Hệ thống pháp luật

Chương 3 Thông tư 08-TT-1964 hướng dẫn thi hành Điều lệ vận chuyển hàng hóa bằng ô-tô (ban hành do Nghị định 195-CP-1963) do Bộ Giao thông vận tải ban hành

Chương III

GIAO NHẬN HÀNG HÓA

Giao nhận hàng hóa là một khâu quan trọng và hết sức phức tạp trong mối quan hệ và phân định trách nhiệm giữa chủ hàng và bên vận tải.

Giao nhận hàng hóa nhanh gọn, tốt là biểu hiện thực hiện kế hoạch tốt, vận chuyển tốt, tài sản Nhà nước được bảo quản chu đáo, năng suất xe được khai thác hợp lý và quan hệ giữa vận tải với chủ hàng tốt.

Muốn giao nhận tốt, cần chú ý giải quyết tốt mấy vấn đề sau đây:

1. Địa điểm giao nhận hàng hóa và thay đổi địa điểm giao nhận

- Ấn định địa điểm giao nhận chính xác là một vấn đề cần thiết. Địa điểm giao nhận không chính xác sẽ gây ra lãng phí và ảnh hưởng không tốt đến kế hoạch vận tải chung. Cho nên điều 13 của điều lệ quy định “địa điểm giao nhận hàng hóa là những nơi đã được cơ quan giao thông vận tải địa phương quy định”. Quy định này có nghĩa là nơi nào mà cơ quan giao thông vận tải địa phương quy định và công bố là bến xe vận tải thì đó là nơi mà chủ hàng giao hàng chở đi và bên vận tải trả hàng khi đến. Các Sở, Ty Giao thông vận tải có nhiệm vụ quy định và công bố những bến xe vận tải trong địa phương mình. Tuy nhiên, để phù hợp với tình hình thực tế của ta hiện nay và thuận tiện cho bên chủ hàng trong công việc giao nhận hàng hóa, điều 13 của điều lệ quy định rằng: “Trường hợp bên chủ hàng yêu cầu giao nhận tại các địa điểm khác thì những địa điểm này phải là những nơi mà ô-tô ra vào an toàn, thuận tiện và được bên vận tải thỏa thuận. Nếu hai bên không nhất trí về tình trạng đường sá thì yêu cầu cơ quan giao thông vận tải địa phương xác nhận. Nếu vì đường xấu, xe không vào được tận nơi yêu cầu thì bên chủ hàng phải sửa đường hoặc tổ chức giao nhận và xếp dỡ hàng tại nơi cuối cùng mà xe vào được trên quãng đường đó”. Các điều kiện về đường sá quy định như trên là để bảo đảm an toàn cho hàng hóa và phương tiện vận tải, bảo đảm vận chuyển đúng kỳ hạn. Đường mà chủ hàng phải sửa chữa nói ở đây là những đường dùng riêng đi vào các kho các xí nghiệp công nông, lâm trường của chủ hàng hoặc những đường không phải là đường ô-tô do Nhà nước quản lý. Nếu vì đường sá xấu, bên chủ hàng không sửa chữa, mà xe không vào được đến địa điểm yêu cầu hoặc gây ra việc giao nhận hàng chậm trễ thì bên chủ hàng phải chịu trách nhiệm. Trong những trường hợp vận chuyển khối lượng hàng hóa lớn hoặc dài hạn, trước khi nhận vận chuyển, bên vận tải có nhiệm vụ phải đi trực tiếp nắm tình hình đường sá để tránh tình trạng khó khăn có thể xảy ra khi vận chuyển.

Điều 13 của điều lệ còn quy định: “Đối với hàng hóa thuê chở nguyên xe, việc giao hàng cũng như trả hàng chỉ làm nhiều nhất tại hai địa điểm đối với một xe. Trường hợp giao hàng hoặc trả hàng quá hai địa điềm thì cước phí vận tải sẽ tính theo giá cước hàng lẻ”. Việc giao hàng cũng như trả hàng chỉ làm nhiều nhất tại hai địa điểm quy định trên đây là trong phạm vi một tuyến đường, một thành phố, thị xã hay thị trấn, và trong trường hợp này bên vận tải được thu cước phí vận tải đối với toàn bộ khối lượng hàng vận chuyển và trên cự ly đường dài nhất mà xe phải đi.

Ví dụ:

1. Một xe vận tải trọng tải 4T, bắt đầu đi từ bến xe cầu Long Biên đến lấy hàng tại địa điểm thứ nhất ở Cửa hàng bách hóa Bờ hồ là 2T rồi đến lấy thêm 2T tại Cửa hàng bách hóa Cửa Nam và chở đi thị xã Phú Lý, như thế là cước phí vận tải sẽ tính cho cả 4T hàng vận chuyển từ cửa hàng bách hóa Bờ hồ qua Cửa Nam đến Phú Lý.

2. Một xe chở 4T hàng đi từ Gia Lâm đến thị xã Bắc Ninh trả 2T, còn 2T chở đến thị xã Đáp Cầu. Trong trường hợp này cước phí vận tải sẽ tính cho cả 4T hàng vận chuyển từ Gia Lâm đến Đáp Cầu.

Để chiếu cố đến những trường hợp cần thiết cho bên chủ hàng, điều 14 của điều lệ cũng cho phép bên chủ hàng được “thay đổi địa điểm giao hàng và trả hàng hoặc thay đổi tên người hay cơ quan nhận hàng”. Địa điểm được thay đổi quy định trên đây cũng phải nằm trên một tuyến đường, trong một thành phố, thị xã hay thị trấn với địa điểm cũ đã ký trong hợp đồng, chứ không được thay đổi luồng đường. Nếu muốn thay đổi luồng đường thì phải thi hành đúng theo điều 9 của điều lệ, vì thay đổi luồng đường, có thể sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch chung của bên vận tải.

Thời gian xe phải chờ đợi để làm các thủ tục và giấy tờ cần thiết cho việc thay đổi trên đây không tính vào thời gian vận chuyển.

Nếu việc thay đổi địa điểm trả hàng do người nhận hàng yêu cầu thì người nhận hàng phải trực tiếp thanh toán ngay cước phí với bên vận tải.

Ngoài ra nếu địa điểm giao nhận không phải là bến xe vận tải do cơ quan giao thông vận tải quy định thì bên chủ hàng có nhiệm vụ sửa sang các địa điểm giao nhận đó để có đủ chỗ cho xe đến lấy hàng, trả hàng từ chuyến vận chuyển (có thể một xe hoặc có thể nhiều xe theo yêu cầu của chủ hàng). Nếu vì không đủ chỗ xe đỗ mà việc giao nhận, xếp dỡ không làm được đúng thời gian thì bên chủ hàng chịu trách nhiệm. Do đó, khi ký hợp đồng vận tải, hai bên phải cùng nhau bàn bạc về vấn đề này để khi xe đến địa điểm giao nhận hàng không phải chờ đợi.

2. Chứng nhận xe đến địa điểm giao nhận hàng, trường hợp chủ hàng không có hàng hoặc chưa có hàng để giao khi xe đến lấy hàng chở đi.

Chứng nhận xe đến địa điểm giao nhận hàng (điều 15 của điều lệ) là một vấn đề hết sức cần thiết để giải quyết các phí tổn chờ đợi và định trách nhiệm của bên vận tải và bên chủ hàng. Nếu việc này không làm được chu đáo thì sẽ gây ra nhiều khó khăn khi hai bên thanh toán các phí tổn với nhau.

Việc làm này còn quan trọng hơn nữa là vì điều 16 của điều lệ có quy định rằng: “Nếu sau 30 phút kể từ khi xe đến địa điểm giao hàng chở đi, nếu bên chủ hàng không có hàng để giao thì chủ hàng chứng nhận cho xe quay về”. Quy định này nhằm mục đích để hết sức tránh thì giờ xe nằm chết đồng thời cũng để hạn chế bớt những phí tổn chờ đợi vô ích cho bên chủ hàng.Tuy nhiên để chiếu cố đến những hoàn cảnh khó khăn của bên chủ hàng, khoản b điều 16 trên quy định thêm rằng: “Nếu bên chủ hàng chưa có hàng, thì được yêu cầu xe chờ thêm một tiếng đồng hồ, nếu cần chờ trên một tiếng đồng hồ thì bên chủ hàng phải thương lượng thỏa thuận với bên vận tải”. Trong trường hợp phải chờ đợi thêm nhiều giờ này, nếu bên chủ hàng bảo đảm chắc chắn có đủ hàng thì bên vận tải cần thỏa thuận để tránh gây khó khăn, lỡ kế hoạch của bên chủ hàng.

3. Trường hợp không tìm được người nhận hàng để trả hàng và người có tên trong giấy vận chuyển có trách nhiệm phải nhận hàng.

Điều 17 của điều lệ quy định: “Bên vận tải mang hàng hóa đến nơi trả hàng đúng như đã ghi trong giấy vận chuyển thì người hoặc cơ quan có tên trong giấy vận chuyển phải nhận số hàng đó.

Trường hợp giấy vận chuyển bị mất hay thất lạc thì hai bên tạm thời căn cứ vào số lượng và thực trạng hàng hóa khi trả mà lập biên bản trả hàng, nhận hàng, rồi sẽ đối chiếu với giấy vận chuyển sau. Mọi phí tổn do việc làm mất hoặc làm thất lạc giấy vận chuyển gây nên do bên làm mất hoặc làm thất lạc giấy vận chuyển đài thọ”.

Quy định này của điều lệ nhằm mục đích bảo vệ tài sản Nhà nước, do đó người hoặc cơ quan có tên trong giấy vận chuyển và trên các kiện hàng không được vì bất cứ một lý do nào mà từ chối không nhận hàng, kể cả trường hợp người gửi hàng gửi nhầm hàng hoặc nhầm tên. Người hay cơ quan có tên trong giấy vận chuyển và trên các kiện hàng buộc phải nhận hàng, bảo quản hàng chu đáo rồi liên hệ với người gửi hàng giải quyết sau.

Người hay cơ quan nhận hàng chỉ có quyền từ chối không nhận nếu tên và địa chỉ ghi trên các kiện hàng không phù hợp với tên và địa chỉ của mình. Đối với trường hợp này, bên vận tải phải chịu trách nhiệm về sự lầm lẫn hàng hóa.

Trường hợp bên vận tải làm mất hay thất lạc giấy vận chuyển (bản mang theo hàng) thì:

- Hai bên căn cứ vào bản giấy vận chuyển của chủ hàng gửi cho chủ nhận hàng mà lập biên bản trả hàng và nhận hàng.

- Nếu bản giấy vận chuyển của chủ hàng gửi cho chủ nhận hàng chưa đến tay chủ nhận hàng hoặc cũng bị mất hay thất lạc, nhưng tên và địa chỉ ghi trên các kiện hàng đúng với tên và địa chỉ của người hay cơ quan mà bên vận tải mang hàng đến, thì người hay cơ quan này có trách nhiệm phải nhận hàng hóa mà lập biên bản giao nhận.

Trong trường hợp này, bên vận tải có trách nhiệm phải gửi gấp giấy vận chuyển đến cho người nhận hàng. Chỉ khi có giấy vận chuyển và sau khi đã đối chiếu biên bản trả hàng, nhận hàng với giấy vận chuyển mà không có gì trở ngại thì hai bên mới được coi là đã giao nhận chính thức xong hàng hóa.

Đoạn cuối của điều 17 còn quy định: “Sau 30 phút kể từ khi xe đến mà không tìm được người nhận hàng để trả, bên vận tải yêu cầu Ủy ban hành chính địa phương nhận hàng và bảo quản, mọi phí tổn về việc này do bên chủ hàng đài thọ”. Như thế có nghĩa là gặp những trường hợp này, Ủy ban hành chính địa phương có nhiệm vụ nhận hàng thay cho chủ hàng, tổ chức bảo quản hàng hóa rồi giao lại cho chủ giải phóng nhanh, đồng thời tránh phải vận chuyển hàng hóa trở về trả cho chủ gửi, gây lãng phí vận tải và lỡ kế hoạch của địa phương. Việc dỡ hàng do bên vận tải phụ trách nếu là ở bến xe vận tải đã có tổ chức lực lượng xếp dỡ của cơ quan giao thông vận tải, nếu không phải bến xe vận tải thì Ủy ban hành chính tổ chức việc dỡ hàng, mọi phí tổn do chủ hàng đài thọ.

4. Nguyên tắc giao nhận hàng hóa

Điều 18 của điều lệ quy định: “… hàng hóa nhận để chở đi theo nguyên tắc nào thì khi trả cũng theo nguyên tắc ấy, nghĩa là nhận theo số lượng thì trả theo số lượng, nhận theo trọng lượng thì trả theo trọng lượng…”

Để nguyên tắc giao nhận quy định trên đây thực hiện được tốt, ngay từ khi giao dịch ký hợp đồng, bên chủ hàng phải căn cứ vào tính chất của từng loại hàng mà cùng với bên vận tải quy ước cách giao nhận và ghi vào hợp đồng: theo số lượng, trọng lượng, thể tích hoặc vừa số lượng vừa trọng lượng kết hợp v.v… Nhưng để tránh những khó khăn có thể có cho chủ hàng thì, trong trường hợp thật bất đắc dĩ, quy ước này có thể được tiến hành vào lúc bên chủ hàng làm giấy xin xe và giấy xin gửi hàng và sau khi hai bên đã thỏa thuận thì phải ghi rõ quy ước vào giấy vận chuyển.

Khi bên vận tải trả hàng, người nhận hàng cũng phải căn cứ vào quy ước mà chủ gửi đã thỏa thuận với bên vận tải mà nhận hàng. ví dụ: trong giấy vận chuyển ghi là hàng giao nhận theo số lượng kiện thì người nhận cũng phải căn cứ vào số lượng kiện mà nhận, chứ không được yêu cầu bên vận tải mở kiện hàng ra để đếm hoặc cân, đong hàng rồi mới nhận.

Nếu hàng hóa đóng gói hoặc để vào thùng, bao bì, v.v… mà có gắn xi, cặp chì, niêm phong thì khi bên vận tải nhận hàng chở đi cũng như khi trả hàng cho chủ nhận, bên vận tải và bên chủ hàng căn cứ vào xi, chì niêm phong mà giao nhận, đồng thời kiểm tra trạng thái bên ngoài của kiện. Nếu xi, chì niêm phong nguyên vẹn và trạng thái bên ngoài bao kiện tốt thì coi như đã giao nhận đủ. Nếu xi, chì niêm phong mất dấu hoặc không nguyên vẹn, hai bên phải lập biên bản, trường hợp cần thiết phải tổ chức kiểm tra ngay tại chỗ hàng hóa trong bao kiện.

5. Kiểm tra hàng hóa khi giao nhận

Kiểm tra hàng hóa trước khi giao nhận hàng là một yêu cầu quan trọng đối với chủ hàng và bên vận tải, nhằm mục đích đề cao tinh thần trách nhiệm bảo vệ tài sản của Nhà nước, đồng thời cũng để làm chứng lý phân định rõ trách nhiệm của mỗi bên nếu có vấn đề hư hỏng, mất mát hàng hóa hay hư hỏng phương tiện vận tải phải giải quyết sau này. Hàng đóng gói, đóng bao, đóng kiện, hàng rời, hàng lẻ, hàng có cặp chì, gắn xi, niêm phong v.v… đều phải được hai bên vận tải và chủ hàng kiểm tra kỹ trước khi giao nhận với nhau như đã quy định ở điều 20 của điều lệ. Dưới đây Bộ hướng dẫn thêm một số điểm cụ thể.

Bên vận tải chỉ làm giấy vận chuyển hàng sau khi đã kiểm tra hàng hóa. Việc kiểm tra phải tiến hành có mặt chủ hàng và bên vận tải. Hàng đóng gói, đóng bao, đóng kiện, thì kiểm tra số lượng bao kiện và trạng thái bên ngoài. Nếu hàng có cặp chì, gắn xi thì kiểm tra trạng thái bên ngoài, đồng thời phải kiểm tra xi, chì. Trong hai trường hợp này, bên vận tải không chịu trách nhiệm về số lượng và chất lượng hàng hóa đựng bên trong. Hàng dễ vỡ, kỵ nước, hàng là chất dễ nổ, dễ bốc cháy, v.v… thì phải kiểm tra dấu hiệu, hình vẽ trên từng kiện.

Sau khi kiểm tra, nếu thấy bao, bì, thùng, hòm không bảo đảm an toàn trong khi vận chuyển thì bên vận tải yêu cầu bên chủ hàng sửa chữa. Nếu bên chủ hàng không sửa chữa thì bên vận tải có quyền từ chối không nhận chở. Tuy vậy, nếu sau khi chủ hàng đã kiểm tra lại thùng, hòm, bao bì có cam đoan rằng có thể vận chuyển được, chủ hàng bằng lòng ghi cam đoan vào giấy vận chuyển thì bên vận tải vẫn nhận chở, trừ trường hợp vận chuyển hàng hóa nguy hiểm và hàng hóa cần có sự chăm sóc đặc biệt. Trong trường hợp này, bên vận tải sẽ không chịu trách nhiệm nếu những hàng hóa nói trên bị hư hỏng trong quá trình vận chuyển, vì nguyên nhân bao bì, thùng, hòm không tốt gây nên.

Kiểm tra hàng hóa trước khi nhận hàng chở đi là nhiệm vụ của bên vận tải để bảo vệ hàng hóa, để bảo vệ phương tiện. Tuy vậy, việc đóng gói chắc chắn, dán ký mã hiệu, dấu hiệu là nhiệm vụ chính của chủ hàng, nên nếu khi kiểm tra bên vận tải không phát hiện hết các hiện tượng sai sót của chủ hàng về đóng gói, ký mã hiệu, dấu hiệu, do đó hàng hóa hoặc phương tiện bị hư hỏng trong quá trình vận chuyển thì bên chủ hàng vẫn phải chịu trách nhiệm nếu các hư hỏng này không do lỗi của bên vận tải gây ra.

Sau khi kiểm tra, nếu chủ hàng phải sửa chữa thùng, hòm, bao, kiện, giấy tờ v.v… làm cho xe phải chờ đợi quá 30 phút chưa tiến hành được việc xếp hàng lên xe thì chủ hàng phải trả phí tổn chờ đợi cho bên vận tải.

Ngược lại, khi trả hàng, người nhận hàng của bên chủ hàng cũng phải kiểm tra hàng hóa cho chu đáo. Nếu thấy hàng hóa không đủ, có hiện tượng bao bì không tốt v.v… thì lập biên bản, bên vận tải cùng ký nhận để làm tài liệu giải quyết sau này. Người nhận hàng chỉ ký nhận vào giấy vận chuyển là đã nhận hàng sau khi đã kiểm tra chính xác hàng hóa.

Trường hợp chủ hàng không có người đi áp tải, bên vận tải còn có nhiệm vụ phải kiểm tra hàng ở dọc đường để sửa chữa lại hoặc để có biện pháp giải quyết trong những trường hợp cần thiết, như hàng hóa bị xô lệch, thùng, hòm, bao bì bị hư hỏng bất thường, v.v… Các phí tổn về việc này, bên nào có lỗi thì bên đó phải đài thọ (ví dụ: hàng bị xô lệch thì bên phụ trách xếp hàng lên xe phải chịu trách nhiệm), trừ trường hợp hàng khai không đúng sự thật thì bên chủ hàng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Thông tư 08-TT-1964 hướng dẫn thi hành Điều lệ vận chuyển hàng hóa bằng ô-tô (ban hành do Nghị định 195-CP-1963) do Bộ Giao thông vận tải ban hành

  • Số hiệu: 08-TT
  • Loại văn bản: Thông tư
  • Ngày ban hành: 18/06/1964
  • Nơi ban hành: Quốc hội
  • Người ký: Dương Bạch Liên
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Số 27
  • Ngày hiệu lực: 03/07/1964
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra