Hệ thống pháp luật

Chương 2 Thông tư 08-TT-1964 hướng dẫn thi hành Điều lệ vận chuyển hàng hóa bằng ô-tô (ban hành do Nghị định 195-CP-1963) do Bộ Giao thông vận tải ban hành

Chương II

THỦ TỤC GIẤY TỜ CẦN THIẾT CHO VIỆC VẬN CHUYỂN

Trong việc giao dịch vận chuyển hàng hóa, việc làm các thủ tục và các giấy tờ cần thiết theo quy định của điều lệ là một vấn đề hết sức cần thiết. Nó là cơ sở pháp lý để ràng buộc bên chủ hàng và bên vận tải phải có trách nhiệm với nhau, đồng thời nó cũng là cơ sở pháp lý để đề cao tinh thần trách nhiệm của bên vận tải và bên chủ hàng đối với việc thực hiện kế hoạch vận tải, kế hoạch lưu thông hàng hóa của Nhà nước. Cho nên việc làm các thủ tục, các giấy tờ cần thiết là phải bảo đảm đúng đắn và đầy đủ những điều lệ đã quy định. Ngoài ra chủ hàng và bên vận tải có thể thỏa thuận những điều quy ước riêng, nhưng không được trái với các nguyên tắc chung, mà ghi thêm vào hợp đồng và giấy vận chuyển. Những điều hai bên đã thỏa thuận ghi thêm cũng có giá trị pháp lý thuộc hai bên phải thi hành.

1. Ký kết hợp đồng vận tải

Điều 8 của điều lệ quy định rằng: “Sau khi Bộ Giao thông vận tải đã ký hợp đồng vận tải nguyên tắc với các Bộ chủ hàng và các cơ quan giao thông vận tải địa phương đã phân bổ kế hoạch vận tải cho các xí nghiệp vận tải, thì hai bên chủ hàng và vận tải phải cùng nhau ký hợp đồng vận tải cụ thể đúng theo thể lệ và chế độ hợp đồng vận tải hiện hành.

Trong trường hợp đặc biệt mà cấp trên chưa ký được hợp đồng nguyên tắc hoặc chưa có kế hoạch phân bổ thì hai bên vận tải và chủ hàng vẫn phải tiến hành ký các hợp đồng cụ thể để phục vụ kịp thời việc thực hiện kế hoạch Nhà nước. Việc ký hợp đồng này dựa trên sự thỏa thuận của hai bên. Trong trường hợp này bên chủ hàng không trả thêm 2% đã nói ở điều 7”.

Hai bên chủ hàng và vận tải phải cùng nhau ký hợp đồng vận tải cụ thể đúng theo thể lệ và chế độ hợp đồng vận tải hiện hành nói ở trên đây có nghĩa là:

- Nếu cả hai bên chủ hàng và vận tải đều là cơ quan Nhà nước, xí nghiệp quốc doanh hoặc công tư hợp doanh đã thực hiện hạch toán kinh tế thì phải theo đúng các quy định của Nghị định số 004-TTg ngày 04-01-1960 và Thông tư số 90-TTg ngày 06-4-1960 của Thủ tướng Chính phủ.

- Nếu một bên là hợp tác xã, công tư hợp doanh chưa thực hiện hạch toán kinh tế, các tổ chức nhân dân khác hay tư nhân thì phải theo các quy định của Chỉ thị số 103-TTg ngày 18-3-1961 của Thủ tướng Chính phủ. Mỗi khi cần vận chuyển, các chủ hàng này không buộc phải lập kế hoạch với bên vận tải, nhưng phải thương lượng với bên vận tải trước mười ngày. Trong mọi trường hợp thuê vận chuyển hàng hóa, các chủ hàng này không phải trả thêm 2% tiền cước quy định ở điều 7 của điều lệ.

Để bảo đảm cho việc ký kết hợp đồng cụ thể. Cục vận tải đường bộ và các Sở, Ty Giao thông vận tải các địa phương phải kịp thời phân bổ ngay các khối lượng hàng hóa của Bộ Giao thông vận tải đã ký hợp đồng nguyên tắc với các Bộ, các cơ quan chủ hàng ở trung ương.

Trong thời hạn năm ngày sau khi nhận được khối lượng hàng hóa do cấp trên phân bổ, các xí nghiệp vận tải ô-tô làm ngay các bản hợp đồng cụ thể gửi đến các chủ hàng.

Đối với những tháng đầu năm, nếu Nhà nước chưa kịp phân bổ chỉ tiêu kế hoạch hoặc hợp đồng nguyên tắc cấp trên chưa kịp ký như nói ở đoạn cuối điều 8 của điều lệ, các xí nghiệp vận tải ô-tô vẫn phải dựa trên kế hoạch chủ hàng đã chính thức gửi lên cấp trên và gửi cho bên vận tải (điều 5 trong bản quy định về công tác lập kế hoạch vận tải do Quyết định số 65-CP ngày 17-4-1964 của Hội đồng Chính phủ ban hành) mà làm các bản hợp đồng cụ thể gửi đến các chủ hàng trong thời gian năm ngày kể từ ngày mùng một tháng giêng năm đó.

Nếu bên chủ hàng không có gì kiến nghị lại thì trong vòng năm ngày kể từ ngày nhận được bản hợp đồng phải ký gửi lại cho bên vận tải. Nếu có kiến nghị thì cũng trong thời hạn năm ngày kể từ khi nhận được hợp đồng của bên vận tải, bên chủ hàng phải gửi kiến nghị lại cho bên vận tải.

Trường hợp chủ hàng có kiến nghị thì chủ hàng phải chủ động gặp bên vận tải để cùng nhau bàn bạc. Chậm nhất là sau 15 ngày, kể từ khi bên chủ hàng nhận được hợp đồng của bên vận tải, hai bên phải ký xong hợp đồng.

Nếu sau 15 ngày kể từ ngày bên chủ hàng nhận được dự thảo hợp đồng do bên vận tải gửi đến, hai bên không ký được hợp đồng cụ thể mà lỗi do bên chủ hàng thì bên vận tải có quyền chỉ nhận vận chuyển hàng của bên chủ hàng theo như quy định của điều 7 trong điều lệ, nếu lỗi do bên vận tải gây nên thì bên vận tải phải chịu xử lý về trách nhiệm như quy định của chế độ xử lý về hợp đồng kinh tế của Nhà nước.

Trường hợp ký hợp đồng quý mà không ký hợp đồng tháng thì hàng tháng, hai bên phải gặp nhau để phân bổ khối lượng hàng trong tháng ra mười ngày để làm giấy xin xe, xin gửi hàng và chuẩn bị xe.

Nếu chủ hàng chỉ thuê chở một khối lượng hàng từ 4 tấn trở xuống hoặc thuê chở kết hợp hàng hai chiều thì không bắt buộc phải ký hợp đồng vận tải. Nhưng đối với trường hợp thứ nhất, chủ hàng phải thương lượng trước với bên vận tải và phải làm đầy đủ các thủ tục cần thiết như quy định ở điều 10 và điều 11 của điều lệ. Trường hợp này, giấy vận chuyển được coi như là hợp đồng vận tải và bên chủ hàng không phải trả thêm 2% giá cước vận chuyển quy định ở khoản b điều 7 của điều lệ.

Trường hợp ký hợp đồng cụ thể thuê vận chuyển trong lúc cấp trên chưa ký được hợp đồng nguyên tắc hoặc chưa phân bổ kế hoạch quy định ở đoạn cuối điều 8 nói trên, thì khối lượng vận chuyển này sẽ tính trừ vào khối lượng thuê vận chuyển sau khi đã có chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước công bố, mà cơ quan giao thông vận tải sẽ phân bổ cho các xí nghiệp vận tải. Nếu chủ hàng không thi hành đúng như quy định ở đoạn cuối điều 8 trong điều lệ và như đã quy định trong thông tư này, nghĩa là không ký hợp đồng vận tải mà yêu cầu vận chuyển, thì coi như là vận chuyển đột xuất nói ở khoản b điều 7 trong điều lệ.

2. Hủy bỏ và sửa đổi hợp đồng vận tải

Về việc hủy bỏ và sửa đổi hợp đồng sau khi đã được ký kết, điều 9 trong điều lệ quy định rằng nếu chỉ một bên chủ hàng hay vận tải là cơ quan Nhà nước, xí nghiệp quốc doanh hoặc công tư hợp doanh đã thực hiện hạch toán kinh tế “thì phải thi hành đúng theo Chỉ thị số 103-TTg ngày 18-3-1961 của Thủ tướng Chính phủ” nghĩa là việc hủy bỏ hoặc sửa đổi dựa trên cơ sở thương lượng thỏa thuận giữa hai bên. Tuy nhiên, để tránh trở ngại cho bên kia, bên xin hủy bỏ hoặc sửa đổi hợp đồng phải báo cho bên kia biết 48 tiếng đồng hồ trước ngày giờ bắt đầu thực hiện hợp đồng.

Điều 9 của điều lệ còn quy định: “Việc xin hủy bỏ hợp đồng và xin sửa đổi hợp đồng làm thay đổi luồng hàng hoặc giảm bớt khối lượng hàng hóa coi như là không hoàn thành hợp đồng”. Ví dụ:

1. Hai bên đã ký hợp đồng vận tải 100 tấn hàng, nếu bên nào xin hủy hợp đồng thì coi như là không thực hiện toàn bộ hợp đồng.

2. Chủ hàng ký hợp đồng với bên vận tải vận chuyển đi khu IV 100 tấn hàng, nay sửa lại đi khu IV 50 tấn, đi Tây Bắc 50 tấn, như vậy cũng coi như là không hoàn thành hợp đồng 50 tấn.

Những quy định này không áp dụng đối với trường hợp hủy bỏ và sửa đổi hợp đồng do điều chỉnh chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước như đã quy định ở đoạn cuối của điều 9 trong điều lệ, hoặc các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước phê chuẩn không phù hợp với hợp đồng cụ thể đã ký trong lúc kế hoạch Nhà nước chưa được duyệt, cấp trên chưa ký hợp đồng nguyên tắc như đã quy định ở đoạn cuối của điều 8 trong điều lệ, hoặc việc xin hủy bỏ và điều chỉnh hợp đồng đã được hai bên thỏa thuận và không ảnh hưởng đến việc thực hiện chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước như đã quy định trong chế độ hợp đồng kinh tế hiện hành của Nhà nước.

3. Làm giấy xin xe, giấy xin gửi hàng, giấy vận chuyển

Bên chủ hàng làm giấy xin xe, giấy xin gửi hàng như quy định ở điều 10 của điều lệ và đúng theo các quy định của Thông tư số 04-TT ngày 14-5-1964 của Bộ Giao thông vận tải. Dưới đây, Bộ hướng dẫn thêm một số điểm cụ thể:

Thời hạn làm giấy xin xe, làm giấy xin gửi hàng nói ở điều 10 trên đây của điều lệ không áp dụng đối với trường hợp vận chuyển hàng đột xuất quy định ở điều 7 của điều lệ và trường hợp vận chuyển hàng kết hợp hai chiều nói trong thông tư này.

Bên vận tải, sau khi đã nhận hàng thì làm giấy vận chuyển hàng như quy định ở điều 11 của điều lệ và đúng theo các quy định của Thông tư số 04-TT nói trên của Bộ Giao thông vận tải.

Sau khi đã làm xong giấy vận chuyển và đã giao giấy vận chuyển cho bên chở hàng thì trách nhiệm bảo quản hàng hóa bắt đầu thuộc về bên vận tải cho tới khi trả xong hàng nếu việc dỡ hàng do bên vận tải phụ trách, hoặc cho tới khi xe mang hàng đến địa điểm trả hàng nếu việc dỡ hàng do bên chủ hàng phụ trách.

4. Các giấy tờ khác

Điều 12 của điều lệ này quy định:

“a) Đối với những loại hàng, theo luật lệ hiện hành, phải chịu sự kiểm soát của các cơ quan chuyên trách có thẩm quyền thì bên chủ hàng phải đính theo giấy gửi hàng các giấy tờ kiểm soát của các cơ quan này. Nếu chủ hàng không làm đúng thì phải chịu trách nhiệm về các hậu quả do việc thiếu giấy tờ hợp lệ nói trên gây ra…

b) Bên vận tải phải có đầy đủ giấy tờ hợp lệ về mặt giao thông vận tải. Nếu làm không đúng thì phải chịu trách nhiệm về các hậu quả do việc thiếu giấy tờ gây nên…”

Các giấy tờ khác phải đính theo giấy xin gửi hàng quy định ở khoản a điều 12 trên đây là những giấy tờ cần thiết cho việc kiểm soát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với hàng hóa vận chuyển, như: giấy phép lưu thông, giấy kiểm dịch, biên lai thuế v.v… Nếu bên chủ hàng không làm đúng thì khi nhận giấy xin gửi hàng, khi nhận hàng chở đi hoặc trong quá trình vận chuyển, nếu bên vận tải phát hiện được thì bên vận tải có quyền đòi bên chủ hàng phải cung cấp đầy đủ giấy tờ. Nếu bên chủ hàng không cung cấp thì bên vận tải có quyền từ chối không nhận chở. Trường hợp cần thiết, bên vận tải có quyền đình chỉ vận chuyển, báo cáo với cơ quan có thẩm quyền đình chỉ vận chuyển, báo cáo với cơ quan có thẩm quyền xử lý. Mọi phí tổn do bên chủ hàng đài thọ. Bên vận tải được thu toàn bộ cước phí và phụ phí vận tải, nếu hàng đó bị dỡ xuống dọc đường. Trường hợp giấy tờ cần thiết không có hoặc thiếu, hoặc không hợp lệ mà bên vận tải không phát hiện được thì bên chủ hàng vẫn phải chịu trách nhiệm về các hậu quả do việc thiếu trách nhiệm của mình gây ra như đã quy định ở khoản a, điều 12 của điều lệ.

Bên vận tải cũng phải có đầy đủ các giấy tờ hợp lệ về mặt giao thông vận tải như: giấy đăng ký xe, giấy phép xe chạy, giấy phép lái xe v.v… Nếu vì thiếu các giấy tờ này làm ảnh hưởng đến vận chuyển, đến hàng hóa như trả hàng chậm, hàng bị hư hỏng, giảm phẩm chất vì xe bị nhà chức trách của Nhà nước giữ lại quá thời hạn vận chuyển, thì bên vận tải cũng phải chịu trách nhiệm và phải bồi thường thiệt hại cho bên chủ hàng như quy định ở khoản b, điều 12 nói trên.

Thông tư 08-TT-1964 hướng dẫn thi hành Điều lệ vận chuyển hàng hóa bằng ô-tô (ban hành do Nghị định 195-CP-1963) do Bộ Giao thông vận tải ban hành

  • Số hiệu: 08-TT
  • Loại văn bản: Thông tư
  • Ngày ban hành: 18/06/1964
  • Nơi ban hành: Quốc hội
  • Người ký: Dương Bạch Liên
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Số 27
  • Ngày hiệu lực: 03/07/1964
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra