Chương 5 Thông tư 08-TT-1964 hướng dẫn thi hành Điều lệ vận chuyển hàng hóa bằng ô-tô (ban hành do Nghị định 195-CP-1963) do Bộ Giao thông vận tải ban hành
1. Thời hạn vận chuyển
Thời hạn vận chuyển là một yêu cầu cần thiết để bảo đảm cho kế hoạch lưu thông hàng hóa và kế hoạch quay vòng phương tiện vận tải. Ấn định thời hạn vận chuyển phải căn cứ vào điều kiện phương tiện vận tải đường sá, cầu, phà và tính chất từng loại hàng. Trong hoàn cảnh thực tế của ta, Nhà nước chưa quy định được thời hạn vận chuyển một cách chính xác và cụ thể, nên điều 31 trong điều lệ của Hội đồng Chính phủ quy định rằng: “Hai bên chủ hàng và vận tải tùy theo từng loại đường mà định thời hạn vận chuyển, ghi vào hợp đồng vận tải và giấy vận chuyển.
Nếu chủ hàng đảm nhiệm việc xếp dỡ thì thời hạn vận chuyển tính từ khi xếp xong hàng lên xe cho đến khi mang hàng đến địa điểm trả hàng. Nếu bên vận tải đảm nhiệm việc xếp dỡ thì thời hạn vận chuyển bao gồm cả thời gian xếp dỡ hàng lên xuống xe…”
Vậy tùy theo từng trường hợp hai bên sẽ định thời hạn vận chuyển cho từng xe, từng chuyến hàng hoặc cho cả một khối lượng hàng phải chở trong một thời gian dài hoặc nhiều chuyến mà ghi cụ thể vào hợp đồng và giấy vận chuyển.
Nếu việc xếp hàng lên xe do bên chủ hàng phụ trách và dỡ hàng xuống xe do bên vận tải phụ trách thì thời hạn vận chuyển tính kể từ khi xếp xong hàng lên xe do đến khi dỡ xong hàng xuống xe, khi trả hàng.
Nếu xếp hàng lên xe do bên vận tải phụ trách và dỡ hàng xuống xe do chủ hàng phụ trách thì thời hạn vận chuyển tính kể từ khi bên vận tải đưa xe đến lấy hàng cho đến khi xe mang hàng đến địa điểm trả hàng.
2. Nhiệm vụ người áp tải
Hàng hóa đã có người của bên chủ hàng đi áp tải thì người áp tải có trách nhiệm về việc chăm lo, săn sóc, bảo vệ hàng hóa, như: không được để hàng hóa bị mất mát, phải luôn luôn kiểm tra hàng hóa, phát hiện kịp thời những hiện tượng hư hỏng, xô lệch để báo cho người lái xe giúp sức giải quyết. Nếu hàng hóa là súc vật sống thì người áp tải phải chăm lo cho súc vật ăn uống. Nếu vì lý do nào đó, hàng phải dỡ xuống dọc đường hoặc xe phải ngừng lại ở dọc đường thì người áp tải phải cộng tác với bên vận tải chăm lo bảo quản tốt hàng hóa, liên hệ với các cơ quan chính quyền địa phương khi cần thiết, báo tin cho chủ hàng v.v…
Đối với hàng hóa có người của chủ hàng đi áp tải, bên vận tải cũng vẫn phải có phần trách nhiệm bảo quản hàng hóa như: cho xe chạy với tốc độ thích hợp với tình hình đường sá, tính chất của từng loại hàng, giúp đỡ người áp tải trong những trường hợp cần thiết ở dọc đường đối với việc giữ gìn, chăm lo, bảo quản hàng hóa v.v…
Vậy khi hàng hóa phải có người của chủ hàng đi áp tải theo quy định ở điều 33 của điều lệ thì bên chủ hàng và bên vận tải dựa vào những nguyên tắc trên đây thảo luận cụ thể nhiệm vụ của người đi áp tải mà ghi vào hợp đồng và giấy vận chuyển như đã quy định ở điều 34 của điều lệ.
3. Trường hợp giao thông bị tắc trong lúc vận chuyển
Khoản a, điều 37 trong điều lệ quy định: “Trong trường hợp gặp bão lụt, hoặc đường sá, cầu, phà hư hỏng bất thường làm tắc giao thông, xe không thể tiếp tục chở hàng đến nơi trả hàng, bên vận tải có trách nhiệm tìm mọi biện pháp tích cực để bảo vệ hàng hóa, đồng thời báo tin cho chủ hàng hoặc bên nhận hàng (nếu không có điều kiện báo cho bên chủ hàng) biết để quyết định. Mặt khác, bên vận tải phải liên hệ với cơ quan giao thông vận tải, nắm tình hình phục hồi giao thông và tin cho bên chủ hàng hoặc bên nhận hàng biết một cách cụ thể để quyết định biện pháp giải quyết.
(Bộ Giao thông vận tải cần có quy định riêng về việc bảo đảm giao thông thường xuyên và giải quyết nhanh chóng các trường hợp bất trắc xảy ra)”.
Để thi hành khoản a của điều 37 trên đây trong trường hợp giao thông bị tắc vì đường sá, cầu, phà bị hư hỏng bất thường thì cơ quan giao thông vận tải địa phương có trách nhiệm phải kiểm tra tình hình và công bố ngay thời gian giao thông có thể được lặp lại. Công bố của cơ quan giao thông vận tải phải được đăng lên các báo tin tức hàng ngày và niêm yết ngay tại chỗ giao thông bị tắc. Công bố thời gian giao thông bị tắc của các cơ quan giao thông vận tải là cơ sở để bên vận tải và bên chủ hàng thanh toán với nhau về cước phí vận tải, phí tổn chờ đợi và quyết định biện pháp vận chuyển hàng hóa.
Các khoản b và d của điều 37 của điều lệ còn quy định:
“b)… Trường hợp bên chủ hàng muốn chở hàng về nơi xuất phát thì bên vận tải chỉ thu cước phí vận tải đối với lượt đi tính đến quãng đường bị tắc giao thông và không thu đối với lượt về…
- Nếu chờ đợi giao thông lập lại để tiếp tục chuyên chở… Tuy nhiên nếu xe phải chờ đợi quá hai ngày thì bắt đầu kể từ ngày thứ 3, bên chủ hàng phải trả phí tổn chờ đợi cho bên vận tải theo thể lệ giá cước chờ đợi…
d) Nếu đường về cũng bị nghẽn mà không nhận được ý kiến giải quyết của bên chủ hàng hay bên nhận hàng thì bên vận tải trình với Ủy ban hành chính địa phương để tùy theo tình trạng hàng hóa, đặt biện pháp giải quyết để bảo vệ, tránh hư hỏng, mất mát, thiệt hại tài sản chung…”.
Bộ giải thích cụ thể các khoản b và d trên đây như sau:
Không thu đối với lượt về, quy định ở đây là không thu cước vận tải. Còn các phụ phí khác mà bên vận tải phải chỉ tiêu để phục vụ việc vận chuyển, chuyến hàng đó (nếu có) thì bên chủ hàng vẫn phải trả cho bên vận tải như: tiền mua sắm vật dụng chứa lót, chuồng cũi, cước qua phà đối với hàng hóa, v.v… Còn đối với việc trả phí tổn chờ đợi, thì trong trường hợp này mỗi ngày chỉ tính 8 tiếng đồng hồ chờ đợi theo giờ hành chính, ban đêm không tính.
Trong trường hợp đường về cũng bị nghẽn mà không nhận được ý kiến giải quyết của bên chủ hàng hay bên nhận hàng thì Ủy ban hành chính địa phương sở tại có quyền và có trách nhiệm tùy theo tình trạng hàng hóa, đặt biện pháp giải quyết để bảo vệ hàng hóa, tránh hư hỏng mất mát. Ví dụ: Đặt kế hoạch bảo quản chu đáo, nếu là hàng có thể cất giữ được không hư hỏng, giải quyết kịp thời những hàng hóa dễ hư thối, như hoa quả, cá tươi v.v… Để công việc này thực hiện được chu đáo, bên vận tải hoặc người áp tải của chủ hàng (nếu có) cần cố gắng tìm mọi cách nhanh nhất để báo cáo với Ủy ban hành chính địa phương,
Thông tư 08-TT-1964 hướng dẫn thi hành Điều lệ vận chuyển hàng hóa bằng ô-tô (ban hành do Nghị định 195-CP-1963) do Bộ Giao thông vận tải ban hành
- Số hiệu: 08-TT
- Loại văn bản: Thông tư
- Ngày ban hành: 18/06/1964
- Nơi ban hành: Quốc hội
- Người ký: Dương Bạch Liên
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 27
- Ngày hiệu lực: 03/07/1964
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra