Hệ thống pháp luật

Chương 4 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 do Hội đồng Nhà nước ban hành

Chương 4:

NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG

Điều 19. Các đương sự.

Các đương sự là công dân, pháp nhân tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn, bị đơn hoặc là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Trong trường hợp Viện kiểm sát khởi tố hoặc tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung thì người có quyền lợi được bảo vệ có thể tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn.

Điều 20. Quyền và nghĩa vụ tố tụng của các đương sự.

1- Nguyên đơn có quyền thay đổi yêu cầu của mình. Bị đơn có quyền phản đối yêu cầu của nguyên đơn và có quyền đề đạt yêu cầu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn hay bị đơn.

2- Các đương sự có quyền bình đẳng trong việc cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình; được biết chứng cứ do bên kia cung cấp; yêu cầu Toà án tiến hành biện pháp điều tra cần thiết, quyết định biện pháp khẩn cấp tạm thời; tham gia hoà giải; tham gia phiên toà; yêu cầu thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch; đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; tham gia tranh luận tại phiên toà; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án.

3- Các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ; thi hành quyết định, thực hiện yêu cầu của Toà án; phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị Toà án phạt tiền từ hai mươi nghìn đồng đến năm mươi nghìn đồng.

Điều 21. Năng lực hành vi về tố tụng của các đương sự.

1- Người từ đủ 18 tuổi trở lên có quyền tự mình thực hiện những quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự.

2- Người chưa thành niên phải có người đại diện thay mặt trong tố tụng. Người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động, nhưng khi cần thiết, Toà án có thể triệu tập người đại diện của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc khác, người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phải có người đại diện tham gia tố tụng, nhưng khi cần thiết, Toà án hỏi thêm ý kiến của người chưa thành niên.

3- Nếu đương sự là người vì có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không thể tham gia tố tụng được thì phải có người đại diện tham gia tố tụng.

Nếu không có ai đại diện cho người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, người vắng mặt không có tin tức thì Toà án cử một người thân thích của đương sự hoặc một thành viên của một tổ chức xã hội làm người đại diện cho họ.

Điều 22. Người đại diện do đương sự uỷ quyền.

1- Đương sự là công dân, người đại diện của đương sự theo quy định tại Điều 21 của Pháp lệnh này có thể làm giấy uỷ quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt mình trong tố tụng, trừ việc ly hôn và huỷ việc kết hôn trái pháp luật.

2- Pháp nhân tham gia tố tụng thông qua người lãnh đạo của mình hoặc người đại diện được pháp nhân uỷ quyền bằng văn bản.

Điều 23. Quyền và nghĩa vụ tố tụng của người đại diện được uỷ quyền.

Người đại diện được uỷ quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi được uỷ quyền.

Điều 24. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự.

1- Đương sự có thể nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Toà án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình.

2- Một người có thể bảo vệ quyền lợi cho nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền lợi của những người đó không đối lập nhau.

Điều 25. Quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi của đương sự.

1- Người bảo vệ quyền lợi của đương sự được tham gia tố tụng từ khi khởi kiện.

2- Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền đề nghị thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch theo quy định tại Chương III của Pháp lệnh này; có quyền cung cấp chứng cứ, đề đạt yêu cầu, được đọc hồ sơ vụ án và ghi chép những điểm cần thiết trong hồ sơ tham dự hoà giải, tham gian phiên toà.

3- Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có nghĩa vụ sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật của vụ án; giúp đương sự về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ.

Điều 26. Những người tham gia tố tụng khác.

1- Người nào biết bất cứ tình tiết nào liên quan đến vụ án đều có thể được Toà án, Viện kiểm sát triệu tập đến làm chứng. Người làm chứng có nghĩa vụ khai trung thực tất cả những gì mà mình biết về vụ án.

2- Người giám định là người có kiến thức cần thiết về lĩnh vực cần giám định mà Toà án, Viện kiểm sát trưng cầu. Người giám định có quyền tìm hiểu tài liệu của vụ án có liên quan đến đối tượng phải giám định; yêu cầu cơ quan trưng cầu giám định cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc giám định; tham dự vào việc xét hỏi và được đặt câu hỏi về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám định.

3- Người phiên dịch do Toà án, Viện kiểm sát yêu cầu trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt.

4- Người làm chứng, người giám định, người phiên dịch phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án, Viện kiểm sát.

Điều 27. Sự kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng.

1- Nếu đương sự chết mà quyền hoặc nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng.

2- Nếu pháp nhân sáp nhập, phân chia hoặc giải thể thì pháp nhân nào tiếp tục nhiệm vụ, tiếp thu tài sản của pháp nhân cũ có quyền và nghĩa vụ tố tụng của pháp nhân đó.

Điều 28. Sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân.

1- Đối với việc vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc quyền lợi của người lao động trong quan hệ lao động, kết hôn trái pháp luật, xác định cha, mẹ cho người con chưa thành niên ngoài giá thú, xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi của người chưa thành niên hoặc của người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, nếu không có ai khởi kiện thì Viện kiểm sát có quyền khởi tố.

2- Viện kiểm sát có nhiệm vụ tham gia tố tụng đối với những vụ án mà Viện kiểm sát đã khởi tố. Đối với những vụ án khác, Viện kiểm sát có thể tham gia tố tụng từ bất cứ giai đoạn nào nếu thấy cần thiết.

3- Nếu Viện kiểm sát khởi tố vụ án thì Viện kiểm sát có trách nhiệm cung cấp chứng cứ.

4- Toà án gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp các bản sao bản án, quyết định của Toà án ngay sau khi ra các văn bản đó; chuyển cho Viện kiểm sát mượn hồ sơ vụ án để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

Điều 29. Quyền và nghĩa vụ tố tụng của tổ chức xã hội.

Tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn, trừ quyền hoà giải.

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 do Hội đồng Nhà nước ban hành

  • Số hiệu: 27-LCT/HĐNN8
  • Loại văn bản: Pháp lệnh
  • Ngày ban hành: 07/12/1989
  • Nơi ban hành: Quốc hội
  • Người ký: Võ Chí Công
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Dữ liệu đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 01/01/1990
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
MỤC LỤC VĂN BẢN
MỤC LỤC VĂN BẢN
HIỂN THỊ DANH SÁCH