Để sử dụng toàn bộ tiện ích nâng cao của Hệ Thống Pháp Luật vui lòng lựa chọn và đăng ký gói cước.
Nếu bạn là thành viên. Vui lòng ĐĂNG NHẬP để tiếp tục.
BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 10610/BKHĐT-ĐTNN | Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2023 |
Kính gửi: Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Căn cứ quy định tại Điều 92 và Điều 93 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có công văn số 4155/BKHĐT-ĐTNN ngày 01 tháng 6 năm 2023 hướng dẫn các Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng Chương trình xúc tiến đầu tư (XTĐT) năm 2024. Trên cơ sở báo cáo, đề xuất của UBND các địa phương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến về chương trình xúc tiến đầu tư năm 2024 như sau:
1. Đánh giá kết quả thực hiện chương trình XTĐT 11 tháng năm 2023
1.1. Kết quả hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài nói chung
Trong những tháng đầu năm 2023, tình hình thế giới tiếp tục chịu nhiều khó khăn, bất ổn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, dịch bệnh COVID-19 và các dịch bệnh mới phát sinh ảnh hưởng xấu đến kinh tế toàn cầu, xung đột địa chính trị tại Châu Âu tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Nền kinh tế toàn cầu đối mặt với cuộc khủng hoảng lớn nhất kể từ những năm 1970. Theo đó, nguy cơ suy thoái kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến triển vọng thu hút đầu tư nước ngoài (ĐTNN) của Việt Nam... Nhiều tập đoàn đa quốc gia tái cơ cấu chuỗi sản xuất và hạn chế hoạt động đầu tư mới do triển vọng tăng trưởng toàn cầu suy giảm, trong khi chi phí đầu tư tiếp tục tăng cao[1]. Bên cạnh đó, việc các nước tiến tới áp dụng quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu sẽ làm mất đi vai trò của những hình thức ưu đãi truyền thống (như ưu đãi về thuế, đất đai...) trong cạnh tranh thu hút ĐTNN.
Trước tình hình đó, với những chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương đã thực hiện đồng bộ, linh hoạt nhiều giải pháp để phục hồi, phát triển kinh tế, tạo động lực cho thu hút đầu tư. Ở cấp trung ương, các Bộ, ngành đã chủ động bám sát các nội dung, hoạt động đối ngoại của Lãnh đạo cấp cao để thúc đẩy thu hút, xúc tiến các nguồn lực đầu tư nước ngoài. Đặc biệt đẩy mạnh hợp tác về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực điện tử, công nghệ cao, chíp bán dẫn và chuyển đổi số...
- Tính đến 20/11/2023, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà ĐTNN đạt gần 28,85 tỷ USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 20,25 tỷ USD, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm 2022. Lũy kế đến ngày 20/11/2023, cả nước có 38.844 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 462,4 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 294,2 tỷ USD, bằng 63,6% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
- Vốn đầu tư mới và số dự án đầu tư mới trong 11 tháng năm 2023 duy trì được mức tăng khá cao so với cùng kỳ, lần lượt tăng 42,4% và 58,1%. Số dự án mới tập trung nhiều vào các tỉnh, thành phố có nhiều lợi thế trong thu hút ĐTNN (cơ sở hạ tầng tốt, nguồn nhân lực ổn định, nỗ lực cải cách thủ tục hành chính và năng động trong công tác xúc tiến đầu tư,...) như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bắc Ninh, Bình Dương. Riêng 4 địa phương này đã chiếm tới 67,4% số dự án mới của cả nước trong 11 tháng.
- Vốn thực hiện lũy kế của các dự án ĐTNN ước đạt gần 294,2 tỷ USD, bằng 63,6% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
- Vốn đầu tư điều chỉnh dù vẫn giảm so với cùng kỳ song mức giảm đã được cải thiện hơn. Dù giảm về vốn, song số dự án điều chỉnh vốn vẫn duy trì mức tăng so với cùng kỳ (tăng 15,9%), khẳng định niềm tin của các nhà đầu tư vào môi trường đầu tư của Việt Nam và tiếp tục đưa ra các quyết định mở rộng dự án hiện hữu.
- Để củng cố niềm tin và có các giải pháp kịp thời đối với khu vực ĐTNN, Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì các Hội nghị với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài vào tháng 4 và tháng 10 năm nay nhằm lắng nghe các ý kiến và đưa ra các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, cũng như nắm bắt cơ hội hợp tác đầu tư trong tình hình mới.
- Các tổ chức quốc tế vẫn tiếp tục đánh giá tích cực về môi trường đầu tư của Việt Nam như: (1) Theo kết quả khảo sát của JETRO, Việt Nam là địa điểm hấp dẫn đầu tư đứng thứ 2 trên thế giới và đứng thứ 1 khu vực Châu Á; (2) Theo khảo sát của EuroCharm thì Việt Nam thuộc Top 5 điểm đến đầu tư toàn cầu; (3) Nikkei Asia đánh giá Việt Nam dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về đà phục hồi sau đại dịch COVID-19 (đứng thứ 8 thế giới). Theo Báo cáo Hạnh phúc Thế giới của Liên Hợp quốc, chỉ số hạnh phúc của Việt Nam cũng tăng 12 bậc từ 77 năm 2022 lên 65 năm 2023.
- Năm 2023 đánh dấu sự trở lại của nhiều đoàn doanh nghiệp tới từ các quốc gia như Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Đài Loan, Châu Âu.. đến tìm hiểu môi trường và cơ hội đầu tư tại các địa phương. Điều này cho thấy Việt Nam vẫn là địa điểm đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư đến từ Châu Á, các đối tác đầu tư truyền thống vẫn chiếm tỷ trọng lớn về tổng vốn đầu tư (Singapore, Hồng Kông, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan). Riêng 6 đối tác này đã chiếm gần 81% tổng vốn đầu tư của cả nước trong 11 tháng.
1.2. Kết quả thực hiện hoạt động XTĐT của các Bộ, ngành, địa phương
a. Kết quả đạt được
Một số địa phương đã đạt được bứt phá trong năm 2023, tạo được một làn sóng đầu tư trên địa bàn như Quảng Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thành phố Hà Nội, Nghệ An... Bên cạnh đó, các địa phương như Thái Bình, Hưng Yên, Hà Nam, Bình Phước, Tây Ninh đã tạo xây dựng nền tảng kết nối với các nhóm, cộng đồng doanh nghiệp để thúc đẩy thu hút, xúc tiến đầu tư trong thời gian tới.
Các địa phương đã chủ động, tích cực triển khai thực hiện công tác xúc tiến đầu tư theo hướng đổi mới tổ chức như: (i) Tổ chức các sự kiện quảng bá môi trường đầu tư, kết nối đầu tư, kết hợp hội nghị XTĐT lớn theo địa bàn, kết hợp với các Hội nghị công bố quy hoạch của tỉnh, vùng; (ii) Tổ chức các đoàn XTĐT trọng điểm tại một số quốc gia là đối tác đầu tư lớn, tập trung vào các lĩnh vực tiềm năng năng (công nghệ cao, công nghệ thông tin, dịch vụ chất lượng cao,...); (iii) Chủ động tiếp cận, hỗ trợ các Tập đoàn, doanh nghiệp lớn đang có kế hoạch mở rộng đầu tư/đầu tư mới; ký kết các biên bản hợp tác với các đối tác đầu tư lớn; (iv) Xây dựng các ấn phẩm, tài liệu, phim ảnh phục vụ hoạt động XTĐT; (v) Tăng cường triển khai các hoạt động XTĐT tại chỗ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp đang đầu tư trên địa bàn, hỗ trợ doanh nghiệp, nhà đầu tư trước, trong và sau khi cấp phép nhằm sớm hồi phục sau dịch Covid và đẩy mạnh sản xuất.
Trong quá trình tổ chức, nhiều địa phương đã có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đại diện XTĐT tại các địa bàn để triển khai các hoạt động thiết thực, hiệu quả.
b. Một số tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả nêu trên, công tác XTĐT của các địa phương vẫn tồn tại một số bất cập:
(i) Hoạt động XTĐT của một số địa phương vẫn chưa thực sự được điều hành hiệu quả, gắn kết với quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch phát triển địa phương và các quan điểm, mục tiêu tại Quyết định số 667/QĐ-TTg ngày 02/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2030.
(ii) Công tác XTĐT còn chưa đồng đều giữa các địa phương, phụ thuộc nhiều vào vai trò của người lãnh đạo đứng đầu. Các hoạt động XTĐT chưa phải là kết quả của quá trình xây dựng kế hoạch khoa học, chuyên nghiệp, có tính thực tiễn và hiệu quả, kể cả các địa phương đạt kết quả thu hút đầu tư cao.
(iii) Công tác chuẩn bị các điều kiện thu hút đầu tư tại các địa phương vẫn chưa đồng bộ, kể cả các địa phương có công tác XTĐT năng động do vướng mắc về thể chế, chính sách, quy định pháp luật về đất đai, năng lượng, lao động... Đội ngũ cán bộ thực hiện công tác XTĐT nhiệt tình nhưng chưa thực sự chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu thực tế.
(iv) Hoạt động XTĐT tại chỗ, giải quyết khó khăn của các nhà đầu tư tại một số địa bàn chưa được chú trọng, hiệu quả còn hạn chế, việc xử lý vướng mắc của nhà đầu tư chưa kịp thời, vẫn còn địa phương chưa chủ động đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư bên cạnh một số địa phương làm rất tốt như Thái Bình, Nghệ An...
(v) Một số địa phương chưa thực sự vào cuộc, dẫn đến tình trạng khó khăn của nhà đầu tư chậm được tiếp nhận và giải quyết triệt để, thủ tục hành chính tại một số địa phương vẫn còn phức tạp, rườm rà. Chưa có sự thống nhất về cách thức xử lý giữa các địa phương, dẫn đến việc nhà đầu tư cùng thực hiện dự án tại nhiều địa phương lại phải thực hiện các yêu cầu khác nhau, không thống nhất, từ đó làm giảm niềm tin của nhà đầu tư.
(vi) Hệ thống thông tin, số liệu phục vụ thu hút đầu tư tại nhiều địa phương thiếu cập nhật, chưa cung cấp được những số liệu cần thiết về các lĩnh vực, ngành có thế mạnh của địa phương. Việc xây dựng danh mục dự án XTĐT tại một số địa phương còn hình thức, dàn trải, chưa có trọng tâm trọng điểm.
(vii) Việc tổ chức hoạt động XTĐT của một số địa phương vẫn còn hình thức, chưa gắn với quy hoạch phát triển, xuất hiện lại tình trạng các địa phương tổ chức hoạt động XTĐT chồng chéo tại nước ngoài. Nguyên nhân là do chưa thực hiện nghiêm túc quy định về việc phê duyệt Chương trình XTĐT năm 2022 và Báo cáo kết quả thực hiện hoạt động XTĐT năm 2021 theo quy định tại Nghị định số 31/2021/NĐ-CP (Chi tiết tại Phụ lục 1 kèm theo).
(viii) Vẫn còn tình trạng một số địa phương chưa quan tâm đối với công tác báo cáo các xây dựng chương trình XTĐT hàng năm, dẫn đến tình trạng chậm nộp báo cáo hoặc báo cáo chưa đạt yêu cầu (Phụ lục: Báo cáo tình hình xây dựng chương trình XTĐT năm 2024 của các địa phương).
(ix) Chương trình XTĐT tại một số địa phương vẫn còn hình thức, chưa chú trọng vào chất lượng, hiệu quả, chủ yếu dựa vào NSNN, chưa phát huy được các nguồn lực xã hội cho các hoạt động XTĐT.
2. Về chương trình XTĐT năm 2024 của các Bộ, ngành và địa phương
2.1. Định hướng chung
Năm 2024 là năm bản lề thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, định hướng công tác XTĐT theo ngành, vùng và đối tác trong năm 2024 tiếp tục bám sát hướng dẫn tại công văn số 4155/BKHĐT-ĐTNN ngày 01 tháng 6 năm 2023 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Ngoài ra, trước tình hình mới, các địa phương cần cập nhật một số nội dung sau:
(i) Hiện nay, Liên minh châu Âu (EU) đã chính thức áp dụng cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) đối với hoạt động nhập khẩu một số hàng hóa và tiền chất trong sáu lĩnh vực phát thải nhiều carbon gồm xi măng, sắt thép, nhôm, phân bón, điện và hydrogen. Sau CBAM, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc v.v... cũng sẽ áp dụng cơ chế tương tự để thu thuế khí CO2 đối với hàng nhập khẩu. Vì vậy, để tiếp tục duy trì môi trường đầu tư cạnh tranh trong bối cảnh mới, các địa phương nhanh chóng thúc đẩy các chương trình phát triển hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp xanh, sinh thái, chuỗi cung ứng đáp ứng tiêu chuẩn giảm phát thải... để các nhà đầu tư có thể sản xuất các sản phẩm xuất khẩu đáp ứng tiêu chuẩn kinh tế xanh.
(ii) Xây dựng các chương trình kết nối doanh nghiệp địa phương với các chuỗi cung ứng của doanh nghiệp nước ngoài, coi đây là một trong những giải pháp tạo lợi thế cạnh tranh, giữ chân nhà đầu tư, tạo đột phá để thu hút các dự án mới.
(iii) Tiếp tục tập trung xúc tiến các doanh nghiệp của các nhà đầu tư nước ngoài truyền thống như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan, Hồng Kông (Trung Quốc), Hoa Kỳ, Châu Âu... đang có nhu cầu tái cơ cấu chuỗi cung ứng do (i) ảnh hưởng của cạnh tranh thương mại Mỹ - Trung và (ii) lợi thế tạo từ việc Việt Nam gia nhập các Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương.
(iv) Chủ động tiếp cận, hỗ trợ các dự án đầu tư hiện hữu tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư.
(v) Chỉ đạo các cơ quan chức năng tại địa phương đẩy nhanh xử lý các thủ tục về đầu tư kinh doanh; triển khai các dịch vụ hành chính công điện tử cho các nhà đầu tư.
(vi) Rà soát các khu công nghiệp để chuẩn bị quỹ đất sạch sẵn sàng đón làn sóng ĐTNN. Đồng thời, đẩy mạnh nâng cấp cơ sở hạ tầng đồng bộ (điện, nước, hạ tầng giao thông vận tải, viễn thông, logistic...) để tạo ưu thế cạnh tranh thu hút đầu tư trong dài hạn.
2.2. Về Chương trình XTĐT năm 2024 của các địa phương và cách thức thực hiện
a) Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến nhận xét về Chương trình XTĐT năm 2024 của từng địa phương tại Phụ lục kèm theo.
b) Một số lưu ý về cách thức thực hiện để các địa phương rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện: (i) Lưu ý thực hiện quy định tại Điểm a, Khoản 2, Điều 93 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP, UBND cấp tỉnh là cơ quan có thẩm quyền và trách nhiệm gửi dự kiến chương trình XTĐT của năm tiếp theo; các hoạt động phối hợp giữa xúc tiến đầu tư với xúc tiến thương mại, du lịch, ngoại giao kinh tế; Hoạt động xúc tiến đầu tư không sử dụng ngân sách nhà nước [2](ii) thực hiện đúng quy định về biểu mẫu báo cáo[3].
Trên đây là ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về chương trình XTĐT năm 2024, đề nghị Quý UBND nghiên cứu, hoàn thiện chương trình và triển khai thực hiện theo quy định./.
Văn bản kèm theo:
- Phụ lục 1: Tình hình báo cáo kết quả hoạt động XTĐT năm 2023 và phê duyệt chương trình XTĐT năm 2024 của các địa phương
- Phụ lục 2: Ý kiến chi tiết về chương trình XTĐT của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
| KT. BỘ TRƯỞNG |
PHỤ LỤC 1:
TÌNH HÌNH BÁO CÁO KẾT QUẢ CHƯƠNG TRÌNH XTĐT 2022 VÀ PHÊ DUYỆT CHƯƠNG TRÌNH XTĐT 2023 CỦA CÁC ĐỊA PHƯƠNG
(Kèm theo công văn số 10610/BKHĐT-ĐTNN ngày 15 tháng 12 năm 2023)
STT | ĐỊA PHƯƠNG | BÁO CÁO KẾT QUẢ CHƯƠNG TRÌNH XTĐT 2022 | PHÊ DUYỆT CHƯƠNG TRÌNH XTĐT 2023 | GHI CHÚ | ||
SỐ CÔNG VĂN | NGÀY CV | SỐ CÔNG VĂN | NGÀY CV | |||
I | Các tỉnh, thành phố thuộc miền Bắc | |||||
1 | Bắc Giang | 17/UBND-KTN | 30/1/2023 | 208/QĐ-UBND | 26/2/2023 |
|
2 | Bắc Kạn | 871/UBND-GTCNXD | 17/2/2023 | 57/QĐ-UBND | 13/1/2023 |
|
3 | Bắc Ninh | 259/KHĐT-KTĐN | 14/2/2023 | 16/UBND-KTTH | 17/1/2023 |
|
4 | Cao Bằng | 271/BC-UBND | 13/2/2023 | 10/Ctr-UBND | 4/1/2023 |
|
5 | Điện Biên | 265/BC-UBND | 31/1/2023 | 560/QĐ-UBND | 31/3/2023 |
|
6 | Hà Giang | 241/BC-SKHĐT | 14/2/2023 | 330/QĐ-UBND | 7/3/2023 |
|
7 | Hà Nam | 12/BC-UBND | 31/1/2023 | 195/QĐ-UBND | 9/2/2023 |
|
8 | Hà Nội |
|
| 04/Ctr-UBND | 9/2/2023 | Chưa có báo cáo kết quả 2022 |
9 | Hà Tĩnh | 332/SKHĐT-DNĐT | 15/2/2023 |
|
|
|
10 | Hải Dương | 25/BC-UBND | 28/2/2023 | 25/BC-UBND | 28/2/2023 | Gộp chung báo cáo kết quả 2022 và ctrinh 2023 |
11 | Hải Phòng | 296/UBND-KTĐN | 13/2/2023 |
|
| Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023 |
12 | Hòa Bình | 45/BC-UBND | 20/2/2023 | 262/QĐ-UBND | 22/2/2023 |
|
13 | Hưng Yên | 19/BC-UBND | 20/2/2023 | 336/QĐ-UBND | 22/2/2023 |
|
14 | Lai Châu | 518/UBND-TH | 21/2/2023 | 494/Ctr-UBND | 17/2/2023 |
|
15 | Lạng Sơn | 67/BC-UBND | 21/2/2023 | 40/UBND-KT | 11/1/2023 |
|
16 | Lào Cai | 37/BC-UBND | 31/1/2023 | 14/QĐ-UBND | 6/1/2023 |
|
17 | Nam Định | 302/BC-SKH&ĐT | 14/2/2023 | 333/QĐ-UBND | 21/2/2023 |
|
19 | Nghệ An |
|
|
|
| Chưa có báo cáo kết quả 2022, Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023 |
18 | Ninh Bình | 304/KHĐT-TTXTHT | 15/2/2023 | 313/QĐ-UBND | 5/5/2023 |
|
20 | Phú Thọ | 355/UBND-KTTH | 13/2/2023 | 277/QĐ-UBND | 13/2/2023 |
|
21 | Quảng Bình |
|
| 843/QĐ-UBND | 17/4/2023 |
|
22 | Quảng Ninh | 174/BC-KHĐT | 15/1/2023 | 595/QĐ-UBND | 9/3/2023 |
|
23 | Quảng Trị |
|
|
|
| Chưa có báo cáo kết quả 2022, Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023 |
24 | Sơn La | 76/BC-UBND | 28/2/2023 |
|
| Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023 |
25 | Thái Bình | 392/UBND-XTĐT | 17/2/2023 | 472/QĐ-UBND | 10/3/2023 |
|
26 | Thái Nguyên | 306/BC-SKHĐT | 6/2/2023 | 01/Ctr-UBND | 22/2/2023 |
|
27 | Thanh Hóa |
|
|
|
| Chưa có báo cáo kết quả 2022, Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023 |
28 | Tuyên Quang | 62/BC-SKHĐT | 15/2/2023 | 03/Ctr-UBND | 15/2/2023 |
|
29 | Vĩnh Phúc | 348/SKHĐT-KTĐN | 15/2/2023 | 2684/QĐ-UBND | 29/12/2022 |
|
30 | Yên Bái | 62/BC-SKHĐT | 18/1/2023 | 05/QĐ-UBND | 4/1/2023 |
|
II | Các tỉnh, thành phố thuộc miền Trung | |||||
1 | Bình Định | 191/SKHĐT-XTĐT | 3/2/2023 | 623/QĐ-UBND | 3/3/2023 |
|
2 | Đà Nẵng | 1053/UBND-XTĐT | 9/3/2023 | 533/QĐ-UBND | 23/3/2023 |
|
3 | Đăk Lăk |
|
| 622/QĐ-UBND | 31/3/2023 | Chưa có báo cáo kết quả 2022 |
4 | Đăk Nông | 873/UBND-IPEC | 1/3/2023 |
|
| Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023 |
5 | Gia Lai | 112/UBND-KTTH | 13/1/2023 | 11/QĐ-UBND | 13/1/2023 |
|
6 | Huế | 1856/UBND-QHXH | 4/3/2023 | 69/Ctr-UBND | 3/3/2023 |
|
8 | Khánh Hòa | 1818/UBND-KT | 1/3/2023 | 230/QĐ-UBND | 9/2/2023 |
|
7 | Kon Tum | 437/UBND-KTTH | 22/2/2023 | 881/QĐ-UBND | 30/12/2023 |
|
9 | Lâm Đồng | 46/XTĐT-ĐTDN | 15/2/2023 | 181/QĐ-UBND | 31/1/2023 |
|
10 | Phú Yên | 48/BC-SKHĐT | 17/2/2023 | 89/QĐ-UBND | 6/2/2023 |
|
11 | Quảng Nam | 61/BC-SKHĐT | 15/2/2023 | 776/QĐ-UBND | 14/4/2023 |
|
12 | Quảng Ngãi | 130/SKHĐT-XTĐT | 31/3/2023 | 112/QĐ-UBND | 13/2/2023 |
|
III | Các tỉnh, thành phố thuộc miền Nam | |||||
1 | An Giang | 112/BC-UBND | 22/02/2023 | 514/QĐ-UBND | 17/04/2023 |
|
2 | Bà Rịa-Vũng Tàu | 7259/UBND-VP | 12/6/2023 | 1809/QĐ-UBND | 3/8/2023 |
|
3 | Bạc Liêu | 53/BC-UBND | 22/02/2023 | 118/QĐ-UBND | 20/03/2023 |
|
4 | Bến Tre | 904/UBND-TCĐT | 23/02/2023 | 103/QĐ-UBND | 25/01/2023 |
|
5 | Bình Dương | 61/BC-UBND | 13/03/2023 | 1993/QĐ-UBND | 3/8/2023 |
|
6 | Bình Phước |
|
| 88/KH-UBND | 15/03/2023 |
|
7 | Bình Thuận | 52/BC-UBND | 8/3/2023 | 655/QĐ-UBND | 10/4/2023 |
|
8 | Cà Mau | 369/SKHĐT-KTĐN | 17/02/2023 |
|
| Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023 |
9 | Cần Thơ | 656/UBND-KT | 3/3/2023 |
|
| Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023 |
10 | Đồng Nai | 57/BC-UBND | 14/03/2023 |
|
| Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023 |
11 | Đồng Tháp | 156/UBND-KT | 14/02/2023 | 209/KH-UBND | 6/6/2023 |
|
12 | Hậu Giang | 209/UBND-NCTH | 16/02/2023 |
|
| Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023 |
13 | Kiên Giang | 146/BC-TTXTDTTMDL | 24/03/2023 | 66/KH-UBND | 9/3/2023 |
|
14 | Long An | 478/SKHĐT-TT | 13/02/2023 | 1713/QĐ-UBND | 9/3/2023 |
|
15 | Ninh Thuận | 49/BC-UBND | 4/3/2023 | 422/QĐ-UBND | 30/03/2023 |
|
16 | Sóc Trăng | 28/BC-UBND | 15/02/2023 |
|
| Chưa phê duyệt chương trình XTĐT 2023 |
17 | Tây Ninh |
|
| 2029/UBND-ICT | 3/7/2023 | Chưa có báo cáo kết quả 2022 |
18 | Tiền Giang | 290/BC-SKH&ĐT | 15/02/2023 | 865/QĐ-UBND | 17/04/2023 |
|
19 | TP.Hồ Chí Minh |
|
| 3532/UBND-DA | 24/07/2023 |
|
20 | Trà Vinh | 95/BC-SKHĐT | 24/02/2023 | 172/QĐ-UBND | 16/02/2023 |
|
21 | Vĩnh Long | 64/BQ-UBND | 15/03/2023 | 2869/QĐ-UBND | 30/12/2022 |
|
[1] Theo khảo sát vào tháng 1/2023 của Hiệp hội Ngoại thương Hàn Quốc (KITA), trong 1.327 công ty Hàn Quốc có doanh thu ở nước ngoài trên 500.000 USD trong năm 2022, 29,5% quyết định sẽ cắt giảm các khoản đầu tư trong nước, trong khi 27,5% dự định giảm đầu tư ở nước ngoài. Đối với các công ty có quy mô lớn, 43% cho biết sẽ thu hẹp quy mô đầu tư cả trong và ngoài nước.
[2] Theo quy định Điều 95, 96 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP.
[3] Tại Phụ lục C, Thông tư số 03/2021/TT-BKHĐT ngày 09/4/2021 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- 1Quyết định 1314/QĐ-TTg năm 2023 về thành lập Trung tâm Xúc tiến đầu tư và Hỗ trợ doanh nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 2Công văn 8800/VPCP-TCCV năm 2023 về thành lập Trung tâm Xúc tiến đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Lạng Sơn do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 3Quyết định 1725/QĐ-TTg năm 2023 thành lập Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Lạng Sơn do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 1Nghị định 31/2021/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đầu tư
- 2Thông tư 03/2021/TT-BKHĐT quy định về mẫu văn bản, báo cáo liên quan đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam, đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài và xúc tiến đầu tư do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành
- 3Quyết định 667/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2030 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 4Quyết định 2684/QĐ-UBND năm 2022 phê duyệt chương trình Xúc tiến đầu tư năm 2023 của tỉnh Vĩnh Phúc
- 5Quyết định 181/QĐ-UBND phê duyệt Chương trình xúc tiến đầu tư năm 2023 của tỉnh Lâm Đồng
- 6Quyết định 195/QĐ-UBND về Chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của tỉnh Nam Định năm 2023
- 7Chương trình 03/CTr-UBND xúc tiến đầu tư tỉnh Tuyên Quang năm 2023
- 8Quyết định 172/QĐ-UBND về Chương trình Xúc tiến đầu tư tỉnh Trà Vinh năm 2023
- 9Quyết định 208/QĐ-UBND phê duyệt Chương trình xúc tiến đầu tư năm 2023 do tỉnh Bắc Giang ban hành
- 10Quyết định 112/QĐ-UBND về Chương trình xúc tiến đầu tư của tỉnh Quảng Ngãi năm 2023
- 11Quyết định 330/QĐ-UBND phê duyệt Chương trình xúc tiến đầu tư năm 2023 của tỉnh Hà Giang
- 12Quyết định 57/QĐ-UBND về Chương trình Xúc tiến đầu tư tỉnh Bắc Kạn năm 2023
- 13Quyết định 623/QĐ-UBND về Chương trình xúc tiến đầu tư năm 2023 trên địa bàn tỉnh Bình Định
- 14Quyết định 622/QĐ-UBND về Chương trình Xúc tiến đầu tư tỉnh Đắk Lắk năm 2023
- 15Quyết định 776/QĐ-UBND về Chương trình Xúc tiến đầu tư năm 2023 tỉnh Quảng Nam
- 16Quyết định 560/QĐ-UBND phê duyệt Chương trình xúc tiến đầu tư năm 2023, tỉnh Điện Biên
- 17Quyết định 514/QĐ-UBND về Chương trình Xúc tiến đầu tư tỉnh An Giang năm 2023
- 18Quyết định 313/QĐ-UBND về Chương trình xúc tiến đầu tư tỉnh Ninh Bình năm 2023
- 19Quyết định 843/QĐ-UBND phê duyệt Chương trình xúc tiến đầu tư năm 2023 do tỉnh Quảng Bình ban hành
- 20Quyết định 14/QĐ-UBND năm 2023 phê duyệt điều chỉnh Kế hoạch Xúc tiến đầu tư, thương mại và quảng bá du lịch tỉnh Lào Cai giai đoạn 2023-2025
- 21Công văn 4155/BKHĐT-ĐTNN năm 2023 hướng dẫn xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư năm 2024 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành
- 22Quyết định 1314/QĐ-TTg năm 2023 về thành lập Trung tâm Xúc tiến đầu tư và Hỗ trợ doanh nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 23Công văn 8800/VPCP-TCCV năm 2023 về thành lập Trung tâm Xúc tiến đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Lạng Sơn do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 24Quyết định 1725/QĐ-TTg năm 2023 thành lập Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Lạng Sơn do Thủ tướng Chính phủ ban hành
Công văn 10610/BKHĐT-ĐTNN năm 2023 Chương trình xúc tiến đầu tư năm 2024 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành
- Số hiệu: 10610/BKHĐT-ĐTNN
- Loại văn bản: Công văn
- Ngày ban hành: 15/12/2023
- Nơi ban hành: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- Người ký: Nguyễn Thị Bích Ngọc
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: Kiểm tra
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra