hành chính của các Tòa án như lập và giữ giấy tờ, sổ sách, hồ sơ, tài liệu về các vụ án, biên bản hỏi cung, lấy lời khai, biên bản phiên Tòa...
Dưới thời nhà Nguyễn, lục sự là thuộc viên của Đô sát viện. Thời Pháp thuộc, lục sự là viên chức biên chép văn án tại các phiên Tòa. Theo sắc lệnh số 13 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 24.01.1946 về tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán thì tại các Tòa sơ cấp, Tòa đệ nhị cấp, Tòa thượng thẩm đều có các viên chức giữ chức danh lục sự, nhưng về sau đã được bãi bỏ và các phần việc của lục sự do các Thư ký Tòa án đảm nhiệm.
LƯỚI ĐIỆN
Là hệ thống đường dây tải điện, máy biến áp và trang thiết bị phụ trợ để truyền dẫn điện. Lưới điện, theo mục đích sử dụng và quản lý vận hành, được phân biệt thành lưới điện truyền tải và lưới điện phân phối.
(Theo Khoản 3, Điều 3, Luật Điện lực 2004)
LƯƠNG
Số tiền do người sử dụng lao động trả cho người lao động khi người lao động đã hoàn thành công việc theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động.
Thông thường việc trả lương được tiến hành sau mỗi tháng; ngoài ra, còn hình thức trả lương tuần, lương ngày, lương giờ, cùng với cơ chế trả lương theo thời gian. Bộ luật lao động năm 1994 (được sửa đổi, bổ sung năm 2002) quy định chế định tiền lương bao gồm các quy định về lương tối thiểu, thang lương, bảng lương, hình thức trả lương, nguyên tắc trả lương, lương làm đêm, lương ngừng việc, tiền thưởng, tạm ứng lương, khấu trừ lương...
LUỒNG HÀNG HẢI
Là phần giới hạn vùng nước được xác định bởi hệ thống báo hiệu hàng hải và các công trình phụ trợ khác để bảo đảm an toàn cho hoạt động của tàu biển và các phương tiện thủy khác. Luồng hàng hải bao gồm luồng hàng hải công cộng và luồng hàng hải chuyên dùng.
(Theo Khoản 19, Điều 4, Bộ luật hàng hải Việt Nam 2015)
LƯƠNG KHOÁN
Lương trả cho người lao động theo khối lượng và chất lượng công việc phải hoàn thành.
Hình thức trả lương khoán do người sử dụng lao động chọn trong các hình thức trả lương được quy định tại Điều 58 Bộ luật lao động với điều kiện phải được duy trì trong một thời gian nhất định và phải thông báo cho người lao động biết.
Người lao động hưởng lương khoán được trả lương theo thỏa thuận của hai bên, nếu công việc phải làm trong nhiều tháng thì hàng tháng được tạm ứng lương theo khối lượng công việc đã làm trong tháng.
Khi thực hiện hình thức trả lương khoán, người sử dụng lao động phải thực hiện đầy đủ các quy định về tiền lương được quy định tại Chương VI của Bộ luật lao động.
LƯƠNG LÀM THÊM GIỜ
Lương trả cho người lao động làm việc ngoài giờ tiêu chuẩn, theo yêu cầu của người sử dụng lao động.
Để đảm bảo sức khỏe cho người lao động, pháp luật Việt Nam và hầu hết các nước đều quy định khi người sử dụng lao động huy động làm thêm giờ thì phải trả lương cao hơn mức tiền lương trả cho người lao động trong giờ làm việc tiêu chuẩn. Theo các quy định hiện hành, người lao động làm thêm giờ vào ngày thường thì được hưởng ít nhất bằng 150% mức tiền lương theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương thực trả cho công việc đang làm. Nếu làm thêm giờ vào ngày nghỉ hàng tuần thì được hưởng ít nhất bằng 200%, nếu làm thêm vào ngày lễ hoặc những ngày nghỉ có hưởng lương thì được hưởng ít nhất bằng 300% mức lương nói trên. Nếu làm thêm vào ban đêm thì ngoài tiền lương làm thêm giờ còn được phụ cấp làm đêm (Xt. Phụ cấp làm đêm).
Trường hợp người sử dụng lao động bố trí cho người lao động nghỉ bù những giờ đã làm thêm thì người lao động chỉ được hưởng khoản tiền chênh lệch của lương làm thêm giờ.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, tiền lương làm thêm giờ được quy định tại Điều 97 Bộ luật lao động năm 2012 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 18 tháng 06 năm 2012.
LƯƠNG NGỪNG VIỆC
Tiền lương trả cho người lao động khi họ không làm việc mà không do lỗi của họ, theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận.
Trước đây, còn có quan điểm lương ngừng việc là một trong chế độ tiền đảm bảo (bao gồm cả tiền nghỉ phép và tiền trả trong trường hợp nghỉ tạm thời để sắp xếp lại lao động).
Hiện nay, lương ngừng việc được quy định để trả cho người lao động căn cứ vào nguyên nhân ngừng việc; nếu sự ngừng việc do lỗi của người sử dụng lao động thì người lao động vẫn được trả đủ tiền lương. Nếu do nguyên nhân bất khả kháng thì tiền lương do hai bên thỏa thuận nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu. Nếu sự ngừng việc do lỗi của người lao động thì người lao động đó không được trả lương, những người lao động khác phải ngừng việc được trả lương như trả lương theo mức do hai bên thỏa thuận nhưng cũng không được thấp hơn mức lương tối thiểu.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, tiền lương ngừng việc được quy định tại Điều 98 Bộ luật lao động năm 2012 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 18 tháng 06 năm 2012.
LƯƠNG THEO SẢN PHẨM
Tiền lương trả cho người lao động căn cứ vào đơn giá khoán sản phẩm và số lượng, chất lượng sản phẩm thực tế họ đã làm ra.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, việc áp dụng lương sản phẩm do các cơ quan quản lý nhà nước quyết định. Hiện nay, người sử dụng lao động được quyết định vấn để áp dụng lương sản phẩm trong đơn vị mình. Khi áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm, người sử dụng lao động phải thông báo cho người lao động biết trước và phải duy trì áp dụng trong thời gian nhất định. Để ổn định đời sống cho người lao động, pháp luật quy định ít nhất mỗi tháng người sử dụng lao động phải nghiệm thu sản phẩm và trả lương một lần.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, lương theo sản phẩm được quy định tại Khoản 3, Điều 95 Bộ luật lao động năm 2012 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 18 tháng 06 năm 2012.
LƯƠNG THỜI GIAN
Tiền lương trả cho người lao động căn cứ vào mức lương thỏa thuận hoặc mức lương theo ngạch, bậc lương và thời gian làm việc thực tế của người lao động. Lương thời gian bao gồm lương tháng, lương tuần, lương ngày, lương giờ. Ở một số nước còn có lương năm. Khi trả lương thời gian thì mức lương thỏa thuận hoặc mức lương theo ngạch, bậc đương nhiên được tính là mức lương tháng. Các loại lương thời gian khác được tính ra từ mức lương này. Pháp luật Việt Nam quy định khi các bên thỏa thuận trả lương giờ, lương ngày, lương tuần thì người lao động phải được trả lương ít nhất 15 ngày một lần. Nếu các bên thỏa thuận trả lương tháng thì người lao động phải được trả ít nhất mỗi tháng một lần.
LƯƠNG TỐI THIỂU
Mức tiền lương thấp nhất do Nhà nước quy định mà người sử dụng lao động phải trả cho người lao động làm công việc đơn nhất, trong điều kiện lao động bình thường, bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích lũy tái sản xuất sức lao động mở rộng.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) có Công ước số 26 (năm 1928) về lương tối thiểu và Công ước số 131 (năm 1970) về ấn định lương tối thiểu đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Các quốc gia có thể quy định mức lương tối thiểu chung, lương tối thiểu theo ngành, theo vùng, ở Việt Nam hiện nay có mức lương tối thiểu chung và mức lương tối thiểu áp dụng trong các đơn vị sử dụng lao động có yếu tố nước ngoài. Chính phủ quyết định và công bố mức lương tối thiểu cho từng thời kỳ sau khi lấy ý kiến của đại diện công đoàn và đại diện người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động có thể quy định mức lương tối thiểu áp dụng riêng trong đơn vị nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Khi chỉ số giá sinh hoạt thay đổi, mức lương tối thiểu có thể được điều chỉnh lại cho phù hợp. Mức lương tối thiểu còn được dùng để tính các mức lương khác trong hệ thống thang, bảng lương và để tính một số chế độ phụ cấp lương theo phương pháp hệ số.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, mức lương tối thiểu được quy định tại Điều 91 Bộ luật lao động năm 2012 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 18 tháng 06 năm 2012.
M
Cơ quan chủ quản: Công ty cổ phần Tư Vấn Đầu Tư và Ứng Dụng Công Nghệ 4.0.
Chịu trách nhiệm chính: Bà Nguyễn Thị Ngọc Hà.
Giấy chứng nhận ĐKDN số: 0108234370, do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 18/04/2018.
Địa chỉ: Dương Hà, Gia Lâm, Hà Nội - VPGD: C2 Vincom, 119 Trần Duy Hưng, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội.
Điện thoại: 024.6294.9155 - Hotline: 0986.426.961 - Email: info@hethongphapluat.com