Chương 4 Thông tư 08-TT-1964 hướng dẫn thi hành Điều lệ vận chuyển hàng hóa bằng ô-tô (ban hành do Nghị định 195-CP-1963) do Bộ Giao thông vận tải ban hành
Việc xếp dỡ hàng hóa là một vấn đề phức tạp nhất hiện nay giữa chủ hàng và bên vận tải. Nó là một khâu tối quan trọng trong sợi dây chuyền vận tải hàng hóa. Nếu xếp dỡ nhanh thì phương tiện vận tải được giải phóng sớm, năng suất vận chuyển sẽ cao lên. Do đó, vừa khai thác tốt khả năng phương tiện vận tải, vừa hạn chế bớt được vốn đầu tư vào phương tiện vận tải.
Trong hoàn cảnh nước ta, để thực hiện phương châm tiết kiệm, tăng cường trách nhiệm cho bên vận tải và giải quyết bớt khó khăn cho bên chủ hàng, điều lệ của Hội đồng Chính phủ quy định cụ thể như sau:
1. Trách nhiệm xếp dỡ
Điều 24 của điều lệ quy định:
“a) Việc xếp dỡ hàng hóa lên xe, xuống xe:
- Tại các xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường, các kho của chủ hàng, các nơi chưa có tổ chức lực lượng xếp dỡ của các cơ quan giao thông vận tải thì việc xếp dỡ do bên chủ hàng đảm nhiệm.
- Tại các bến xe vận tải, các trạm trung chuyển có tổ chức lực lượng xếp dỡ của bên vận tải thì việc xếp dỡ do bên vận tải phụ trách, phí tổn xếp dỡ do bên chủ hàng trả theo thể lệ hiện hành. Việc giao hàng hoặc nhận hàng đều do bên có hàng đảm nhiệm.
b) Nếu việc xếp dỡ do bên chủ hàng phụ trách thì bên vận tải có nhiệm vụ hướng dẫn về kỹ thuật xếp dỡ”.
Để việc xếp hàng lên xe, dỡ hàng xuống xe được nhanh chóng và tốt, Bộ hướng dẫn thêm một số điểm cụ thể như sau:
- Tổ chức lực lượng xếp dỡ của bên vận tải… nói ở đoạn 2, khoản a, điều 24 trên đây là những lực lượng xếp dỡ do các Sở, Ty Giao thông vận tải địa phương tổ chức và quản lý để đảm nhiệm công việc xếp dỡ tại các bến xe vận tải, các trạm trung chuyển. Do đó, các Sở, Ty Giao thông vận tải có nhiệm vụ cộng tác với các xí nghiệp vận tải về các mặt cần thiết, nhất là trong việc giao dịch giữa các xí nghiệp này với các tổ chức xếp dỡ để tạo điều kiện cho việc xếp dỡ tại các địa điểm nói trên được thuận lợi và nhanh chóng.
- Nếu việc xếp hàng lên xe do bên chủ hàng phụ trách thì bên vận tải có nhiệm vụ hướng dẫn về kỹ thuật về hàng xếp được gọn gàng, ngăn nắp, chèn lót được chắc chắn, khỏi bị xô lệch trong quá trình vận chuyển và thuận lợi cho việc dỡ hàng đi đến địa điểm trả hàng. Trong trường hợp này, việc làm giấy vận chuyển chỉ tiến hành sau khi đã xếp dỡ xong hàng lên xe.
- Nếu việc xếp hàng lên xe do bên vận tải phụ trách thì việc kiểm tra hàng hóa và làm giấy vận chuyển phải tiến hành trước khi bắt đầu xếp hàng lên xe. Nếu hàng hóa bị hư hỏng trong quá trình xếp hàng lên xe thì bên vận tải phải chịu trách nhiệm.
- Nếu việc dỡ hàng xuống xe khi trả hàng do bên chủ hàng phụ trách thì người nhận hàng cùng với bên vận tải phải tiến hành kiểm tra để nhận hàng ngay từ khi bắt đầu dỡ hàng xuống xe. Việc hư hỏng hàng hóa trong quá trình dỡ hàng do bên chủ hàng chịu trách nhiệm.
- Ngược lại nếu việc dỡ hàng xuống xe do bên vận tải phụ trách thì người nhận hàng chỉ kiểm tra để nhận hàng sau khi bên vận tải đã dỡ hàng xuống xe. Việc hư hỏng hàng hóa trong quá trình dỡ hàng do bên vận tải chịu trách nhiệm.
- Tại các trạm trung chuyển, nếu việc xếp dỡ hàng do bên vận tải phải đảm nhiệm thì bên chủ hàng phải cử cán bộ đến trạm trung chuyển ngay khi được tin báo phương tiện vận tải đã tới địa điểm để nhận hàng và giao hàng cho đơn vị vận tải chuyển tiếp, trừ trường hợp liên hiệp vận chuyển sẽ quy định riêng.
- Ngoài ra, bên vận tải còn phải đảm nhiệm việc xếp dỡ hàng tại các nơi chuyển tải, trong những trường hợp bên chủ hàng không có người đi áp tải.
Phí tổn về xếp dỡ và chuyển tải hàng hóa quy định như sau:
- Trường hợp đường, cầu, phà bị hư hỏng, hàng hóa phải chuyển tải hoặc xe phải hạn chế trọng tải, đã được cơ quan giao thông vận tải thông báo trước, mà bên chủ hàng vẫn yêu cầu vận chuyển thì các phí tổn về xếp dỡ và chuyển tải hàng hóa tại nơi chuyển tải do bên chủ hàng đài thọ.
- Nếu đường, cầu phà bị hư hỏng, hàng hóa phải chuyển tải hoặc xe phải hạn chế trọng tải, nhưng không được cơ quan giao thông vận tải thông báo trước, thì các phí tổn về xếp dỡ và chuyển tải hàng hóa tại nơi chuyển tải do bên vận tải đài thọ.
Trường hợp đường, cầu, phà bị hư hỏng bất thường do thiên tai, bão lụt gây nên, làm tắc giao thông, do đó hàng hóa phải chuyển tải hoặc xe phải hạn chế trọng tải, thì các phí tổn xếp dỡ và chuyển tải hàng hóa thi hành theo các quy định của điều 37 trong điều lệ.
2. Nguyên tắc xếp dỡ
Điều 25 của điều lệ quy định: “Việc xếp dỡ hàng hóa phải tiến hành cả ngày lẫn đêm kể cả ngày lễ, chủ nhật, không lệ thuộc vào giờ hành chính như Chỉ thị số 338-TTg ngày 14-9-1959 đã quy định”.
Tuy nhiên, nếu việc giao nhận xếp dỡ tiến hành trong những ngày lễ và chủ nhật thì hai bên bảo cho nhau biết trước 24 giờ”.
Quy định trên đây của điều lệ nhằm mục đích giao nhận, xếp dỡ hàng hóa khi đi, khi đến được dễ dàng, nhanh chóng, bảo vệ hàng hóa được tốt, đồng thời giải phóng xe nhanh, có lợi cho kế hoạch chung. Để cho bên chủ hàng cũng như bên vận tải có thời gian chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho công việc giao nhận, xếp dỡ cũng như công việc vận chuyển. Bộ hướng dẫn thêm một số điểm cụ thể như sau:
- Nếu việc giao nhận, xếp dỡ tiến hành trong những ngày lễ và chủ nhật thì hai bên bảo cho nhau biết trước 24 giờ như đã quy định ở đoạn cuối của điều 25 trên đây, đồng thời phải ghi vào giấy vận chuyển.
- Nếu việc giao nhận, xếp dỡ có tiến hành ban đêm thì hai bên cũng phải bàn bạc trước với nhau và ghi vào hợp đồng vận tải và giấy vận chuyển.
- Bên chủ hàng có trách nhiệm báo cho các kho hàng, các người nhận hàng của mình biết các nguyên tắc giao nhận, xếp dỡ hàng hóa quy định trên đây để tránh mọi trở ngại khi xe đến lấy hàng hoặc trả hàng.
3. Thời hạn chuẩn bị xếp dỡ
Điều 27 của điều lệ quy định:
“a) Mỗi lần xe đến địa điểm giao nhận hàng hóa, nếu việc xếp dỡ do bên chủ hàng phụ trách thì bên chủ hàng phải bắt đầu xếp dỡ sau 30 phút kể từ khi được báo tin xe đến.
Nếu ngày giờ xe đến được báo trước bằng điện tín hoặc điện thoại, chủ hàng phải xếp dỡ ngay sau 30 phút kể từ ngày giờ đã được báo trước trong điện tín hoặc điện thoại.
b) Đối với những vùng mà việc thuê mướn, huy động nhân công khó khăn, hai bên chủ hàng và vận tải có thể thương lượng thỏa thuận với nhau về thời hạn chuẩn bị xếp dỡ dài hơn và ghi vào hợp đồng và giấy vận chuyển”.
Để thực hiện đúng các quy định trên đây của điều lệ, bên chủ hàng phải căn cứ vào thời hạn vận chuyển hai bên đã ký kết với nhau mà chuẩn bị sẵn lực lượng để khi được báo tin xe đến thì có thể bắt đầu xếp hàng hoặc dỡ hàng ngay sau 30 phút kể từ khi xe đến.
Đối với trường hợp xe có thể đến sớm hơn ngày giờ đã ghi trong hợp đồng vận tải hay giấy vận chuyển mà bên vận tải đã báo trước bằng điện tín hoặc điện thoại thì bên chủ hàng có nhiệm vụ chuẩn bị để xếp dỡ ngay sau 30 phút, kể từ khi xe đến địa điểm giao nhận đã được báo trước trong điện tín hoặc điện thoại, chứ không lệ thuộc vào ngày giờ xe đến ghi trong hợp đồng hay giấy vận chuyển. Ví dụ: theo hợp đồng thì 12 giờ trưa ngày 20-12-1964 xe đến trả hàng, nhưng có điện tín của bên vận tải báo trước là xe sẽ đến vào lúc 8 giờ sáng. Vậy bên chủ hàng cần chuẩn bị ngay để có thể tiến hành xếp dỡ vào lúc 8 giờ 30 sáng ngày 20-12-1964. Nếu đến 8 giờ sáng này mà xe chưa đến thì coi như là xe đến trả hàng chậm và bên vận tải phải bồi thường phí tổn chờ đợi cho bên chủ hàng. Tuy nhiên, để bên chủ hàng có thì giờ chuẩn bị, bên vận tải phải báo trước bằng điện tín hoặc điện thoại cho bên chủ hàng biết ít nhất là 3 tiếng đồng hồ trước ngày giờ xe đến địa điểm giao nhận nếu xe có thể đến trước ngày giờ đã ghi trong hợp đồng hay giấy vận chuyển.
Thời gian chuẩn bị 30 phút quy định ở khoản a của điều 27 trên đây là đối với những bến xe vận tải, các công, nông, lâm trường, xí nghiệp, kho hàng của chủ hàng có sẵn lực lượng xếp dỡ. Bên chủ hàng cần phải phát huy khả năng của mình để tiến hành xếp dỡ càng sớm càng tốt. Còn đối với các nơi như quy định ở khoản b là đối với những kho lớn của chủ hàng ở những vùng mà việc thuê mượn, huy động nhân công khó khăn, thì hai bên bàn bạc với nhau để quy định một thời hạn chuẩn bị xếp dỡ cho thích hợp với hoàn cảnh và khả năng thực tế của bên chủ hàng.
4. Thời hạn xếp dỡ
Thời hạn xếp dỡ quy định ở điều 11 trong thể lệ tạm thời về hợp đồng vận tải hàng hóa (Thông tư số 90-TTg ngày 06-4-1960 của Thủ tướng Chính phủ) là từ 10 – 20 phút mỗi xe. Thời hạn này là đối với hàng hóa, bến bãi thông thường. Chưa có văn bản quy định cụ thể cho các trường hợp khác, cho nên điều 28 trong điều lệ của Hội đồng Chính phủ quy định như sau: “thời hạn xếp dỡ đối với từng loại hàng, từng loại xe do thể lệ xếp dỡ hàng hóa cụ thể của Nhà nước quy định. Trong lúc chưa có thể lệ cụ thể chính thức ban hành, thời hạn xếp dỡ tạm thời căn cứ theo quy định của Ủy ban hành chính từng địa phương. Nếu địa phương nào chưa có quy định thì hai bên thương lượng thỏa thuận ghi vào hợp đồng và giấy vận chuyển”. Như vậy, từ nay việc quy định thời hạn xếp dỡ sẽ áp dụng theo điều 28 trong điều lệ của Hội đồng Chính phủ nói trên.
Về vấn đề này, Bộ Giao thông vận tải có Chỉ thị số 3245 –PC ngày 11-9-1962 yêu cầu các Sở, Ty Giao thông vận tải căn cứ vào tình hình bến bãi và khả năng xếp dỡ các loại hàng hóa ở địa phương, nghiên cứu trình Ủy ban hành chính địa phương tạm thời quy định thời gian xếp dỡ cụ thể cho từng loại hàng hóa đối với từng loại phương tiện ở từng bến bãi trong khi chờ đợi Chính phủ ban hành điều lệ xếp dỡ chính thức. Nếu địa phương nào chưa làm kịp thì hai bên chủ hàng và vận tải thỏa thuận với nhau về thời hạn xếp dỡ trong lúc chờ đợi ban hành thể lệ xếp dỡ chính thức. Như vậy để giải quyết các mắc mứu khó khăn trong việc ký hợp đồng giữa hai bên chủ hàng và vận tải, chủ hàng và bên vận tải phải quán triệt tinh thần trách nhiệm đối với kế hoạch chung của Nhà nước, phải hết sức tránh gây khó khăn, làm trở ngại cho việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước, mà công tác thực sự với nhau trong việc định thời hạn xếp dỡ.
Thông tư 08-TT-1964 hướng dẫn thi hành Điều lệ vận chuyển hàng hóa bằng ô-tô (ban hành do Nghị định 195-CP-1963) do Bộ Giao thông vận tải ban hành
- Số hiệu: 08-TT
- Loại văn bản: Thông tư
- Ngày ban hành: 18/06/1964
- Nơi ban hành: Quốc hội
- Người ký: Dương Bạch Liên
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 27
- Ngày hiệu lực: 03/07/1964
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra