Hệ thống pháp luật

Chương 1 Thông tư 08-TT-1964 hướng dẫn thi hành Điều lệ vận chuyển hàng hóa bằng ô-tô (ban hành do Nghị định 195-CP-1963) do Bộ Giao thông vận tải ban hành

Chương I

NGUYÊN TẮC CHUNG

1. Phạm vi áp dụng của điều lệ

Điều 1 của điều lệ quy định: “Bản điều lệ này áp dụng cho tất cả các loại ô-tô dùng vào việc chuyên chở hàng hóa có mục đích kinh doanh vận tải chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp: xe của các xí nghiệp vận tải quốc doanh, công tư hợp doanh, các xe chủ lực của các cơ quan, xí nghiệp khác.

Các xe của các tổ chức khác, kể cả các xe vận tải của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang, khi vận chuyển hàng thuê cũng thuộc phạm vi áp dụng điều lệ này”.

Các xe chủ lực của các cơ quan, xí nghiệp khác, các xe của các tổ chức khác, kể cả các xe vận tải của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang thuộc phạm vi áp dụng điều lệ này nói trên đây là chỉ các xe do cơ quan giao thông vận tải điều động hay phân phối hàng để vận chuyển.

2. Các nguyên tắc về thuê chở và nhận chở.

Về nguyên tắc thuê chở và nhận chở, khoản a và khoản e của điều 2 trong điều lệ quy định:

“a) Thuê chở có thể thuê cả chuyến xe, thuê chở hàng lẻ hoặc thuê chở khoán từng khối lượng hàng nhất định.

e) Đối với những loại hàng quý, không có giá trên thị trường, khi làm giấy gửi hàng, bên chủ hàng phải khai giá. Giá hàng khai phải phù hợp với biểu giá hàng hóa của Nhà nước. Trong trường hợp hàng gửi không có trong biểu giá của Nhà nước thì giá khai do hai bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì do Hội đồng vật giá quyết định…”

Để các khoản a và e trên đây thi hành được tốt, đáp ứng được yêu cầu đặc biệt của chủ hàng, đồng thời phù hợp với hoàn cảnh vận chuyển bằng ô-tô hiện nay, Bộ hướng dẫn thêm một số điểm cụ thể như sau:

- Ngoài các hình thức thuê chở quy định ở khoản a trên đây, chủ hàng cũng có thể thuê chở theo hình thức tấn xe/giờ, tấn xe/cây số.

Việc thuê chở và nhận chở hàng lẻ chỉ tiến hành ở những nơi mà bên vận tải đã có tổ chức nhận chở hàng lẻ và đã được các cơ quan giao thông vận tải cấp tỉnh công bố.

Trường hợp chủ hàng thuê chở khoán từng khối lượng hàng nhất định thì việc bố trí về xe (số lượng, trọng tải, kích thước của xe…) do bên vận tải quyết định để bảo đảm vận chuyển hết hàng, đúng thời hạn như hợp đồng đã ký kết giữa hai bên.

- Trường hợp hai bên không thỏa thuận về giá thành khai thì chủ hàng yêu cầu Hội đồng vật giá quyết định, phí tổn do chủ hàng đài thọ.

3. Trách nhiệm của bên vận tải và bên chủ hàng đối với công tác vận chuyển hàng hóa.

Khoản c, đều 3 của điều lệ quy định: “Hai bên vận tải và chủ hàng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những việc làm mà mình đã ủy quyền cho người đại diện trong việc thực hiện hợp đồng…”.

Trong quan hệ giao dịch về hợp đồng và vận chuyển hàng hóa thì các thủ trưởng của các đơn vị chủ hàng và các đơn vị vận tải là người có trách nhiệm đối với trước pháp lý, cho nên nếu bên nào muốn ủy quyền chính thức cho một người khác đại diện cho mình thì thủ trưởng đơn vị phải ký vào giấy ủy quyền và đóng dấu cơ quan. Người được ủy quyền đại diện phải là người có đủ tư cách và chức vụ đại diện cho thủ trưởng. Người được ủy quyền tuyệt đối không được ủy quyền lại cho một người nào khác. Tuy vậy, không hạn chế bên chủ hàng và bên vận tải giới thiệu những cán bộ thường qua lại giao dịch với nhau để chuẩn bị cho những quan hệ chính thức của hai bên.

Đối với bên vận tải, người đại diện cho xí nghiệp vận tải trên dọc đường vận chuyển là người lái xe. Nếu bên vận tải ủy quyền cho một cán bộ khác đại diện cho xí nghiệp mình trên dọc đường vận chuyển thì phải tìm giấy ủy quyền hợp lệ như đã nói trên đây.

Thủ trưởng của các đơn vị vận tải và các đơn vị chủ hàng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những hành động của người đại diện mà mình đã ủy quyền nếu họ gây ra những trở ngại cho việc thực hiện hợp đồng vận tải như khoản c, điều 3 trong điều lệ của Hội đồng Chính phủ đã quy định.

4. Những hàng hóa không nhận chở và vận chuyển hàng hóa quá khổ và quá nặng.

Điều 5 của điều lệ quy định:

“Bên vận tải có quyền không nhận chở những loại hàng hóa sau đây:

a)……………………………………..

b) Hàng hóa đã có lệnh của Nhà nước cấm chuyên chở ngược chiều.

c) Hàng hóa cần có thiết bị đặc biệt để bảo đảm an toàn và bảo đảm phẩm chất mà bên vận tải không có loại thiết bị ấy, trừ trường hợp bên chủ hàng có khả năng cung cấp thiết bị.

d)……………………………………….

Điều 6 của điều lệ quy định.

“Đối với những hàng hóa quá khổ hoặc quá nặng vượt kích thước hoặc quá mức trọng tải của các loại xe mà bên vận tải hiện có, hoặc vượt quá mức chịu đựng của đường, cầu, phà trong vùng cần vận chuyển, bên chủ hàng cần bàn bạc trước mười ngày đến một tháng với cơ quan giao thông vận tải hoặc bên vận tải nơi hàng đi. Nếu bên vận tải nơi hàng đi không tìm được biện pháp giải quyết thì báo cáo với cơ quan giao thông vận tải cấp trên. Nếu là xí nghiệp vận tải thì báo cáo lên Ty hay Sở Giao thông vận tải”.

Bộ giải thích cụ thể hai điều 5 và 6 trên đây như sau:

- Bên vận tải có quyền không nhận chở những hàng hóa đã có lệnh của Nhà nước cấm chuyên chở ngược chiều. Nhưng nếu có lệnh vận chuyển của Thủ tướng Chính phủ, của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải (nếu vận chuyển trong phạm vi toàn quốc), của Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (nếu vận chuyển trong phạm vi địa phương), thì bên vận tải được phép nhận chở. Trong trường hợp này, hàng vận chuyển ngược chiều coi như hàng đột xuất và bên chủ hàng phải trả thêm cho bên vận tải 2% tiền cước quy định ở điều 7 của điều lệ.

- Đối với việc vận chuyển những hàng hóa cần có thiết bị đặc biệt để bảo đảm an toàn và bảo đảm phầm chất mà bên vận tải cũng như bên chủ hàng không có loại thiết bị đó, thì bên chủ hàng cần bàn bạc trước từ mười ngày đến một tháng với bên vận tải, như đối với trường hợp vận chuyển hàng quá khổ và quá nặng quy định ở điều 6 của điều lệ. Nếu sau khi đã bàn bạc kỹ với nhau mà không tìm được biện pháp giải quyết khó khăn thì bên vận tải mới được từ chối không nhận chở.

- Hàng hóa quá khổ và quá nặng quy định ở điều 6 trong điều lệ là những khối hàng đặc biệt, không thể tháo rời hoặc phân chia được. Nếu xí nghiệp vận tải hoặc cơ quan giao thông vận tải nơi hàng đi không tìm được biện pháp bảo đảm vận chuyển thì phải báo cáo lên Cục Vận tải đường bộ và Bộ Giao thông vận tải giải quyết để bảo đảm kế hoạch hàng hóa cho bên chủ hàng. Các chi phí cần thiết (như để cải tiến phương tiện vận tải, tăng cường cầu, phà v.v…) do bên chủ hàng đài thọ. Trường hợp này bên chủ hàng cũng có nhiệm vụ đem hết khả năng của mình để cùng cộng tác với xí nghiệp vận tải và cơ quan giao thông vận tải lo liệu việc vận chuyển những loại hàng khó khăn này.

5. Trường hợp vận chuyển đột xuất.

Điều 7 trong điều lệ của Hội đồng Chính phủ quy định:

a) Bên vận tải chỉ nhận vận chuyển những trường hợp đột xuất có tính chất khẩn cấp khi có lệnh của Thủ tướng Chính phủ, của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải hay của các Ủy ban hành chính các khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, như cứu đói, cứu mùa màng, chống bão lụt, chống dịch, chống hạn, hoặc phục vụ nhiệm vụ an ninh và quốc phòng.

b) Trong những trường hợp vận chuyển đột xuất khác, bên vận tải chỉ nhận chở nếu có khả năng hoặc khi có lệnh của thủ tướng Chính phủ, của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải hoặc của Ủy ban hành chính các khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nhưng bên chủ hàng phải trả thêm cho bên vận tải một khoản tiền bằng 2% giá cước vận chuyển…”.

Để giải quyết các trường hợp vận chuyển đột xuất quy định trên đây đúng với tinh thần của điều lệ, Bộ giải thích thế nào là vận chuyển đột xuất.

Căn cứ theo thể lệ hiện hành của Chính phủ thì hàng năm, hàng quý, hàng tháng bên chủ hàng phải gửi kế hoạch vận chuyển hàng hóa cho bên vận tải và hai bên phải cùng nhau ký hợp đồng vận tải đúng theo chế độ hợp đồng kinh tế đã được Chính phủ quy định. Do đó, nếu bên chủ hàng không chấp hành đúng thể lệ mà yêu cầu bên vận tải vận chuyển thì coi là vận chuyển đột xuất. Tuy nhiên, tinh thần của điều 7 trên đây là nhằm mục đích đưa công tác vận chuyển hàng hóa đi vào kế hoạch và chế độ hợp đồng, như đồng thời cũng là nhằm mục đích bảo đảm vận chuyển những trường hợp cần thiết. Trong thực tế hiện nay, việc lập kế hoạch vận tải và việc ký kết hợp đồng vận tải còn có những trường hợp cần được châm chước, cho nên việc áp dụng điều 7 trên đây vào thực tế cần phải linh hoạt và thích ứng với hoàn cảnh. Vậy, tạm thời Bộ xác định những hàng hóa vận chuyển trong những trường hợp sau đây:

- Hàng hóa không nằm trong chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước và không có hợp đồng vận tải mà bên chủ hàng xin vận chuyển.

- Hàng hóa đã có chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước, nhưng bên chủ hàng không chấp hành đúng chế độ ký kết hợp đồng vận tải mà xin vận chuyển, làm xáo trộn kế hoạch của bên vận tải.

Còn những trường hợp sau đây thì không coi là hàng hóa vận chuyển đột xuất:

- Hàng hóa đã có chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước, không có hoặc chưa có hợp đồng vận tải nguyên tắc nhưng có hợp đồng vận tải cụ thể.

- Hàng hóa không có chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước, không có hợp đồng nguyên tắc, nhưng hai bên chủ hàng và vận tải đã cùng nhau thỏa thuận ký hợp đồng vận tải cụ thể.

- Hàng hóa mà bên chủ hàng đã chính thức gửi kế hoạch dự trù lên cấp trên, và đã gửi kế hoạch cho bên vận tải nhưng Nhà nước chưa duyệt và cấp trên chưa ký hợp đồng vận tải nguyên tắc hoặc chưa phân bổ kế hoạch mà hai bên đã có ký hợp đồng cụ thể (đoạn cuối của điều 8 trong điều lệ).

- Hàng hóa thuê vận chuyển hàng năm với khối lượng dưới 10T, mỗi chuyến từ 4T trở xuống.

- Hàng hóa vận chuyển kết hợp hai chiều.

Hàng hóa vận chuyển đột xuất trong những trường hợp khẩn cấp như quy định ở khoản a điều 7 của điều lệ thì không phải trả thêm 2% giá cước vận chuyển.

Hàng hóa vận chuyển đột xuất trong những trường hợp khác thì phải trả thêm 2% giá cước vận chuyển như đã quy định ở khoản b điều 7 của điều lệ.

Để bảo đảm điều 7 trên đây được thi hành đúng với tinh thần của điều lệ. Bộ giải thích và quy định thêm một số điểm cụ thể như sau:

- Đối với việc vận chuyển đột xuất trong phạm vi toàn quốc (trường hợp khẩn cấp cũng như những trường hợp không khẩn cấp), lệnh đột xuất do Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ban hành.Lệnh của Thủ tướng Chính phủ do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải và các Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung tương thi hành. Lệnh của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải để huy động xe thuộc quyền quản lý các địa phương do các Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thi hành và do ông Cục trưởng Cục Vận tải đường bộ thi hành nếu những xe huy động thuộc quyền quản lý của Bộ Giao thông vận tải (Cục Vận tải đường bộ).

- Đối với việc vận chuyển đột xuất khẩn cấp trong phạm vi một địa phương, Ủy ban hành chính các khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ra lệnh cho các đơn vị vận tải ô-tô thuộc quyền quản lý của địa phương mình thi hành. Nếu xe thuộc quyền quản lý của địa phương không đủ để phục vụ thì các Ủy ban hành chính có quyền ra lệnh cho xe của các đơn vị xí nghiệp vận tải trực thuộc Bộ Giao thông vận tải đóng tại địa phương mình hoặc xe của các địa phương khác, của các Bộ, các cơ quan trung ương đang hoạt động tại địa phương mình hoặc đang đi ngang qua địa phương mình nhưng phải báo cáo cho Bộ Giao thông vận tải (Cục Vận tải đường bộ), cho Ủy ban hành chính các địa phương khác các Bộ, các cơ quan trung ương có xe phải thi hành lệnh khẩn cấp biết bằng điện. Lệnh vận chuyển đột xuất khẩn cấp phải do Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Ủy ban hành chính ký.

Trong những trường hợp vận chuyển đột xuất khẩn cấp, bên vận tải được miễn trách nhiệm đối với các chủ hàng khác nếu vì thi hành lệnh mà không hoàn thành hợp đồng đúng thời hạn hoặc gây ra các tổn thất khác mà không do lỗi của bên vận tải. Nếu phải dỡ dàng hàng xuống để tập trung xe thì Ủy ban hành chính ra lệnh huy động có nhiệm vụ lo liệu việc dỡ hàng, bảo quản hàng hóa và sau khi xe đã hoàn thành kế hoạch khẩn cấp thì Ủy ban hành chính ra lệnh phải tổ chức xếp lại hàng lên xe, kể cả việc huy động xe theo lệnh của Thủ tướng Chính phủ và của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Cước phí và phụ phí vận tải cũng như các phí tổn về các công việc nói trên do cơ quan có hàng vận chuyển đột xuất hoặc cơ quan ra lệnh thanh toán.

Trong trường hợp vận chuyển đột xuất khác trong phạm vi địa phương mà không có tính chất khẩn cấp như đã quy định ở khoản a của điều 7 trong điều lệ thì Ủy ban hành chính các khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ ra lệnh huy động xe các xí nghiệp và đơn vị vận tải thuộc quyền quản lý của địa phương. Nếu cần huy động xe của các xí nghiệp vận tải trực thuộc trung ương đóng tại địa phương mình thì phải thương lượng với Bộ Giao thông vận tải (Cục Vận tải đường bộ), không được huy động xe của các địa phương khác đang hoạt động trong địa phương mình hoặc đang đi ngang qua địa phương mình. Lệnh này phải do Chủ tịch, Phó chủ tịch hoặc Ủy ban hành chính ký. Cước phí và phụ phí vận tải do cơ quan có hàng vận chuyển đột xuất thanh toán.

Đây là một vấn đề rất quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến kế hoạch vận tải và kế hoạch lưu thông hàng hóa chung. Bộ đề nghị Ủy ban hành chính các khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khi ra lệnh cần cân nhắc kỹ, đặc biệt là đối với những trường hợp đột xuất không khẩn cấp, để tạo điều kiện cho công tác vận tải đi vào kế hoạch, hạn chế hết sức những ảnh hưởng không lợi đến việc thực hiện kế hoạch vận chuyển chung và gây khó khăn cho bên vận tải.

Các chủ hàng cần đề cao tinh thần trách nhiệm đối với nhiệm vụ lập kế hoạch vận tải, nhiệm vụ chấp hành chế độ hợp đồng kinh tế mà hết sức tránh những trường hợp yêu cầu bên vận tải vận chuyển đột xuất, gây xáo trộn kế hoạch của bên vận tải.

Thông tư 08-TT-1964 hướng dẫn thi hành Điều lệ vận chuyển hàng hóa bằng ô-tô (ban hành do Nghị định 195-CP-1963) do Bộ Giao thông vận tải ban hành

  • Số hiệu: 08-TT
  • Loại văn bản: Thông tư
  • Ngày ban hành: 18/06/1964
  • Nơi ban hành: Quốc hội
  • Người ký: Dương Bạch Liên
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Số 27
  • Ngày hiệu lực: 03/07/1964
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra