- 1Luật Cư trú 2006
- 2Chỉ thị 24/1998/CT-TTg về xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư do Chính Phủ ban hành
- 3Nghị định 66/2008/NĐ-CP về việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
- 4Luật thi hành án dân sự 2008
- 5Luật Lý lịch tư pháp 2009
- 6Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009
- 7Thông tư 02/2009/TT-BTP về chế độ phụ cấp trách nhiệm công việc giám định tư pháp do Bộ Tư pháp ban hành
- 8Nghị định 78/2009/NĐ-CP Hướng dẫn Luật Quốc tịch Việt Nam
- 9Nghị định 92/2009/NĐ-CP về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
- 10Thông tư liên tịch 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTBXH hướng dẫn Nghị định 92/2009/NĐ-CP chức danh, số lượng, chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã do Bộ Nội vụ - Bộ Tài chính - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành
- 11Nghị định 63/2010/NĐ-CP về kiểm soát thủ tục hành chính
- 12Luật nuôi con nuôi 2010
- 13Thông tư liên tịch 157/2010/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp do Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp ban hành
- 14Luật viên chức 2010
- 15Nghị định 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Nuôi con nuôi
- 16Nghị định 55/2011/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế
- 17Thông tư liên tịch 122/2011/TTLT-BTC-BTP quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp ban hành
- 18Quyết định 1477/QĐ-BTP năm 2011 về Kế hoạch triển khai Nghị định 55/2011/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 19Công văn 5046/BTP-TCCB tiếp tục thực hiện Công văn 60-CV/BCS và 74-CV/BCSĐ do Bộ Tư pháp ban hành
- 20Quyết định 409/QĐ-TTg năm 2012 về Chương trình hành động thực hiện Kết luận 04-KL/TW do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 21Quyết định 27/2012/QĐ-TTg quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với Chấp hành, Công chứng, Thẩm tra viên và Thư ký thi hành án do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 22Luật giám định tư pháp 2012
- 23Luật phổ biến, giáo dục pháp luật 2012
- 24Luật xử lý vi phạm hành chính 2012
- 25Nghị định 59/2012/NĐ-CP theo dõi tình hình thi hành pháp luật
- 26Thông tư 06/2012/TT-BNV hướng dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công chức xã, phường, thị trấn do Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành
- 27Luật Thủ đô 2012
- 28Thông tư liên tịch 05/2013/TTLT-BTP-BNG-BCA sửa đổi Điều 13 Thông tư liên tịch 05/2010/TTLT-BTP-BNG-BCA hướng dẫn Nghị định 78/2009/NĐ-CP hướng dẫn Luật Quốc tịch Việt Nam do Bộ Tư pháp - Bộ Ngoại giao - Bộ Công an ban hành
- 29Thông tư liên tịch 07/2013/TTLT/BTP-BCA-BTC hướng dẫn trình tự, thủ tục thu, nộp, quản lý tiền, giấy tờ của người phải thi hành án và trả tiền, giấy tờ cho người được thi hành án dân sự là phạm nhân do Bộ trưởng Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Bộ Tài chính ban hành
- 30Nghị định 28/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật phổ biến, giáo dục pháp luật
- 31Kết luận 63-KL/TW năm 2013 cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020 do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 32Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013
- 33Kết luận 64-KL/TW năm 2013 tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 34Thông tư liên tịch 11/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn thực hiện quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng do Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài chính - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao ban hành
- 35Nghị định 81/2013/NĐ-CP hướng dẫn và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính
- 36Nghị định 85/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật giám định tư pháp
- 37Thông tư 129/2013/TT-BTC quy định việc quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác điều ước quốc tế và công tác thỏa thuận quốc tế do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 38Thông tư 138/2013/TT-BTC hướng dẫn Luật Giám định tư pháp và Nghị định 85/2013/NĐ-CP do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 39Nghị quyết 53/2013/QH13 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 do Quốc hội ban hành
- 40Hiến pháp 2013
- 41Luật đất đai 2013
- 42Quyết định 01/2014/QĐ-TTg về chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 43Thông tư liên tịch 192/2013/TTLT-BTC-BTP Quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng, quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm công tác hợp nhất văn bản, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật do Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp ban hành
- 44Thông tư liên tịch 14/2014/TTLT-BTC-BTP quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở do Bộ trưởng Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp ban hành
- 45Nghị định 15/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật hòa giải ở cơ sở
- 46Nghị định 24/2014/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
- 47Thông tư 47/2013/TT-BYT về Quy trình giám định pháp y do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 48Quyết định 298/QĐ-BTP năm 2014 phê duyệt Đề án Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thống kê của ngành Tư pháp giai đoạn 2014-2018 do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 49Nghị định 37/2014/NĐ-CP quy định tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
- 50Thông tư 04/2014/TT-BXD hướng dẫn về giám định tư pháp trong hoạt động đầu tư xây dựng do Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành
- 51Luật Công chứng 2014
- 52Thông tư 20/2014/TT-BYT quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 53Thông tư liên tịch 92/2014/TTLT-BTC-BTP-VPCP hướng dẫn lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ ban hành
- 54Thông tư liên tịch 100/2014/TTLT-BTC-BTP về việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở do Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp ban hành
- 55Luật Hộ tịch 2014
- 56Luật Công an nhân dân 2014
- 57Thông tư liên tịch 23/2014/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh do Bộ trưởng Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ ban hành
- 58Nghị định 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch
- 59Nghị quyết 39-NQ/TW năm 2015 tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 60Thông tư 06/2015/TT-BTP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng do Bộ trưởng Bộ Tư Pháp ban hành
- 61Luật đấu giá tài sản 2016
- 62Luật ngân sách nhà nước 2015
- 63Nghị định 123/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật hộ tịch
- 64Luật tổ chức Chính phủ 2015
- 65Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015
- 66Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
- 67Thông tư 18/2015/TT-BYT về Quy trình giám định pháp y tâm thần và biểu mẫu sử dụng trong giám định pháp y tâm thần do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 68Quyết định 1573/QĐ-TTg năm 2015 về Kế hoạch triển khai thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 69Thông tư 10/2015/TT-BTP quy định chế độ báo cáo trong quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và theo dõi tình hình thi hành pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 70Chỉ thị 28/CT-TTg năm 2015 về triển khai thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 71Bộ luật dân sự 2015
- 72Bộ luật hình sự 2015
- 73Bộ luật tố tụng dân sự 2015
- 74Bộ luật tố tụng hình sự 2015
- 75Nghị quyết 111/2015/QH13 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân,Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và các năm tiếp theo do Quốc hội ban hành
- 76Luật tố tụng hành chính 2015
- 77Luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015
- 78Nghị quyết 10/NQ-CP về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 01 năm 2016
- 79Thông tư 04/2016/TT-BTP quy định nội dung về hoạt động thống kê của Ngành Tư pháp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 80Quyết định 2173/QĐ-BTP năm 2015 phê duyệt Đề án Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 81Nghị quyết 35/NQ-CP năm 2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 do Chính phủ ban hành
- 82Nghị định 34/2016/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
- 83Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017
- 84Quyết định 1226/QĐ-BTP năm 2016 Kế hoạch Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Ngành Tư pháp giai đoạn 2016-2020 do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 85Công văn 345/CNTT-HTTT&CSDL năm 2016 triển khai phần mềm hộ tịch tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Cục Công nghệ thông tin ban hành
- 86Thông tư 338/2016/TT-BTC quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 87Quyết định 1126/QĐ-BTP năm 2016 Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật về nhà ở xã hội, nhà ở cho người có công, vùng thường xuyên bị thiên tai do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 88Thông tư liên tịch 08/2016/TTLT-BTP-BNV quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức Trợ viên giúp pháp lý do Bộ trưởng Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ ban hành
- 89Quyết định 32/2016/QĐ-TTg chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2016-2020 và hỗ trợ vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 90Nghị định 101/2017/NĐ-CP về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức
- 91Nghị định 97/2017/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ hướng dẫn và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính
- 92Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017
- 93Luật Trợ giúp pháp lý 2017
- 94Công văn 4218/BTP-VĐCXDPL năm 2016 trả lời về quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Nghị định 34/2016/NĐ-CP do Bộ Tư pháp ban hành
- 95Thông tư 244/2016/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí cung cấp thông tin lý lịch tư pháp do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 96Thông tư 326/2016/TT-BTC quy định về tổ chức thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2017 do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 97Thông tư 33/2017/TT-BTNMT về hướng dẫn Nghị định 01/2017/NĐ-CP sửa đổi nghị định hướng dẫn Luật đất đai và sửa đổi thông tư hướng dẫn thi hành Luật đất đai do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành
- 98Thông tư 45/2017/TT-BTC quy định khung thù lao dịch vụ đấu giá tài sản theo quy định tại Luật đấu giá tài sản do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 99Công văn 3015/VPCP-PL năm 2017 thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 100Thông tư 48/2017/TT-BTC quy định chế độ Tài chính trong hoạt động đấu giá tài sản do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 101Quyết định 410/QĐ-TTg năm 2017 Kế hoạch triển khai thi hành Luật đấu giá tài sản do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 102Thông tư 04/2017/TT-BTP bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành, liên tịch ban hành
- 103Nghị định 62/2017/NĐ-CP hướng dẫn Luật đấu giá tài sản
- 104Quyết định 559/QĐ-TTg năm 2017 phê duyệt "Đề án đơn giản hóa chế độ báo cáo trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước" do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 105Quyết định 619/QĐ-TTg năm 2017 Quy định về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 106Nghị định 92/2017/NĐ-CP về sửa đổi Nghị định liên quan đến kiểm soát thủ tục hành chính
- 107Nghị định 61/2017/NĐ-CP hướng dẫn việc thẩm định giá khởi điểm của khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu và việc thành lập Hội đồng đấu giá nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đối với khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có giá trị lớn
- 108Quyết định 705/QĐ-TTg năm 2017 Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017-2021 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 109Nghị quyết 34/2017/QH14 Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018 và điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017 do Quốc hội ban hành
- 110Thông tư 106/2017/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định tiêu chuẩn hành nghề đấu giá tài sản, phí thẩm định điều kiện đăng ký hoạt động của doanh nghiệp đấu giá tài sản do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 111Quyết định 30/2017/QĐ-TTg bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Thủ tướng Chính phủ lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn
- 112Thông tư 06/2017/TT-BTP quy định về chương trình khung của khóa đào tạo nghề đấu giá, cơ sở đào tạo nghề đấu giá, việc tập sự và kiểm tra kết quả tập sự hành nghề đấu giá và biểu mẫu trong lĩnh vực đấu giá tài sản do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 113Thông tư 07/2017/TT-BTP quy định về điểm số, hướng dẫn cách tính điểm chỉ tiêu tiếp cận pháp luật, Hội đồng đánh giá tiếp cận pháp luật và nội dung về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 114Quyết định 1269/QĐ-TTg năm 2017 Kế hoạch triển khai thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 115Quyết định 43/2017/QĐ-UBND bãi bỏ văn bản do thành phố Hồ Chí Minh ban hành
- 116Công văn 1362/TTg-PL năm 2017 về nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Thủ tướng Chính phủ
- 117Quyết định 1355/QĐ-TTg năm 2017 về Kế hoạch triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 118Quyết định 1559/QĐ-BTP năm 2017 về Kế hoạch triển khai thi hành Bộ luật Hình sự do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 119Công văn 1587/HTQTCT-QT năm 2016 về thụ lý, giải quyết hồ sơ quốc tịch do Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực ban hành
- 120Công văn 2804/BTP-VĐCXDPL năm 2017 về thông báo nội dung giao địa phương quy định chi tiết các luật, nghị quyết được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 3 do Bộ Tư pháp ban hành
- 121Công văn 5007/BTP-VP về báo cáo kết quả công tác tư pháp năm 2017 và nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2018 do Bộ tư pháp ban hành
- 122Công văn 4973/BTP-VĐCXDPL năm 2017 báo cáo về những khó khăn, vướng mắc của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tư pháp ban hành
- 123Thông tư 53/2017/TT-BTNMT về quy định ngưng hiệu lực thi hành Khoản 5 Điều 6 Thông tư 33/2017/TT-BTNMT hướng dẫn Nghị định 01/2017/NĐ-CP sửa đổi Nghị định hướng dẫn Luật đất đai và sửa đổi Thông tư hướng dẫn Luật đất đai do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành
- 124Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2018 do Chính phủ ban hành
BỘ TƯ PHÁP | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 358/BTP-VP | Hà Nội, ngày 30 tháng 01 năm 2018 |
Kính gửi: | - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ; |
Trên cơ sở kiến nghị của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ Tư pháp được nêu trong các Báo cáo công tác tư pháp, pháp chế năm 2017 và kiến nghị được nêu tại Hội nghị toàn quốc triển khai công tác Tư pháp năm 2018, Bộ Tư pháp đã tổng hợp, nghiên cứu và trả lời các kiến nghị. Kết quả tổng hợp, trả lời các kiến nghị được Bộ Tư pháp đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ/Mục chỉ đạo điều hành.
Bộ Tư pháp trân trọng thông báo và đề nghị các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các Tổ chức Pháp chế, Sở Tư pháp nghiên cứu kết quả trả lời kiến nghị của Bộ Tư pháp để tiếp tục triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ công tác Tư pháp trong thời gian tới.
Bộ Tư pháp xin trân trọng cảm ơn sự phối hợp của các cơ quan./.
Nơi nhận: | TL. BỘ TRƯỞNG |
(Được tổng hợp từ các Báo cáo công tác tư pháp, pháp chế năm 2017 và kiến nghị được nêu tại Hội nghị toàn quốc triển khai công tác Tư pháp năm 2018)
I. LĨNH VỰC XÂY DỰNG, THẨM ĐỊNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ CÔNG TÁC PHÁP CHẾ
1. Đề nghị Bộ Tư pháp quan tâm nghiên cứu, đề xuất sửa đổi một số quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và các văn bản hướng dẫn, cụ thể:
- Theo quy định tại Điều 30 của Luật thì HĐND, UBND cấp huyện chỉ được ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp để quy định những vấn đề được luật giao. Thực tế, việc giao HĐND, UBND cấp huyện cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại các luật là rất ít mà chủ yếu được giao bởi các văn bản quy phạm pháp luật của cấp tỉnh. Mặt khác, HĐND, UBND cấp huyện ban hành văn bản quy phạm pháp luật mục đích chủ yếu là để quy định các chính sách đặc thù nhằm phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Do đó, quy định này chưa phù hợp với thực tiễn. Đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, đề xuất sửa đổi quy định này.
- Theo Điều 12 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì văn bản quy phạm pháp luật chỉ được bãi bỏ bằng văn bản quy phạm pháp luật của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó hoặc bằng văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Tuy vậy, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP không quy định về mẫu hoặc kỹ thuật trình bày văn bản bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật, Điều này gây khó khăn cho địa phương khi thực hiện. Đề nghị Bộ Tư pháp có hướng dẫn cụ thể về nội dung này (UBND tỉnh Hà Tĩnh).
Trả lời:
Thứ nhất, về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND cấp huyện, cấp xã:
Ngày 28/11/2016, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 4218/BTP-VĐCXDPL trả lời về một số quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (Luật năm 2015) và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 34/2016/NĐ-CP) gửi các Bộ, cơ quan ngang Bộ và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó có nội dung trả lời về quy định tại Điều 30 của Luật năm 2015. Cụ thể như sau:
“Điều 30 của Luật năm 2015 quy định: “Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã ban hành nghị quyết, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã ban hành quyết định để quy định những vấn đề được luật giao”. Như vậy, kể từ ngày Luật năm 2015 có hiệu lực (ngày 01/7/2016), HĐND, UBND cấp huyện, cấp xã chỉ được ban hành văn bản quy phạm pháp luật khi được giao trong luật, không phải trong các loại văn bản khác. Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật của cấp huyện, cấp xã được ban hành trước ngày Luật năm 2015 có hiệu lực để cụ thể hóa các quy định của văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên như: nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư của các bộ thì tiếp tục có hiệu lực thi hành cho đến khi có văn bản thay thế hoặc bãi bỏ”.
Trường hợp UBND cấp huyện cần có VBQPPL quy định các chính sách đặc thù nhằm phát triển kinh tế - xã hội của huyện mình thì căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 127 của Luật năm 2015, Chủ tịch UBND cấp huyện đề nghị UBND cấp tỉnh ban hành quyết định của UBND cấp tỉnh để quy định các chính sách đặc thù áp dụng trên địa bàn huyện.
Thứ hai, về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật:
Luật năm 2015 không quy định biểu mẫu riêng cho việc trình bày văn bản quy phạm pháp luật để bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật khác, nhưng đã có các mẫu của các VBQPPL trong đó có mẫu các nghị quyết của HĐND, quyết định của UBND; Căn cứ vào văn bản cần bãi bỏ, cơ quan có thẩm quyền xác định hình thức văn bản bãi bỏ cho phù hợp. Ví dụ: để bãi bỏ một hoặc một số quyết định của UBND cấp tỉnh thì UBND ban hành quyết định để bãi bỏ. Thể thức, kỹ thuật trình bày quyết định bãi bỏ phải tuân thủ theo mẫu quy định tại Mẫu số 18 Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 34/2016/NĐ-CP.
Thực tiễn thời gian qua, nhiều Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND cấp tỉnh đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền để bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật khác do mình đã ban hành (Ví dụ: Quyết định số 30/2017/QĐ-TTg ngày 07/7/2017 về việc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn; Thông tư số 04/2017/TT-BTP ngày 12/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành, liên tịch ban hành, Quyết định số 43/2017/QĐ-UBND ngày 24/8/2017 của UBND TP. Hồ Chí Minh về việc bãi bỏ văn bản). Nhìn chung, qua theo dõi và tiếp nhận thông tin phản hồi thời gian qua cho thấy các cơ quan chủ trì soạn thảo không gặp vướng mắc, khó khăn trong việc áp dụng thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản bãi bỏ các văn bản khác.
2. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm xây dựng, phát hành Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ xây dựng chính sách; đánh giá tác động của chính sách; kỹ năng soạn thảo, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP. Đồng thời, thường xuyên tổ chức các hội nghị tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; kỹ năng xây dựng chính sách, phân tích chính sách; báo cáo đánh giá tác động của chính sách; nghiệp vụ thẩm định (UBND tỉnh Hậu Giang).
Trả lời:
Thực hiện nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao trong Quyết định số 1573/QĐ-TTg ngày 11/9/2015 ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật năm 2015 và Chỉ thị số 28/CT-TTg ngày 19/11/2015 về việc triển khai thi hành Luật năm 2015, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tổ chức triển khai thi hành Luật năm 2015 với nhiều hoạt động như: tổ chức hội nghị quán triệt tinh thần, nội dung cơ bản và hội nghị tập huấn chuyên sâu với sự tham gia của đại diện tất cả các Bộ, ngành, địa phương; in ấn tài liệu phổ biến Luật năm 2015 và xây dựng sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trong cả nước.
Đối với công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về Luật năm 2015, từ khi Luật được Quốc hội thông qua, Bộ Tư pháp đã tổ chức trên 10 Hội nghị tập huấn và các lớp bồi dưỡng chuyên sâu về kỹ năng xây dựng, phân tích chính sách; đánh giá tác động của chính sách; soạn thảo, thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật… Đối tượng tham dự tập huấn, bồi dưỡng là cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND, HĐND, Sở Tư pháp, pháp chế các Sở, ngành của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong toàn quốc. Các hội nghị này tập trung giới thiệu quy định mới của Luật năm 2015 và một số kỹ năng cần thiết trong việc áp dụng các quy định đó trong công việc thực tiễn như đánh giá tác động chính sách, soạn thảo, thẩm định dự án, dự thảo văn bản; kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật.
Cùng với đó, để tạo thuận lợi cho các Bộ, ngành, địa phương trong việc áp dụng Luật năm 2015, Bộ Tư pháp đã tổ chức biên soạn các cuốn tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật mang tính “cầm tay chỉ việc”, gồm: Sổ tay hướng dẫn quy trình xây dựng chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; Sổ tay soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật và Sách hỏi - đáp về Luật năm 2015. Hiện các cuốn tài liệu nêu trên đều đang trong giai đoạn chỉnh lý, hoàn thiện.
Trong thời gian tới, sau khi hoàn thành các tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ nên trên, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu cho các Bộ, ngành, địa phương về quy trình, kỹ năng xây dựng chính sách, nghiệp vụ đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.
3. Đề nghị Bộ Tư pháp tiếp tục quan tâm, cải tiến, đơn giản hóa công tác báo cáo, rà soát lại tất cả các quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành có quy định về chế độ báo cáo, thống kê để đơn giản hóa công tác báo cáo (định kỳ 06 tháng, 01 năm chỉ nên có 1 Báo cáo chung về công tác tư pháp trong đó đã bao gồm các lĩnh vực chuyên sâu, không nên báo cáo thêm chuyên đề, sẽ chồng chéo, trùng số liệu, thông tin, lãng phí thời gian) - (UBND tỉnh: Cao Bằng, Quảng Bình)
Trả lời:
Đối với vấn đề đơn giản hóa công tác báo cáo, thực hiện Quyết định số 559/QĐ-TTg ngày 24 tháng 4 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án đơn giản hóa chế độ báo cáo trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước”, Bộ Tư pháp đã ban hành Danh mục chế độ báo cáo định kỳ thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp. Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với các địa phương tiến hành rà soát, xây dựng và thực thi phương án đơn giản hóa chế độ báo cáo, đảm bảo mục tiêu giảm tối thiểu 20% số báo cáo định kỳ không phù hợp với yêu cầu quản lý, lược bỏ những chỉ tiêu, nội dung báo cáo trùng lặp, không cần thiết, tiết kiệm chi phí trong thực hiện chế độ báo cáo thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp.
4. Đề nghị Bộ Tư pháp kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ xem xét bổ sung nguồn lực cho việc thực hiện các luật, nghị định, các chương trình, đề án nhất là các luật, nghị định, chương trình, đề án trong lĩnh vực tư pháp nhằm bảo đảm tính khả thi trên thực tế, nhất là đối với các tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách, ngân sách địa phương còn hạn hẹp, bảo đảm nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật (UBND tỉnh Cao Bằng, Quảng Bình)
Trả lời:
Thực hiện công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có nội dung thẩm định về điều kiện bảo đảm về nguồn nhân lực, tài chính để bảo đảm thi hành văn bản quy phạm pháp luật. Khi thẩm định về điều kiện bảo đảm về nguồn nhân lực, tài chính để bảo đảm thi hành văn bản quy phạm pháp luật, báo cáo thẩm định của Bộ Tư pháp thường tập trung có ý kiến đánh giá các nội dung: nguồn lực tài chính cho việc tổ chức thực hiện văn bản (chi phí mà tổ chức, cá nhân và các đối tượng áp dụng của văn bản bỏ ra khi thực hiện văn bản; chi phí cho việc xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ việc tổ chức thực hiện văn bản; chi phí cho việc thay đổi tổ chức, bộ máy, nhân sự của các cơ quan hiện hành; các chi phí khác có liên quan đến việc tổ chức thực hiện văn bản); nguồn nhân lực cho việc tổ chức thực hiện văn bản (việc thay đổi, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, nhân sự để thực hiện văn bản; phương thức xử lý đối với đội ngũ cán bộ, công chức dư thừa khi có sự tinh giảm bộ máy hoặc biện pháp bổ sung đội ngũ cán bộ, công chức khi có phát sinh bộ máy mới để thực hiện văn bản).
Từ sự đánh giá các nội dung trên, Bộ Tư pháp đều có ý kiến đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc từng nội dung để đảm bảo tính khả thi của các quy định trong văn bản.
5. Đề nghị Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan sớm trình Chính phủ về việc xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định số 55/2011/NĐ-CP theo hướng kiện toàn tổ chức bộ máy và nhân lực làm công tác pháp chế, duy trì các Phòng Pháp chế được thành lập tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh (UBND tỉnh Sóc Trăng, Sơn La)
Trả lời:
Thời gian qua, Bộ Tư pháp nhận được kiến nghị của Bộ, ngành, địa phương về việc đề nghị Bộ Tư pháp tham mưu cho Chính phủ sớm ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2011/NĐ-CP nhằm khắc phục khó khăn, vướng mắc trong công tác pháp chế và để nâng cao hiệu quả công tác này. Trên cơ sở tổng hợp báo cáo đánh giá 05 năm thực hiện Nghị định số 55/2011/NĐ-CP của các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp nhà nước, Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ Báo cáo số 188/BC-BTP ngày 30/6/2017 về đánh giá 05 năm thực hiện công tác pháp chế theo Nghị định số 55/2011/NĐ-CP. Báo cáo đã tập trung làm rõ kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế của công tác pháp chế qua 05 năm thực hiện Nghị định số 55/2011/NĐ-CP và đã đề xuất, kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác pháp chế; trong đó, đã có kiến nghị, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc kiện toàn tổ chức pháp chế và nhân lực làm công tác pháp chế, tiếp tục duy trì các Phòng Pháp chế v.v.... Trong khi chưa có ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đề nghị các địa phương: không sử dụng biên chế cho các vị trí việc làm khác; không tuyển dụng người không đủ tiêu chuẩn làm cán bộ pháp chế; không bố trí những người không có năng lực làm công tác pháp chế; tăng cường năng lực cho cán bộ pháp chế. Sau khi có ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp sẽ tổ chức thực hiện để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác pháp chế trong thời gian tới.
6. Đề nghị Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính sớm xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với người làm công tác pháp chế theo quy định tại Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 55/2011/NĐ-CP (UBND tỉnh Sóc Trăng, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Bộ Thông tin & Truyền thông).
Trả lời:
Ngay sau khi Nghị định số 55/2011/NĐ-CP có hiệu lực, Bộ Tư pháp đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng và ban hành Kế hoạch triển khai thi hành (Quyết định số 1477/QĐ-BTP ngày 23/8/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp), theo đó, Bộ Tư pháp có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ nghiên cứu, xây dựng dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định chế độ phụ cấp theo nghề đối với người làm công tác pháp chế. Trên cơ sở ý kiến thống nhất của đa số các Bộ, ngành, ngày 06/12/2011, Bộ Tư pháp đã trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Quyết định về chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với người làm công tác pháp chế (Tờ trình số 42/TTr-BTP). Sau đó, tại các Phiên họp của Chính phủ về xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp đã nhiều lần kiến nghị về vấn đề này. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, ngày 27/5/2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Kết luận số 63-KL/TW ngày 27/5/2013 về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020. Thực hiện Kết luận số 63-KL/TW, Chính phủ chỉ đạo nghiên cứu việc ban hành chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề sẽ được xử lý trong Đề án cải cách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp.
Để khuyến khích, động viên đội ngũ những người làm công tác pháp chế ở Bộ, ngành, địa phương, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành đưa ra nhiều giải pháp như: ban hành một số VBQPPL quy định mới, điều chỉnh tăng mức kinh phí chi cho một số hoạt động liên quan đến công tác pháp chế như: về việc quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác điều ước quốc tế và công tác thỏa thuận quốc tế (Thông tư số 129/2013/TT-BTC ngày 18/9/2013); lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác hợp nhất VBQPPL và pháp điển, hệ thống văn bản QPPL (Thông tư liên tịch số 192/2013/TTLT-BTC-BTP ngày 13/12/2013); hướng dẫn lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng VBQPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật (Thông tư liên tịch số 92/2014/TTLT-BTC-BTP-VPCP ngày 14/7/2014)... Đặc biệt, Luật ban hành văn bản VBQPPL năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ đã quy định về việc bảo đảm kinh phí cho công tác xây dựng VBQPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó quy định về nguồn kinh phí; nguyên tắc bảo đảm kinh phí; lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho xây dựng VBQPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Căn cứ Luật năm 2015 và Nghị định số 34, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 338/2016/TT-BTC ngày 28/12/2016 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng VBQPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó đã bổ sung nhiều nội dung chi và mức chi cho các hoạt động xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu các điều kiện bảo đảm, trong đó có chế độ ưu đãi đối với cán bộ, công chức làm công tác pháp chế để bảo đảm phù hợp với quy định của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP.
7. Đề nghị Bộ Tư pháp có văn bản hướng dẫn thống nhất việc xác định thế nào là một VBQPPL, thế nào là văn bản quy định chi tiết; về thẩm quyền quy định thủ tục hành chính; về căn cứ, thẩm quyền ban hành VBQPPL của HĐND, UBND các cấp; việc lập, công bố danh mục văn bản quy định chi tiết thi hành hết hiệu lực (UBND tỉnh Gia Lai)
Trả lời:
Về thế nào là một văn bản quy phạm pháp luật: Luật năm 2015 đã quy định cụ thể về khái niệm văn bản quy phạm pháp luật tại Điều 2: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này”. Khoản 1 Điều 3 Luật năm 2015 giải thích “Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện”. Như vậy, Luật năm 2015 đã quy định khá rõ về quy phạm pháp luật và VBQPPL.
Theo định nghĩa trên thì dấu hiệu đầu tiên và quan trọng nhất để nhận biết một VBQPPL là văn bản đó có chứa đựng "quy phạm pháp luật” hay không? xác định yếu tố “chứa đựng quy phạm pháp luật" là công việc đầu tiên cần được thực hiện trong toàn bộ quá trình xây dựng, ban hành một VBQPPL. Nếu văn bản cần ban hành có chứa “quy phạm pháp luật” thì việc soạn thảo, ban hành văn bản đó phải tuân theo trình tự, thủ tục của việc ban hành VBQPPL. Ngược lại, nếu không chứa quy phạm pháp luật thì việc soạn thảo và ban hành văn bản đó không phải tuân theo trình tự, thủ tục soạn thảo của VBQPPL. Cần lưu ý “chứa đựng quy phạm pháp luật” được hiểu là ngay cả khi văn bản đó chỉ chứa duy nhất một quy phạm pháp luật.
Về văn bản quy định chi tiết: Luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật không quy định khái niệm về văn bản quy định chi tiết. Tuy nhiên qua thực tiễn xây dựng pháp luật có thể thấy rằng văn bản quy định chi tiết là văn bản quy định cụ thể các nội dung được giao trong các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên.
Về thẩm quyền quy định thủ tục hành chính: theo quy định tại Khoản 4 Điều 14 của Luật năm 2015 thì thẩm quyền quy định thủ tục hành chính thuộc từ Thủ tướng Chính phủ trở lên, trừ trường hợp được giao trong luật thì được phép quy định thủ tục hành chính trong “Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện, quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã, quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã”.
Về căn cứ, thẩm quyền ban hành VBQPPL của HĐND, UBND: Điều 61 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP đã quy định cụ thể. Theo đó căn cứ ban hành văn bản là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn đang có hiệu lực hoặc đã được công bố hoặc ký ban hành chưa có hiệu lực nhưng phải có hiệu lực trước hoặc cùng thời điểm với văn bản được ban hành. Căn cứ ban hành văn bản bao gồm VBQPPL quy định thẩm quyền, chức năng của cơ quan ban hành văn bản đó và VBQPPL có hiệu lực pháp lý cao hơn quy định nội dung, cơ sở để ban hành văn bản.
Về việc lập, công bố danh mục văn bản quy định chi tiết hết hiệu lực: Điều 38 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP đã quy định cụ thể. Theo đó, ở địa phương UBND các cấp có trách nhiệm: Lập, công bố theo thẩm quyền hoặc trình Thường trực HĐND cùng cấp công bố danh mục văn bản quy định chi tiết thi hành hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần do mình ban hành và do HĐND cùng cấp ban hành trước ngày văn bản được quy định chi tiết hết hiệu lực; Ban hành theo thẩm quyền hoặc đề xuất HĐND cùng cấp ban hành văn bản để thay thế văn bản quy định chi tiết hết hiệu lực toàn bộ.
8. Đề nghị Bộ Tư pháp kịp thời thông báo bằng văn bản cho HĐND, UBND tỉnh về Danh mục các nội dung giao cho địa phương quy định chi tiết theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 28 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP (UBND tỉnh Gia Lai).
Trả lời:
Thực hiện quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 28 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP về trách nhiệm của Bộ Tư pháp thông báo bằng văn bản cho HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về danh mục các nội dung giao cho địa phương quy định chi tiết, ngay từ khi Luật, nghị định có hiệu lực Bộ Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, cơ quan ngang Bộ thường xuyên rà soát các luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH để xác định các nội dung giao cho địa phương quy định chi tiết.
Tính từ thời điểm Luật năm 2015 có hiệu lực (1/7/2016) đến nay thì tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khóa XIV, qua rà soát không có nội dung nào trong các luật, nghị quyết giao cho địa phương quy định chi tiết, nên Bộ Tư pháp không thông báo.
Tại kỳ họp thứ 3, qua rà soát cho thấy có một số nội dung trong các luật, nghị quyết có giao cho địa phương quy định chi tiết nên Bộ Tư pháp đã có Công văn số 2804/BTP-VDCXDPL ngày 10/8/2017 (có kèm theo danh mục cụ thể) gửi HĐND, UBND 63 tỉnh, thành phố thông báo danh mục các nội dung giao địa phương quy định chi tiết các luật, nghị quyết được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 3.
Ngay sau khi kỳ họp thứ 4 của Quốc hội kết thúc, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ rà soát các nội dung trong các luật, nghị quyết có giao cho Chính phủ, các Bộ, các địa phương quy định chi tiết. Nếu có nội dung giao cho địa phương quy định chi tiết, Bộ Tư pháp sẽ kịp thời có văn bản thông báo cho HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
9. Hiện nay, số lượng cán bộ, công chức của Vụ Pháp chế - Bộ Công Thương và một số doanh nghiệp chưa có văn bằng luật chiếm số lượng nhất định, tuy nhiên, khi xây dựng cơ chế, chính sách, cán bộ pháp chế không chỉ cần các kỹ năng pháp chế mà bên cạnh đó rất cần các kiến thức chuyên môn của các lĩnh vực đó. Vì vậy, đề nghị Bộ Tư pháp khi xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2011/NĐ-CP cần có cơ chế công nhận các cán bộ, công chức đã có kinh nghiệm, thời gian tham gia công tác pháp chế nhất định tương đương với cán bộ, công chức có trình độ cử nhân luật để thuận lợi cho nhiệm vụ công tác của các tổ chức pháp chế (Bộ Công Thương).
Trả lời:
Cán bộ pháp chế không chỉ cần có kỹ năng công tác pháp chế mà cần phải có kiến thức chuyên sâu trong các lĩnh vực pháp luật có liên quan. Hiện nay, nguồn cử nhân luật có khá nhiều, đề nghị các Bộ, ngành tuyển dụng mỗi vị trí pháp chế phải đúng quy định của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, tạo điều kiện cho cán bộ pháp chế đi học luật nhằm chuẩn hóa đội ngũ người làm công tác pháp chế của Bộ, ngành theo quy định của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP.
Bộ Tư pháp đã xây dựng Báo cáo Chính phủ về việc đánh giá 05 năm thực hiện công tác pháp chế theo quy định của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP (Báo cáo số 188/BC-BTP ngày 30/6/2017). Trong Báo cáo này, Bộ Tư pháp đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ về khó khăn, vướng mắc trong công tác pháp chế và có các kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác pháp chế trong thời gian tới. Đồng thời, Báo cáo đã có kiến nghị, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc kiện toàn tổ chức pháp chế và nhân lực làm công tác pháp chế. Sau khi có ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp sẽ tổ chức thực hiện để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác pháp chế trong thời gian tới.
Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, tham mưu, sớm trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2011/NĐ-CP với các nội dung quan trọng như đã nêu ở trên. Tuy vậy, là cán bộ pháp chế thì yêu cầu hàng đầu là phải có kiến thức pháp luật.
10. Đề nghị Bộ Tư pháp tăng cường tổ chức tập huấn nghiệp vụ liên quan đến công tác pháp chế, tổ chức các đoàn khảo sát, học tập kinh nghiệm của nước ngoài về xây dựng pháp luật trong các lĩnh vực quản lý nhà nước chuyên ngành, trên cơ sở đó tạo điều kiện để các cán bộ làm công tác pháp chế nắm rõ hơn thực tế thi hành pháp luật nhằm tăng cường hiệu quả xây dựng các chính sách pháp luật phù hợp (Bộ Công Thương, Bộ Thông tin & Truyền thông).
Trả lời:
Việc nâng cao trình độ cho cán bộ pháp chế là hết sức cần thiết và thuộc trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương đang quản lý đội ngũ cán bộ pháp chế.
Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ người làm công tác pháp chế luôn được Bộ Tư pháp xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ người làm công tác pháp chế ở các Bộ, ngành, địa phương. Từ năm 2011 đến tháng 6/2017, Bộ Tư pháp đã tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho hàng nghìn lượt cán bộ, công chức tư pháp, pháp luật cả Trung ương và địa phương, trong đó đã đổi mới nội dung, phương pháp tập huấn chuyên sâu với nhiều hình thức, biên soạn nhiều tài liệu, cuốn sổ tay, cẩm nang về công tác pháp chế cho đội ngũ người làm công tác pháp chế ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tổ chức pháp chế ở các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh với nhiều nội dung quan trọng, thiết thực như: kỹ năng xây dựng, góp ý, thẩm định, kiểm tra, rà soát VBQPPL, hợp nhất, pháp điển VBQPPL, xử lý vi phạm hành chính, theo dõi thi hành pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật... Hằng năm, Bộ Tư pháp cử các đoàn công tác đi khảo sát kinh nghiệm của nước ngoài trong một số lĩnh vực công tác tư pháp...
Thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với các Bộ, ngành và các cơ quan có liên quan để tiếp tục tổ chức hội nghị, hội thảo, lớp bồi dưỡng, lớp tập huấn về công tác pháp chế, pháp luật cho cán bộ, công chức làm công tác pháp chế ở các bộ, ngành, địa phương; tạo điều kiện để tổ chức pháp chế bộ, ngành, địa phương học tập, trao đổi kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ này để thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.
11. Đề nghị Bộ Tư pháp khẩn trương tiến hành tổng kết và sửa đổi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 để giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật mà các Bộ đã gửi Bộ Tư pháp (Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn).
Trả lời:
Luật năm 2015 có nhiều quy định mới với yêu cầu cao hơn, chặt chẽ hơn đối với các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là quy trình xây dựng chính sách trước khi soạn thảo. Do vậy, trong thời gian đầu thi hành Luật năm 2015, một số Bộ, ngành, địa phương còn gặp khó khăn, lúng túng nhất định trong việc áp dụng Luật. Ngày 21/4/2017, Bộ Tư pháp đã trình Thủ tướng Chính phủ Báo cáo số 118/BC-BTP về việc xử lý khó khăn, vướng mắc trong triển khai thi hành Luật năm 2015. Trên cơ sở báo cáo của Bộ Tư pháp, ngày 08/9/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công văn số 1362/TTg-PL chỉ đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành VBQPPL. Trong đó, giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan của Quốc hội nghiên cứu về sự cần thiết và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật năm 2015.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã gửi Công văn số 4973/BTP-VĐCXDPL ngày 27/10/2017 đề nghị các Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND cấp tỉnh báo cáo về khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện quy định của Luật năm 2015. Đến nay, đã có 16/22 Bộ, cơ quan ngang Bộ, 61/63 địa phương gửi Báo cáo. Đồng thời, Bộ Tư pháp đã tổ chức 02 Hội thảo để đánh giá tình hình thi hành Luật ở Trung ương và địa phương, đồng thời thảo luận về một số định hướng hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL trong thời gian tới. Trên cơ sở ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học và qua theo dõi, kiểm tra công tác xây dựng, ban hành VBQPPL, Bộ Tư pháp đang soạn thảo Báo cáo về sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật năm 2015 để trình Chính phủ trong Quý IV/2017.
12. Thông tấn xã Việt Nam đánh giá cao các khóa bồi dưỡng kỹ năng xây dựng văn bản do Bộ Tư pháp tổ chức trong năm 2017. Tuy nhiên, việc tổ chức và đào tạo các kỹ năng mềm về tư vấn, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (đặc biệt là mảng pháp luật quốc tế; kỹ năng đàm phán và ký kết hợp đồng) hiện nay là rất cần thiết đối với đội ngũ pháp chế. Vì vậy, đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, có thể tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn hoặc biên soạn các tài liệu nghiệp vụ về các lĩnh vực này để pháp chế các Bộ, ngành có thể nghiên cứu, áp dụng trong công tác chuyên môn (Thông tấn xã Việt Nam).
Trả lời:
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ người làm công tác pháp chế luôn được Bộ Tư pháp xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ người làm công tác pháp chế ở các Bộ, ngành, địa phương. Thời gian quan, Bộ Tư pháp đã có những đổi mới về nội dung, phương pháp tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu với nhiều hình thức, biên soạn nhiều tài liệu, cuốn sổ tay, cẩm nang về nghiệp vụ công tác pháp chế cho đội ngũ người làm công tác pháp chế ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tổ chức pháp chế ở các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh. Thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2015-2020, Bộ Tư pháp tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng, tập huấn kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ pháp chế ở Bộ, ngành, địa phương với nhiều chủ đề, trong đó có chủ đề liên quan đến kỹ năng đàm phán và ký kết hợp đồng; giải quyết tranh chấp...Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu ngắn hạn và dài hạn cho cán bộ pháp chế các Bộ, ngành, địa phương. Việc đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng luôn được Bộ Tư pháp đặt ra (không chỉ đào tạo, tập huấn chuyên sâu về các lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ mà còn tập trung vào các kỹ năng mềm cho cán bộ pháp chế).
Thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế Bộ, ngành, địa phương, theo đó, bộ sẽ quan tâm hơn đến việc tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng mềm cho cán bộ pháp chế Bộ, ngành, địa phương (trong đó có kỹ năng đàm phán, ký kết hợp đồng; pháp luật quốc tế v..v...) với các nội dung thiết thực, phục vụ cho việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao của tổ chức pháp chế, người làm công tác pháp chế.
13. - Do đặc thù của công tác pháp chế là khối lượng công việc lớn, tính chất đa dạng, phức tạp, nhiều công việc đột xuất, đòi hỏi có đủ số lượng công chức có trình độ, năng lực, do đó, đề nghị Bộ Tư pháp kiến nghị Thủ tướng Chính phủ: quan tâm đến việc chỉ đạo tăng biên chế công chức làm pháp chế, chỉ đạo đảm bảo nguồn lực và ngân sách cho công tác pháp chế; bảo đảm kinh phí cho hoạt động pháp chế cho phù hợp với các văn bản hướng dẫn của Bộ Tư pháp (Thanh tra Chính phủ).
- Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ và các bộ, ngành liên quan để tổ chức nghiên cứu đề ra số lượng biên chế cũng như cơ cấu tổ chức của các tổ chức pháp chế trực thuộc các bộ, một số doanh nghiệp nhà nước lớn, công tác pháp chế được tiến hành ổn định, nhanh chóng, thường xuyên và đúng pháp luật (Bộ Thông tin và Truyền thông).
Trả lời:
- Về việc đề nghị xây dựng cơ chế bổ sung biên chế làm công tác pháp chế:
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề biên chế, tinh giản biên chế trong bộ máy nhà nước, do đó, đã ban hành nhiều văn bản về vấn đề này như: Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Nghị quyết số 53/2013/QH13 ngày 11/11/2013 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014. Theo tinh thần các văn bản nêu trên thì về cơ bản giữ ổn định cơ cấu tổ chức Chính phủ và tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện và tiếp tục thực hiện chủ trương tinh giản biên chế, cơ bản không tăng tổng biên chế của cả hệ thống chính trị (trừ trường hợp lập thêm tổ chức hoặc được giao nhiệm vụ mới). Thực hiện các chủ trương trên, Bộ Tư pháp đã tiến hành tổng rà soát về công tác tổ chức, cán bộ; thực hiện Đề án vị trí việc làm, tinh giản biên chế để có đề xuất, kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, biên chế cho phù hợp với thực tế hiện nay, trong đó có biên chế, công chức làm công tác pháp chế.
Đối với công tác pháp chế ở các Bộ, ngành, trước hết cần phải được thực hiện đúng quy định của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP và các văn bản khác liên quan đến công tác này. Theo đó, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tiếp tục duy trì tổ chức pháp chế; đồng thời, căn cứ tình hình cụ thể của mỗi Bộ, ngành để sắp xếp, bố trí, ổn định đội ngũ cán bộ bảo đảm đủ về số lượng, chất lượng phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, căn cứ vào nhu cầu công tác pháp chế, lãnh đạo doanh nghiệp quyết định việc thành lập tổ chức pháp chế hoặc bố trí nhân viên làm công tác pháp chế chuyên trách.
Do vậy, để bố trí biên chế cho tổ chức pháp chế tại Bộ, ngành - trong đó có Thanh tra Chính phủ, đề nghị các Bộ, ngành, doanh nghiệp nhà nước quan tâm tạo điều kiện để bố trí, sắp xếp biên chế làm công tác pháp chế tại các đơn vị thuộc cơ quan trong tổng số biên chế được giao.
Thực tế hiện nay, một số địa phương đã sử dụng biên chế làm công tác pháp chế để tuyển dụng vị trí việc làm khác; giao cán bộ khác kiêm nhiệm làm công tác pháp chế, như vậy là không đúng với quy định của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP. Về việc này, thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với Bộ Nội vụ để kiểm tra việc tuyển dụng, bố trí biên chế làm công tác pháp chế để có giải pháp phù hợp.
- Về việc chỉ đạo đảm bảo nguồn lực và ngân sách cho công tác pháp chế; bảo đảm kinh phí cho hoạt động pháp chế cho phù hợp với các văn bản hướng dẫn của Bộ Tư pháp:
Để bảo đảm kinh phí cho hoạt động của tổ chức pháp chế, bảo đảm nguồn lực và ngân sách cho công tác pháp chế, thời gian qua, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành đưa ra nhiều giải pháp như: ban hành một số VBQPPL quy định mới, điều chỉnh tăng mức kinh phí chi cho một số hoạt động liên quan đến công tác pháp chế như: về việc quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác điều ước quốc tế và công tác thỏa thuận quốc tế (Thông tư số 129/2013/TT-BTC ngày 18/9/2013); lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác hợp nhất VBQPPL và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật (Thông tư liên tịch số 192/2013/TTLT-BTC-BTP ngày 13/12/2013); hướng dẫn lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng VBQPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật (Thông tư liên tịch số 92/2014/TTLT-BTC-BTP-VPCP ngày 14/7/2014)... Đặc biệt, Luật ban hành VBQPPL năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ đã quy định về việc bảo đảm kinh phí cho công tác xây dựng VBQPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó quy định về nguồn kinh phí; nguyên tắc bảo đảm kinh phí; lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Căn cứ Luật năm 2015 và Nghị định số 34, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 338/2016/TT-BTC ngày 28/12/2016 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng VBQPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật thay thế Thông tư số 92. Thông tư mới đã bổ sung nhiều nội dung chi và mức chi cho các hoạt động xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Căn cứ các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, tổ chức pháp chế các Bộ, ngành có cơ sở pháp lý vững chắc để triển khai thực hiện các nhiệm vụ của tổ chức pháp chế. Thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành nghiên cứu để có nhiều giải pháp hơn nữa để đảm bảo nguồn lực và ngân sách cho công tác pháp chế.
14. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp tham mưu cho Chính phủ đánh giá 5 năm thi hành Luật Thủ đô (Đồng chí Lê Hồng Sơn, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội).
Trả lời:
Luật Thủ đô có hiệu lực từ ngày 01/7/2013. Việc tổng kết 05 năm thi hành Luật này là hết sức cần thiết để đánh giá, nhìn nhận tổng thể kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế, làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành Luật này và hoàn thiện pháp luật về Thủ đô nói chung cho phù hợp với tình hình mới.
Hiện tại, Bộ Tư pháp đã có chủ trương Tổng kết 05 năm thi hành Luật Thủ đô. Trong thời gian tới, Bộ sẽ chủ động phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội xây dựng và thực hiện Kế hoạch liên tịch giữa hai cơ quan để triển khai việc tổng kết. Kế hoạch sẽ phân công cụ thể trách nhiệm chủ trì, phối hợp thực hiện các nhiệm vụ có liên quan và dự kiến ban hành sớm trong Quý I/2018.
Trên cơ sở kết quả tổng kết thi hành Luật Thủ đô, kết quả nghiên cứu, đánh giá tác động của các chính sách có liên quan, Bộ Tư pháp sẽ thống nhất với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và các cơ quan có liên quan, báo cáo xin ý kiến Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật.
15. Khó khăn trong triển khai thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015: Điều 14 cấm ban hành thủ tục hành chính trong thông tư, trừ trường hợp được luật giao. Đây là quy định tốt, nhưng từng lĩnh vực cụ thể thì chưa phát huy hết, nhất là trong lĩnh vực có tính “động (Đồng chí Vũ Huy Khánh, Phó Cục trưởng Cục pháp chế và Cải cách tư pháp, hành chính, Bộ Công an).
Trả lời:
Đúng như Đại biểu nêu, theo quy định tại Khoản 4 Điều 14 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (Luật năm 2015) thì từ ngày 01/7/2016 trở đi Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa phương chỉ được quy định thủ tục hành chính trong trường hợp được luật giao. Luật năm 2015 bổ sung quy định này là nhằm hạn chế (không phải cấm tuyệt đối) đặt ra thủ tục hành chính trong thông tư và văn bản quy phạm pháp luật của địa phương nhằm góp phần tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng, thuận lợi, bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp.
Trong thời gian đầu thực hiện quy định nêu trên của Luật năm 2015, một số Bộ, ngành, địa phương đã gặp khó khăn, vướng mắc trong việc xác định các trường hợp được quy định thủ tục hành chính và việc sửa đổi, bổ sung quy định về thủ tục hành chính trong thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản quy phạm pháp luật của địa phương.
Ngày 28/11/2016, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 4218/BTP-VĐCXDPL trả lời về một số quy định của Luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP gửi các Bộ, cơ quan ngang Bộ và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó có nội dung trả lời về việc quy định thủ tục hành chính trong một số văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về các trường hợp được quy định thủ tục hành chính trong thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và văn bản quy phạm pháp luật của địa phương
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 14 của Luật năm 2015 thì kể từ ngày 01/7/2016, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương chỉ được quy định thủ tục hành chính khi được giao trong luật, không phải được giao trong các văn bản dưới luật và phải được giao một cách trực tiếp trong luật, không phải suy luận từ chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan.
Thực tế hiện nay một số luật được ban hành trước ngày Luật năm 2015 có hiệu lực giao Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ quy định chi tiết thi hành một hoặc một số nội dung cụ thể, mà không trực tiếp giao quy định thủ tục hành chính. Trong khi đó, để thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ, ngành cần phải quy định thủ tục hành chính. Do vậy, để thực hiện nhiệm vụ đã được giao trong các luật ban hành trước ngày 01/7/2016, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước của bộ, ngành, địa phương, các Bộ, ngành, địa phương có thể quy định thủ tục hành chính trong trường hợp luật giao quy định chi tiết nội dung cụ thể của luật mà phát sinh thủ tục hành chính.
Trong thời gian tới, để bảo đảm thực hiện nghiêm quy định tại Khoản 4 Điều 14 của Luật năm 2015, trường hợp cần giao quy định thủ tục hành chính thì cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật phải thiết kế rõ nội dung giao quy định về thủ tục hành chính ngay tại Điều, Khoản cụ thể của dự thảo luật.
Thứ hai, về việc sửa đổi, bổ sung quy định về thủ tục hành chính trong thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản quy phạm pháp luật của địa phương:
Khoản 4 Điều 172 của Luật năm 2015 có quy định chuyển tiếp như sau: “Những quy định về thủ tục hành chính trong văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan, người có thẩm quyền quy định tại Khoản 4 Điều 14 của Luật này ban hành trước ngày Luật này có hiệu lực thì tiếp tục được áp dụng cho đến khi bị bãi bỏ bằng văn bản khác hoặc bị thay thế bằng thủ tục hành chính mới”. Như vậy, Khoản 4 Điều 172 của Luật năm 2015 đã quy định rõ để áp dụng thống nhất. Thực tiễn công tác quản lý nhà nước của Bộ, ngành, địa phương có thể phát sinh nhu cầu sửa đổi, bổ sung một số nội dung của thủ tục hành chính đã ban hành. Tuy nhiên, việc sửa đổi, bổ sung này chỉ được thực hiện nếu không làm phát sinh thủ tục hành chính mới ngoài phạm vi thủ tục hành chính được luật giao và không làm phức tạp thêm thủ tục hành chính đang áp dụng.
Thời gian tới, để thực hiện nghiêm Luật năm 2015, đề nghị các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát các quy định thủ tục hành chính đã ban hành để có lộ trình bãi bỏ theo thẩm quyền hoặc đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật để quy định về các thủ tục hành chính đó.
Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục theo dõi, thu thập phản ánh, kiến nghị của bộ, ngành, địa phương về khó khăn vướng trong quá trình thực hiện Luật năm 2015 để chuẩn bị sơ kết hai năm thi hành Luật, trên cơ sở đó nghiên cứu, đề xuất phương án xử lý phù hợp.
16. Đề nghị Bộ Tư pháp tiếp tục phối hợp xây dựng các dự án trong chương trình, nhất là Luật Công an nhân dân (sửa đổi) theo hướng rút Luật Công an xã khỏi chương trình và đưa các nội dung đó vào Luật Công an nhân dân (sửa đổi). Tiếp tục quan tâm tập huấn nghiệp vụ, nhất là xây dựng các báo cáo trong hồ sơ xây dựng pháp luật theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới (Đồng chí Vũ Huy Khánh, Phó Cục trưởng Cục pháp chế và Cải cách tư pháp, hành chính, Bộ Công an).
Trả lời:
- Về dự án Luật Công an xã:
Theo Nghị quyết số 34/2017/QH14 của Quốc hội về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018, thì dự án Luật Công an xã đã được đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019, trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6.
Thời gian qua, Bộ Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an trong việc lập đề nghị xây dựng dự án Luật Công an nhân dân (sửa đổi), trong đó dự kiến đề xuất đưa nội dung dự án Luật Công an xã vào dự án Luật Công an nhân dân (sửa đổi) và đề nghị Quốc hội cho phép rút dự án Luật Công an xã ra khỏi chương trình năm 2018 và bổ sung dự án Luật Công an nhân dân (sửa đổi) vào chương trình năm 2018 để thay thế. Đề nghị xây dựng dự án Luật Công an nhân dân (sửa đổi) đã được Bộ Tư pháp thẩm định. Sau khi Chính phủ xem xét, thông qua đề nghị, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với Bộ Công an để tổng hợp, đề xuất Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung vào chương trình năm 2019, đồng thời xin rút dự án Luật Công an xã ra khỏi chương trình năm 2019.
- Về tập huấn nghiệp vụ, nhất là xây dựng các báo cáo trong hồ sơ xây dựng pháp luật theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới:
Công tác tập huấn chuyên sâu Luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 34) đã được Bộ Tư pháp, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy banh nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiến hành bài bản. Nhận thức rằng, yếu tố con người là vấn đề then chốt quyết định chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật, do đó, Bộ Tư pháp đã tập trung tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ xây dựng chính sách, đánh giá tác động của chính sách, kỹ năng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật cho các cán bộ trực tiếp làm công tác xây dựng chính sách, soạn thảo, thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật ở cả Trung ương và địa phương nhằm cung cấp kỹ năng, thông tin những vấn đề mới và giải đáp các vướng mắc trong quá trình thực hiện quy định của Luật năm 2015. Đồng thời, Bộ Tư pháp đã chủ trì xây dựng một số tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ và hướng dẫn kỹ năng cần thiết cho cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật như: Sổ tay xây dựng chính sách trong đề nghị xây dựng pháp luật; Sổ tay đánh giá tác động của chính sách và Sổ tay soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật; Sách Hỏi đáp Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Trong năm 2018, Bộ Tư pháp sẽ tổ chức các lớp đào tạo giảng viên nguồn về xây dựng chính sách và soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật cho Bộ, ngành và địa phương.
1. Đề nghị Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức các hội nghị tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật cho cán bộ, công chức ở các Bộ, ngành và địa phương (UBND tỉnh Hậu Giang, Bộ Thông tin & Truyền thông; Bộ Lao động Thương binh & Xã hội).
Trả lời:
Hàng năm, Bộ Tư pháp (Học viện Tư pháp) đều tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL), trong đó có công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện công tác pháp chế các Bộ, ngành và địa phương. Mặt khác, tại các hội nghị, hội thảo, tọa đàm liên quan đến công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL do Bộ Tư pháp (Cục Kiểm tra văn bản QPPL) chủ trì tổ chức, Bộ luôn lồng ghép nội dung tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ chuyên sâu về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản. Riêng trong năm 2017, Bộ Tư pháp (Cục Kiểm tra văn bản QPPL) đã tổ chức các hội thảo: Hội thảo nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL và đội ngũ cộng tác viên; Hội thảo chuyên sâu về kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản QPPL trong lĩnh vực hải quan, thuế, phí, lệ phí; Hội thảo chuyên sâu về kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản QPPL trong lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội; Hội thảo lấy ý kiến góp ý đối với dự thảo Sổ tay tình huống nghiệp vụ kiểm tra, xử lý văn bản QPPL... Các hội thảo này đều có thành phần là đại diện tổ chức pháp chế các Bộ, ngành và Sở Tư pháp một số địa phương (trong đó một số hội thảo có đại diện Sở Tư pháp Hậu Giang tham dự). Tại các hội thảo nêu trên, bên cạnh nội dung trọng tâm của hội thảo, Bộ Tư pháp (Cục Kiểm tra văn bản QPPL) luôn dành phần lớn thời gian cho việc hướng dẫn nghiệp vụ chuyên sâu thông qua việc giải đáp những khó khăn, vướng mắc của các đại biểu tham dự về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản.
Ngoài ra, theo đề nghị của các Bộ, ngành, địa phương, hàng năm, Bộ Tư pháp (Cục Kiểm tra văn bản QPPL) đã thường xuyên cử các Báo cáo viên đến tham dự, tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về kỹ năng, nghiệp vụ kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL tại các hội nghị tập huấn do các Bộ, ngành, địa phương tổ chức[1].
Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp (Cục Kiểm tra văn bản QPPL) sẽ tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ về kỹ năng, nghiệp vụ kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL cho đội ngũ công chức làm công tác này tại các Bộ, ngành, địa phương. Tuy nhiên, để nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ cho các công chức trực tiếp thực hiện các công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL tại các Bộ, ngành, địa phương thì ngoài việc Bộ Tư pháp tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ cũng rất cần các Bộ, ngành, địa phương chủ động tổ chức các lớp tập huấn về công tác này. Vì vậy, Bộ Tư pháp đề nghị các Bộ, ngành, địa phương quan tâm thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL trong phạm vi Bộ, ngành, địa phương mình và Bộ Tư pháp sẽ bố trí cử các Báo cáo viên tham gia tập huấn theo đề nghị của Bộ, ngành, địa phương.
2. Đề nghị tiếp tục hoàn thiện thể chế về kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Đồng chí Lê Thị Kim Dung - Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Giáo dục và Đào tạo).
Trả lời:
Hiện nay, công tác kiểm tra văn bản văn bản quy phạm pháp luật được quy định khá đầy đủ, đồng bộ tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn chi tiết tại Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Kinh phí bảo đảm cho hoạt động kiểm tra văn bản đã được thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BTP-BTC ngày 17/8/2011 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật.
Việc hoàn thiện hệ thống thể chế về kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật luôn được Bộ Tư pháp quan tâm. Cuối năm 2017, Bộ Tư pháp (Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật) đã tổ chức một số hội thảo, tọa đàm đánh giá về việc thực hiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 nhằm đưa ra các giải pháp hoàn thiện Luật, trong đó có nội dung về kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng đang phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Thông tư liên tịch số 122/2011/TTLT-BTP-BTC.
3. Tiếp tục phối hợp, tăng cường tổ chức các đoàn kiểm tra địa phương; tăng cường tập huấn trong kiểm tra văn bản (Đồng chí Lê Thị Kim Dung - Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Giáo dục và Đào tạo).
Trả lời:
Trong năm 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức 02 đoàn kiểm tra văn bản tại 05 địa phương, mở 02 lớp tập huấn cho cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật tại Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cục Kiểm tra văn bản đã phối hợp, cử công chức, báo cáo viên tham dự tất cả các hoạt động nêu trên.
Bên cạnh đó, hằng năm, Bộ Tư pháp (Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật) đều có kế hoạch kiểm tra văn bản theo chuyên đề, địa bàn tại một số bộ ngành, địa phương; Bộ Tư pháp (Học viện Tư pháp) cũng tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện công tác pháp chế các Bộ, ngành và địa phương. Mặt khác, tại các Hội nghị, hội thảo, tọa đàm liên quan đến công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật do Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật chủ trì tổ chức luôn mời thành phần là đại diện Vụ Pháp chế Bộ Giáo dục và Đào tạo, Cục luôn lồng ghép nội dung tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ chuyên sâu về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản. Thời gian tới, Cục sẽ tiếp tục tăng cường các hoạt động nêu trên.
III. LĨNH VỰC QUẢN LÝ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ THEO DÕI THI HÀNH PHÁP LUẬT
1. Đề nghị Bộ Tư pháp tiếp tục tham mưu hoàn thiện thể chế về xử lý vi phạm hành chính để phù hợp với thực tiễn thi hành và để quản lý tốt công tác xử lý vi phạm hành chính trên phạm vi toàn tỉnh cũng như toàn quốc; tham mưu Chính phủ trình Quốc hội bổ sung đối tượng vi phạm “hộ gia đình” vào Luật Xử lý vi phạm hành chính; xem xét, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, đặc biệt là trường hợp cai nghiện bắt buộc, bảo đảm phù hợp với thực tế, khả thi (UBND tỉnh: Hà Tĩnh, Kiên Giang).
Trả lời:
Hiện nay, Bộ Tư pháp đang tiến hành tổng kết Luật xử lý vi phạm hành chính trên phạm vi toàn quốc để làm rõ những khó khăn, vướng mắc, hạn chế, bất cập trong việc thực hiện Luật xử lý vi phạm hành chính. Trên cơ sở kết quả tổng kết thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ trình Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật xử lý vi phạm hành chính. Vì vậy, Bộ Tư pháp xin ghi nhận kiến nghị này của các địa phương và sẽ tổng hợp, nghiên cứu báo cáo Chính phủ trong thời gian tới.
2. Đề nghị Bộ Tư pháp kịp thời hoàn thiện dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật trình Chính phủ ban hành để có cơ sở thực hiện tốt và nâng cao hiệu quả công tác này (UBND tỉnh Hà Tĩnh).
Trả lời:
Theo Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 04/02/2016 của Chính phủ về Phiên hợp Chính phủ thường kỳ tháng 01/2016, Bộ Tư pháp được giao chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan có liên quan nghiên cứu, xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi thi hành pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Bộ Tư pháp nhận thấy nếu chỉ sửa đổi ở tầm Nghị định thì cơ bản không thể giải quyết được những vướng mắc mà hiện nay công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật đang gặp phải, mà cần phải có sự nghiên cứu, đánh giá, tổng kết, rút ra được những giải pháp có tính chất căn cơ hơn nữa để giải quyết được gốc rễ vấn đề. Do vậy, cuối năm 2016, Bộ Tư pháp đã đề nghị rút Nghị định sửa đổi nói trên khỏi chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang xây dựng và trong tháng 12/2017 sẽ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt Đề án “Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật”, làm tiền đề tiếp tục hoàn thiện pháp luật về theo dõi thi hành pháp luật.
3. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính; triển khai phần mềm dùng chung về cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính để thực hiện thống nhất trong toàn quốc, hỗ trợ, phục vụ có hiệu quả công tác quản lý về thi hành pháp luật luật về xử lý vi phạm hành chính; sớm có văn bản hướng dẫn xây dựng cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính ở địa phương để áp dụng cho các sở, ban ngành; Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố theo đúng quy định tại Nghị định 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2018, sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành luật xử lý vi phạm hành chính (UBND tỉnh, tp: TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hà Tĩnh, Kiên Giang, Sóc Trăng).
Trả lời:
Ngày 30/3/2017, Văn phòng Chính phủ đã ban hành Công văn số 3015/VPCP-PL về việc thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam về việc phê duyệt chủ trương đầu tư dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, Phó Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan hoàn thiện hồ sơ Dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang trong giai đoạn hoàn thiện hồ sơ dự án, xin ý kiến các Bộ nêu trên để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ngay sau khi được phê duyệt, Bộ Tư pháp sẽ tiến hành xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính, đồng thời có văn bản hướng dẫn tới các Bộ, ngành, địa phương để xây dựng và áp dụng thống nhất.
4. Đề nghị Bộ Tư pháp ban hành quy chế mẫu trong công tác phối hợp trong công tác quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật (UBND tỉnh Sóc Trăng).
Trả lời:
Mỗi Bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị có những đặc thù quản lý riêng, do vậy, Bộ Tư pháp cho rằng, việc xây dựng, ban hành một quy chế mẫu trong công tác phối hợp trong quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật khó có tính khả thi. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật, đề nghị Quý Ủy ban chỉ đạo cơ quan, đơn vị chức năng thuộc quyền quản lý căn cứ điều kiện, tình hình thực tế cụ thể tại địa phương mình để tham mưu xây dựng và trình ký ban hành quy chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật (có thể dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản hành chính cá biệt). Trong quá trình xây dựng, nếu có yêu cầu từ Quý Ủy ban, Bộ Tư pháp sẽ tích cực phối hợp tham gia góp ý để hoàn thiện bản quy chế phối hợp trong quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật tại địa phương.
5. Đề nghị Bộ Tư pháp quan tâm hướng dẫn kịp thời những khó khăn vướng mắc của các địa phương, trong đó có thành phố Hồ Chí Minh trong việc thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi hành được thể hiện ở các báo cáo, văn bản xin ý kiến riêng, phản ánh trong các hội nghị, hội thảo để các địa phương áp dụng một cách thống nhất (UBND thành phố Hồ Chí Minh).
Trả lời:
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác hướng dẫn nghiệp vụ áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, do đây là công việc phức tạp, trực tiếp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức nếu có sai sót trong áp dụng pháp luật, Bộ Tư pháp (Cục QLXLVPHC&TDTHPL) đã kịp thời có các văn bản hướng dẫn về kỹ năng, nghiệp vụ áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính theo yêu cầu của các Bộ, ngành và địa phương để thống nhất trong áp dụng, hạn chế đến mức thấp nhất những trường hợp sai sót trong áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Trung bình hàng năm, Bộ Tư pháp và Cục QLXLVPHC&TDTHPL thuộc Bộ Tư pháp phát hành khoảng từ 60 đến 80 văn bản hướng dẫn nghiệp vụ theo yêu cầu của các Bộ, ngành, địa phương (trong đó có thành phố Hồ Chí Minh) và các tổ chức, cá nhân. Riêng năm 2017, bên cạnh việc trả lời các khó khăn, vướng mắc trực tiếp tại các hội nghị, hội thảo, Bộ Tư pháp (Cục QLXLVPHC&TDTHPL) đã có 02 văn bản hướng dẫn nghiệp vụ theo yêu cầu của thành phố Hồ Chí Minh.
6. Đề nghị Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung Thông tư số 10/2015/TT-BTP ngày 31/8/2015 quy định chế độ báo cáo trong quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và theo dõi tình hình thi hành pháp luật theo hướng: Quy định thống nhất thời điểm lấy số liệu báo cáo công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật với các báo cáo khác thuộc ngành tư pháp và hợp nhất báo cáo công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật và báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính thành 01 báo cáo (UBND tỉnh Gia Lai).
Trả lời:
6.1. Về đề nghị sửa đổi Thông tư số 10/2015/TT-BTP ngày 31/8/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chế độ báo cáo trong quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và theo dõi tình hình thi hành pháp luật theo hướng quy định về thời điểm lấy số liệu báo cáo trong quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và theo dõi tình hình thi hành pháp luật thống nhất với các báo cáo khác thuộc ngành tư pháp:
- Đối với báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính: Theo quy định tại Khoản 4 Điều 25 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017) thì: “Thời điểm lấy số liệu đối với báo cáo 06 tháng tính từ ngày 01 tháng 01 đến hết ngày 30 tháng 6 hàng năm; đối với báo cáo hàng năm tính từ ngày 01 tháng 01 đến hết ngày 31 tháng 12 hàng năm”. Như vậy, quy định về thời điểm lấy số liệu đối với báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hiện nay cơ bản thống nhất với thời điểm lấy số liệu đối với các báo cáo khác thuộc ngành tư pháp (theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 Thông tư số 04/2016/TT-BTP ngày 03/3/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định một số nội dung về hoạt động thống kê của Ngành Tư pháp).
Theo dự kiến, việc sửa đổi, bổ sung (hoặc thay thế) Thông tư số 10/2015/TT-BTP sẽ được Bộ Tư pháp thực hiện trong năm 2018 để bảo đảm sự phù hợp với quy định tại Khoản 4 Điều 25 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) về thời điểm lấy số liệu báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
- Đối với báo cáo công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật: Điều 15, 16 và 17 Nghị định số 59/2012/NĐ-CP quy định các Bộ, ngành và địa phương gửi báo cáo về Bộ Tư pháp trước ngày 15 tháng 10 và Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ về công tác theo dõi thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước trước ngày 15 tháng 11. Như vậy, các quy định về thời điểm lấy số liệu báo cáo đang có những vướng mắc, bất cập ngay tại Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, chứ không chỉ tại Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 10/2015/TT-BTP.
6.2. Về đề nghị hợp nhất báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và báo cáo công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật:
Bộ Tư pháp xin ghi nhận và sẽ tiếp tục tổng hợp ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương để nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung nội dung khi trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 59/2012/NĐ-CP về theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
Bộ Tư pháp thấy rằng, việc sửa đổi Thông tư số 10/2015/TT-BTP không giải quyết được vấn đề này do thời điểm báo cáo đối với 02 công tác này được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý khác nhau nên rất khó có thể hợp nhất báo cáo. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi quy định về thời hạn báo cáo được sửa đổi tại văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý tầm Nghị định.
7. Đề nghị Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức nhiều lớp tập huấn chuyên sâu theo chuyên ngành công tác, lĩnh vực quản lý nhà nước chuyên biệt, nhằm nâng cao kỹ năng xác định hành vi vi phạm hành chính và lập biên bản vi phạm hành chính; nguyên tắc, trình tự, thủ tục xử phạt và kỹ năng xác định thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả; kỹ năng soạn thảo ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; kỹ năng áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính (UBND tỉnh: Kiên Giang, Vĩnh Phúc).
Trả lời:
Hàng năm, Bộ Tư pháp giao Cục QLXLVPHC&TDTHPL tổ chức các hội nghị tập huấn chuyên sâu về xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật cho các đại biểu là cán bộ, chuyên viên đang công tác tại cơ quan, đơn vị thuộc các Bộ, ngành Trung ương và các địa phương trên phạm vi cả nước, nhằm giúp các cán bộ, công chức nâng cao kiến thức chuyên sâu cũng như kỹ năng, kinh nghiệm giải quyết các khó khăn vướng mắc phát sinh trong quá trình thi hành nhiệm vụ đối với các lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật.
Đối với các tỉnh Kiên Giang, Vĩnh Phúc, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã mời các đại biểu đang làm việc tại các Sở ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trên địa 02 tỉnh nêu trên tham dự một số hội nghị tập huấn chuyên sâu về xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức. Cụ thể từ tháng 10/2014 đến hết tháng 11/2017, tỉnh Kiên Giang đã tham dự 02 Hội nghị tập huấn chuyên sâu về xử lý vi phạm hành chính (01 Hội nghị tập huấn chuyên sâu về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh năm 2014, 01 Hội nghị tập huấn chuyên sâu về Xử phạt vi phạm hành chính tổ chức tại Cần Thơ năm 2015); tỉnh Vĩnh Phúc đã tham dự 05 Hội nghị tập huấn chuyên sâu về xử lý vi phạm hành chính (01 Hội nghị tập huấn chuyên sâu về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tổ chức tại Hà Nội năm 2014, 01 Hội nghị tập huấn chuyên sâu về Xử phạt vi phạm hành chính tổ chức tại Hà Nội năm 2015, 01 Hội nghị tập huấn chuyên sâu về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tổ chức tại Thái Nguyên năm 2015, 01 Hội nghị tập huấn chuyên sâu về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc tổ chức tại Hà Nam năm 2016, 01 Hội nghị tập huấn chuyên sâu về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc tổ chức tại Vĩnh Phúc năm 2016).
Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục dự kiến, lập kế hoạch tổ chức các hội nghị tập huấn chuyên sâu về xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật cho các Bộ, ngành, địa phương.
8. Đề nghị Bộ Tư pháp xây dựng phần mềm báo cáo thống kê công tác xử lý vi phạm hành chính; đồng thời tổ chức các lớp tập huấn sử dụng các phần mềm ứng dụng để đáp ứng kịp thời công tác thống kê, báo cáo, truy cập dữ liệu xử lý vi phạm hành chính (UBND tỉnh Kiên Giang).
Trả lời:
Theo Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Ngành Tư pháp giai đoạn 2016 - 2020 (ban hành kèm theo Quyết định số 1226/QĐ-BTP ngày 06/6/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp) thì trong giai đoạn 2017 - 2020, Bộ Tư pháp sẽ xây dựng phần mềm hỗ trợ quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính: Hỗ trợ việc kiểm tra thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, thống kê về xử lý vi phạm hành chính và báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của Bộ, ngành, địa phương.
Theo Kế hoạch này, Bộ Tư pháp đang triển khai việc xây dựng phần mềm trên. Bên cạnh đó, hiện tại, Bộ cũng đang trong giai đoạn trình Thủ tướng chính phủ xem xét, phê duyệt dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính. Sau khi dự án được phê duyệt, Bộ Tư pháp sẽ tiến hành triển khai xây dựng và hướng dẫn, tổ chức tập huấn sử dụng Cơ sở dữ liệu tới các Bộ, ngành, địa phương để kịp thời triển khai vận hành Cơ sở dữ liệu trong công tác xử lý vi phạm hành chính.
9. Đề nghị Bộ Tư pháp ban hành Thông tư hướng dẫn kinh phí công tác theo dõi thi hành pháp luật, đặc biệt hướng dẫn mức chi trong việc huy động cộng tác viên theo dõi thi hành pháp luật (UBND tỉnh Sóc Trăng).
Trả lời:
Qua tổng hợp báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương cho thấy, kinh phí dành cho công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều các Bộ, ngành, địa phương chưa bố trí kinh phí riêng bảo đảm cho công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật, mà trích từ các khoản kinh phí phục vụ các hoạt động pháp chế khác hoặc từ công tác kiểm tra chấp hành pháp luật với nguồn kinh phí rất hạn hẹp và thường được bố trí chậm so với yêu cầu triển khai công việc được giao.
Bộ Tư pháp đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo Sở Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Sở Tài chính để tham mưu với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thu xếp, bố trí kinh phí trên cơ sở áp dụng mức cao nhất trong Thông tư số 338/2016/TT-BTC ngày 28/12/2016 quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục hoàn thiện pháp luật về theo dõi thi hành pháp luật trên cơ sở Đề án “Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật” được Thủ tướng chính phủ phê duyệt, trong đó có nội dung hoàn thiện về kinh phí phục vụ công tác theo dõi thi hành pháp luật.
10. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm ban hành Kế hoạch công tác theo dõi thi hành pháp luật (THPL), trong đó xác định lĩnh vực trọng tâm cần theo dõi trong năm để các địa phương chủ động trong việc triển khai thực hiện. Tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về theo dõi THPL, nhất là về kỹ năng thực hiện theo dõi THPL, phương pháp theo dõi đánh giá…. (UBND tỉnh Vĩnh Phúc).
Trả lời:
Do căn cứ vào Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước hàng năm nên Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm thường được ban hành sau thời điểm ngày 01/01 hàng năm. Trong khi đó, nhiều địa phương ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong đó có xác định lĩnh vực trọng tâm, liên ngành từ cuối năm trước năm kế hoạch, dẫn đến tình trạng nhiều khi lĩnh vực theo dõi của địa phương không khớp với lựa chọn trọng tâm của Bộ Tư pháp, do vậy phải xây dựng Quyết định bổ sung trình Ủy ban nhân dân tỉnh.
Hiện nay, Bộ Tư pháp đang nghiên cứu, tổng hợp các ý kiến đề xuất lĩnh vực theo dõi thi hành pháp luật năm 2018 của các Bộ, ngành. Bộ Tư pháp ghi nhận ý kiến của Quý Ủy ban và sẽ cố gắng thúc đẩy tiến độ ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật (dự kiến ban hành trong tháng 12 năm 2018) để tạo thuận lợi cho các Bộ, ngành và địa phương thực hiện thống nhất, đồng bộ hoạt động theo dõi thi hành pháp luật.
11. Đề nghị tiếp tục hoàn thiện thể chế về xử lý vi phạm hành chính (Đồng chí Lê Hồng Sơn, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội).
Trả lời:
Bộ Tư pháp xin ghi nhận ý kiến của đại biểu. Hiện nay, Bộ Tư pháp đã hoàn thành việc tiến hành tổng kết Luật Xử lý vi phạm hành chính trên phạm vi toàn quốc để làm rõ những khó khăn, vướng mắc, hạn chế, bất cập trong việc thực hiện Luật Luật Xử lý vi phạm hành chính theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Trên cơ sở kết quả tổng kết thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ trình Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
12. Trong theo dõi thi hành pháp luật, đã có Nghị định số 59 (và hướng dẫn ở Thông tư số 14), nhưng một số tiêu chí theo dõi thi hành pháp luật còn định tính, khó đánh giá (như sự phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội…) đề nghị Bộ Tư pháp có quy định rõ hơn (Đồng chí Đỗ Thắng Hải, Thứ trưởng Bộ Công Thương).
Trả lời:
Bộ Tư pháp xin ghi nhận ý kiến của đại biểu. Bước đầu, Bộ tư pháp đã phát hiện được những vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012. Dự kiến Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tiến hành tổng kết, đánh giá toàn diện việc thực hiện Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, từ đó có điều kiện đề xuất kiến nghị hoàn thiện trong thời gian tới. Trong năm 2017, Bộ Tư pháp đã tiến hành nghiên cứu, xây dựng dự thảo Khung theo dõi thi hành pháp luật và hệ thống thu thập, lưu trữ dữ liệu (Khung theo dõi thi hành pháp luật). Dự thảo Khung theo dõi thi hành pháp luật từng bước hoàn thiện và đang trong giai đoạn chuẩn bị áp dụng thí điểm tại một số Bộ, ngành và địa phương trong năm 2018 nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong việc theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật hiện nay.
13. Tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh pháp luật về theo dõi thi hành pháp luật, nhất là trách nhiệm của các Bộ, ngành khác; cùng các Bộ, ngành hướng dẫn thống nhất theo dõi, nhất là trọng tâm liên ngành; phối hợp tập huấn theo dõi trọng tâm liên ngành (Đồng chí Đỗ Thắng Hải, Thứ trưởng Bộ Công Thương).
Trả lời:
Bộ Tư pháp xin tiếp thu ý kiến của đại biểu. Trong thời giân qua, Bộ Tư pháp đang nghiên cứu, thực hiện các giải pháp khắc phục các tồn tại, hạn chế mà đại biểu nêu. Cụ thể là:
- Về vấn đề hoàn thiện pháp luật về theo dõi thi hành pháp luật: Hiện nay, Bộ Tư pháp đã bước đầu phát hiện được những vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012. Dự kiến Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tiến hành tổng kết, đánh giá toàn diện việc thực hiện Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, từ đó có điều kiện đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật về theo dõi thi hành pháp luật trong thời gian tới.
- Về vấn đề tổ chức thực hiện theo dõi thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành: Hắng năm, Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm của Bộ Tư pháp. Trên cơ sở đó, Bộ trưởng các Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh ban hành Kế hoạch của Bộ, ngành, địa phương mình, trong đó có lĩnh vực theo dõi trọng tâm liên ngành được Bộ Tư pháp xác định và lĩnh vực theo dõi trọng tâm do Bộ, ngành và địa phương lựa chọn.
- Về công tác phối hợp tập huấn theo dõi thi hành pháp luật: Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu để công tác phối hợp với các Bộ, ngành đạt hiệu quả cao hơn trong thời gian tới.
IV. LĨNH VỰC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1. Đề nghị Bộ Tư pháp tham mưu Chính phủ bố trí kinh phí phổ biến, giáo dục pháp luật cho các tỉnh chưa tự cân đối được kinh phí theo tinh thần các văn bản đã quy định; xem xét, hỗ trợ kinh phí cho địa phương nghèo thực hiện các chương trình, Đề án lớn (UBND tỉnh Đắk Nông).
Trả lời:
Luật phổ biến, giáo dục pháp luật, Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 27/01/2014 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) đã quy định rõ cơ chế tài chính cho công tác PBGDPL, trong đó có các tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách. Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chương trình PBGDPL giai đoạn 2017-2021 quy định rõ: “Ngân sách Trung ương hỗ trợ các địa phương triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng điểm của các Đề án. Đối với các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách, ngân sách Trung ương hỗ trợ kinh phí để triển khai thực hiện các nhiệm vụ và Đề án thuộc chương trình này theo quy định của pháp luật hiện hành”.
Căn cứ Luật ngân sách nhà nước về phân cấp thực hiện ngân sách, hằng năm, Bộ Tài chính đều có văn bản hướng dẫn và đề nghị các địa phương, trong đó có các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách tự bố trí kinh phí cho công tác PBGDPL trong phạm vi ngân sách được Trung ương giao (điểm b, Khoản 2, Điều 3, Thông tư số 326/2016/TT-BTC ngày 23/12/2016 quy định về tổ chức thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2017).
Qua theo dõi của Bộ Tư pháp cho thấy việc dành nguồn kinh phí cho công tác PBGDPL phụ thuộc rất nhiều vào sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, đơn vị và điều kiện ngân sách được giao và yêu cầu nhiệm vụ chính trị. Vì vậy, trong chỉ đạo, hướng dẫn, Bộ Tư pháp luôn đề nghị lãnh đạo Bộ, ngành, đoàn thể, chính quyền địa phương quan tâm bảo đảm kinh phí, nguồn lực để triển khai nhiệm vụ PBGDPL. Vì vậy, đề nghị các địa phương chủ động tham mưu, đề xuất Ủy ban nhân dân cùng cấp bố trí kinh phí cho công tác PBGDPL báo cáo cơ quan có thẩm quyền bố trí trong phạm vi ngân sách của địa phương, đảm bảo tiết kiệm, thiết thực, hiệu quả.
Về lâu dài, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu, phối hợp với Bộ, ngành, đoàn thể đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ chế tổ chức thi hành luật, pháp lệnh để có được nguồn lực bảo đảm cho công tác này. Bộ Tư pháp đề nghị các cơ quan Tư pháp, tổ chức pháp chế tích cực, chủ động tham mưu, đề xuất giải pháp triển khai thực hiện nhiệm vụ PBGDPL; tranh thủ tối đa sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể đối với công tác PBGDPL; có giải pháp lồng ghép các hoạt động để khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực; tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức PBGDPL, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong PBGDPL; khuyến khích, huy động các nguồn lực theo tinh thần xã hội hoá để công tác PBGDPL thực sự là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu, tham mưu, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách, chương trình, Đề án về PBGDPL tại địa bàn đặc thù, có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn để có thêm nguồn lực hỗ trợ cho địa phương.
2. Đề nghị Bộ Tư pháp cung cấp kịp thời đề cương, tài liệu phục vụ cho công tác PBGDPL (UBND tỉnh Đắk Nông); tiếp tục đa dạng các tài liệu tuyên truyền về Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên để có thể cung cấp cho các địa phương phục vụ công tác tuyên truyền (UBND tỉnh Vĩnh Phúc)
Trả lời:
Thực hiện Kế hoạch công tác PBGDPL và Kế hoạch triển khai các Đề án về PBGDPL do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện, hàng năm, Bộ Tư pháp đều tổ chức biên soạn và phát hành miễn phí nhiều tài liệu PBGDPL. Để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật đa dạng của người dân, nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL, Bộ Tư pháp đã tổ chức nghiên cứu, biên soạn các tài liệu dưới nhiều hình thức phong phú như: sách hỏi đáp tình huống pháp luật, tờ gấp, tiểu phẩm, bài giảng trực tuyến, câu chuyện pháp luật, đặc san, hỏi đáp pháp luật, câu chuyện pháp luật dưới dạng video clip, đối thoại trực tuyến… Các tài liệu này được đăng tải trên Trang thông tin điện tử PBGDPL; Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (www.moj.gov.vn/pbgdpl/Pages/Default.aspx) để phục vụ nhu cầu PBGDPL, tìm hiểu pháp luật của cán bộ, nhân dân. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về PBGDPL, từ năm 2015 đến nay, sau khi kết thúc các kỳ họp Quốc hội, Bộ Tư pháp đều có văn bản hướng dẫn, đôn đốc Bộ, ngành địa phương tổ chức quán triệt, tuyên truyền, phổ biến nội dung cơ bản của luật, pháp lệnh; phối hợp với Bộ Tư pháp biên soạn Tài liệu giới thiệu nội dung cơ bản của luật, pháp lệnh. Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng các tài liệu tuyên truyền, phổ biến và cập nhật, đăng tải thường xuyên lên các phương tiện thông tin đại chúng để phục vụ nhu cầu tiếp cận thông tin về pháp luật của cán bộ và nhân dân một cách hiệu quả nhất. Bộ Tư pháp đề nghị các Bộ, ngành tăng cường trách nhiệm trong việc chủ động triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về những lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của mình; chuẩn bị, biên soạn, cung cấp các tài liệu PBGDPL chuyên ngành. Đồng thời, đề nghị các địa phương tăng cường biên soạn tài liệu PBGDPL phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương và với từng nhóm đối tượng, lĩnh vực cụ thể.
3. Đề nghị Bộ Tư pháp đánh giá lại hiệu quả của các chương trình, Đề án PBGDPL để xây dựng lại thành chương trình, Đề án lớn, có tính khả thi, tránh manh mún, thiếu thực tế và không có hiệu quả dẫn tới tốn thời gian, công sức xây dựng Kế hoạch, báo cáo...(UBND tỉnh Đắk Nông).
Trả lời:
Trên cơ sở kết quả sơ kết 03 năm thực hiện Luật PBGDPL và tổng kết các chương trình, Đề án về PBGDPL giai đoạn 2011 - 2016 theo Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã trình Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 ban hành chương trình PBGDPL giai đoạn 2017 - 2021. chương trình đã đề xuất các giải pháp tổng thể nhằm đổi mới công tác PBGDPL theo hướng thiết thực, hiệu quả có trọng tâm, trọng điểm, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư, phù hợp với từng địa bàn. Trong quá trình xây dựng chương trình, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các cơ quan hữu quan nghiên cứu, rà soát, đề xuất cân đối các Đề án thuộc chương trình đảm bảo thiết thực, hiệu quả, không chồng chéo; thu gọn số lượng các Đề án; khắc phục triệt để tình trạng manh mún, thiếu hiệu quả như ý kiến địa phương phản ánh.
4. Đề nghị Bộ Tư pháp tổ chức sâu rộng trong toàn quốc các cuộc thi, hội thi tìm hiểu pháp luật (tìm hiểu các Bộ luật, Luật, chính sách mới...) với nội dung, hình thức phong phú, phù hợp, qua đó tạo điều kiện cho cán bộ, nhân dân, người lao động có cơ hội tìm hiểu sâu sắc hơn các quy định pháp luật của Nhà nước, từ đó nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật, tự giác chấp hành Hiến pháp, pháp luật (Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Trả lời:
Ba năm qua, Bộ Tư pháp đã tập trung chỉ đạo, hướng dẫn triển khai trong cả nước các cuộc thi tìm hiểu pháp luật như: Cuộc thi viết “Tìm hiểu Hiến pháp”; Hội thi hòa giải viên giỏi toàn quốc lần thứ III; Cuộc thi trực tuyến tìm hiểu kiến thức pháp luật cho học sinh trung học phổ thông năm 2016 (tại 03 tỉnh, thành phố), năm 2017 (tại 17 tỉnh, thành phố); thi tìm hiểu pháp luật trực tuyến trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp. Nhiều Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương cũng đã chủ động tổ chức các cuộc thi tìm hiểu các Luật, Pháp lệnh mới ban hành như: Bộ luật dân sự, Bộ luật Hình sự, pháp luật về phòng cháy, chữa cháy... Kết quả cho thấy, thi tìm hiểu pháp luật là một hình thức PBGDPL rất có hiệu quả, tạo hiệu ứng và sức lan tỏa sâu rộng trong xã hội. Nhiều địa phương tổ chức các cuộc thi trực tuyến gắn với ứng dụng công nghệ thông tin, viễn thông, thi trên truyền hình cũng đã và đang được triển khai sâu rộng trong khắp cả nước. Hình thức thi tìm hiểu pháp luật đã và đang được các bộ, ngành, đoàn thể tổ chức với quy mô, lĩnh vực, đối tượng khác nhau và phát huy kết quả tích cực, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, thu hút sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân.
Tới đây, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu, đánh giá hiệu quả của hình thức này, đề xuất nhân rộng tổ chức thêm nhiều cuộc thi tìm hiểu pháp luật dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng, dễ tiếp cận. Bộ Tư pháp đề nghị các Bộ, ngành, địa phương căn cứ nhiệm vụ công tác trọng tâm của từng năm chủ động tham mưu, đề xuất các giải pháp đổi mới công tác PBGDPL, trong đó có tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật phù hợp với điều kiện, yêu cầu triển khai nhiệm vụ và lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, ngành, địa phương cho cán bộ, công chức và nhân dân, qua đó giúp các quy định pháp luật được lan tỏa sâu rộng trong đời sống xã hội; phát huy triệt để trách nhiệm của Bộ, ngành, địa phương trong công tác PBGDPL.
5. Đề nghị xây dựng Đề cương báo cáo kết quả công tác PBGDPL để áp dụng thống nhất ở Trung ương và địa phương, tạo thuận lợi cho công tác tổng hợp và tổ chức thực hiện (UBND tỉnh Gia Lai).
Trả lời:
Hàng năm, Bộ Tư pháp đều ban hành Kế hoạch công tác PBGDPL, chuẩn tiếp cận pháp luật, hòa giải ở cơ sở tạo thuận lợi cho các Bộ, ngành, địa phương có căn cứ tổ chức thực hiện. Đối với việc tổng kết, báo cáo kết quả công tác PBGDPL, hàng năm, Bộ Tư pháp đều ban hành đầy đủ, kịp thời Công văn hướng dẫn sơ kết, tổng kết công tác tư pháp kèm theo Đề cương báo cáo, trong đó công tác PBGDPL (Công văn số 5007/BTP-VP ngày 30/10/2017). Bộ Tư pháp đề nghị Bộ, ngành, địa phương căn cứ vào Kế hoạch công tác đầu năm và các văn bản hướng dẫn sơ kết, tổng kết để tổng hợp, báo cáo và tổ chức thực hiện công tác này đảm bảo kịp thời, khách quan, thực chất, có chất lượng. Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu chuẩn hóa đề cương báo cáo để hướng dẫn áp dụng thống nhất.
6. Đề nghị Bộ Tư pháp xem xét kiến nghị Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật PBGDPL theo hướng bổ sung Hội đồng phối hợp PBGDPL cấp xã như trước đây. Vì qua thực tiễn thực hiện Luật, không có Hội đồng phối hợp PBGDPL cấp xã gặp rất nhiều khó khăn trong công tác phối hợp hoạt động PBGDPL ở cấp xã (UBND tỉnh Bình Dương).
Trả lời:
Theo Luật PBGDPL, Hội đồng phối hợp PBGDPL được thành lập ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, là cơ quan tư vấn cho Chính phủ, Ủy ban nhân dân cùng cấp về công tác PBGDPL. Riêng cấp xã được giao nhiệm vụ trực tiếp tổ chức thực hiện công tác PBGDPL theo chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên và của cấp ủy đảng, chính quyền cùng cấp, trực tiếp là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nên việc thành lập Hội đồng phối hợp PBGDPL ở cấp này là không cần thiết, tránh hình thức, giảm trung gian trong triển khai thực hiện, góp phần giảm áp lực cồng kềnh cho bộ máy hành chính nhà nước tại cơ sở.
Qua theo dõi, nắm bắt tình hình thi hành Luật PBGDPL, Bộ Tư pháp nhận thấy chưa có nhiều ý kiến khẳng định sự cần thiết phải duy trì Hội đồng phối hợp PBGDPL tại cấp xã. Tới đây, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu, theo dõi, tổ chức sơ kết việc thực hiện Luật PBGDPL để tổng hợp, đề xuất các giải pháp tổng thể, góp phần đưa công tác này ngày càng đi vào chiều sâu, phát huy hiệu quả trên thực tiễn, trong đó có việc đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật PBGDPL cho phù hợp và đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tiễn khi điều kiện chín muồi. Hiện tại, đề nghị phát huy vai trò, trách nhiệm tổ chức công việc của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã trong công tác PBGDPL.
7. Đề nghị Bộ Tư pháp tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy định cụ thể về xã hội hóa công tác PBGDPL (phạm vi, lộ trình, trách nhiệm thực hiện,...) làm cơ sở để địa phương triển khai thực hiện hiệu quả (UBND tỉnh Gia Lai).
Trả lời:
Xã hội hóa công tác PBGDPL là chủ trương nhất quán, là xu thế tất yếu, phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội; được Luật PBGDPL ghi nhận (Điều 4) và cụ thể hóa tại Nghị định số 28/2013/NĐ-CP ngày 04/4/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật PBGDPL. Trên cơ sở quy định nêu trên, vừa qua, nhiều Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương đã tích cực, chủ động triển khai thực hiện chủ trương, chính sách về xã hội hóa, huy động các nguồn lực xã hội tham gia công tác PBGDPL, bao gồm cả nguồn nhân lực và kinh phí, cơ sở vật chất bảo đảm cho các hoạt động PBGDPL(như lồng ghép, kết hợp PBGDPL với hoạt động hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý...Nhiều cuộc thi đã huy động được các nhà tài trợ tham gia tài trợ cho các giải thưởng và một phần kinh phí tổ chức Hội thi, cuộc thi. Qua thực hiện hoạt động xã hội hóa đã góp phần đưa công tác PBGDPL đi vào nề nếp, ổn định, phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức để công tác này thực sự trở thành nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống xã hội và là trách nhiệm của toàn xã hội. Bộ Tư pháp cũng đã tổ chức một số hội thảo, tọa đàm để đánh giá thực trạng và đề ra các giải pháp nhằm huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia PBGDPL theo chủ trương xã hội hóa. Qua theo dõi, Bộ Tư pháp nhận thấy việc triển khai thực hiện chủ trương này phụ thuộc rất nhiều vào sự chủ động, sáng tạo và linh hoạt của các địa phương và phụ thuộc vào điều kiện thực tiễn của từng địa bàn. Tới đây, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu, tổng kết và tiếp tục tham mưu hoàn thiện thể chế, chính sách cũng như tăng cường các biện pháp chỉ đạo, hướng dẫn để triển khai thực hiện thật tốt chính sách này trong thực tế.
8. Đề nghị Bộ Tư pháp ban hành hướng dẫn cụ thể cơ sở pháp lý cũng như tài liệu kiểm chứng sử dụng trong hoạt động thẩm định, thẩm tra cấp xã đạt chuẩn nông thôn mới theo quy định của Thông tư số 07/2017/TT-BTP ngày 28/7/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp để áp dụng thống nhất trong cả nước” (UBND tỉnh Gia Lai).
Trả lời:
Sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 619/QĐ-TTg, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ký Thông tư số 07/2017/TT-BTP về việc triển khai nhiệm vụ xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, Bộ Tư pháp đã biên soạn “Sổ tay hướng dẫn xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật”. Sổ tay là công cụ giúp cơ quan, đơn vị, công chức thống nhất nhận thức và hành động trong triển khai nhiệm vụ xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; hướng dẫn cụ thể về đánh giá, công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, bao gồm cả hướng dẫn về các tài liệu kiểm chứng phục vụ cho hoạt động thẩm định, thẩm tra. Nội dung chính của Sổ tay gồm: (i) Những vấn đề chung về xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; (ii) Hướng dẫn đánh giá, công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; (iii) Hội đồng đánh giá tiếp cận pháp luật; (iv) Quản lý nhà nước về xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật và (v) Hướng dẫn thực hiện Tiêu chí thành phần 18.5 “Xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật” trong Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới.
Trong phần hướng dẫn đánh giá, công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, Bộ Tư pháp đã hướng dẫn cụ thể về cơ sở pháp lý, căn cứ thực hiện, tài liệu kiểm chứng của mỗi chỉ tiêu, tiêu chí tiếp cận pháp luật cũng như khuyến nghị địa phương về đầu mối công chức cấp xã để theo dõi, đánh giá, tự chấm điểm các chỉ tiêu, tiêu chí tiếp cận pháp luật. Sổ tay này sẽ được in ấn, phát hành cho các Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp của 63 tỉnh, thành phố trên cả nước và một số đơn vị cấp xã của một số địa phương vào cuối tháng 12/2017. Bộ Tư pháp đề nghị Ủy ban nhân cấp tỉnh và tỉnh Gia Lai quan tâm, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan quán triệt đầy đủ, triển khai thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật theo Quyết định số 619/QĐ-TTg, Thông tư số 07/2017/TT-BTP và chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Tư pháp; trong quá trình tổ chức thực hiện nếu có vướng mắc, đề nghị phản ánh kịp thời về Bộ Tư pháp để kịp thời giải quyết, tháo gỡ.
9. Đề nghị Bộ Tư pháp quan tâm thường xuyên tổ chức tập huấn chuyên sâu về quản lý nhà nước về hương ước, quy ước và nghiệp vụ đánh giá chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở cho công chức phụ trách công tác PBGDPL” (UBND tỉnh Bạc Liêu).
Trả lời:
9.1. Đối với công tác xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước
Năm 2017, Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Quyết định về xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước để thay thế Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg và các Thông tư liên tịch số 03, Thông tư liên tịch số 04. Sau khi Quyết định được ban hành, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức tập huấn quán triệt nhiệm vụ này cho các cơ quan quản lý nhà nước về hương ước, quy ước ở địa phương. Đối với các cơ quan Tư pháp, Bộ Tư pháp sẽ chú trọng, ưu tiên nguồn lực tổ chức tập huấn chuyên sâu về nghiệp vụ xem xét, thẩm định, kiểm tra các nội dung của hương ước, quy ước bảo đảm không trái pháp luật, vi phạm quyền con người, quyền công dân.
9.2. Đối với công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật
Sau khi Quyết định 619/QĐ-TTg và Thông tư 07/2017/TT-BTP được ban hành, Bộ Tư pháp đã tổ chức 02 hội nghị quán triệt nội dung của Quyết định 619/QĐ-TTg lồng ghép với tập huấn công tác PBGDPL (tại Lào Cai và Bình Định); lồng ghép với lấy ý kiến hoàn thiện dự thảo Sổ tay hướng dẫn xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật (tại thành phố Hồ Chí Minh). Hiện nay, Bộ đang in ấn Sổ tay này và phát hành cho địa phương trong tháng 12/2017. Bộ Tư pháp cũng đã chọn 04 địa phương (Hòa Bình, Bến Tre, Quảng Ngãi, Kon Tum) để hướng dẫn chỉ đạo điểm triển khai nhiệm vụ này, trong đó có hỗ trợ để các địa phương tổ chức tập huấn nghiệp vụ đánh giá, chấm điểm, công nhận và triển khai các nhiệm vụ liên quan đến xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật cho tất cả công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã, công chức phòng tư pháp trên địa bàn. Trong năm 2018, Bộ Tư pháp sẽ chú trọng, ưu tiên tiếp tục chọn điểm một số địa phương để tổ chức tập huấn chuyên sâu nghiệp vụ đánh giá và kiểm tra, khảo sát tình hình triển khai nhiệm vụ xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật qua sơ kết 01 năm thực hiện để kịp thời phát hiện, tháo gỡ vướng mắc, bất cập gắn với hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ.
10. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với cơ quan có liên quan hướng dẫn Khoản 3 Điều 3 Quyết định số 619/QĐ-TTg ngày 08/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy định về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật vì việc thực hiện đánh giá xã đạt chuẩn nông thôn mới, phường, thị trấn đạt chuẩn đô thị văn minh; đảng bộ chính quyền cấp xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh” (UBND tỉnh Bình Dương).
Trả lời:
Để hướng dẫn thực hiện Khoản 3 Điều 3 Quyết định số 619/QĐ-TTg ngày 08/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy định về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 2873/BTP-PBGDPL ngày 15/8/2017 gửi các Bộ, ngành, đoàn thể Trung ương, trong đó đề nghị Bộ Nội vụ chỉ đạo, hướng dẫn về kết quả xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật là tiêu chí đánh giá đảng bộ, chính quyền cấp xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh” và đánh giá thi đua, khen thưởng hằng năm của chính quyền cấp xã; đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn về kết quả xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật là tiêu chí đánh giá phường, thị trấn đạt chuẩn đô thị văn minh phù hợp với mục tiêu, yêu cầu, chủ trương về xây dựng đô thị văn minh.
Bộ Tư pháp đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh tiếp tục quan tâm, chỉ đạo thực hiện tốt các tiêu chí tiếp cận pháp luật, hướng dẫn triển khai nhiệm vụ xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, gắn với việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn; quán triệt, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật; quan tâm bố trí kinh phí, nguồn lực thực hiện nhiệm vụ này; kịp thời tổng hợp khó khăn, vướng mắc và đề xuất kiến nghị để Bộ Tư pháp tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
11. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Tài chính xem xét sửa đổi Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTP-BTC theo hướng tăng mức chi hỗ trợ hoạt động hòa giải ở cơ sở (đặc biệt là chi thù lao cho hòa giải viên); quy định mức chi khung (tối thiểu và tối đa) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho từng địa phương trong quá trình áp dụng (từ 200.000 đến 500.000 đồng/vụ/tổ hòa giải) -(UBND tỉnh Bình Dương).
Trả lời:
Hoạt động hòa giải ở cơ sở là hoạt động tự quản, tự nguyện, Nhà nước không bao cấp hoàn toàn mà chỉ hỗ trợ một phần kinh phí để khuyến khích, động viên các hòa giải viên - những người đang làm việc tự nguyện vì cộng đồng. Thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở; Nghị định số 15/2014/NĐ-CP, Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTP-BTC ngày 30/7/2014 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở đã quy định về nội dung chi, mức chi thù lao cho hòa giải viên theo vụ, việc tại Khoản 19 Điều 4 như sau: “19. Chi thù lao cho hòa giải viên (đối với các hòa giải viên trực tiếp tham gia vụ, việc hòa giải): Mức chi tối đa 200.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải”. Tại thời điểm xây dựng Thông tư liên tịch 100, mức chi thù lao cho hòa giải viên được đề xuất dựa trên tỷ lệ tương ứng với mức tăng lương tối thiểu chung từ năm 2010 đến năm 2014 có so sánh, đối chiếu với mức chi của các lĩnh vực có tính chất tương tự và đảm bảo tính khả thi khi thực hiện.
Qua sơ kết 03 năm thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở cho thấy, kinh phí dành cho công tác hòa giải ở cơ sở còn rất hạn hẹp, phần lớn được bố trí chung trong kinh phí tuyên truyền, PBGDPL của địa phương nên chủ yếu phục vụ hoạt động tập huấn nghiệp vụ, cung cấp tài liệu pháp luật cho hòa giải viên. Hiện có một số địa phương thực hiện chi thù lao cho hòa giải viên, có kinh phí chi cho hoạt động thường xuyên của tổ hòa giải trên toàn tỉnh, thành phố (Vĩnh Long, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh, Khánh Hòa, Sóc Trăng, Quảng Ninh, Kiên Giang, Lai Châu); còn lại đa số các địa phương chưa bảo đảm được mức chi đúng theo quy định, có tỉnh còn chưa thực hiện chi hỗ trợ cho tổ hòa giải cũng như chi thù lao cho hòa giải viên (Ninh Bình, Hà Giang, Lào Cai, Quảng Bình, Phú Thọ, Nam Định, Hà Nam)[2]. Điều đó cho thấy việc thực hiện chế độ chi thù lao cho hòa giải viên trên phạm vi toàn quốc không đồng đều, còn nhiều tỉnh, thành phố chưa thực hiện đúng quy định tại Thông tư liên tịch 100 và văn bản do địa phương ban hành theo thẩm quyền để cụ thể hóa các định mức quy định tại Thông tư liên tịch 100 phù hợp với thực tiễn địa phương. Bộ Tư pháp nhận thấy cần có thêm thời gian để các địa phương tiếp tục triển khai thi hành Thông tư này, trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp sẽ theo dõi, tổng hợp, đánh giá toàn diện, khách quan những kết quả đạt được, xác định tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thi hành để từ đó đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu sửa đổi Thông tư liên tịch 100[3] theo thẩm quyền.
V. LĨNH VỰC HỘ TỊCH, QUỐC TỊCH, CHỨNG THỰC
1. Đề nghị Bộ Tư pháp hướng dẫn cho các địa phương thực hiện các trường hợp yêu cầu thực hiện các việc về xác nhận có quốc tịch Việt Nam đối với các trường hợp mà họ không thể cung cấp được bất cứ loại giấy tờ nào (UBND tỉnh Sóc Trăng).
Trả lời:
Hiện tại việc cấp giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam được thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 1 Thông tư liên tịch số 05/2013 TTLT-BTP-BNG-BCA ngày 31/01/2013 sửa đổi, bổ sung Điều 13 Thông tư liên tịch số 05/2010/TTLT-BTP-BNG-BCA ngày 01/3/2010 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Bộ Công an hướng dẫn thi hành Nghị định số 78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008. Đối với trường hợp không có bất kể giấy tờ nào thì đề nghị Sở Tư pháp phối hợp với cơ quan công an có thẩm quyền tiến hành xác minh. Nếu Sở Tư pháp thấy đủ căn cứ thì tiến hành cấp giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam cho người có yêu cầu.
2. Đề nghị Bộ Tư pháp đề xuất mở rộng phạm vi thẩm quyền nhập quốc tịch, trở lại quốc tịch Việt Nam tại Sở Tư pháp nơi có “tạm trú hoặc xác nhận tạm trú” để tạo điều kiện cho một số đối tượng xin hồi hương nhằm đảm bảo cuộc sống ổn định tại Việt Nam và những người không quốc tịch, người Campuchia theo chồng (vợ) di cư sang Việt Nam sinh sống chưa đáp ứng đủ điều kiện “thường trú” tại Việt Nam (UBND tỉnh Sóc Trăng).
- Đối với việc nhập quốc tịch Việt Nam, theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 78/2009/NĐ-CP ngày 22/9/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 thì người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải là người đang thường trú tại Việt Nam và được cơ quan công an có thẩm quyền của Việt Nam cấp Thẻ thường trú (thông thường việc cấp Thẻ thường trú là do cơ quan Công an địa phương có thẩm quyền nơi người đó đang sinh sống cấp). Do đó, việc người xin nhập quốc tịch Việt Nam đang thường trú tại Việt Nam và được cấp thẻ Thẻ thường trú là điều kiện bắt buộc để được xem xét nhập quốc tịch Việt Nam.
- Đối với việc trở lại quốc tịch Việt Nam, căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành, ngày 25/11/2016, Bộ Tư pháp (Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực) đã có Công văn số 1587/HTQTCT-QT về việc thụ lý, giải quyết hồ sơ quốc tịch gửi Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, theo đó người xin trở lại quốc tịch Việt Nam nếu cư trú ở trong nước thì nộp hồ sơ cho Sở Tư pháp nơi cư trú. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 40 Bộ luật dân sự 2015 và Điều 12 Luật cư trú thì “cư trú trong nước” được hiểu là phải “thường xuyên sinh sống” ở một địa bàn nhất định.
3. Đề nghị Bộ Tư pháp có hướng dẫn đối với trường hợp người Campuchia di dân tự do về Việt Nam sinh sống, tạo điều kiện để giải quyết các vấn đề hộ tịch (UBND tỉnh Bình Dương).
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Văn Ninh (Văn bản số 390/TB-VPCP ngày 30/10/2013 của Văn phòng Chính phủ), Bộ Tư pháp (Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực) đã xây dựng Tiểu Đề án giải quyết các vấn đề về quốc tịch, hộ khẩu, hộ tịch và các loại giấy tờ tùy thân khác cho người dân di cư tự do về nước, gửi Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ngày 29/9/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1748/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án tổng thể đối với người dân di cư tự do từ Campuchia về Việt Nam”. Tại Quyết định này, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan Trung ương liên quan hướng dẫn Ủy ban nhân dân các tỉnh thực hiện Tiểu Đề án 2 “Giải quyết các vấn đề về quốc tịch, hộ tịch, hộ khẩu và các giấy tờ tùy thân khác cho người di cư tự do từ Campuchia về nước”.
Theo Tiểu Đề án này thì đối tượng được giải quyết là những người di cư tự do từ Campuchia về nước thuộc 10 tỉnh giáp có đường biên giới với Campuchia (An Giang, Đồng Tháp, Long An, Kiên Giang, Tây Ninh, Bình Phước, Đắk Nông, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum). Ngoài ra, 02 tỉnh Đồng Nai và Cà Mau tuy không thuộc các tỉnh nằm trong Tiểu Đề án 2 nhưng do trên địa bàn địa phương có nhiều người di cư tự do từ Campuchia về nước sinh sống nên Ủy ban nhân dân tỉnh đã đề xuất và xin được tham gia vào Tiểu đề án này. Theo đó, để giải quyết đối với những trường hợp người di cư tự do từ Campuchia về Việt Nam đang sinh sống trên địa bàn, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương cần chỉ đạo Sở Tư pháp phối hợp với các ban, ngành có liên quan tiến hành rà soát, phân loại đối tượng hiện đang sinh sống trên địa bàn tỉnh báo cáo Bộ Tư pháp và đề xuất phương án giải quyết theo Tiểu Đề án 2 tương tự như tỉnh Đồng Nai và Cà Mau.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 14 Luật Nuôi con nuôi, người nhận con nuôi phải “có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi”; Khoản 5, Điều 17 Luật Nuôi con nuôi cũng quy định, một trong những thành phần hồ sơ của người nhận con nuôi là “văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú cấp”. Tuy nhiên, hiện nay chưa có văn bản quy định như thế nào là “không có khả năng nuôi dưỡng”, như thế nào là “có điều kiện về kinh tế” bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Do đó, Ủy ban nhân dân cấp xã rất lúng túng trong quá trình triển khai thực hiện, đề nghị Bộ Tư pháp hướng dẫn cụ thể tiêu chí đánh giá, cách thức xác định đối với các điều kiện trên (UBND tỉnh Khánh Hòa).
Trả lời:
Đối với quy định tại Khoản 1, Điều 14 và Khoản 5, Điều 17 Luật Nuôi con nuôi, hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể, tuy nhiên, trên thực tế để xem xét, giải quyết cho người có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi, công chức Tư pháp - Hộ tịch có thể căn cứ dựa trên những tiêu chí như:
- Điều kiện kinh tế: người nhận con nuôi có công việc làm ổn định, thu nhập thường xuyên sẽ có điều kiện nuôi dưỡng tốt hơn một cặp vợ chồng có công việc không ổn định, mức thu nhập không thường xuyên.
- Điều kiện sức khỏe của người nhận con nuôi: công chức tư pháp hộ tịch có thể đánh giá sức khỏe của người nhận con nuôi thông qua giấy khám sức khỏe của người đó (ví dụ như có mắc bệnh nặng, hiểm nghèo nguy hiểm đến tính mạng hay không…), lối sống lành mạnh của người nhận con nuôi.
- Điều kiện về nơi ở: người nhận con nuôi có nơi ở ổn định (có thể là nhà thuộc sở hữu hoặc nhà thuê nhưng đảm bảo tính ổn định, lâu dài, không thay đổi liên tục …)
- Ngoài ra, còn có thể dựa vào: độ tuổi của người nhận con nuôi; sự ủng hộ của các thành viên trong gia đình người nhận con nuôi; kinh nghiệm nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em...
Hiện nay, Bộ Tư pháp (Cục con nuôi) đang nghiên cứu để đề xuất đưa hướng dẫn nêu trên vào nội dung sửa đổi bổ sung Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Nuôi con nuôi năm 2018.
1. Đề nghị Bộ Tư pháp quan tâm, tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc trong công tác lý lịch tư pháp như sau:
- Để việc xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp được hoàn thiện, nhanh chóng, đáp ứng yêu cầu đặt ra thì cần có sự quan tâm, đầu tư lâu dài về kho bảo quản; tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn về công tác lưu trữ song song với đào tạo nghiệp vụ về lý lịch tư pháp; máy móc, trang thiết bị cần được đầu tư thêm.
- Bên cạnh đó, việc đào tạo đối với cán bộ trong công tác lý lịch tư pháp chưa nhiều, do đó đề nghị Bộ Tư pháp thường xuyên mở các lớp tập huấn, đào tạo về lý lịch tư pháp đặc biệt là công tác xóa án tích, nhằm thực hiện tốt công tác xác minh điều kiện đương nhiên xóa án tích cho người dân có yêu cầu (UBND tỉnh, tp: Cần Thơ, Lâm Đồng)
Trả lời:
Thứ nhất, ngay sau khi Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 được ban hành, Bộ Tư pháp đã tổ chức 03 lớp tập huấn nghiệp vụ lý lịch tư pháp cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác lý lịch tư pháp tại các Sở Tư pháp. Thời gian qua, số lượng và nội dung các lớp tập huấn nghiệp vụ này đã cơ bản đáp ứng yêu cầu thực hiện công tác lý lịch tư pháp tại các Sở Tư pháp. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn thực hiện công tác lý lịch tư pháp tại các Sở Tư pháp trong giai đoạn hiện nay, Bộ Tư pháp xin ghi nhận ý kiến đề xuất về vấn đề này. Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp (Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia) sẽ tổ chức lớp tập huấn chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ làm công tác lý lịch tư pháp (Nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 1559/QĐ-BTP ngày 27/9/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Bộ luật Hình sự), đồng thời, Bộ Tư pháp sẽ cân nhắc tổ chức thêm lớp tập huấn nghiệp vụ lý lịch tư pháp, trong đó có công tác lưu trữ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác lý lịch tư pháp trong thời gian tới.
Thứ hai, để việc xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu đặt ra, bên cạnh phần mềm quản lý lý lịch tư pháp phiên bản dùng chung cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục chỉ đạo Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu, đề xuất các giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin để giúp việc xây dựng cơ sở dữ liệu được nhanh chóng và hiệu quả, tiết kiệm chi phí. Đồng thời, trong thời gian tới khi sửa đổi Luật Lý lịch tư pháp, Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu để sửa đổi quy định liên quan đến cơ sở dữ liệu để nâng cao chất lượng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, phù hợp với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin.
2. Đề nghị Bộ Tư pháp (Trung tâm Lý lịch tư pháp Quốc gia) có cơ chế phối hợp với Bộ Công an (Cục C53) để có giải pháp phù hợp trong việc cung cấp thông tin án tích, làm cơ sở thuận lợi cho Sở Tư pháp xác minh, tra cứu, cấp phiếu LLTP cho công dân, cá nhân (UBND tỉnh Vĩnh Phúc).
Trả lời:
Để giải quyết tình trạng chậm thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp tại tỉnh Vĩnh Phúc, từ ngày 17/11/2015, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Bộ Tư pháp và Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát (C53), Bộ Công an đã triển khai Giải pháp ứng dụng tin học hóa công tác tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp tỉnh Vĩnh Phúc. Ngay sau khi triển khai giải pháp này, về cơ bản, Sở Tư pháp tỉnh Vĩnh Phúc đã giải quyết được tình trạng chậm thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
Tuy nhiên, để tiếp tục hoàn thiện hơn Quy chế phối hợp, đảm bảo phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan, hiện nay, Trung tâm đang phối hợp với C53 xây dựng Quy chế phối hợp về triển khai Giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
3. Việc xác minh điều kiện đương nhiên xóa án tích đòi hỏi phải xác định chính xác thời điểm chấp hành xong bản án của người bị kết án. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về cách tính thời gian chấp hành đối với trường hợp: trong quá trình chấp hành hình phạt tù nhưng được hưởng án treo, chưa hết thời gian thử thách nhưng người chấp hành án bỏ đi khỏi địa phương không khai báo theo quy định. Đề nghị Bộ Tư pháp cho ý kiến hướng dẫn để có cơ sở giải quyết hồ sơ, đảm bảo quyền lợi của người chấp hành án (UBND tỉnh Khánh Hòa).
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015, thì một trong các điều kiện để đương nhiên được xóa án tích là: “…chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo”. Theo đó, để đương nhiên được xóa án tích, thì người bị kết án phải có các giấy tờ của cơ quan có thẩm quyền có liên quan cấp, xác nhận đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo và những nội dung có liên quan khác nêu trong bản án (án phí, hình phạt bổ sung, nghĩa vụ dân sự…). Đối với trường hợp người bị kết án trong quá trình chấp hành hình phạt tù nhưng được hưởng án treo, chưa hết thời gian thử thách nhưng bỏ đi khỏi địa phương, không khai báo theo quy định và không có giấy tờ chứng nhận chấp hành xong thời gian thử thách của cơ quan có thẩm quyền cấp thì không đủ căn cứ để được đương nhiên xóa án tích. Do đó, Sở Tư pháp thực hiện cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho các đối tượng này với tình trạng án tích là “Có án tích” và ghi các nội dung liên quan khác theo quy định.
4. Hiện nay, tại tỉnh Khánh Hòa, khi tiếp nhận thủ tục cấp phiếu lý lịch tư pháp đang duy trì 02 Phần mềm (phần mềm một cửa dùng chung của địa phương và phần mềm trực tuyến của Bộ Tư pháp. Do vậy, cán bộ một cửa phải thao tác trên 02 phần mềm, dẫn đến áp lực về khối lượng công việc và thời gian. Mặt khác, trên phần mềm một cửa không thể hiện được hồ sơ trực tuyến mức độ 3 nên khó khăn cho công tác theo dõi, tổng hợp, thống kê. Sở Tư pháp kiến nghị Bộ Tư pháp tạo điều kiện cho địa phương tích hợp 02 phần mềm nêu trên nhằm giảm khối lượng công việc, đáp ứng yêu cầu về cải cách hành chính (UBND tỉnh Khánh Hòa).
Trả lời:
Về vấn đề này, Bộ Tư pháp xin ghi nhận kiến nghị của Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa và đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa có chỉ đạo, giao cho cơ quan đầu mối của tỉnh phụ trách triển khai thực hiện việc kết nối giữa các phần mềm phối hợp với 02 đơn vị thuộc Bộ Tư pháp: Cục Công nghệ thông tin, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia xây dựng phương án kết nối, trao đổi thông tin liên quan đến việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu Lý lịch tư pháp giữa 02 phần mềm trên.
5. Đề nghị Bộ Tư pháp ban hành cơ chế phối hợp xác minh giữa các cơ quan liên quan, trong đó xác định rõ thời gian xác minh của từng cơ quan và cách thức xử lý thông tin lý lịch tư pháp khi hết thời gian quy định mà không nhận được văn bản xác minh của các cơ quan liên quan. Quy định cụ thể thành phần hồ sơ yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp cho cá nhân trong trường hợp đủ điều kiện đương nhiên xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (UBND tp. Hồ Chí Minh).
Trả lời:
Bộ Tư pháp xin ghi nhận kiến nghị của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu để bổ sung quy định về cơ chế phối hợp xác minh giữa các cơ quan có liên quan. Đặc biệt đối với thành phần hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu Lý lịch tư pháp cho cá nhân đủ điều kiện đương nhiên xóa án tích sẽ được tiếp thu, nghiên cứu khi sửa đổi, bổ sung Luật Lý lịch tư pháp.
6. Đề nghị Bộ Tư pháp có văn bản hướng dẫn cụ thể đối với việc thu hay miễn lệ phí đối với trường hợp cơ quan nhà nước yêu cầu cung cấp lý lịch tư pháp cho cá nhân để phục vụ công tác quản lý nhân sự theo Khoản 3 Điều 7 Luật Lý lịch tư pháp (UBND tỉnh Gia Lai).
Trả lời:
Về vấn đề này, Bộ Tư pháp có trả lời như sau: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 10 Luật LLTP thì “Cá nhân có yêu cầu cấp Phiếu Lý lịch tư pháp phải nộp lệ phí”. Cụ thể hóa quy định này, Thông tư số 244/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí cung cấp thông tin lý lịch tư pháp, trong đó đối tượng điều chỉnh là công dân Việt Nam, người nước ngoài yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Do đó, Luật Lý lịch tư pháp (LLTP) chỉ quy định việc nộp lệ phí đối với cá nhân yêu cầu cấp Phiếu LLTP, còn cơ quan, tổ chức được quy định tại Khoản 3 Điều 7 Luật LLTP không phải nộp lệ phí.
7. Cơ quan Công an đã và đang xây dựng cơ sở dữ liệu án tích của người bị kết án, các Sở Tư pháp trên cả nước và Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia cũng đang xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Cả hai cơ sở dữ liệu này về bản chất đều được xây dựng nhằm mục đích quản lý về thông tin án tích và tình trạng án tích của người bị kết án. Việc xây dựng hai cơ sở dữ liệu cùng một nội dung gây lãng phí tài sản, nhân lực. Vì vậy, kiến nghị sửa đổi Luật Lý lịch tư pháp theo hướng giao cho cơ quan Công an cấp tỉnh thực hiện việc xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp để tránh việc lãng phí nhân lực và tài lực như hiện nay (UBND tỉnh Gia Lai).
Trả lời:
Theo quy định của Luật LLTP thì thông tin lý lịch tư pháp bao gồm thông tin về án tích, thông tin về tình trạng thi hành án, thông tin về các quyết định cấm đảm nhiệm chức vụ và tham gia thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã. Theo đó, hiện nay không có cơ quan nào tự có đầy đủ các thông tin theo quy định nêu trên. Theo quy định của Luật lý lịch tư pháp thì Bộ Tư pháp được giao tích hợp thông tin của các ngành toà án, công an, kiểm sát, thi hành án, tư pháp hộ tịch (thông tin về thay đổi hộ tịch)… Việc ngành công an xây dựng cơ sở dữ liệu án tích là nhằm phục vụ mục đích quản lý riêng của lực lượng công an.
Mặt khác, phạm vi quản lý thông tin của Cơ sở dữ liệu LLTP là từ thời điểm một người bị kết án bởi bản án có hiệu lực pháp luật và những thông tin lý lịch tư pháp về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã. Đây là điểm đặc thù, khác biệt với Cơ sở dữ liệu của Ngành Công an. Do đó, việc giao cho cơ quan Công an cấp tỉnh thực hiện việc xây dựng Cơ sở dữ liệu LLTP là chưa phù hợp. Tuy nhiên, tiếp thu một phần kiến nghị của UBND tỉnh Gia Lai, thời gian tới Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu về việc xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tập trung, thống nhất và chia sẻ dữ liệu để các Sở Tư pháp chủ động khai thác, phục vụ công tác cấp Phiếu Lý lịch tư pháp theo quy định.
8. Đề nghị Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp các Bộ, ngành liên quan có văn bản hướng dẫn chỉ đạo trong công tác trao đổi cung cấp bổ sung hoặc đính chính thông tin lý lịch tư pháp đối với các trường hợp ngoài phạm vi địa phương để thuận lợi cho việc cập nhật, khai thác Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (UBND tỉnh Bạc Liêu).
Trả lời:
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 13 của Luật LLTP thì Sở Tư pháp có nhiệm vụ cung cấp thông tin lý lịch tư pháp cho Sở Tư pháp khác theo thẩm quyền; Điều 24 Luật LLTP cũng quy định về việc bổ sung, đính chính thông tin LLTP trong trường hợp thông tin LLTP chưa đầy đủ, sai sót: “Trường hợp thông tin lý lịch tư pháp chưa đầy đủ, có sai sót, cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp đề nghị cơ quan, tổ chức đã cung cấp thông tin bổ sung, đính chính”. Ngoài ra, theo quy định của Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi hành, khi cần tra cứu, xác minh thông tin để xây dựng Cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP thì Sở Tư pháp có thể yêu cầu các cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin. Như vậy, Sở Tư pháp có quyền đề nghị Sở Tư pháp khác cung cấp thông tin hoặc đề nghị các cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin để bổ sung, đính chính thông tin. Tuy nhiên, ghi nhận kiến nghị của UBND tỉnh Bạc Liêu, thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu về việc xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tập trung, thống nhất và chia sẻ dữ liệu để các Sở Tư pháp chủ động khai thác, phục vụ công tác cấp Phiếu Lý lịch tư pháp theo quy định.
VIII. LĨNH VỰC BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC
1. Đề nghị Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức tập huấn về công tác bồi thường nhà nước cho đội ngũ công chức làm công tác bồi thường nhà nước tại địa phương. Bên cạnh đó, cần có chế độ, chính sách đãi ngộ với đội ngũ công chức thực hiện công tác này (UBND tỉnh, tp: Cần Thơ, Lâm Đồng).
Trả lời:
Trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã tổ chức các lớp tập huấn cũng như có công văn trao đổi, trả lời để hướng dẫn nghiệp vụ về công tác bồi thường nhà nước theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2009. Triển khai thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước số 10/2017/QH14, trong năm 2018, Bộ Tư pháp sẽ tổ chức quán triệt, triển khai thi hành Luật TNBTCNN năm 2017 và tổ chức tập huấn nghiệp vụ về công tác bồi thường nhà nước cho đội ngũ công chức làm công tác bồi thường nhà nước tại địa phương trên phạm vi cả nước theo các kế hoạch đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Đối với chế độ, chính sách đãi ngộ đối với công chức thực hiện công tác bồi thường: hiện nay, công chức thực hiện công tác bồi thường được hưởng các chế độ, chính sách theo quy định pháp luật áp dụng chung đối với công chức. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước ngày càng khó khăn, việc quy định chế độ đặc thù đối với cán bộ làm công tác bồi thường là không khả thi. Tuy nhiên, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ quan tâm để hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi nhất có thể cho đội ngũ công chức làm công tác bồi thường như ưu tiên tham gia các lớp tập huấn, hội nghị, hội thảo để nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ.
2. Đề nghị Bộ Tư pháp tham mưu để có quy định về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan về quản lý nhà nước trong công tác bồi thường nhà nước (UBND tỉnh Lâm Đồng)
Trả lời:
Thực hiện nhiệm vụ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các nội dung được giao trong Luật TNBTCNN năm 2017, Bộ Tư pháp (Cục Bồi thường nhà nước) đã xây dựng dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật TNBTCNN năm 2017, trong đó, Chương V của dự thảo có nội dung về phối hợp thực hiện công tác bồi thường nhà nước giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hiện nay, hồ sơ dự thảo Nghị định đã được gửi đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp để xin ý kiến rộng rãi.
3. Đề nghị Bộ Tư pháp xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật về bồi thường nhà nước nhằm giải quyết những vướng mắc, bất cập còn tồn tại (UBND tỉnh Lâm Đồng)
Trả lời:
Việc xây dựng Luật TNBTCNN năm 2017 dựa trên quan điểm chỉ đạo phải bảo đảm phù hợp và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, đặc biệt là các quy định về quyền con người, quyền cơ bản của công dân; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các đạo luật liên quan như Bộ luật dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Luật tố tụng hành chính năm 2015, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam... Trên cơ sở xác định khuôn khổ pháp luật về bồi thường nhà nước có đặc thù riêng. Do đó, khi Luật TNBTCNN năm 2017 có hiệu lực thi hành (ngày 01/7/2018), pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước sẽ đồng bộ, thống nhất, phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và hệ thống pháp luật hiện hành có liên quan đến công tác bồi thường nhà nước.
4. Đề nghị Bộ Tư pháp tham mưu có cơ chế đảm bảo biên chế để kiện toàn đội ngũ công chức các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước (UBND tỉnh Lâm Đồng)
Trả lời:
Tại Quyết định số 1269/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật TNBTCNN năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện việc rà soát, kiện toàn đội ngũ công chức thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường nhà nước và giải quyết bồi thường nhà nước tại địa phương. Do đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ nội dung tại Kế hoạch triển khai thi hành Luật TNBTCNN của Thủ tướng Chính phủ và tình hình thực tế tại địa phương mình thực hiện nhiệm vụ được giao.
1. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan đề xuất cơ quan có thẩm quyền ban hành quy định chế độ đặc thù, chính sách riêng cho các chức danh bổ trợ tư pháp (UBND tỉnh Quảng Bình).
Trả lời:
Trong thời gian qua, công tác bổ trợ tư pháp đã có bước phát triển mới trong hoạt động luật sư, công chứng, giám định tư pháp, đấu giá tài sản, trong đó việc hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực luật sư, công chứng, giám định tư pháp, đấu giá tài sản đã là nền tảng thúc đẩy việc xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp. Cho đến nay, hoạt động luật sư đã được xã hội hóa hoàn toàn về mặt hoạt động, có những đóng góp ngày càng quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, phục vụ tích cực cho công cuộc cải cách tư pháp, góp phần tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho việc thúc đẩy các hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Hiện nay, đối với chức danh công chứng viên đang làm việc tại các Phòng công chứng đã được hưởng chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề (theo Quyết định số 27/2012/QĐ-TTg ngày 11/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với chấp hành viên, công chứng viên, thẩm tra viên và thư ký thi hành án). Đối với giám định viên tư pháp, người làm giám định tư pháp cũng đã được quan tâm, tăng cường các chế độ chính sách như chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp (theo Quyết định số 01/2014/QĐ-TTg ngày 01/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ); chế độ phụ cấp trách nhiệm công việc giám định tư pháp đối với các giám định viên chuyên trách trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự (theo Thông tư số 02/2009/TT-BTP ngày 17/9/2009 của Bộ Tư pháp)...
Đối với lĩnh vực bán đấu giá tài sản, Luật đấu giá tài sản có hiệu lực từ ngày 01/7/2017 tiếp tục thể chế hóa chủ trương, quan điểm xã hội hóa hoạt động đấu giá tài sản theo tinh thần của các Nghị quyết của Đảng, đảm bảo phù hợp với tình hình thực tiễn tại các địa phương và định hướng phát triển nghề đấu giá theo hướng chuyên nghiệp hóa, tạo mặt bằng chung trong hoạt động đấu giá tài sản, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức đấu giá tài sản, góp phần từng bước hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động bổ trợ tư pháp trong nền thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu nêu trên, trước tình hình tổ chức và hoạt động đấu giá tài sản hiện nay, Bộ Tư pháp đang xây dựng dự thảo Thông tư ban hành mã số và tiêu chuẩn chức danh đấu giá viên nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ đối với tổ chức, hoạt động đấu giá tài sản theo hướng chuyên nghiệp hóa, làm cơ sở cho việc thực hiện tốt công tác tuyển dụng, nâng ngạch, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm viên chức đấu giá viên, qua đó góp phần xây dựng đội ngũ đấu giá viên chuyên nghiệp, động viên, khuyến khích các viên chức đấu giá viên cống hiến cho sự phát triển nghề nghiệp đấu giá nói riêng, sự phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương và đất nước nói chung. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu để có những chính sách hợp lý đối với đội ngũ đấu giá viên làm việc tại các Trung tâm Dịch vụ đấu giá tài sản, đảm bảo phù hợp với chủ trương xã hội hóa hoạt động bán đấu giá trong bối cảnh hiện nay.
2. Đề nghị Bộ Tư pháp hướng dẫn các địa phương thực hiện Luật đấu giá tài sản chi tiết, cụ thể hơn nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động đấu giá tài sản, tăng cường công tác quản lý nhà nước về đấu giá tài sản thực sự công khai, minh bạch, tiết kiệm, hiệu quả, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ lợi ích của nhà nước, tổ chức, cá nhân, đồng thời góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương (UBND tỉnh Sơn La).
Trả lời:
Thực hiện Quyết định số 410/QĐ-TTg ngày 04/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai Luật đấu giá tài sản, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ban, ngành và địa phương tổ chức triển khai Luật đấu giá tài sản bước đầu có hiệu quả, đồng bộ, thống nhất và đạt được một số kết quả đáng khích lệ.
Trong việc xây dựng thể chế, Bộ Tư pháp đã soạn thảo trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 quy định chi tiết thi hành một số Điều và biện pháp thi hành Luật đấu giá tài sản. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Thông tư số 06/2017/TT-BTP ngày 16/5/2017 quy định về chương trình khung của khóa đào tạo nghề đấu giá, cơ sở đào tạo nghề đấu giá, việc tập sự và kiểm tra kết quả tập sự hành nghề đấu giá và biểu mẫu trong lĩnh vực đấu giá tài sản (02 văn bản này có hiệu lực cùng với thời điểm có hiệu lực của Luật đấu giá tài sản). Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng đã có văn bản góp ý gửi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc ban hành Nghị định số 61/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 quy định việc thẩm định giá khởi điểm của khoản nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoán nợ xấu; có văn bản gửi Bộ Tài chính trong việc ban hành 03 Thông tư hướng dẫn chế độ tài chính trong hoạt động đấu giá tài sản bao gồm Thông tư số 45/2017/TT-BTC ngày 12/5/2017, Thông tư số 48/2017/TT-BTC ngày 15/5/2017 và Thông tư số 106/2017/TT-BTC ngày 06/10/2017. Việc các văn bản pháp luật quy định chi tiết Luật đấu giá tài sản được ban hành đầy đủ, kịp thời đã góp phần vào việc triển khai Luật đồng bộ, thống nhất từ Trung ương cho đến địa phương.
Bên cạnh đó, để sớm đưa quy định của Luật đấu giá tài sản vào cuộc sống, Bộ Tư pháp đã tổ chức 02 Hội nghị quán triệt Luật đấu giá tài sản tại 02 khu vực để trao đổi, thảo luận và tháo gỡ kịp thời các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai Luật; ban hành nhiều Công văn triển khai, hướng dẫn nghiệp vụ cho địa phương, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến Sở Tư pháp, tổ chức đấu giá tài sản như việc tuyên truyển, phổ biến nội dung của Luật đấu giá tài sản và các văn bản hướng dẫn thi hành; việc tổ chức đăng ký hoạt động, chuyển đổi đăng ký hoạt động của doanh nghiệp đấu giá tài sản; việc đăng ký mẫu con dấu cho doanh nghiệp đấu giá tài sản; việc rà soát, sửa đổi, bổ sung Quy chế đấu giá quyền sử dụng đất tại địa phương; việc tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động đấu giá tài sản của các tổ chức đấu giá tài sản có trụ sở ở địa phương khác hành nghề đấu giá tại địa phương; việc cấp Thẻ đấu giá viên; việc thực hiện trình tự, thủ tục đấu giá theo quy định của Luật đấu giá tài sản. Với những công việc triển khai bước đầu như nêu trên về cơ bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đấu giá tài sản tại các địa phương đi vào hoạt động ổn định, hiệu quả. Các Sở Tư pháp cũng đã chủ động thực hiện các công việc triển khai Luật đấu giá tài sản tại địa phương mình, tạo sự đồng bộ, thống nhất trong phạm vi cả nước.
Để tiếp tục triển khai có hiệu quả Luật đấu giá tài sản tại địa phương, Bộ Tư pháp đề nghị UBND tỉnh Sơn La tiếp tục quan tâm, chỉ đạo Sở Tư pháp triển khai các nhiệm vụ, giải pháp được nêu trong Kế hoạch triển khai Luật đấu giá tài sản đã được phê duyệt tại địa phương và tích cực, chủ động thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp thuộc thẩm quyền tại địa phương; trong quá trình triển khai có khó khăn, vướng mắc phát sinh thì kịp thời báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh phản ánh về Bộ Tư pháp để có hướng dẫn xử lý phù hợp.
3. Đề nghị Bộ Tư pháp kiến nghị các Bộ, ngành sớm ban hành Quy chế phối hợp giữa Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế và Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh trong việc tiếp nhận trưng cầu và thực hiện giám định pháp y; kịp thời ban hành quy trình giám định, quy chuẩn chuyên môn trong hoạt động giám định ở một số lĩnh vực như tài chính, tài nguyên môi trường, văn hóa, thông tin và truyền thông...; tăng cường và thường xuyên tổ chức tập huấn chuyên sâu nghiệp vụ giám định cho từng lĩnh vực thuộc các Bộ, ngành quản lý (UBND tỉnh Sóc Trăng).
Trả lời:
a) Về việc xây dựng, ban hành Quy chế phối hợp giữa Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế và Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh trong việc tiếp nhận trưng cầu và thực hiện giám định pháp y
Theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 27 của Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật giám định tư pháp, Bộ Y tế được giao chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Tư pháp xây dựng, ban hành Quy chế phối hợp giữa Trung tâm Pháp y cấp tỉnh và Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh, các cơ quan có liên quan trong việc tiếp nhận trưng cầu và thực hiện giám định pháp y.
Thực hiện nhiệm vụ này, Bộ Y tế đã tích cực chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan xây dựng dự thảo Thông tư liên tịch. Việc xây dựng dự thảo Thông tư liên tịch được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay còn một số nội dung chưa đạt được sự đồng thuận giữa 3 Bộ để ký ban hành. Ngày 29/8/2016, Bộ Y tế đã có Công văn số 6477/BYT-PC báo cáo Thủ tướng Chính phủ về những vướng mắc trong quá trình xây dựng Thông tư. Ngày 07/9/2017, Văn phòng Chính phủ đã có Công văn số 9472/VPCP-KGVX thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình về việc ban hành Quy chế phối hợp trong tiếp nhận, trưng cầu và thực hiện giám định pháp y theo trình tự, thủ tục ban hành quy phạm pháp luật của Thủ tướng Chính phủ theo trình tự, thủ tục rút gọn. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, ngày 06/10/2017, Bộ Y tế tổ chức cuộc họp giữa các Bộ liên quan, Tòa án nhân dân tối cao, các Trung tâm Pháp y và Công an tỉnh. Trên cơ sở kết quả cuộc họp, Bộ Y tế chỉnh lý dự thảo và hiện nay chuẩn bị gửi xin ý kiến các cơ quan liên quan. Bộ Tư pháp sẽ tích cực đôn đốc, phối hợp để thống nhất, ban hành Quy chế này.
b) Về việc ban hành quy trình giám định, quy chuẩn chuyên môn trong hoạt động giám định ở một số lĩnh vực như tài chính, tài nguyên môi trường, văn hóa, thông tin và truyền thông…
Theo quy định của Luật giám định tư pháp, các Bộ, cơ quan ngang Bộ có trách nhiệm ban hành quy chuẩn giám định tư pháp hoặc hướng dẫn áp dụng quy chuẩn chuyên môn cho hoạt động giám định tư pháp theo yêu cầu và đặc thù của lĩnh vực giám định thuộc thẩm quyền quản lý (Khoản 2 Điều 41). Hiện nay, Bộ Y tế, Bộ Công an đã ban hành đủ quy chuẩn chuyên môn áp dụng trong hoạt động giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần và giám định kỹ thuật hình sự (Thông tư số 47/2013/TT-BYT ngày 31/12/2013, Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 và Thông tư số 18/2015/TT-BYT của Bộ Y tế; Thông tư số 52/2011/TT-BCA, ngày 20/7/2011 và Thông tư số 46/2013/TT-BCA ngày 05/11/2013 của Bộ Công an; một số Bộ đã hướng dẫn áp dụng quy chuẩn chuyên môn trong hoạt động giám định thuộc lĩnh vực quản lý (Thông tư số 138/2013/TT-BTC ngày 09/10/2013 của Bộ Tài chính, Thông tư số 04/2014/ TT-BXD ngày 22/4/2014 của Bộ Xây dựng…). Ngoài ra, để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ này, Bộ Tư pháp đã chủ động báo cáo và đề xuất giao nhiệm vụ: “Rà soát, ban hành đầy đủ các quy trình giám định hoặc hướng dẫn áp dụng quy trình giám định ở lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, văn hóa, tài nguyên và môi trường, đầu tư, thông tin và truyền thông, nông nghiệp và phát triển nông thôn, công thương, khoa học và công nghệ... bảo đảm hoạt động giám định tư pháp được thực hiện theo trình tự thống nhất đối với mỗi loại việc giám định trong từng lĩnh vực” trong dự thảo Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp trình Thủ tướng phê duyệt thực hiện trong thời gian tới.
c) Về việc tăng cường và thường xuyên tổ chức tập huấn chuyên sâu nghiệp vụ giám định cho từng lĩnh vực thuộc các Bộ, ngành quản lý
Trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã tích cực đôn đốc, phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tài chính, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp lý và nghiệp vụ giám định cho hầu hết những người giám định thuộc các lĩnh vực này. Để tiếp tục đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ này, Bộ Tư pháp đã đề xuất tiếp tục giao nhiệm vụ: “Tăng cường bồi dưỡng, tập huấn kiến thức pháp lý, nghiệp vụ giám định cho đội ngũ người giám định tư pháp và đội ngũ người tiến hành tố tụng” cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ tiếp tục thực hiện trong dự thảo Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thực hiện trong thời gian tới.
4. Trong lĩnh vực Bổ trợ trư pháp, qua rà soát, tỉnh nhận thấy có 23 thủ tục hành chính được Bộ Tư pháp công bố trong danh mục thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của địa phương nhưng không đáp ứng đầy đủ các yếu tố cấu thành thủ tục hành chính theo quy định của Nghị định số 63/2010/NĐ-CP, Nghị định số 92/2017/NĐ-CP về kiểm soát thủ tục hành chính. Do đó, khi địa phương đưa vào tiếp nhận tại Bộ phận một cửa gặp nhiều khó khăn, do thủ tục hành chính không có thời hạn, không có thành phần hồ sơ...; không sử dụng được phần mềm một cửa. Đề nghị Bộ Tư pháp rà soát, bãi bỏ đối với những thủ tục hành chính nêu trên (UBND tỉnh Khánh Hòa).
Trả lời:
Trong năm 2017, trên cơ sở các thủ tục hành chính trong lĩnh vực Bổ trợ tư pháp đã được công bố trước đây, Bộ Tư pháp đã thường xuyên rà soát, theo dõi để kịp thời sửa đổi, bổ sung các thủ tục hành chính, đảm bảo phù hợp với nội dung các văn bản mới ban hành cũng như tình hình thực tiễn. Ngày 23/5/2017, Bộ đã ban hành Quyết định số 711/QĐ-BTP, trong đó công bố 65 thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực Bổ trợ tư pháp thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp do có sự thay đổi về phí, lệ phí và gửi các Sở Tư pháp về việc đăng tải Quyết định trên Cổng thông tin Bộ Tư pháp để biết, thực hiện. Bên cạnh đó, trên cơ sở Luật đấu giá tài sản (có hiệu lực từ ngày 01/7/2017) và sau khi Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 106/2017/TT-BTC ngày 06/10/2017 quy định về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định tiêu chuẩn hành nghề đấu giá tài sản, phí thẩm định điều kiện đăng ký hoạt động của doanh nghiệp đấu giá tài sản, hiện nay Bộ Tư pháp đang hoàn thiện dự thảo Quyết định công bố các TTHC trong lĩnh vực đấu giá tài sản và sẽ công bố vào cuối tháng 12/2017.
Trong thời gian tới, trên cơ sở các quy định tại Nghị định số 92/2017/NĐ-CP ngày 07/8/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của các nghị định liên quan đến thủ tục hành chính, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục chuẩn hóa các TTHC trong lĩnh vực Bổ trợ tư pháp. Đồng thời, ghi nhận kiến nghị của UBND tỉnh Khánh Hòa, trong quá trình rà soát các TTHC, Bộ Tư pháp sẽ tập trung vào những lĩnh vực có nhiều thủ tục thuộc thẩm quyền giải quyết của địa phương, hoặc lĩnh vực còn tồn tại một số thủ tục chưa đủ bộ phận cấu thành như tư vấn pháp luật, công chứng, trọng tài thương mại... để đảm bảo việc công bố TTHC được đầy đủ, đúng theo quy định của Nghị định số 63/2010/NĐ-CP, Nghị định số 92/2017/NĐ-CP.
5. Tỉnh Gia Lai nhận thấy một số khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định tại Khoản 1 Điều 57 Luật đấu giá tài sản như sau:
Khoản 1 Điều 57 Luật đấu giá tài sản quy định: Thông báo công khai việc đấu giá tài sản: Ngoài quy định về niêm yết việc đấu giá tài sản quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 35 của Luật này, đối với tài sản đấu gián là động sản có giá khởi điểm từ năm mươi triệu đồng trở lên và bất động sản và bất động sản thì tổ chức đấu giá tài sản phải thông báo công khai ít nhất hai lần trên báo in hoặc báo hình của Trung ương hoặc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản đấu giá và trang thông tin điện tử chuyên ngành về đấu giá tài sản; mỗi lần thông báo công khai cách nhau ít nhất là 02 ngày làm việc.
Quy định như vậy là có bất cập. Ví dụ như Báo Tuổi trẻ là Báo địa phương (TP. Hồ Chí Minh) nhưng phát hành toàn quốc, số lượng phát hành lớn, giá thành rẻ so với một số báo địa phương hoặc Trung ương khác. Như vậy có được đăng đấu giá ở các tỉnh, thành khác (ngoài TP. Hồ Chí Minh).
Trang Thông tin điện tử chuyên ngành về đấu giá tài sản hiện nay vẫn chưa vận hành trong khi Luật đã có hiệu lực từ ngày 01/7/2017.
Hiện tại, Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh hoạt động gặp nhiều khó khăn (Trung tâm hoạt động theo cơ chế tự chủ về tài chính). Do đó, đề nghị UBND tỉnh cho phép tự chủ 1 phần kinh phí (50%) để Trung tâm hoạt động, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn cũng như nhiệm vụ chính trị của một số đơn vị sự nghiệp do Nhà nước thành lập.
Do đó, đề nghị Bộ Tư pháp có văn bản hướng dẫn Điều 57 Luật đấu giá tài sản về những bất cập đã phân tích ở trên để các tổ chức đấu giá chuyên nghiệp dễ hoạt động (UBND tỉnh Gia Lai).
Trả lời:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 57 Luật đấu giá tài sản thì đối với tài sản đấu giá là động sản có giá khởi điểm từ năm mươi triệu đồng trở lên và bất động sản thì tổ chức đấu giá tài sản phải thông báo công khai ít nhất hai lần trên báo in hoặc báo hình của Trung ương hoặc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản đấu giá và trang thông tin điện tử chuyên ngành về đấu giá tài sản.
Luật đấu giá tài sản không có quy định cụ thể về các loại báo chí (báo in báo nói, báo hình hay báo điện tử) để đăng thông báo công khai và việc đăng thông báo công khai hai lần trên cùng một loại báo hay hai lần trên các loại báo khác nhau. Theo thông tin thống kê tại Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2017 do Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức thì đến tháng 7/2017, cả nước ta có 193 báo in, trong đó ở Trung ương có 86 báo, địa phương có 107 báo và 150 báo điện tử.
Do đó, việc Luật đấu giá tài sản quy định như tại Khoản 1 Điều 57 nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức đấu giá tài sản căn cứ tình hình thực tiễn việc tổ chức bán đấu giá tài sản, thực tiễn đa dạng của các loại hình báo chí cả ở Trung ương và địa phương như hiện nay để thực hiện việc thông báo công khai việc đấu giá phù hợp với quy định pháp luật, đảm bảo tính công khai, minh bạch, khách quan của việc tổ chức đấu giá và hiệu quả của việc đăng thông báo công khai.
Để góp phần đảm bảo việc đăng thông báo công khai thống nhất, đồng bộ, Luật đấu giá tài sản đã quy định tổ chức đấu giá tài sản đồng thời phải đăng thông báo công khai trên Trang thông tin điện tử chuyên ngành về đấu giá tài sản. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang phối hợp với cơ quan, tổ chức xây dựng Trang thông tin điện tử chuyên ngành nêu trên, dự kiến đưa vào vận hành trong Quý I/2018. Trong thời gian Trang tin chưa được xây dựng, Nghị định số 62/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật đấu giá tài sản đã quy định tổ chức đấu giá tài sản chưa phải đăng thông báo công khai trên Trang thông tin điện tử này.
6. Đề nghị tiếp tục hoàn thiện thể chế về bổ trợ tư pháp, trong đó có ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật công chứng (Đồng chí Lê Hồng Sơn, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội).
Trả lời:
Về cơ bản, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật công chứng đã được ban hành.
Qua thực tế phát sinh và theo đề xuất của địa phương, năm 2018, Cục Bổ trợ tư pháp sẽ tham mưu sửa đổi, bổ sung Thông tư số 06/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật công chứng. Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng sẽ tiếp tục phối hợp với các cơ quan rà soát các văn bản. Trong trường hợp cần thiết thì sẽ đề xuất sửa đổi, bổ sung Thông tư số 06/2015/TT-BTP theo hướng: (1) Rà soát một số thủ tục thủ tục hành chính trong hoạt động công chứng đã được quy định trong Thông tư số 06/2015/TT-BTP để sửa đổi theo hướng giảm bớt các thủ tục hành chính không cần thiết nhưng vẫn bảo đảm tính chặt chẽ trong công tác quản lý nhà nước, tránh cách hiểu khác nhau về cùng một quy định; (2) Hướng dẫn cụ thể hơn về tổ chức và hoạt động của Văn phòng công chứng: Thủ tục chấm dứt tư cách thành viên hợp danh, bổ sung thành viên hợp danh, việc điều hành hoạt động của Văn phòng công chứng trong thời gian chờ bổ sung công chứng viên hợp danh…; (3) Quy định rõ hơn trách nhiệm của công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng trong việc bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm; (4) Chỉnh lý một số mẫu giấy tờ trong hoạt động công chứng: Đơn đề nghị bổ nhiệm công chứng viên, mẫu lời chứng của công chứng viên…
1. Đề nghị Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức và lựa chọn nội dung chuyên đề phù hợp để bồi dưỡng cho các đối tượng là cán bộ, công chức làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại các địa phương (UBND tỉnh Vĩnh Phúc).
Trả lời:
Hằng năm, trên cơ sở Kế hoạch của Bộ Tư pháp, Ban Chỉ đạo Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2015 - 2020 ban hành Kế hoạch triển khai công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, trong đó xác định nội dung, chuyên đề phù hợp từng năm để bồi dưỡng cho cán bộ, công chức làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại địa phương.
Ví dụ, hiện nay Ban Chỉ đạo Chương trình 585 đang lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức về nội dung chuyên đề bồi dưỡng sau:
Nội dung hội nghị, tọa đàm, lớp bồi dưỡng năm 2018 trên cơ sở mục tiêu của Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 và các Nghị quyết của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018, pháp luật đất đai, lao động, thuế, hợp đồng, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, sở hữu trí tuệ, tài nguyên - môi trường, xuất nhập khẩu... định hướng nội dung, đề xuất các vấn đề liên quan đến triển khai Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 157/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 12/10/2010 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn lập dự toán, sử dụng và thanh quyết toán kinh phí dành cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp...; thể chế hóa đầy đủ quyền sở hữu tài sản của tổ chức, cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013; cắt giảm điều kiện đầu tư, kinh doanh; hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp dân sự bằng phương thức ngoài tố tụng tòa án theo hướng thống nhất, đồng bộ, đảm bảo hiệu lực thi hành và bảo vệ quyền sở hữu tài sản; thực trạng pháp luật, thực tiễn về tài sản ảo, tiền ảo ở Việt Nam và quốc tế.
2. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với các cơ quan có liên quan hướng dẫn thủ tục thực hiện thủ tục khai nhận, thỏa thuận phân chia di sản thừa kế của người nước ngoài (UBND tỉnh Bình Dương).
Trên cơ sở kế thừa và hoàn thiện các quy định của Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, BLDS năm 2015 đã quy định về Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tại Phần thứ năm (Điều 663 đến Điều 687), trong đó đã quy định khá đầy đủ các quy định về xác định hệ thuộc luật áp dụng, chỉ ra nguồn luật áp dụng và giải quyết trường hợp có quy phạm xung đột đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Đối với việc thừa kế có yếu tố nước ngoài, Điều 680 Bộ luật này quy định “1. Thừa kế được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết; 2. Việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó”. Bởi vậy, việc xác định hệ thuộc luật áp dụng trong quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài phụ thuộc vào quốc tịch của người để lại di sản thừa kế, người nhận di sản thừa kế, tài sản thừa kế ở trong nước hay nước ngoài, là động sản hay bất động sản,... Trong trường hợp pháp luật Việt Nam được dẫn chiếu để áp dụng, thì việc khai nhận, thỏa thuận phân chia di sản thừa kế của người nước ngoài được thực hiện theo quy định tại các Điều gồm Điều 656, Điều 659, Điều 660 và các Điều khoản khác có liên quan của BLDS năm 2015; Điều 53 đến Điều 59 Luật công chứng năm 2014; Điều 5 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch.
Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nắm bắt thông tin và hướng dẫn kịp thời cho các địa phương nhằm thống nhất cách hiểu, áp dụng quy định của BLDS năm 2015; hoàn thiện quy định pháp luật có liên quan.
3. Đề nghị Bộ Tư pháp hướng dẫn cụ thể về chế định Hộ gia đình theo quy định của Luật Đất đai, Bộ luật dân sự và các quy định khác có liên quan để tạo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật về hoạt động công chứng, chứng thực (UBND tỉnh Sóc Trăng).
Những khó khăn, vướng mắc về thực thi chế định hộ gia đình, trong đó nổi bật là việc xác định thành viên hộ gia đình là vấn đề phát sinh trong thời gian qua ở nước ta. Trong quá trình xây dựng BLDS năm 2015, nhiều vướng mắc, bất cập về hộ gia đình sử dụng đất đã được xác định; tuy nhiên, đây là các vướng mắc, bất cập phát sinh từ quy định của pháp luật đất đai và thực thi pháp luật đất đai. Do đó, Chính phủ và Quốc hội đã chọn giải pháp xây dựng BLDS năm 2015 theo hướng không quy định hộ gia đình là một chủ thể quan hệ pháp luật dân sự độc lập. Đối với hộ gia đình sử dụng đất, BLDS năm 2015 đã thể hiện sự tôn trọng pháp luật chuyên ngành bằng quy định dẫn chiếu “việc xác định chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất được thực hiện theo quy định của Luật đất đai” (Khoản 2 Điều 101).
Về hộ gia đình sử dụng đất, Khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 ghi nhận khái niệm hộ gia đình sử dụng đất như sau “hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất” (Khoản 29 Điều 3). Điều 167 và nhiều Điều khoản khác của Luật này ghi nhận người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất; Khoản 2 Điều 98 quy định về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình.
Ngày 29/9/2017, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT quy định chi tiết Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai và sửa đổi, bổ sung một số Điều của các thông tư hướng dẫn thi hành Luật đất đai. Thông tư này có quy định mới về cách thức ghi nhận thông tin trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình tại Khoản 5 Điều 6. Việc quy định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất có nhiều người chung quyền sử dụng phải ghi đầy đủ tên của những người có chung quyền sử dụng đất là cần thiết, tiến bộ, nhằm minh bạch về tài sản, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của những người có chung quyền sử dụng đất, trong đó có các thành viên có chung quyền sử dụng đất trong hộ gia đình, giúp hạn chế những khó khăn, vướng mắc, ngăn ngừa tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất. Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT dự kiến có hiệu lực từ ngày 05/12/2017, tuy nhiên, nội dung này trong Thông tư đang lùi thời gian có hiệu lực để tạo sự đồng thuận cao trong xã hội, để mỗi người dân đều hiểu rõ quyền, lợi ích của việc ghi tên từng thành viên có chung quyền sử dụng đất trong hộ gia đình trên giấy chứng nhận; đồng thời để các địa phương có thêm thời gian chuẩn bị Điều kiện triển khai thực hiện tốt hơn[4].
Bộ Tư pháp đã nắm bắt các khó khăn, bất cập về chế định hộ gia đình và để góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, Bộ Tư pháp đã xây dựng Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về những khó khăn vướng mắc về chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, trong đó có hộ gia đình sử dụng đất và đề xuất Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ về một số vấn đề sau:
(1) Các Bộ, cơ quan ngang Bộ tiếp tục rà soát chi tiết và triển khai hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo tương thích và cụ thể hóa các quy định của BLDS năm 2015 trong từng lĩnh vực quản lý của cơ quan mình, trong đó lưu ý về chủ thể của quan hệ pháp luật.
(2) Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu, xác định định hướng hoàn thiện pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về quyền sử dụng đất của hộ gia đình nói riêng; phối hợp chặt chẽ, tích cực với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tư pháp, Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành có liên quan để thống nhất giải pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
(3) Bộ Tư pháp tiếp tục thực hiện nhiệm vụ rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và theo dõi thi hành pháp luật trong lĩnh vực pháp luật dân sự, kịp thời báo cáo với Thủ tướng Chính phủ những khó khăn vướng mắc phát sinh và đề xuất giải pháp tháo gỡ theo đúng tinh thần chỉ đạo của Quốc hội tại Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện Kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án dân sự năm 2016 và những năm tiếp theo.
(4) Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Tòa án nhân dân tối cao trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS năm 2015 đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật.
Như vậy, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan hoàn thiện thể chế pháp luật về chủ thể quan hệ pháp luật nói chung, chế định hộ gia đình để tạo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật nói chung, hoạt động công chứng, chứng thực nói riêng.
1. Về công tác phối hợp với cơ quan, ban, ngành: Bộ Tư pháp cần tham mưu, chỉ đạo để tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với Trung tâm trong việc xác minh, giới thiệu, hướng dẫn, cử Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư cộng tác viên tham gia tố tụng nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý đồng thời đảm bảo quyền được thụ hưởng dịch vụ công miễn phí của người dân (UBND tỉnh Lâm Đồng).
Trả lời:
Để tăng cường hơn nữa công tác phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng dự thảo Thông tư liên tịch thay thế Thông tư liên tịch số 11/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 04/7/2013 hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng (Thông tư liên tịch số 11) và dự kiến Quý I/2018 sẽ trình liên ngành ký ban hành Thông tư, trong đó có quy định về trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ sở giam giữ và người có thẩm quyền của cơ sở giam giữ trong việc giải thích, thông báo về quyền được trợ giúp pháp lý, hướng dẫn tiếp cận thông tin với trợ giúp pháp lý…, cũng như đề nghị Trung tâm cử người tham gia án chỉ định theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Dự thảo Thông tư liên tịch cũng quy định cụ thể trách nhiệm của các ngành thành viên trong Hội đồng phối hợp liên ngành địa phương.
Trước mắt, để tăng cường hoạt động của Hội đồng, đề nghị Hội đồng phối hợp liên ngành địa phương cần chủ động phát huy vai trò của cơ quan thường trực Hội đồng và của ngành thành viên trong triển khai các nhiệm vụ theo Kế hoạch hoạt động hàng năm như: kiểm tra, họp liên ngành…Trong quá trình triển khai nếu có vướng mắc đề nghị cơ quan Thường trực Hội đồng có Công văn gửi Hội đồng phối hợp liên ngành Trung ương để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.
2. Về việc thực hiện Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg ngày 08/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2016 - 2020 và hỗ trợ vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình (Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg): đề nghị Bộ Tư pháp tiếp tục hỗ trợ kinh phí cho viên chức của Trung tâm tham gia lớp đào tạo nghiệp vụ luật sư (UBND tỉnh Lâm Đồng).
Trả lời:
Theo Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg, ngân sách Trung ương hỗ trợ đối với các địa phương chưa tự cân đối ngân sách có huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn học phí cho viên chức của Trung tâm tham gia khóa đào tạo nghề luật sư với số lượng hỗ trợ là 02 viên chức/Trung tâm/01 năm. Năm 2017, ngân sách Trung ương đã hỗ trợ học phí cho 02 viên chức của Trung tâm Lâm Đồng tham gia khóa đào tạo nghề luật sư 40.000.000đ. Do vậy, để được tiếp tục hỗ trợ kinh phí cho hoạt động này đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng lập dự toán kinh phí trong những năm dự toán tiếp theo đề nghị ngân sách Trung ương hỗ trợ cho hoạt động này theo đúng thời hạn và định mức để Bộ Tư pháp tổng hợp, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
3. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Luật trợ giúp pháp lý năm 2017, văn bản hướng dẫn nghiệp vụ trợ giúp pháp lý, cũng như hướng giải quyết những vấn đề còn tồn đọng của Luật trợ giúp pháp lý năm 2006. Tăng cường tổ chức phổ biến, triển khai nội dung Luật trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ trợ giúp pháp lý cũng như tập huấn các kiến thức, kỹ năng chuyên sâu cần thiết cho trợ giúp viên, chuyên viên thực hiện trợ giúp pháp lý để thực hiện những quy định mới của Luật trợ giúp pháp lý (UBND tp Hồ Chí Minh).
Trả lời:
Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 1355/QĐ-TTg ngày 12/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật TGPL. Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu xây dựng dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều của Luật TGPL và trình Chính phủ đúng thời hạn và ban hành Thông tư quy định chi tiết một số Điều của Luật TGPL (sửa đổi) và hướng dẫn giấy tờ trong hoạt động trợ giúp pháp lý. Các văn bản này bảo đảm có hiệu lực thi hành đồng thời với hiệu lực thi hành của Luật TGPL để các địa phương áp dụng được thống nhất, đồng bộ.
Bộ Tư pháp cũng đã tổ chức Hội nghị triển khai Luật TGPL (sửa đổi) theo đúng Kế hoạch tại 02 khu vực (miền Nam và miền Bắc) giới thiệu những nội dung cơ bản của Luật và Kế hoạch triể khai Luật. Ngoài ra, Cục Trợ giúp pháp lý đã cử Lãnh đạo Cục làm báo cáo viên để quán triệt Luật TGPL (sửa đổi) tại một số địa phương.
Trong thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục triển khai Luật TGPL năm 2017, tăng cường hoạt động truyền thông, tập huấn kiến thức, kỹ năng theo Luật TGPL năm 2017 cho người thực hiện trợ giúp pháp lý nói chung và tổ chức các lớp kỹ năng chuyên sâu bắt buộc cho các Trợ giúp viên pháp lý nói riêng để nâng cao chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, đáp ứng nhu cầu trợ giúp pháp lý ngày càng cao của người dân.
4. Đề nghị Cục Trợ giúp pháp lý - Bộ Tư pháp xem xét, quy định chỉ tiêu thực hiện vụ việc của Trợ giúp viên pháp lý phù hợp với Điều kiện thực tế, cụ thể: Từ khi bổ nhiệm đến dưới 03 năm được bổ nhiệm TGVPL: thực hiện ít nhất 02 vụ tố tụng/năm. Từ 03 năm đến 05 năm được bổ nhiệm TGVPL: thực hiện ít nhất 04 vụ tố tụng/năm.Từ trên 05 năm được bổ nhiệm TGVPL: thực hiện ít nhất 06 vụ tố tụng/năm. Đối với Giám đốc Trung tâm, đây là vị trí thực hiện nhiệm vụ quản lý, Điều hành chung cho tất cả các hoạt động của Trung tâm nên đề nghị không đặt chỉ tiêu thực hiện vụ việc tham gia tố tụng (UBND tỉnh Quảng Ninh).
Trả lời:
Trong quá trình xây dựng chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý, Cục Trợ giúp pháp lý đã tham khảo số lượng án trên từng địa phương, nhu cầu TGPL của người dân, số lượng người được trợ giúp pháp lý của mỗi địa phương, tính toán đến việc giảm chỉ tiêu vụ việc cho Giám đốc Trung tâm và Phó Giám đốc tương ứng với thời gian dành cho công tác quản lý để đưa ra chỉ tiêu hợp lý. Việc thực hiện chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý cho thấy số vụ việc tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý tăng dần hàng năm (năm 2016 tăng 1.985 vụ so với năm 2015, năm 2017 tăng 1.077 vụ so với năm 2016). Qua việc thực hiện chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng của các Trợ giúp viên pháp lý trong năm 2017, cho thấy bình quân mỗi Trợ giúp viên pháp lý hoàn thành được 13 vụ tố tụng (tăng 01 vụ so với năm 2016). Như vậy, mức chỉ tiêu thực hiện vụ việc tham gia tố tụng là mức tối thiểu được áp dụng trong toàn quốc.
Kết quả thực hiện vụ việc tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý cho thấy khả năng thực hiện chỉ tiêu của Trợ giúp viên pháp lý ở các Trung tâm vẫn còn. Nhiều Trợ giúp viên pháp lý có mức thực hiện vụ việc cao (ví dụ: Gia Lai (Lưu Đình Quánh - 96 vụ; Trang Thị Thùy Dương - 81 vụ; Nguyễn Hoàng Kim Loan - 80 vụ); Lê Thị Diệu - Điện Biên (61 vụ); Trần Thị Hợp - Trà Vinh (60 vụ); Nghệ An (Lê Văn Lý - 56 vụ, Nguyễn Văn Hùng - 54 vụ); Phạm Đại Vương - Hà Nam (45 vụ);…
Bên cạnh đó, Luật TGPL năm 2017 đã mở rộng từ 06 - 14 diện đối tượng được trợ giúp pháp lý, đồng thời Luật TGPL năm 2017, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 quy định trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giải thích quyền được trợ giúp pháp lý, thông báo cho Trung tâm khi người bị buộc tội, người bị hại thuộc diện được trợ giúp pháp lý. Do vậy, trong năm 2018 nhu cầu TGPL trong toàn quốc dự kiến sẽ tăng, đặc biệt là trợ giúp pháp lý bằng hình thức tham gia tố tụng.
Vì vậy, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Sở Tư pháp hướng dẫn Trung tâm có những giải pháp mạnh mẽ nhằm nâng cao nhận thức của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người thực hiện trợ giúp pháp lý, người dân, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về TGPL; tăng cường phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng góp phần hoàn thành chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng do Bộ Tư pháp giao.
5. Đề nghị Bộ Tư pháp thường xuyên tập huấn kỹ năng tham gia tố tụng về từng lĩnh vực chuyên sâu cho Trợ giúp viên pháp lý (UBND tp Cần Thơ).
Trả lời:
Trong thời gian qua, Bộ Tư pháp luôn quan tâm đến công tác tập huấn, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực thực hiện trợ giúp pháp lý. Để góp phần nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý, trong năm 2017, Bộ Tư pháp (Cục TGPL) đã tổ chức 06 lớp tập huấn chuyên sâu về kỹ năng tham gia tố tụng cho các Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư cộng tác viên của các tỉnh, thành phố. Lớp tập huấn đã kịp thời trang bị cho đội ngũ người thực hiện TGPL các kỹ năng tham gia tố tụng đặc biệt là trong lĩnh vực tố tụng hình sự cho người chưa thành niên, tố tụng dân sự, hành chính góp phần nâng cao trình độ chuyên môn cho người thực hiện trợ giúp pháp lý.
Trong năm 2018 và những năm tiếp theo, Bộ Tư pháp (Cục TGPL) sẽ tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý nhằm đáp ứng nhu cầu trợ giúp pháp lý ngày càng đa dạng của người dân.
Bên cạnh đó, tập huấn không chỉ là nhiệm vụ của cả trung ương và địa phương nên đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh cần hỗ trợ kinh phí tổ chức các lớp tập huấn cập nhật kiến thức pháp luật mới và nâng cao trình độ nghiệp vụ trợ giúp pháp lý ở địa phương để Sở Tư pháp chỉ đạo Trung tâm tham mưu tổ chức các khóa tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho người thực hiện trợ giúp pháp lý tại địa phương theo đúng chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm.
1. - Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ và các Bộ, ngành liên quan có văn bản hướng dẫn cụ thể đối với việc củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế ngành Tư pháp ở địa phương trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và bảo đảm thực hiện thống nhất, đồng bộ trên phạm vi cả nước (UBND tỉnh Cao Bằng)
- Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ kịp thời sửa đổi Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2014 của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ để phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành (UBND tỉnh Hà Tĩnh, Hậu Giang, Sơn La).
Trả lời:
Việc hướng dẫn củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế ngành Tư pháp ở địa phương nằm trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật có liên quan[5], về cơ bản hiện nay việc hướng dẫn kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế các cơ quan tư pháp địa phương đã được Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ rà soát, hệ thống hóa trong quy định của Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2014 của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ.
Trong thời gian qua Đảng, Chính phủ đã ban hành chủ trương, định hướng về việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế của hệ thống chính trị, hướng tới mục tiêu xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Quốc hội cũng đã ban hành nhiều đạo luật quan trọng về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước như Luật tổ chức chính phủ năm 2015, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, trong đó có nhiều điểm mới về việc thực hiện phân cấp, phân quyền trong thực hiện nhiệm vụ giữa Trung ương và địa phương. Trên cơ sở những chủ trương, định hướng và các đạo luật nêu trên, hiện nay Bộ Nội vụ đang xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Nghị định thay thế Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trên cơ sở các văn bản thay thế nêu trên, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với Bộ Nội vụ nghiên cứu, kiện toàn tổ chức các cơ quan tư pháp địa phương trong thời gian tới.
Trong năm 2017, Bộ Tư pháp đã đề nghị các địa phương thực hiện tổng kết tình hình thực hiện Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV và rà soát, đề xuất các nội dung sửa đổi Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV, trên cơ sở đó Bộ Tư pháp sẽ có đánh giá và định hướng sửa đổi toàn diện nội dung của Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV. Bên cạnh đó Bộ Tư pháp đã thành lập Ban Soạn thảo, Tổ biên tập Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV (theo Quyết định số 1126/QĐ-BTP và Quyết định số 1134/QĐ-BTP ngày 21/7/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp). Dự kiến trong năm 2018, sau khi Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 24/2014/NĐ-CP và Nghị định thay thế Nghị định số 37/2014/NĐ-CP, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV để bảo đảm phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, tình hình thực tiễn tại địa phương và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
2. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ kịp thời ban hành tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp đối với một số lĩnh vực tư pháp; Luật Viên chức có từ năm 2010, tuy nhiên, đến nay, Bộ Tư pháp mới chỉ ban hành tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp cho Trợ giúp viên pháp lý (UBND tỉnh Đăk Nông)
Trả lời:
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 31 Luật viên chức thì: “…Chính phủ quy định cụ thể quy trình, thủ tục thi hoặc xét, bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp của viên chức, phân công, phân cấp việc tổ chức thi hoặc xét, bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp của viên chức.
Các bộ, cơ quan ngang bộ được giao quản lý nhà nước về các lĩnh vực hoạt động của viên chức chủ trì, phối hợp với Bộ Nội Vụ quy định cụ thể tiêu chuẩn Chức danh nghề nghiệp; điều kiện thi hoặc xét thay đổi chức danh nghề nghiệp của viên chức”.
Căn cứ quy định trên, thời gian qua, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Nội vụ quy định cụ thể tiêu chuẩn Chức danh nghề nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng Bộ Nội vụ mới ký ban hành Thông tư liên tịch số 08/2016/TTLT-BTP-BNV ngày 23/6/2016, quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức trợ giúp viên pháp lý. Như vậy, việc ban hành là chậm so với yêu cầu đòi hỏi của tình hình thực tế. Rút kinh nghiệm của vấn đề này, hiện nay Bộ Tư pháp đang chỉ đạo các đơn vị chức năng có liên quan phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng dự thảo Thông tư quy định tiêu chuẩn công chứng viên (nội dung này đã được nghiên cứu, xây dựng dự thảo từ năm 2013) và đấu giá viên (năm 2017) để ban hành trong thời gian sớm nhất.
3. Theo quy định của pháp luật một số vị trí công tác trong cơ quan, đơn vị phải đòi hỏi chức danh nghề nghiệp như phải là đấu giá viên, công chứng viên, trợ giúp viên pháp lý... Từ đó gây khó khăn trong công tác chuyển đổi vì phải tốn kém chi phí khi đào tạo để chuyển đổi. UBND tỉnh kiến nghị Bộ Tư pháp có quy định đặc thù, cho phép chuyển đổi vị trí công tác đối với công chức, viên chức trước và thực hiện chuẩn hóa sau (UBND tỉnh Vĩnh Long).
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 31 (Bổ nhiệm, thay đổi chức danh nghề nghiệp) Luật viên chức thì:
“1. Việc bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp đối với viên chức được thực hiện theo nguyên tắc sau:
a) Làm việc ở vị trí việc làm nào thì bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp tương ứng với vị trí việc làm đó;
b) Người được bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp nào thì phải có đủ tiêu chuẩn của chức danh nghề nghiệp đó.
2. Việc thay đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên chức được thực hiện thông qua thi hoặc xét theo nguyên tắc bình đẳng, công khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật.
3. Viên chức được đăng ký thi hoặc xét thay đổi chức danh nghề nghiệp nếu đơn vị sự nghiệp công lập có nhu cầu và đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật…”.
Còn theo quy định tại Điều 32 (Thay đổi vị trí việc làm) của Luật viên chức thì:
“1. Khi đơn vị sự nghiệp công lập có nhu cầu, viên chức có thể được chuyển sang vị trí việc làm mới nếu có đủ tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của vị trí việc làm đó.
2. Việc lựa chọn viên chức vào vị trí việc làm còn thiếu do người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập hoặc cơ quan có thẩm quyền quản lý đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện theo nguyên tắc bình đẳng, công khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật.
3. Khi chuyển sang vị trí việc làm mới, việc sửa đổi, bổ sung nội dung hợp đồng làm việc hoặc có thay đổi chức danh nghề nghiệp được thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 và Điều 31 của Luật này”.
Căn cứ quy định trên, về nguyên tắc khi chuyển đổi vị trí công tác thì vẫn phải thực hiện đúng theo quy định. Tuy nhiên, để thuận lợi cho quá trình thực hiện, Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu kỹ ý kiến của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long trong quá trình xây dựng văn bản có liên quan.
4. Đề nghị Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức tập huấn, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm, bồi dưỡng chuyên sâu nâng cao nghiệp vụ trên các lĩnh vực công tác cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tư pháp ở địa phương (UBND tỉnh: Cao Bằng, Hà Tĩnh, Quảng Ninh, Bạc Liêu, Kiên Giang)
Trả lời:
Bộ Tư pháp thấy rằng các ý kiến nêu trên là phù hợp. Liên quan đến vấn đề này, thời gian qua, được sự đồng ý của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp đã tổ chức một số lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho tư pháp cấp tỉnh, tư pháp cấp huyện và công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã của các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Tuy nhiên, một số năm gần đây, căn cứ quy định của Luật Ngân sách, Nghị định 101/2017/NĐ-CP và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc giao dự toán Ngân sách hàng năm việc bồi dưỡng cho các địa phương được Bộ hướng dẫn trên cơ sở phân cấp và ngân sách của địa phương.
Xuất phát từ tình hình đó, để vừa thực hiện đúng quy định của Luật ngân sách và đáp ứng yêu cầu của các địa phương, Bộ Tư pháp đã giao các đơn vị chuyên môn tổ chức các lớp bồi dưỡng cho công chức Tư pháp – Hộ tịch nhằm hoàn thiện tiêu chuẩn theo quy định của Luật Hộ tịch và Hội nghị, Hội thảo, tập huấn tại các địa phương nhằm từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả cho đội ngũ công chức tư pháp các địa phương, thậm chí lồng ghép các nội dung bồi dưỡng thông qua các chương trình triển khai Luật hoặc các quy định mới được ban hành. Trong năm 2018, trên cơ sở kinh phí đào tạo, bồi dưỡng được cấp, Bộ Tư pháp tiếp tục quan tâm, bồi dưỡng cho địa phương, đồng thời đề nghị Sở Tư pháp chủ động xây dựng nội dung chương trình lớp bồi dưỡng, phối hợp với các đơn vị chuyên môn thuộc Bộ cử giảng viên tham gia giảng dạy hoặc biên soạn chương trình, tài liệu phù hợp với lĩnh vực do Bộ quản lý, theo dõi. Đồng thời bám sát kế hoạch tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm, tập huấn của Bộ Tư pháp tại địa phương để cử công chức, viên chức cho phù hợp.
5. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan đề xuất cơ quan có thẩm quyền ban hành quy định chế độ đặc thù, chính sách riêng cho công chức Ngành Tư pháp (UBND tỉnh Quảng Bình).
Trả lời:
Hằng năm, trong các báo cáo về thực hiện chế độ chính sách, tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp, Bộ đã có kiến nghị, đề xuất Bộ Nội vụ và Trung ương có quy định chế độ đặc thù, chính sách riêng cho công chức Ngành Tư pháp. Tuy nhiên, theo điểm d, Mục 1 Kết luận số 63-KL/TW ngày 27/5/2013 của Hội nghị lần thứ bẩy Ban chấp hành Trung ương khóa XI một số vấn đề về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2010: Đến khi Trung ương thông qua Đề án cải cách chính sách tiền lương đến năm 2020, không bổ sung các loại phụ cấp ưu đãi, trách nhiệm, đặc thù theo ngành, nghề. Hiện nay, Trung ương vẫn chưa thông qua Đề án nêu trên.
6. Đề nghị Bộ Tư pháp tham mưu, có ý kiến với cơ quan có thẩm quyền bố trí đủ số lượng công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã để đảm đương nhiệm vụ, bố trí cán bộ chuyên trách hộ tịch, tránh việc công chức Tư pháp - Hộ tịch đảm đương nhiều nhiệm vụ công tác tư pháp như hiện nay (UBND tỉnh Lâm Đồng).
Trả lời:
Trong những năm qua, Bộ Tư pháp đã quan tâm, thực hiện nhiều giải pháp giúp các địa phương có cơ sở bố trí đủ số lượng công chức Tư pháp - Hộ tịch nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao, cụ thể:
- Bộ Tư pháp đã tích cực phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn việc bố trí đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch, cụ thể như: Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH ngày 27/5/2010 giữa Bộ Nội vụ, Bộ Tài Chính, Bộ Lao động, Thương binh và Xã Hội hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP; Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2014 giữa Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng Tư pháp thuộc UBND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch.Các văn bản nêu trên đều khẳng định việc bố trí số lượng công chức cấp xã cần ưu tiên bố trí thêm cho chức danh Tư pháp - Hộ tịch, ưu tiên bố trí công chức Tư pháp - Hộ tịch làm công tác hộ tịch chuyên trách tại các xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp xã loại 1, loại 2 có đông dân cư, số lượng công việc hộ tịch nhiều và không bố trí công chức Tư pháp - Hộ tịch kiêm nhiệm công tác khác.
- Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp cũng đã có nhiều văn bản đề nghị các địa phương quan tâm củng cố, kiện toàn cơ quan tư pháp địa phương, đặc biệt là đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã như: Công văn số 60-CV/BCS ngày 06/10/2009 và Công văn số 74-CV/BCSĐ ngày 19/7/2010 của Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp; Công văn số 5046/BTP-TCCB ngày 25/8/2011 của Bộ Tư pháp, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan, trong đó có Bộ Nội vụ xây dựng các văn bản hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, biên chế của các cơ quan tư pháp địa phương (như đã nêu trên), hàng năm, Bộ Tư pháp đều thực hiện rà soát, tổng hợp tình hình tổ chức - cán bộ các cơ quan Tư pháp địa phương để kịp thời kiến nghị, đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền quan tâm bố trí, kiện toàn tổ chức, biên chế các cơ quan Tư pháp địa phương.
Tuy nhiên, theo quy định về phân cấp quản lý biên chế và bối cảnh thực hiện chủ trương tinh giản biên chế, tổ chức bộ máy hiện nay, Bộ Tư pháp đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cân đối từ nguồn biên chế được giao của tỉnh, có giải pháp cụ thể để bố trí, kiện toàn đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch theo quy định của Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV và các văn bản có liên quan, bên cạnh đó tiếp tục quan tâm, bố trí kinh phí hoạt động, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan Tư pháp trên địa bàn, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp trên địa bàn tham gia đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục quan tâm, báo cáo Bộ Nội vụ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm đến đặc thù công tác tư pháp ở cấp xã để bố trí hợp lý đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch.
7. Đề nghị sớm ban hành Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV, nhất là tổ chức pháp chế sở ngành ở địa phương trong điều kiện không tăng biên chế hiện nay, đồng thời, quan tâm tư pháp cơ sở (có quy định cấp xã trong Thông tư) - (Đồng chí Lê Viết Hồng, Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Hà Tĩnh .
Trả lời:
Trong năm 2017, Bộ Tư pháp đã triển khai một số hoạt động nhằm chuẩn bị cho việc nghiên cứu, xây dựng Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 23/2014/TTTLT-BTP-BNV. Cụ thể, đề nghị các địa phương thực hiện tổng kết tình hình thực hiện Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV và rà soát, đề xuất các nội dung sửa đổi Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV (theo Công văn số 2563/BTP-TCCB ngày 21/7/2017 của Bộ Tư pháp). Trên cơ sở báo cáo của các địa phương, Bộ Tư pháp (Vụ Tổ chức cán bộ) đã tổng hợp, xây dựng dự thảo báo cáo tổng kết và dự thảo báo cáo định hướng sửa đổi Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV, các dự thảo báo cáo nêu trên cũng đã được tổ chức lấy ý kiến góp ý của các địa phương trước khi báo cáo Lãnh đạo Bộ trong thời gian tới (tại Hội thảo Góp ý dự thảo Báo cáo nghiên cứu đề xuất hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan tư pháp địa phương được tổ chức tại Quảng Bình ngày 08/9/2017).
Cũng trong năm 2017, Bộ Tư pháp đã thành lập Ban Soạn thảo, Tổ biên tập Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV (theo Quyết định số 1126/QĐ-BTP và Quyết định số 1134/QĐ-BTP ngày 21/7/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp). Tuy nhiên, hiện nay trên cơ sở các chủ trương của Đảng, Chính phủ về sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế của hệ thống chính trị, hướng tới mục tiêu xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, Bộ Nội vụ đang được giao xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Nghị định thay thế Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Dự kiến trong năm 2018, sau khi Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 24/2014/NĐ-CP và Nghị định thay thế Nghị định số 37/2014/NĐ-CP, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV để bảo đảm phù hợp chủ trương của Đảng, Nhà nước về tinh giản tổ chức bộ máy, biên chế, yêu cầu nhiệm vụ, tình hình thực tiễn tại các địa phương và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
XIII. LĨNH VỰC KẾ HOẠCH - TÀI CHÍNH
Đề nghị Bộ Tư pháp tiếp tục quan tâm, cải tiến, đơn giản hóa công tác thống kê; sửa đổi Thông tư số 04/2016/TT-BTP ngày 03/3/2016 về công tác báo cáo thống kê cho phù hợp với các văn bản chuyên ngành (UBND tỉnh Cao Bằng).
Trả lời:
Thực hiện quy định của một số Luật mới ban hành (Luật đấu giá tài sản có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2017 và Luật Trợ giúp pháp lý sửa đổi có hiệu lực thi hành từ 01/01/2018), năm 2018, Bộ Tư pháp có dự kiến sửa đổi bổ sung một số biểu mẫu báo cáo thống kê trong lĩnh vực Trợ giúp pháp lý và Bán đấu giá tài sản ban hành kèm theo Thông tư số 04/2016/TT-BTP ngày 03/3/2016 của Bộ Tư pháp quy định một số nội dung về hoạt động thống kê của Ngành Tư pháp nhằm đảm bảo tính thống nhất, phù hợp giữa nội dung thống kê và quy định tại các Luật chuyên Ngành.
Năm 2018, Bộ Tư pháp cũng tiếp tục cải tiến, đơn giản hóa công tác thống kê theo hướng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chính thức áp dụng phần mềm thống kê theo Thông tư số 04/2016/TT-BTP.
Để công tác thống kê đạt hiệu quả hơn, đề nghị các Bộ, ngành và địa phương tích cực phối hợp với Bộ Tư pháp và thực hiện đúng quy định của Thông tư số 04/2016/TT-BTP.
XIV. LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
1. Đề nghị Bộ Tư pháp sớm triển khai phần mềm báo cáo thống kê (UBND tỉnh Cao Bằng).
Trả lời:
Triển khai thực hiện Quyết định số 298/QĐ-BTP ngày 08/2/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt Đề án Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thống kê Ngành Tư pháp giai đoạn 2014 - 2018, ngày 05/5/2017, Bộ Tư pháp đã tập huấn, triển khai sử dụng phần mềm thống kê Ngành Tư pháp (Phân hệ phần mềm dành cho Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) cho Sở Tư pháp 63 tỉnh, thành phố trên toàn quốc, vì vậy, Bộ Tư pháp đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng chỉ đạo Sở Tư pháp đưa phần mềm vào sử dụng phục vụ công tác thống kê theo thẩm quyền.
Đối với công tác thống kê Ngành Tư pháp theo thẩm quyền Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục chỉ đạo xây dựng và triển khai phần mềm cho các địa phương trong thời gian tới theo lộ trình của Đề án.
2. Đề nghị Bộ Tư sớm đưa phầm mềm cơ sở dữ liệu về các lĩnh vực thi đua - khen thưởng, hộ tịch, công chứng... vào ứng dụng đại trà. Tích cực hỗ trợ các địa phương trong triển khai ứng dụng các phần mềm quản lý nghiệp vụ (UBND tỉnh Quảng Bình).
Trả lời:
- Về phần mềm hộ tịch: Căn cứ Quyết định số 1147/QĐ-BTP ngày 30/5/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (sửa đổi, bổ sung Điều 1 của quyết định số 1897/QĐ-BTP ngày 30/10/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp) về việc phê duyệt Dự án đầu tư “Thí điểm thiết lập Hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch”, hiện nay Bộ Tư pháp đang triển khai thí điểm phần mềm cho 04 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đối với các tỉnh, thành phố không thuộc phạm vi triển khai của Dự án, Cục Công nghệ thông tin - Bộ Tư pháp đã có Công văn số 345/CNTT-HTTT&CSDL ngày 27/6/2016 để hướng dẫn. Vì vậy, trong trường hợp Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình có nhu cầu triển khai phần mềm hộ tịch dùng chung của Bộ, đề nghị tỉnh tham khảo các điều kiện triển khai tại công văn nêu trên, trong trường hợp điều kiện hạ tầng, kỹ thuật và nhân lực của tỉnh đáp ứng yêu cầu, đề nghị tỉnh sớm có công văn đăng ký chính thức với Bộ, trên cơ sở đó Cục Công nghệ thông tin sẽ phối hợp với Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực hỗ trợ triển khai phần mềm tại địa bàn tỉnh.
- Về phần mềm thi đua khen thưởng: Từ năm 2013, Cục Công nghệ thông tin - Bộ Tư pháp đã triển khai phần mềm quản lý công tác thi đua khen thưởng cho Vụ Thi đua - Khen thưởng của Bộ. Tuy nhiên, Vụ Thi đua - Khen thưởng là công tác đặc thù, quy trình nghiệp vụ tại cơ quan Trung ương là hoàn toàn khác so với quy trình nghiệp vụ tại địa phương, bên cạnh đó lĩnh vực thi đua khen thưởng không thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp nên việc áp dụng phần mềm của Bộ cho các địa phương là không phù hợp.
3. Đề nghị Bộ Tư pháp tiếp tục triển khai ứng dụng phầm mềm để tra cứu về quốc tịch của công dân Việt Nam (như việc thôi quốc tịch, nhập quốc tịch, tước quốc tịch hoặc mất quốc tịch Việt Nam) tạo điều kiện cho các địa phương chủ động theo dõi và tra cứu nhằm thực hiện tốt các vấn đề khác liên quan đến công tác quốc tịch (UBND tỉnh Sóc Trăng).
Trả lời:
Về vấn đề này, trong năm 2017, trên cơ sở đề xuất của các Sở Tư pháp, Cục Công nghệ thông tin - Bộ Tư pháp đã nghiên cứu xây dựng các tiện ích hỗ trợ tra cứu, xác minh tình trạng quốc tịch của công dân trên phần mềm Công cụ quản lý hồ sơ quốc tịch của các Sở Tư pháp. Tuy nhiên, để chính thức triển khai các tiện ích này cần có những quy định, căn cứ pháp lý phù hợp và hiện nay Bộ Tư pháp tiếp tục chỉ đạo nghiên cứu, thực hiện.
4. Đề nghị Cục Công nghệ thông tin - Bộ Tư pháp nghiên cứu tìm ra giải pháp giúp tỉnh Quảng Ninh có thể chuyển đổi dữ liệu từ phần mềm Quản lý hộ tịch cũ sang phần mềm Quản lý hộ tịch dùng chung (UBND tỉnh Quảng Ninh).
Trả lời:
Qua khảo sát tình hình sử dụng phần mềm hộ tịch tại một số tỉnh, thành phố, Cục Công nghệ thông tin - Bộ Tư pháp thấy rằng mỗi địa phương sử dụng một hoặc một số phần mềm của một hoặc một số nhà cung cấp khác nhau, trong đó, mỗi phần mềm lại áp dụng một tiêu chuẩn cấu trúc dữ liệu riêng, do đó, việc Bộ Tư pháp xây dựng một công cụ chuyển đổi dữ liệu chung cho các địa phương là không khả thi.
Vì vậy, nhằm hỗ trợ các địa phương trong việc tạo lập dữ liệu hộ tịch điện tử tại địa phương (số hóa sổ hộ tịch giấy, chuyển đổi dữ liệu từ mềm hộ tịch cũ...), hiện nay, Cục Công nghệ thông tin - Bộ Tư pháp đang xây dựng các tiện ích cho phép hỗ trợ cập nhật nhanh các dữ liệu hộ tịch vào phần mềm đăng ký khai sinh điện tử và phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch dùng chung thông qua trung gian là các file excel theo cấu trúc dữ liệu chuẩn do Bộ Tư pháp công bố.
Riêng đối với tỉnh Quảng Ninh, sau khi các tiện ích hỗ trợ cập nhật nhanh dữ liệu nói trên được hoàn thành và đưa vào sử dụng, Cục Công nghệ thông tin - Bộ Tư pháp sẽ trao đổi trực tiếp với các đơn vị chuyên môn của tỉnh để nghiên cứu và tìm thêm các giải pháp phù hợp nhằm hỗ trợ một cách tối đa có thể cho tỉnh.
5. Đề nghị Bộ Tư pháp có phương án, kế hoạch nhập dữ liệu về hộ tịch lên cơ sở dữ liệu quốc gia về hộ tịch đối với các trường hợp từ ngày 01/01/2016 trở về trước để tạo thuận lợi cho việc tra cứu, xác minh (UBND tỉnh Bình Dương).
Trả lời:
Hiện nay, Bộ Tư pháp (Cục Công nghệ thông tin) đang xây dựng các công cụ, tiện ích cho phép hỗ trợ cập nhật, quản lý, khai thác các dữ liệu hộ tịch trước ngày 01/01/2016 trực tiếp trên Hệ thống thông tin đăng ký, quản lý hộ tịch hoặc thông qua trung gian là các file excel theo cấu trúc dữ liệu chuẩn do Bộ Tư pháp công bố.
Bộ Tư pháp (Cục Công nghệ thông tin) sẽ sớm hướng dẫn cụ thể việc cập nhập, quản lý, khai thác dữ liệu về hộ tịch trước ngày 01/01/2016 cho các địa phương được triển khai Hệ thống thông tin đăng ký, quản lý hộ tịch sau khi các công cụ, tiện ích nói trên được hoàn thành và đưa vào sử dụng.
6. Đề nghị nghiên cứu, giải quyết vấn đề chia sẻ, kết nối dữ liệu, nhất là dữ liệu hộ tịch để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong cả nước (Đồng chí Lê Hồng Sơn, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội).
Trả lời:
Tại Quyết định số 2173/QĐ-BTP ngày 11/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Phê duyệt Đề án “Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc”, Bộ Tư pháp đã xác định Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc là cơ sở dữ liệu được xây dựng theo hướng hình thành Hệ thống thông tin hộ tịch với sự quản lý tập trung, tại Bộ Tư pháp. Cơ sở dữ liệu này sẽ được quản lý trên cơ sở có sự phân cấp, phân quyền hợp lý cho Ủy ban nhân dân các cấp, bảo đảm, sẵn sàng kết nối, tích hợp, chia sẻ thông tin với các hệ thống, phần mềm về hộ tịch được Bộ phối hợp các địa phương triển khai tại các địa phương.
Riêng đối với Thành phố Hà Nội, trong năm 2017, Bộ Tư pháp đã hỗ trợ Thành phố triển khai thành công trên phạm vi toàn thành phố việc tích hợp, chia sẻ dữ liệu hộ tịch giữa phần mềm cung cấp dịch vụ công của Thành phố và phần mềm đăng ký khai sinh điện tử của Bộ. Vì vậy, trong thời gian tới, trường hợp Thành phố có nhu cầu mở rộng việc kết nối, chia sẻ dữ liệu, đề nghị Ủy ban nhân dân Thành phố chỉ đạo các cơ quan chuyên môn liên hệ trực tiếp với Cục Công nghệ thông tin để trao đổi và làm rõ các nhu cầu, khả năng kết nối của các phần mềm hộ tịch của Thành phố.
XV. LĨNH VỰC THI ĐUA - KHEN THƯỞNG
1. Đề nghị Bộ Tư pháp kết hợp chặt chẽ giữa việc chấm điểm, đánh giá, xếp hạng và việc bình xét thi đua theo Khối để đảm bảo đồng nhất giữa xếp hạng Sở Tư pháp và các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng; thực hiện công tác tư pháp là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và Ngành Tư pháp muốn hành thành tốt nhiệm vụ phải có sự hỗ trợ, phối hợp của các Sở, ngành, địa phương. Vì vậy, đề nghị Bộ Tư pháp cân nhắc, quan tâm hơn nữa việc xét tặng Kỷ niệm chương vì Sự nghiệp Tư pháp cho các cá nhân ngoài Ngành, các đồng chí Lãnh đạo tỉnh có nhiều đóng góp, hỗ trợ, chỉ đạo, lãnh đạo đối với Ngành Tư pháp đồng thời quy định cụ thể hơn tiêu chuẩn, điều kiện xét Kỷ niệm chương vì Sự nghiệp Tư pháp (UBND tỉnh Quảng Bình).
Trả lời:
- Về đề nghị Bộ Tư pháp kết hợp chặt chẽ giữa việc chấm điểm, đánh giá, xếp hạng và việc bình xét thi đua theo Khối để đảm bảo đồng nhất giữa xếp hạng Sở Tư pháp và các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng:
Thực hiện quy định về nội dung tổ chức phong trào thi đua của pháp luật thi đua, khen thưởng: “Căn cứ vào nội dung, chỉ tiêu của phong trào thi đua để xây dựng các tiêu chí đánh giá phù hợp để làm căn cứ bình xét thi đua, khen thưởng trong các kỳ sơ kết, tổng kết”, hàng năm, Bộ Tư pháp đều xây dựng Bảng Tiêu chí thi đua, thang điểm đánh giá xếp hạng và tổ chức thực hiện chấm điểm, xếp hạng các Sở Tư pháp. Kết quả chấm điểm, xếp hạng các Sở Tư pháp luôn được xác định là cơ sở quan trọng để Bộ Tư pháp xem xét quyết định xét tặng hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền tặng các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng trong đó có các danh hiệu thi đua đã được các Cụm, Khu vực thi đua bình xét, suy tôn trên cơ sở đơn vị được suy tôn hoàn thành các chỉ tiêu, tiêu chí đề ra, đạt số điểm, được xếp hạng tương ứng theo quy định và đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện của danh hiệu thi đua đã được suy tôn.
Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện còn một số trường hợp kết quả xét, đề nghị khen thưởng của Hội đồng Thi đua - khen thưởng ngành Tư pháp vẫn chưa đồng nhất với kết quả chấm điểm, xếp hạng các đơn vị hoặc với kết quả bình xét, suy tôn của các Cụm, Khu vực thi đua. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do các đơn vị đã được Cụm, Khu vực suy tôn nhưng trong quá trình thực hiện việc xét khen thưởng đã phát hiện ra một số nội dung liên quan chưa đáp ứng được điều kiện, tiêu chuẩn nên Hội đồng đã không đề nghị khen thưởng hoặc chưa đạt được tỷ lệ phiếu bầu của Hội đồng. Một số trường hợp khác, mặc dù đơn vị tự chấm điểm đạt điều kiện xếp hạng A trên cơ sở đó Cụm, Khu vực suy tôn đề nghị tặng danh hiệu, tuy nhiên vào thời điểm ngành xét khen thưởng, số điểm chấm và dự kiến xếp hạng của Bộ có kết quả chênh lệch lớn nên chưa đủ điều kiện xếp hạng tương ứng và xét tặng danh hiệu đã được suy tôn.
Để hạn chế tình trạng này, bên cạnh việc tiếp tục thực hiện cơ chế công khai lý do, kết quả chấm điểm, xét xếp hạng, xét khen thưởng tới các tập thể, cá nhân đề nghị, Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu để thực hiện cơ chế thông tin, phản hồi giữa kết quả tự chấm của đơn vị, kết quả suy tôn của Cụm, Khu vực Thi đua và kết quả dự kiến chấm điểm của các đơn vị, dự kiến đánh giá xếp hạng, đề nghị khen thưởng của Hội đồng trước khi Bộ trưởng quyết định để tăng cường tính thống nhất giữa việc chấm điểm, xếp hạng, kết quả suy tôn và xét khen thưởng như địa phương đề nghị.
- Về đề nghị Bộ Tư pháp cân nhắc, quan tâm hơn nữa đến việc xét tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Tư pháp” cho các cá nhân ngoài Ngành, các đồng chí Lãnh đạo tỉnh có nhiều đóng góp, hỗ trợ, chỉ đạo, lãnh đạo đối với Ngành Tư pháp, đồng thời quy định cụ thể hơn tiêu chuẩn, điều kiện xét tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Tư pháp”:
Thời gian qua, trong thực hiện xét tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Tư pháp” bên cạnh đối tượng chính là cá nhân đã và đang công tác trong Ngành Tư pháp hoặc làm công tác Tư pháp, Bộ Tư pháp cũng đã luôn quan tâm xét tặng Kỷ niệm chương cho các đối tượng là cá nhân ngoài Ngành, đặc biệt là các đối tượng là Lãnh đạo các cấp từ Trung ương đến địa phương có công lao đóng góp cho Ngành Tư pháp.
Hiện nay, Bộ Tư pháp đã hoàn thiện Dự thảo để ban hành Thông tư xét tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Tư pháp” thay thế quy định hiện hành, trong đó dành riêng một số nội dung quy định về việc xét tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Tư pháp” cho các cá nhân ngoài Ngành, các đồng chí Lãnh đạo… với tiêu chuẩn, điều kiện xét tặng cụ thể, phù hợp hơn.
2. Bảng tiêu chí chấm điểm xếp hạng Sở Tư pháp hàng năm của Bộ Tư pháp có nhiều nội dung, tiêu chí yêu cầu phải tổ chức thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề như: lĩnh vực luật sư, tư vấn pháp luật, công chứng, đấu giá tài sản, pháp chế, xử lý vi phạm hành chính, theo dõi thi thi hành pháp luật, phổ biến giáo dục pháp luật.v.v. Việc tổ chức thanh tra, kiểm tra nhiều, ảnh hưởng đến hoạt động thường xuyên của các cơ quan, đơn vị được kiểm tra. Vì vậy, đề nghị Bộ Tư pháp xem xét, điều chỉnh tiêu chí chấm điểm về kiểm tra các lĩnh vực công tác tư pháp cho phù hợp. Việc tổ chức thanh tra, kiểm tra hàng năm, nên để Sở Tư pháp căn cứ tình hình thực tế địa phương, lựa chọn các lĩnh vực trọng tâm và tập trung nguồn lực để thực hiện đảm bảo chất lượng, hiệu quả (UBND tỉnh Tuyên Quang).
Trả lời:
Việc tổ chức thanh tra, kiểm tra là một nhiệm vụ quan trọng đối với các lĩnh vực chuyên môn để theo dõi sát sao, đánh giá chính xác, khách quan kết quả thực hiện nhiệm vụ, kịp thời phát hiện cách làm hay, sáng tạo để nêu gương, khen thưởng, phát hiện những sai phạm để chấn chỉnh, xử lý hoặc những bất cập, khó khăn để chỉ đạo, tháo gỡ, đề xuất điều chỉnh chính sách, quy định cho phù hợp. Việc xây dựng các tiêu chí chấm điểm về thanh tra, kiểm tra đã được quy định nhiều năm và luôn phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, khi triển khai thực hiện, các Sở Tư pháp cần căn cứ tình hình thực tế tại địa phương, chủ động xây dựng các Kế hoạch thanh tra, kiểm tra đúng đối tượng, thành phần, kết hợp nhiều lĩnh vực, nhiệm vụ để tránh chồng chéo, phiền hà, gây ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả.
XVI. LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1. Đề nghị tổ chức họp liên ngành Trung ương để thống nhất cơ chế xử lý đối với các vụ việc có tài sản thi hành án nằm ở nhiều địa phương khác nhau (Đồng chí Vũ Quốc Doanh, Cục trưởng Cục THADS thành phố Hồ Chí Minh).
Trả lời:
Đây là một trong những khó khăn, vướng mắc mà các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương trong quá trình tổ chức thi hành án. Ví dụ như một số vụ việc có tài sản phải xử lý ở nhiều tỉnh, thành phố khác nhau: vụ Phạm Công Danh, vụ Công ty cho thuê tài chính II, vụ Vinashin và vụ việc liên quan đến Cao Bạch Mai tại Đắk Nông, Tổng cục Thi hành án dân sự đã báo cáo Lãnh đạo Bộ Tư pháp chủ trì họp liên ngành tại Trung ương thống nhất quan điểm chỉ đạo các cơ quan thi hành án dân sự thực hiện ủy thác thi hành án đối với các vụ án lớn, vụ án kinh tế, tham nhũng, vụ án trọng điểm.
Để có cơ chế chung xử lý đối với các vụ việc này cần có sự thống nhất liên ngành từ Trung ương, Tổng cục Thi hành án dân sự đã tổng hợp nội dung này trong Tọa đàm dự kiến tổ chức ngày 26/01/2018 do Thứ trưởng Trần Tiến Dũng chủ trì với sự tham gia của liên ngành Trung ương và đề xuất theo hướng sửa Luật Thi hành án dân sự.
2. Về đề nghị tổ chức sơ kết, đánh giá các vụ án tham nhũng để chỉ đạo, tháo gỡ cũng như rút kinh nghiệm (Đồng chí Vũ Quốc Doanh, Cục trưởng Cục THADS thành phố Hồ Chí Minh).
Trả lời:
Trong thời gian vừa qua, Bộ Tư pháp và Tổng cục Thi hành án dân sự đã có nhiều buổi làm việc với các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương để đánh giá kết quả thi hành án các vụ án kinh tế - tham nhũng lớn; kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về chuyên môn nghiệp vụ cho các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương. Trong thời gian tới, Tổng cục Thi hành án dân sự tiếp tục tham mưu Lãnh đạo Bộ Tư pháp tổ chức sơ kết, đánh giá việc tổ chức thi hành án một số vụ án kinh tế - tham nhũng trọng điểm được Đảng, Nhà nước và dư luận xã hội quan tâm, kịp thời có phương hướng, giải pháp thi hành hiệu quả các vụ việc này.
3. Đề nghị Bộ Tư pháp làm việc với Bộ Công an để có cơ chế hỗ trợ Chấp hành viên trong việc liên hệ, phối hợp với các tại giam hoặc có thể được gửi tống đạt qua giám thị trại giam (Đồng chí Vũ Quốc Doanh, Cục trưởng Cục THADS thành phố Hồ Chí Minh).
Trả lời:
Căn cứ Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC ngày 06/02/2013 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an và Bộ Tài chính về hướng dẫn trình tự, thủ tục thu, nộp, quản lý tiền, giấy tờ của người phải thi hành án dân sự và trả tiền, giấy tờ cho người được thi hành án dân sự là phạm nhân, Tổng cục đã phối hợp với Tổng cục VIII - Bộ Công an thực hiện kiểm tra liên ngành về công tác phối hợp trong thi hành án dân sự tại một số cơ quan Thi hành án dân sự địa phương và trại giam, trại tạm giam (ví dụ: tỉnh Bắc Giang, tỉnh Thái Nguyên, tỉnh Thanh Hóa,…), tổng hợp những hạn chế, vướng mắc, đề nghị các trại giam, trại tạm giam phối hợp, hỗ trợ chặt chẽ cho cơ quan Thi hành án dân sự trong việc tống đạt, chuyển giao các giấy tờ, tài liệu, tài sản theo quy định của pháp luật cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho Chấp hành viên được tiếp xúc, liên hệ trực tiếp với phạm nhân là người phải thi hành án để phục vụ cho công tác xác minh điều kiện thi hành án. Bên cạnh đó, Tổng cục Thi hành án dân sự tiếp tục tham mưu Lãnh đạo Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Công an tổ chức sơ kết 05 năm (2013 - 2018) thực hiện Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC; đồng thời trong năm 2018, Tổng cục Thi hành án dân sự phối hợp với Tổng cục VIII - Bộ Công an tăng cường kiểm tra liên ngành về công tác phối hợp trong Thi hành án dân sự tại một số địa phương có kết quả thi hành án phần dân sự trong các bản án hình sự thấp hoặc có nhiều khó khăn, vướng mắc.
3. Về đề nghị xem xét cấp thêm kinh phí hành chính cho các cơ quan THADS có tổ chức thi hành án tham nhũng (Đồng chí Vũ Quốc Doanh, Cục trưởng Cục THADS thành phố Hồ Chí Minh).
Trả lời:
Căn cứ dự toán ngân sách được phân bổ, kinh phí cho các hoạt động thi hành án đối với các vụ án tham nhũng được đảm bảo trong khoản kinh phí chi thường xuyên theo định mức của đơn vị. Tuy nhiên, trên cơ sở cân đối nguồn và theo quy định của pháp luật, các đơn vị được hỗ trợ hoạt động chuyên môn nghiệp vụ từ nguồn phí thi hành án được để lại hoặc được điều hòa phí từ Tổng cục Thi hành án dân sự để đảm bảo cho các hoạt động tổ chức thi hành các bản án tham nhũng.
1. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nghiên cứu, chỉ đạo các tổ chức pháp chế, Sở Tư pháp và các cơ quan, đơn vị liên quan khẩn trương có các giải pháp tháo gỡ.
2. Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ quan tâm phối hợp Bộ Tư pháp tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến công tác tổ chức bộ máy, cán bộ và vấn đề ngân sách của Ngành Tư pháp.
3. Các tổ chức pháp chế, Sở Tư pháp nghiên cứu kỹ các nội dung kiến nghị và trả lời kiến nghị nêu trên, báo cáo đề xuất các giải pháp tháo gỡ, trình Lãnh đạo Bộ, ngành, địa phương chỉ đạo thực hiện./.
BỘ TƯ PHÁP
[1] Trong năm 2017, Cục Kiểm tra văn bản đã cử nhiều lượt báo cáo viên tham gia huấn nghiệp vụ về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL tại các Bộ: Nội vụ, Giáo dục và đào tạo, Thông tin và truyền thông, Ủy ban dân tộc và các địa phương: Lạng Sơn, Phú Thọ, Đà Nẵng, Bến Tre, An Giang, Quảng Trị…
[2] Báo cáo số 101/BC-BTP ngày 03/4/2017 của Bộ Tư pháp sơ kết 03 năm thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở.
[3] Dự kiến năm 2019 sẽ có báo cáo đánh giá 05 thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở.
[4] Ngày 05/12/2017 Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường đã ban hành Thông tư số 53/2017/TT-BTNMT, Điều 1 Thông tư này nêu rõ: “ngưng hiệu lực thi hành Khoản 5 Điều 6 Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết Nghị định số 01/2017/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai và sửa đổi, bổ sung một số Điều của các Thông tư hướng dẫn thi hành Luật Đất đai từ ngày 5/12/2017 đến thời điểm có hiệu lực thi hành của văn bản quy phạm pháp luật mới quy định về vấn đề này”.
- Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng Tư pháp thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
- Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
- Thông tư 06/2012/TT-BNV ngày 30/10/2012 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công chức xã, phường, thị trấn.
- Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch…
- 1Công văn 4253/BTP-VP năm 2014 trả lời kiến nghị của các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ Tư pháp ban hành
- 2Công văn 250/BTP-VP năm 2015 gửi nội dung Bản tổng hợp tiếp nhận và trả lời kiến nghị của các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ Tư pháp ban hành
- 3Công văn 3272/BTP-VP năm 2015 trả lời kiến nghị của các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ Tư pháp ban hành
- 1Luật Cư trú 2006
- 2Chỉ thị 24/1998/CT-TTg về xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư do Chính Phủ ban hành
- 3Nghị định 66/2008/NĐ-CP về việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
- 4Luật thi hành án dân sự 2008
- 5Luật Lý lịch tư pháp 2009
- 6Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009
- 7Thông tư 02/2009/TT-BTP về chế độ phụ cấp trách nhiệm công việc giám định tư pháp do Bộ Tư pháp ban hành
- 8Nghị định 78/2009/NĐ-CP Hướng dẫn Luật Quốc tịch Việt Nam
- 9Nghị định 92/2009/NĐ-CP về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
- 10Thông tư liên tịch 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTBXH hướng dẫn Nghị định 92/2009/NĐ-CP chức danh, số lượng, chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã do Bộ Nội vụ - Bộ Tài chính - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành
- 11Nghị định 63/2010/NĐ-CP về kiểm soát thủ tục hành chính
- 12Luật nuôi con nuôi 2010
- 13Thông tư liên tịch 157/2010/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp do Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp ban hành
- 14Luật viên chức 2010
- 15Nghị định 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Nuôi con nuôi
- 16Nghị định 55/2011/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế
- 17Thông tư liên tịch 122/2011/TTLT-BTC-BTP quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp ban hành
- 18Quyết định 1477/QĐ-BTP năm 2011 về Kế hoạch triển khai Nghị định 55/2011/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 19Công văn 5046/BTP-TCCB tiếp tục thực hiện Công văn 60-CV/BCS và 74-CV/BCSĐ do Bộ Tư pháp ban hành
- 20Quyết định 409/QĐ-TTg năm 2012 về Chương trình hành động thực hiện Kết luận 04-KL/TW do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 21Quyết định 27/2012/QĐ-TTg quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với Chấp hành, Công chứng, Thẩm tra viên và Thư ký thi hành án do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 22Luật giám định tư pháp 2012
- 23Luật phổ biến, giáo dục pháp luật 2012
- 24Luật xử lý vi phạm hành chính 2012
- 25Nghị định 59/2012/NĐ-CP theo dõi tình hình thi hành pháp luật
- 26Thông tư 06/2012/TT-BNV hướng dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công chức xã, phường, thị trấn do Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành
- 27Luật Thủ đô 2012
- 28Thông tư liên tịch 05/2013/TTLT-BTP-BNG-BCA sửa đổi Điều 13 Thông tư liên tịch 05/2010/TTLT-BTP-BNG-BCA hướng dẫn Nghị định 78/2009/NĐ-CP hướng dẫn Luật Quốc tịch Việt Nam do Bộ Tư pháp - Bộ Ngoại giao - Bộ Công an ban hành
- 29Thông tư liên tịch 07/2013/TTLT/BTP-BCA-BTC hướng dẫn trình tự, thủ tục thu, nộp, quản lý tiền, giấy tờ của người phải thi hành án và trả tiền, giấy tờ cho người được thi hành án dân sự là phạm nhân do Bộ trưởng Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Bộ Tài chính ban hành
- 30Nghị định 28/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật phổ biến, giáo dục pháp luật
- 31Kết luận 63-KL/TW năm 2013 cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020 do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 32Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013
- 33Kết luận 64-KL/TW năm 2013 tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 34Thông tư liên tịch 11/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn thực hiện quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng do Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài chính - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao ban hành
- 35Nghị định 81/2013/NĐ-CP hướng dẫn và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính
- 36Nghị định 85/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật giám định tư pháp
- 37Thông tư 129/2013/TT-BTC quy định việc quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác điều ước quốc tế và công tác thỏa thuận quốc tế do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 38Thông tư 138/2013/TT-BTC hướng dẫn Luật Giám định tư pháp và Nghị định 85/2013/NĐ-CP do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 39Nghị quyết 53/2013/QH13 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 do Quốc hội ban hành
- 40Hiến pháp 2013
- 41Luật đất đai 2013
- 42Quyết định 01/2014/QĐ-TTg về chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 43Thông tư liên tịch 192/2013/TTLT-BTC-BTP Quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng, quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm công tác hợp nhất văn bản, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật do Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp ban hành
- 44Thông tư liên tịch 14/2014/TTLT-BTC-BTP quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở do Bộ trưởng Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp ban hành
- 45Nghị định 15/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật hòa giải ở cơ sở
- 46Nghị định 24/2014/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
- 47Thông tư 47/2013/TT-BYT về Quy trình giám định pháp y do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 48Quyết định 298/QĐ-BTP năm 2014 phê duyệt Đề án Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thống kê của ngành Tư pháp giai đoạn 2014-2018 do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 49Nghị định 37/2014/NĐ-CP quy định tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
- 50Thông tư 04/2014/TT-BXD hướng dẫn về giám định tư pháp trong hoạt động đầu tư xây dựng do Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành
- 51Luật Công chứng 2014
- 52Thông tư 20/2014/TT-BYT quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 53Thông tư liên tịch 92/2014/TTLT-BTC-BTP-VPCP hướng dẫn lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ ban hành
- 54Thông tư liên tịch 100/2014/TTLT-BTC-BTP về việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở do Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp ban hành
- 55Công văn 4253/BTP-VP năm 2014 trả lời kiến nghị của các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ Tư pháp ban hành
- 56Luật Hộ tịch 2014
- 57Luật Công an nhân dân 2014
- 58Thông tư liên tịch 23/2014/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh do Bộ trưởng Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ ban hành
- 59Công văn 250/BTP-VP năm 2015 gửi nội dung Bản tổng hợp tiếp nhận và trả lời kiến nghị của các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ Tư pháp ban hành
- 60Nghị định 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch
- 61Nghị quyết 39-NQ/TW năm 2015 tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 62Thông tư 06/2015/TT-BTP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng do Bộ trưởng Bộ Tư Pháp ban hành
- 63Luật đấu giá tài sản 2016
- 64Luật ngân sách nhà nước 2015
- 65Nghị định 123/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật hộ tịch
- 66Luật tổ chức Chính phủ 2015
- 67Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015
- 68Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
- 69Thông tư 18/2015/TT-BYT về Quy trình giám định pháp y tâm thần và biểu mẫu sử dụng trong giám định pháp y tâm thần do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 70Quyết định 1573/QĐ-TTg năm 2015 về Kế hoạch triển khai thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 71Thông tư 10/2015/TT-BTP quy định chế độ báo cáo trong quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và theo dõi tình hình thi hành pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 72Chỉ thị 28/CT-TTg năm 2015 về triển khai thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 73Bộ luật dân sự 2015
- 74Bộ luật hình sự 2015
- 75Công văn 3272/BTP-VP năm 2015 trả lời kiến nghị của các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ Tư pháp ban hành
- 76Bộ luật tố tụng dân sự 2015
- 77Bộ luật tố tụng hình sự 2015
- 78Nghị quyết 111/2015/QH13 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân,Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và các năm tiếp theo do Quốc hội ban hành
- 79Luật tố tụng hành chính 2015
- 80Luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015
- 81Nghị quyết 10/NQ-CP về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 01 năm 2016
- 82Thông tư 04/2016/TT-BTP quy định nội dung về hoạt động thống kê của Ngành Tư pháp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 83Quyết định 2173/QĐ-BTP năm 2015 phê duyệt Đề án Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 84Nghị quyết 35/NQ-CP năm 2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 do Chính phủ ban hành
- 85Nghị định 34/2016/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
- 86Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017
- 87Quyết định 1226/QĐ-BTP năm 2016 Kế hoạch Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Ngành Tư pháp giai đoạn 2016-2020 do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 88Công văn 345/CNTT-HTTT&CSDL năm 2016 triển khai phần mềm hộ tịch tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Cục Công nghệ thông tin ban hành
- 89Thông tư 338/2016/TT-BTC quy định lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 90Quyết định 1126/QĐ-BTP năm 2016 Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật về nhà ở xã hội, nhà ở cho người có công, vùng thường xuyên bị thiên tai do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 91Thông tư liên tịch 08/2016/TTLT-BTP-BNV quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức Trợ viên giúp pháp lý do Bộ trưởng Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ ban hành
- 92Quyết định 32/2016/QĐ-TTg chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2016-2020 và hỗ trợ vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 93Nghị định 101/2017/NĐ-CP về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức
- 94Nghị định 97/2017/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ hướng dẫn và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính
- 95Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017
- 96Luật Trợ giúp pháp lý 2017
- 97Công văn 4218/BTP-VĐCXDPL năm 2016 trả lời về quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Nghị định 34/2016/NĐ-CP do Bộ Tư pháp ban hành
- 98Thông tư 244/2016/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí cung cấp thông tin lý lịch tư pháp do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 99Thông tư 326/2016/TT-BTC quy định về tổ chức thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2017 do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 100Thông tư 33/2017/TT-BTNMT về hướng dẫn Nghị định 01/2017/NĐ-CP sửa đổi nghị định hướng dẫn Luật đất đai và sửa đổi thông tư hướng dẫn thi hành Luật đất đai do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành
- 101Thông tư 45/2017/TT-BTC quy định khung thù lao dịch vụ đấu giá tài sản theo quy định tại Luật đấu giá tài sản do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 102Công văn 3015/VPCP-PL năm 2017 thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 103Thông tư 48/2017/TT-BTC quy định chế độ Tài chính trong hoạt động đấu giá tài sản do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 104Quyết định 410/QĐ-TTg năm 2017 Kế hoạch triển khai thi hành Luật đấu giá tài sản do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 105Thông tư 04/2017/TT-BTP bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành, liên tịch ban hành
- 106Nghị định 62/2017/NĐ-CP hướng dẫn Luật đấu giá tài sản
- 107Quyết định 559/QĐ-TTg năm 2017 phê duyệt "Đề án đơn giản hóa chế độ báo cáo trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước" do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 108Quyết định 619/QĐ-TTg năm 2017 Quy định về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 109Nghị định 92/2017/NĐ-CP về sửa đổi Nghị định liên quan đến kiểm soát thủ tục hành chính
- 110Nghị định 61/2017/NĐ-CP hướng dẫn việc thẩm định giá khởi điểm của khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu và việc thành lập Hội đồng đấu giá nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đối với khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có giá trị lớn
- 111Quyết định 705/QĐ-TTg năm 2017 Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017-2021 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 112Nghị quyết 34/2017/QH14 Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018 và điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017 do Quốc hội ban hành
- 113Thông tư 106/2017/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định tiêu chuẩn hành nghề đấu giá tài sản, phí thẩm định điều kiện đăng ký hoạt động của doanh nghiệp đấu giá tài sản do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 114Quyết định 30/2017/QĐ-TTg bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Thủ tướng Chính phủ lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn
- 115Thông tư 06/2017/TT-BTP quy định về chương trình khung của khóa đào tạo nghề đấu giá, cơ sở đào tạo nghề đấu giá, việc tập sự và kiểm tra kết quả tập sự hành nghề đấu giá và biểu mẫu trong lĩnh vực đấu giá tài sản do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 116Thông tư 07/2017/TT-BTP quy định về điểm số, hướng dẫn cách tính điểm chỉ tiêu tiếp cận pháp luật, Hội đồng đánh giá tiếp cận pháp luật và nội dung về xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 117Quyết định 1269/QĐ-TTg năm 2017 Kế hoạch triển khai thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 118Quyết định 43/2017/QĐ-UBND bãi bỏ văn bản do thành phố Hồ Chí Minh ban hành
- 119Công văn 1362/TTg-PL năm 2017 về nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Thủ tướng Chính phủ
- 120Quyết định 1355/QĐ-TTg năm 2017 về Kế hoạch triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 121Quyết định 1559/QĐ-BTP năm 2017 về Kế hoạch triển khai thi hành Bộ luật Hình sự do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 122Công văn 1587/HTQTCT-QT năm 2016 về thụ lý, giải quyết hồ sơ quốc tịch do Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực ban hành
- 123Công văn 2804/BTP-VĐCXDPL năm 2017 về thông báo nội dung giao địa phương quy định chi tiết các luật, nghị quyết được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 3 do Bộ Tư pháp ban hành
- 124Công văn 5007/BTP-VP về báo cáo kết quả công tác tư pháp năm 2017 và nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2018 do Bộ tư pháp ban hành
- 125Công văn 4973/BTP-VĐCXDPL năm 2017 báo cáo về những khó khăn, vướng mắc của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tư pháp ban hành
- 126Thông tư 53/2017/TT-BTNMT về quy định ngưng hiệu lực thi hành Khoản 5 Điều 6 Thông tư 33/2017/TT-BTNMT hướng dẫn Nghị định 01/2017/NĐ-CP sửa đổi Nghị định hướng dẫn Luật đất đai và sửa đổi Thông tư hướng dẫn Luật đất đai do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành
- 127Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2018 do Chính phủ ban hành
Công văn 358/BTP-VP năm 2018 về trả lời kiến nghị của các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ Tư pháp ban hành
- Số hiệu: 358/BTP-VP
- Loại văn bản: Công văn
- Ngày ban hành: 30/01/2018
- Nơi ban hành: Bộ Tư pháp
- Người ký: Đỗ Đức Hiển
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 30/01/2018
- Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực