- 1Nghị quyết 30c/NQ-CP năm 2011 về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 do Chính phủ ban hành
- 2Luật hợp tác xã 2012
- 3Luật khoa học và công nghệ năm 2013
- 4Luật Đầu tư công 2014
- 5Nghị quyết 60/NQ-HĐND năm 2012 thông qua Chương trình cải cách hành chính tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2012-2020
- 6Nghị quyết 20-NQ/TW năm 2012 về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 7Luật ngân sách nhà nước 2015
- 8Quyết định 3216/QĐ-UBND năm 2015 phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp gắn với chuyển đổi lao động nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
- 9Nghị quyết 57/2016/NQ-HĐND về biện pháp đặc thù thu hút đầu tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
- 10Nghị quyết 27/NQ-CP năm 2017 Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 05-NQ/TW về chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế và Nghị quyết 24/2016/QH14 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 do Chính phủ ban hành
- 11Luật Đầu tư công 2019
- 12Nghị quyết 89/2019/NQ-HĐND về chính sách Hỗ trợ đổi mới công nghệ và phát triển thị trường công nghệ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2020-2025
- 13Nghị quyết 135/2020/QH14 về Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV do Quốc hội ban hành
- 14Nghị quyết 08/2020/NQ-HĐND về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 do tỉnh Vĩnh Phúc ban hành
- 15Nghị quyết 20/2020/NQ-HĐND về chính sách hỗ trợ cơ cấu lại ngành nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho nông dân tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025
- 16Quyết định 118/QĐ-TTg năm 2021 về Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 17Nghị quyết 38/NQ-HĐND năm 2020 về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025
- 18Quyết định 26/2021/QĐ-TTg về danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 19Nghị quyết 56/NQ-HĐND năm 2021 về kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm giai đoạn 2021-2025 do tỉnh Vĩnh Phúc ban hành
- 20Quyết định 687/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 21Nghị quyết 07/2022/NQ-HĐND quy định chính sách vay vốn giải quyết việc làm cho người lao động và hỗ trợ một số chi phí đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2022-2025
- 22Kế hoạch 194/KH-UBND năm 2022 thực hiện Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2030 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
- 1Quyết định 339/QĐ-TTg năm 2013 phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 2Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015
- 3Nghị quyết 05-NQ/TW năm 2016 về chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 4Nghị quyết 24/2016/QH14 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 do Quốc hội ban hành
- 5Quyết định 255/QĐ-TTg năm 2021 phê duyệt Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2025 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 6Nghị quyết 31/2021/QH15 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 do Quốc hội ban hành
- 7Nghị quyết 54/NQ-CP năm 2022 Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 do Chính phủ ban hành
ỦY BAN NHÂN DÂN | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 2971/QĐ-UBND | Vĩnh Phúc, ngày 29 tháng 12 năm 2023 |
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ GẮN VỚI ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2021 - 2030
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
Căn cứ Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 của Chính phủ về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025;
Căn cứ Chương trình hành động số 10-CTr/TU của BCH Đảng bộ tỉnh Vĩnh phúc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng;
Căn cứ ý kiến thống nhất của Ban cán sự Đảng UBND tỉnh;
Theo đề nghị của Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tại văn bản số 2950/SKHĐT-THQH ngày 03/10/2023.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Đề án cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 (Có Đề án sao gửi kèm theo)
Điều 2. Giao Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành và UBND các huyện, thành phố có liên quan tham mưu tổ chức thực hiện Đề án đúng quy định.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Thủ trưởng các sở, ban, ngành; Chủ tịch UBND các huyện, thành phố; các tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
| TM. ỦY BAN NHÂN DÂN |
ĐỀ ÁN
CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ GẮN VỚI ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2021 - 2030
(Kèm theo Quyết định số: 2971/QĐ-UBND ngày 29 tháng 12 năm 2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc)
Phần mở đầu
1. Sự cần thiết và căn cứ xây dựng Đề án Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2030
Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước được thực hiện ngay trong giai đoạn 2011-2020 nhằm đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ mới. Thực hiện nhiệm vụ được nêu tại Nghị quyết số 135/2020/QH14 ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Quốc hội về Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01 tháng 11 năm 2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Ngày 12/11/2021, Quốc hội ra Nghị quyết số 31/2021/QH15 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025. Trong bối cảnh như vậy, việc xây dựng Đề án Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng của tỉnh Vĩnh Phúc là cần thiết nhằm triển khai Nghị quyết số 31, đồng thời tạo điều kiện nhằm thay đổi cơ bản cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tăng trưởng bền vững và hiệu quả trong giai đoạn 2021-2030.
2. Mục tiêu, yêu cầu của Đề án
Tập trung phân tích, đánh giá khách quan, trung thực về những kết quả đạt được, những hạn chế, yếu kém trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế của tỉnh giai đoạn 2011-2020, từ đó đề ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp có tính khoa học, sát với thực tiễn nhằm cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng của tỉnh trong giai đoạn 2021-2030; Tạo nên những thay đổi rõ nét trong mô hình tăng trưởng theo hướng dựa vào tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, nâng cao tính tự chủ và khả năng thích ứng của nền kinh tế trước những biến động bên ngoài, thiên tai, dịch bệnh; tạo lập được nền tảng khoa học công nghệ gắn với nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng, hướng tới đưa nền kinh tế của tiỉnh phát triển dựa vào đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tại bàn: Thực hiện các nội dung nghiên cứu tổng quan, (chính sách, bài học quốc tế, bài học trong nước đã nghiên cứu, hiện trạng phát triển, số liệu thống kê thứ cấp...).
Phần thứ nhất
KẾT QUẢ CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ VÀ ĐÁNH GIÁ MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2011-2020
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁI CƠ CẤU KINH TẾ, MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG VÀ KHUNG ĐÁNH GIÁ CHO TỈNH VĨNH PHÚC
1. Quan niệm về tái cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng
1.1. Tái cơ cấu nền kinh tế
Tái cơ cấu nền kinh tế thường được hiểu là sự tạo ra các động lực, các thức vận hành mới để giải quyết các vấn đề bất cập trong các bộ phận cấu thành của nền kinh tế của mô hình tăng trưởng hiện có nhằm tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực cho tăng trưởng. Mặc dù chưa có một khái niệm chính thống và đầy đủ nhưng phần lớn các nghiên cứu đều cho thấy những nội hàm chủ yếu của tái cơ cấu kinh tế bao gồm:
- Tái cơ cấu theo ngành kinh tế, theo sản phẩm: Đây là kết quả của biến động thị trường, nền kinh tế bắt buộc phải chuyển đổi sang các ngành, sản phẩm mà một quốc gia có khả năng cạnh tranh tốt trên thị trường. Một ví dụ điển hình là khi các nguồn nhiên liệu hóa thạch ngày càng cạn kiệt, nhu cầu của thị trường đối với năng lượng sạch gia tăng, việc chuyển đổi sang các ngành năng lượng thay thế khác như điện mặt trời, điện gió trở lên phổ biến. Bên cạnh việc thúc đẩy do yếu tố thị trường, yếu tố thúc đẩy quan trọng khác là ý chí và quyết tâm chuyển đổi của các bên có liên quan, trong đó có Chính phủ và doanh nghiệp.
- Tái cơ cấu theo vùng/lãnh thổ: Đây là việc hình thành nên các trung tâm kinh tế và tạo ra sự dịch chuyển dân cư từ vùng nông thôn ra thành thị. Việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam và các đặc khu kinh tế trên thế giới là bằng chứng cho sự thay đổi cơ cấu theo vùng/lãnh thổ, là kết quả của sự chuyển dịch tự nhiên với các đặc điểm địa lý thuận lợi hoặc mang theo ý chí lãnh đạo.
- Tái cơ cấu theo hình thức sở hữu: đối với các nước phát triển, hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu tư nhân do tính linh hoạt và hiệu quả của nó. Đối với Việt Nam, việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường thì việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc thực hiện tái cơ cấu. Khuyến khích để tăng dần vai trò của khu vực ngoài nhà nước để tăng tính hiệu quả của thị trường là cần thiết để đạt mục tiêu tăng trưởng trong dài hạn.
- Tái cơ cấu một số bộ phận/khu vực của nền kinh tế: Đây là trường hợp đặc biệt, thực hiện tái cơ cấu với một số bộ phận hoặc khu vực quan trọng của nền kinh tế nhưng lại kém hiệu quả, chưa thể hiện được vai trò của mình. Ví dụ điển hình của Việt Nam là tái cơ cấu đầu tư công hoặc tái cấu trúc hệ thống các tổ chức tín dụng.
- Tái cơ cấu theo chuỗi giá trị: Chuỗi giá trị thể hiện chu trình sản xuất và tiêu thu một sản phẩm, các công đoạn sản xuất này có thể được thực hiện tại nhiều quốc gia khác nhau, tại các nước phát triển, họ tập trung vào các công đoạn có giá trị cao, đòi hỏi vốn đầu tư lớn và trình độ kỹ thuật cao, trong khi tại các nước đang phát triển, chủ yếu là các khâu có giá trị gia tăng thấp, chủ yếu là lắp ráp do nguồn lao động rẻ và dồi dào. Việc tái cơ cấu thể hiện ở chỗ các quốc gia dần tham gia vào các công đoạn cốt lõi hơn trong chuỗi giá trị.
- Tái cơ cấu trong bối cảnh cách mạnh công nghiệp 4.0: Quá trình tái cơ cấu này diễn ra dựa trên nền tảng công nghệ số. Nền kinh tế sẽ được dịch chuyển theo hướng số hóa, tức là ngày càng nhiều các hoạt động kinh tế được diễn ra dựa trên nền tảng công nghệ số. Quá trình tái cơ cấu này không nhất thiết kéo theo tái cơ cấu về ngành, vùng hay sở hữu nhưng sẽ nâng cao năng suất lao động với tốc độ rất nhanh và tạo ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có chất lượng cao hơn nhưng giá rẻ hơn. Việc thực hiện tái cơ cấu trong bối cảnh kinh tế số có thể tạo ra những phương thức mới, phá bỏ những nguyên tắc truyền thống.
1.2. Mô hình tăng trưởng
Mô hình tăng trưởng kinh tế là sự thể hiện một cách khái quát nhất việc kết hợp và phát triển các yếu tố đầu vào (nguồn lực tăng trưởng),thực thi phương thức tăng trưởng kinh tế (thể chế, chính sách, quản trị) nhằm đạt được các mục tiêu tăng trưởng (đầu ra). Theo cách tiếp cận hệ thống này, mô hình tăng trưởng kinh tế bao gồm ba nội dung cơ bản gồm (i) nguồn lực của tăng trưởng, (ii) phương thức tăng trưởng và (iii) mục tiêu tăng trưởng.
Hình 1: Khung khổ phân tích mô hình tăng trưởng kinh tế
Nguồn: Tài liệu văn kiện Đại hội đảng XIII
Trước hết là các nguồn lực của tăng trưởng (đầu vào). Ba nguồn lực cơ bản của tăng trưởng là (i) lao động, (ii) vốn (tiền) và (iii) các yếu tố khác (nhân tố năng suất tổng hợp - TFP). Trong bối cảnh hiện nay khi các nguồn lực về lao động và vốn ngày càng có vai trò thấp hơn so với các nhân tố khác như công nghệ, vốn xã hội, nguồn lực tự nhiên (vị thế địa lý kinh tế hay các nguồn tài nguyên, v.v.), trong từng điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, các yếu tố đầu vào này có thể thay đổi. Ngay trong nội hàm của mỗi yếu tố, các thành phần của nó cũng có sự biến đổi. Ví dụ như trong yếu tố lao động thì số lượng lao động có thể không quan trọng bằng chất lượng đội ngũ lao động hay sự kết hợp giữa các thành viên trong đội ngũ (organization capital).
Phương thức tăng trưởng được hiểu là cách thức mà nền kinh tế sử dụng một cách có hiệu quả nhất các yếu tố đầu vào để đạt được các mục tiêu tăng trưởng của mình. Phương thức tăng trưởng bao gồm các yếu tố thuộc về môi trường vĩ mô như thể chế kinh tế, các chiến lược và chính sách phát triển kinh tế của nhà nước. Chính phủ có thể hỗ trợ trực tiếp hơn các doanh nghiệp xây dựng năng lực cạnh tranh một cách bền vững thông qua các chính sách về đào tạo nguồn nhân lực hay trợ giúp nghiên cứu phát triển (R&D).
Mục tiêu tăng trưởng (đầu ra) bao gồm các mục tiêu ngắn hạn và trung hạn như tốc độ tăng trưởng, cơ cấu tăng trưởng (ngành, sản phẩm, thị trường, lãnh thổ, v.v.) và hiệu quả tăng trưởng. Các mục tiêu này có thể thay đổi phụ thuộc vào chiến lược phát triển của mỗi quốc gia cũng như điều kiện và bối cảnh kinh tế toàn cầu.
Đổi mới mô hình tăng trưởng là quá trình thay đổi cơ bản nội hàm của các yếu tố cấu thành mô hình tăng trưởng. Đổi mới mô hình tăng trưởng có thể là sự cải thiện các yếu tố đầu vào như nâng cao chất lượng nguồn lực, áp dụng công nghệ mới hoặc cải cách thể chế, chế độ sở hữu hoặc đặt mục tiêu về phát triển bền vững ưu tiên. Việc thay đổi mạnh mẽ bất cứ một yếu tố nào trong mô hình đều kéo theo sự thay đổi của các yếu tố khác. Ví dụ nếu quyết định hướng đến mục tiêu tăng trưởng xanh thì cần có sự thay đổi về phương thức tăng trưởng với hệ thống các chính sách xanh, tiếp đó là sự thay đổi các yếu tố đầu vào từ nguyên liệu sản xuất, công nghệ, phương thức quản lý theo hướng xanh hóa.
Tái cơ cấu kinh tế tạo ra sự đổi mới mô hình tăng trưởng và ngược lại. Tầm quan trọng và vai trò của tái cơ cấu kinh tế và đổi mô hình tăng trưởng phụ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh và mục tiêu của quá trình phát triển. Thông thường, sau mỗi cuộc khủng hoảng thì tái cơ cấu kinh tế là yêu cầu cấp bách. Trong bối cảnh ấy, đổi mới mô hình tăng trưởng là một trong những phương thức thực hiện và xác lập những định hướng chiến lược cho tái cơ cấu kinh tế. Mặc dù vậy, trong nhiều trường hợp khác, nền kinh tế có thể vẫn thực hiện tái cơ cấu mà không thay đổi mô hình tăng trưởng. Ví dụ như tái cơ cấu đầu tư công hoặc nhà nước tập trung đầu tư vào những khu vực kém thuận lợi, tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ mà không có sự thay đổi đáng kể trong mô hình tăng trưởng.
Các mô hình tăng trưởng qua các thời kỳ:
- Mô hình tăng trưởng Solow: Là nền tảng của lý thuyết tăng trưởng, còn được gọi là “mô hình kinh tế ngoại sinh”, mô hình kinh tế phụ thuộc vào các yếu tố là vốn, lao động và hiệu quả lao động. Đầu tư tăng lên thì sản phẩm biên sẽ giảm dần. Đầu tư chừng nào còn lớn hơn khấu hao thì có thể tiếp tục tăng, nhưng đến điểm dừng cân bằng trong dài hạn thì việc tăng đầu tư không còn thúc đẩy tăng trưởng nhanh nữa mà hiệu quả của vốn sẽ giảm xuống sản phẩm cận biên giảm dần. Trong bối cảnh lao động sẽ không biến động lớn, sản lượng đầu ra chỉ còn phụ thuộc vào đầu tư và hiệu quả lao động (bao gồm công nghệ, sức khỏe, giáo dục và tay nghề của người lao động). Các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng đều xuất phát từ yếu tố ngoại sinh, mà ngoại sinh thì bị hạn chế, tăng trưởng sẽ theo xu hướng giảm dần.
- Mô hình tăng trưởng nội sinh: mô hình này ra đời sau mô hình tăng trưởng Solow với cách giải thích cho rằng thay đổi công nghệ có thể giúp thay đổi quá trình lợi suất sinh lợi giảm dần khi vốn tăng lên trong mô hình tăng trưởng của Solow. Đối với một nền kinh tế tri thức, lợi nhuận biên sẽ không đổi thay vì giảm dần. Sự khác biệt giữa các quốc gia sẽ phụ thuộc vào sự đầu tư khác nhau vào vốn con người và vốn tri thức.
- Mô hình tăng trưởng dựa trên hiệu quả phân bổ nguồn lực: Từ những năm 2000 trở lại đây, cụm từ phân bổ nguồn lực hiệu quả được đề cập đến trong nhiều nghiên cứu về mô hình tăng trưởng. Phân bổ nguồn lực hiệu quả là việc chuyển đổi từ khu vực có sản phẩm cận biên thấp sang khu vực có sản phẩm cận cao hơn. Theo mô hình này, sự khác biệt trong tăng trưởng giữa các quốc gia đánh giá bằng sự khác biệt về năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) nhưng không nhằm đo lường khác biệt về công nghệ mà để đo lường sự khác biệt năng suất do hiệu quả áp dụng.
- Mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học và đổi mới sáng tạo: đây là sự tổng kết từ nhiều nghiên cứu về đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và phát triển. Mô hình này nhấn mạnh đến một nền sản xuất có sự đổi mới sáng tạo không ngừng để tối đa hóa lợi nhuận. Việc thay đổi phương thức thực hiện không ngừng tạo ra sự tăng trưởng nhanh và lâu dài.
Điểm khác biệt giữa các mô hình là việc xác định vai trò, tầm quan trọng của các yếu tố đầu vào và phương thức tăng trưởng. Đối với mỗi quốc gia, việc lựa chọn yếu tố nào phụ thuộc vào lợi thế cạnh tranh, ý chí lãnh đạo, nhu cầu của thị trường sẽ tạo ra những mô hình tăng trưởng khác biệt và phù hợp riêng.
2. Cơ cấu lại nền kinh tế cả nước giai đoạn 2016-2020
Cơ cấu lại nền kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc được thực hiện trong bối cảnh cả nước thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01 tháng 11 năm 2016 về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08 tháng 11 năm 2016 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020. Triển khai Nghị quyết 05 và Nghị quyết 24, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 21 tháng 02 năm 2017 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện hai Nghị quyết nêu trên.
Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 đề ra 22 mục tiêu cụ thể về cơ cấu lại nền kinh tế đến năm 2020 tập trung vào 5 nhóm nhiệm vụ: (1) Cơ cấu lại ba trọng tâm gồm cơ cấu lại đầu tư công, DNNN và các TCTD; (2) Cơ cấu lại ngân sách nhà nước (NSNN) và khu vực công; (3) Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân trong nước và thu hút hợp lý đầu tư trực tiếp nước ngoài; (4) Hiện đại hóa công tác quy hoạch, cơ cấu ngành và vùng kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, gắn với đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế; (5) Hình thành đồng bộ và phát triển các loại thị trường, gồm thị trường tài chính, thị trường quyền sử dụng đất, thị trường lao động và thị trường khoa học công nghệ. Sau 5 năm thực hiện Kế hoạch, có 18/22 mục tiêu được hoàn thành.[1]
Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 của cả nước đã đi vào thực chất hơn và có nhiều chuyển biến rõ nét. Với quyết tâm và hành động cụ thể của Chính phủ, các cấp, các ngành được nâng cao nhận thức và chủ động tích cực trong việc thực hiện Kế hoạch.
Do đó, hành động thực hiện Kế hoạch trở nên quyết liệt hơn từ Trung ương tới địa phương. Các bộ, ngành, địa phương đã tích cực vào cuộc, bám sát và triển khai các nhiệm vụ, các mục tiêu hầu hết đã được hoàn thành, cơ cấu lại nền kinh tế góp phần quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu kép vừa giữ ổn định kinh tế vĩ mô, vừa kiểm soát lạm phát, vừa thúc đẩy tăng trưởng GDP, tạo thêm các dư địa để giải quyết tốt hơn các nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của người dân. Nhiều chính sách, giải pháp cụ thể, thiết thực được thực thi nhằm đẩy mạnh vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp và khởi nghiệp sáng tạo. Cơ cấu thu hút FDI được điều chỉnh hợp lý hơn với tỷ trọng thu hút phát triển công nghiệp ngày càng tăng, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo trở thành ngành thu hút đầu tư FDI lớn nhất trong các ngành kinh tế.
Các quy định, pháp luật về đầu tư công được sửa đổi, hoàn thiện, lần đầu thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn, số lượng dự án giảm và tập trung cho các dự án quan trọng quốc gia, các dự án hạ tầng thiết yếu, các công trình lớn có tính kết nối, lan tỏa, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế. Hiệu quả đầu tư toàn xã hội tăng với chỉ số ICOR ước khoảng 6,1 giai đoạn 2016-2019, so với 6,3 giai đoạn 2011-2015.[2]
Cổ phần hóa, thoái vốn trong DNNN được đẩy mạnh hơn và được thực hiện một cách công khai, minh bạch, từ đó nguồn vốn khu vực DNNN được thu hẹp, tập trung vào những lĩnh vực then chốt. Cơ cấu lại NSNN đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, cơ cấu thu NSNN thay đổi tích cực, tăng tỷ trọng thu nội địa trong khi giảm tỷ trọng chi thường xuyên và tăng tỷ trọng chi đầu tư, triển khai các biện pháp nâng cao sự chủ động của các địa phương. Bội chi ngân sách và tỷ trọng nợ công trên GDP giảm dần qua các năm, bảo đảm an toàn nợ công, giảm áp lực trả nợ lên NSNN và đảm bảo an toàn tài chính quốc gia.
Đối với nhiệm vụ về hiện đại hóa công tác quy hoạch, cơ cấu lại ngành và vùng kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, gắn với đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, cơ cấu lại ngành công nghiệp đã dịch chuyển theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP từ 21,5% năm 2016 lên 24% năm 2020 với sự dịch chuyển sang các ngành thâm dụng công nghệ.
Công nghiệp năng lượng tái tạo được quan tâm đầu tư; nhiều dự án điện gió, điện mặt trời được khởi công xây dựng và đi vào hoạt động.
Đối với ngành nông nghiệp, chuyển dịch sang các ngành có giá trị gia tăng cao hơn và có thị trường xuất khẩu đa dạng hơn, năng suất lao động nông nghiệp tăng nhanh, bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 6,8%/năm, đóng góp của khoa học và công nghệ đạt trên 30% giá trị gia tăng của sản xuất nông nghiệp.
Cơ cấu lại khu vực dịch vụ theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm, ứng dụng rộng rãi các hình thức dịch vụ hiện đại, như thương mại và thanh toán điện tử; ngân hàng điện tử, giáo dục đào tạo trực tuyến, các loại hình vận tải mới…
Các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế đã được triển khai trên cả nước, tạo điều kiện cho các địa phương cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong giai đoạn 2016-2020.
3. Khung đánh giá tái cơ cấu và mô hình tăng trưởng cho Vĩnh Phúc
Dựa trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn dữ liệu của tỉnh Vĩnh Phúc, xây dựng khung đánh giá mô hình tăng trưởng như sau:
Hình 2: Khung đánh giá mô hình tăng trưởng tỉnh Vĩnh Phúc
Nguồn: Tổng hợp
Các yếu tố đầu vào của tỉnh bao gồm vốn đầu tư, lao động và TFP. Phương thức tăng trưởng được coi là yếu tố đầu vào, là thành phần tạo nên TFP. Kết quả đầu ra bao gồm tăng trưởng, cơ cấu ngành, thu ngân sách và sự cải thiện về chất lượng cuộc sống của người dân.
Căn cứ đánh giá tái cơ cấu nền kinh tế của tỉnh bao gồm:
(i) Việc thực hiện tái cơ cấu theo chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước thông qua:
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020
- Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 19/2/2013 của Thủ tướng chính phủ về Phê duyệt đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020.
- Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 1/11/2016 của Hội nghị lần thứ tư BCH TW Đảng khóa XII về Một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08/11/2016 của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.
- Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12/11/2021 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025;
- Nghị quyết số 54/NQ-CP, ngày 12/4/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 2025;
- Quyết định số 255/QĐ-TTg ngày 25/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 2025.
Tại Vĩnh Phúc, các văn bản thể hiện rõ quyết tâm tái cơ cấu giai đoạn 2016-2020 bao gồm:
- Nghị quyết số 20/NQ-HĐND ngày 14/12/2020 về chính sách hỗ trợ tiếp tục thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho nông dân tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025;
- Nghị quyết số 89/2019/NQ-HĐND ngày 11/12/2019 về việc ban hành chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ và phát triển thị trường công nghệ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2020-2025;
- Nghị quyết số 08/2020/NQ-HĐND ngày 14/12/2020 về việc ban hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021-2025) tỉnh Vĩnh Phúc.
Nội dung đánh giá tái cơ cấu của Vĩnh Phúc bao gồm:
- Tái cơ cấu theo ngành
- Tái cơ cấu theo hình thức sở hữu
II. MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VĨNH PHÚC
1. Đánh giá kết quả tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2020
1.1. Về tăng trưởng kinh tế
Quy mô kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục mở rộng với xu hướng tăng trưởng ổn định, duy trì mức tăng trưởng cao hơn so với mức tăng trưởng chung của cả nước. Tổng sản phẩm trên địa bàn năm 2020 theo giá hiện hành đạt 124.012 tỷ đồng, cao gấp 2,9 lần GRDP năm 2010 (42.686 tỷ đồng) theo giá hiện hành, và cao gấp 1,58 lần so với quy mô của nền kinh tế năm 2015 (đạt 78.644 tỷ đồng), đạt mục tiêu kế hoạch giai đoạn 2016 – 2020 đặt ra (gấp 1,5-2 lần). Đây là thành tích thể hiện sự nỗ lực rất đáng ghi nhận của toàn tỉnh trong 10 năm qua. Năm 2021 đạt 137.368 tỷ đồng và năm 2022 đạt 153.019 tỷ đồng.
Việc mở rộng quy mô nền kinh tế tạo đà cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt khá, mặc dù có sự suy giảm vào năm 2012 (-3,28%) và đặc biệt trong năm 2020, đại dịch Covid-19 đã xuất hiện và bùng phát trên phạm vi toàn cầu, ảnh hưởng nặng nề đến tất cả các lĩnh vực, dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế thế giới nghiêm trọng nhất kể từ sau đại khủng hoảng 1929-1933, trong khi đặc thù của tỉnh với tỷ trọng khu vực vốn đầu tư nước ngoài cao, đã và đang hội nhập sâu rộng, có độ mở lớn, nhưng tính tự chủ và khả năng chống chịu còn hạn chế, nên kinh tế của tỉnh đã chịu ảnh hưởng rất mạnh bởi đại dịch, do đó tăng trưởng năm 2020 chỉ đạt 2,85%.
Theo đó, tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh bình quân 10 năm 2011-2020 đạt 6,55%/năm, trong đó giai đoạn 2011-2025 đạt 6,1%/năm và giai đoạn 2016-2020 tăng 7,01%/năm.
Hình 3: Tăng trưởng GRDP giai đoạn 2011-2020 Vĩnh Phúc và cả nước
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GRDP thời kỳ 2011-2020 của Vĩnh Phúc và các địa phương vùng ĐBSH
Đơn vị: %
Địa phương | 2011-2015 | 2016-2020 | 2011-2020 |
Hà Nội | 6,9 | 6,7 | 6,8 |
Vĩnh Phúc | 6,1 | 7,0 | 6,63 |
Bắc Ninh | 17,0 | 8,1 | 12,4 |
Quảng Ninh | 7,1 | 10,7 | 8,9 |
Hải Dương | 7,7 | 7,6 | 7,6 |
Hải Phòng | 7,1 | 13,9 | 10,4 |
Hưng Yên | 7,5 | 8,3 | 7,9 |
Thái Bình | 6,7 | 8,7 | 7,7 |
Hà Nam | 10,4 | 10,8 | 10,6 |
Nam Định | 6,1 | 7,2 | 6,6 |
Ninh Bình | 7,0 | 8,9 | 7,9 |
Vùng ĐBSH | 7,7 | 8,3 | 8,0 |
Cả nước | 6.12 | 6,14 | 6,19 |
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, mức gia tăng quy mô của nền kinh tế Vĩnh Phúc cũng có những bước tiến vững chắc (mức gia tăng GRDP trên 1% tăng trưởng tăng lên theo các năm), đây chính là cơ sở cho việc đảm bảo điều kiện cần cho cải thiện mức sống dân cư trên địa bàn Tỉnh.
Mức tăng GRDP trên 1 đơn vị phần trăm tăng trưởng của Tỉnh được thể hiện ở bảng số liệu sau:
Bảng 2: Mức tăng GRDP trên 1 đơn vị phần trăm tăng trưởng của Tỉnh
Năm | 2011 | 2012 | 2013 | 2014 | 2015 | 2016 | 2017 | 2018 | 2019 | 2020 |
Mức tăng GRDP trên 1 đơn vị % tăng trưởng | 426.86 | 474.35 | 458.77 | 509.09 | 539.65 | 574.00 | 622.56 | 669.13 | 723.69 | 783.01 |
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc và tính toán của nhóm nghiên cứu
Bảng 3: Kết quả chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế của các Tỉnh Vùng Thủ Đô
| GRDP (giá so sánh), tỷ đồng | GRDP (giá hiện hành), tỷ đồng | Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%) | Thứ hạng về tốc độ tăng trưởng |
Thái Nguyên | 68.778 | 120.192 | 9.21 | 4 |
TP Hà Nội | 660.900 | 968.436 | 7.63 | 8 |
Vĩnh Phúc | 78.233 | 118.958 | 8.1 | 6 |
Bắc Ninh | 120.747 | 199.673 | 1.1 | 10 |
Hải Dương | 81.829 | 127.939 | 8.7 | 5 |
Hưng Yên | 54.635 | 92.854 | 9.57 | 3 |
Hà Nam | 35.139 | 53.772 | 10.6 | 2 |
Hòa Bình | 29.956 | 50.993 | 6.75 | 9 |
Phú Thọ | 44.094 | 63.038 | 7.8 | 7 |
Bắc Giang | 70.996 | 105.517 | 16.4 | 1 |
Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh, thành phố (năm 2019)
Từ kết quả trên có thể thấy, tốc độ tăng trưởng của tỉnh Vĩnh Phúc còn tương đối thấp trong vùng ĐBSH. Về quy mô kinh tế, tỉnh Vĩnh Phúc đứng thứ 6/11 tỉnh vùng ĐBSH, có khoảng cách rất lớn với TP. Hà Nội (chỉ bằng 1/8 lần), Hải Phòng, Quảng Ninh và Bắc Ninh (chỉ bằng ½ lần). Trong khi đó, tăng trưởng của tỉnh thuộc nhóm đứng cuối vùng, chỉ cao hơn so với TP. Hà Nội.
GRDP bình quân đầu người của tỉnh đến năm 2020 đạt 105,5 triệu đồng (tương ứng là 4.552 USD/người), tăng gấp 2,5 lần so với năm 2010 (đạt 42,1 triệu đồng/người) và gấp 1,5 lần so với năm 2015 (72,1 triệu đồng/người) GRDP bình quân đầu người của tỉnh Vĩnh Phúc tương đối cao so với các tỉnh trong vùng ĐBSH, đứng vị trí thứ 5/11 tỉnh/thành phố.
Hình 4: Tăng trưởng GRDP và GRDP bình quân đầu người các tỉnh vùng ĐBSH (%)
Nguồn: Tổng hợp và tính toán theo NGTK tỉnh
- Khoảng cách về GRDP bình quân đầu người giữa tỉnh Vĩnh Phúc và các tỉnh đứng đầu vùng ĐBSH ngày càng doãng rộng. Bắt đầu thời kỳ 2011-2020, GRDP bình quân đầu người của tỉnh Vĩnh Phúc tương đương với các tỉnh Bắc Ninh, Quảng Ninh, Hà Nội, thậm chí cao hơn Hải Phòng nhưng khoảng cách chênh lệch ngày càng lớn, đến năm 2021, GRDP bình quân đầu người của tỉnh Vĩnh Phúc chỉ xấp xỉ 2/3 GRDP bình quân đầu người của tỉnh Quảng Ninh và Bắc Ninh.
Hình 5: GRDP bình quân đầu người giai đoạn 2010-2021 (%)
Nguồn: Tổng hợp từ NGTK địa phương
Chia theo khu vực kinh tế
* Tăng trưởng khu vực NLTS thấp do chịu tác động tiêu cực của dịch bệnh.
Tăng trưởng của khu vực này có dấu hiệu không ổn định trong cả giai đoạn 2011 – 2020 và đặc biệt chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh trong năm 2019. Tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2016-2020 đạt 1,96%/năm, thấp hơn so với giai đoạn 2011-2015 là 3,18%/năm và không đạt được mục tiêu kế hoạch đề ra là 3,5-4%/năm.
* Tăng trưởng khu vực công nghiệp và xây dựng đạt kết quả tích cực, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng kinh tế.
Khu vực công nghiệp và dịch vụ tiếp tục xu hướng đạt kết quả tăng trưởng cao trong giai đoạn 2011-2020, mức tăng trưởng bình quân ước đạt 10,41%/năm, giai đoạn 2016 – 2020 đạt 10,35%/năm cao hơn mức 10,15%/năm của giai đoạn 2011-2015. Kết quả tăng trưởng của khu vực CN&XD vượt xa mục tiêu kế hoạch đề ra là 7-7,5%/năm. Nhóm ngành này cũng đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh, thể hiện ở bảng số liệu sau:
* Khu vực dịch vụ đóng vai trò then chốt thứ hai trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhưng tăng trưởng chậm chạp và không đạt mục tiêu kế hoạch đề ra.
Tăng trưởng của khu vực dịch vụ giai đoạn 2011-2020 đạt 6,63%/năm; giai đoạn 2016-2020 chỉ đạt 6,56%/năm, thấp hơn so với mức tăng trưởng 6,67%/năm giai đoạn 2011-2015, và thấp hơn nhiều so với mục tiêu kế hoạch đề ra là 10,5-11%/năm.
Bảng 4: Điểm phần trăm đóng góp vào tăng trưởng kinh tế Tỉnh
Năm | NN, LN, TS | CN, XD | DV |
2011 | 0,53% | 16,27% | 1,62% |
2012 | -0,26% | 2,46% | 2,96% |
2013 | 0,75% | 5,45% | 1,31% |
2014 | 0,45% | 3,70% | 2,10% |
2015 | 0,33% | 2,77% | 2,06% |
2016 | 0,24% | 4,53% | 2,26% |
2017 | 0,28% | 6,64% | 2,66% |
2018 | 0,32% | 10,00% | 2,42% |
2019 | -0,21% | 7,03% | 2,66% |
2020 | 0,27% | 2,98% | 0,33% |
Nguồn: Cục Thống kê Tỉnh Vĩnh Phúc
1.2. Về thu nhập
GRDP bình quân đầu người tiếp tục tăng trưởng, vượt mức bình quân chung của cả nước. Tính đến 2020, GRDP bình quân đầu người trên địa bàn Tỉnh đạt 105,5 triệu đồng/người (giá hiện hành) (tương đương 4.552 USD), cao hơn so với trung bình cả nước (3.521 USD). Tuy nhiên, kết quả này thấp hơn so với kế hoạch đặt ra năm 2030 (4.800-5.000 USD). Kết quả này là do, 2020 do ảnh hưởng chung của đại dịch Covid-19 nên kết quả GRDP của Tỉnh đạt kết quả không như mong đợi.
Hình 6: GRDP bình quân đầu người Tỉnh Vĩnh Phúc, 2011 – 2020
Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Thu nhập bình quân đầu người ngày một cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người của Tỉnh Vĩnh Phúc có xu hướng tăng nhanh, từ 1.232 triệu đồng năm 2010, tăng lên đến 4.290 triệu đồng vào năm 2020. Từ vị trí thứ 8/11 tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng với mức thu nhập bình quân 1 người 1 tháng đạt 2.860 triệu đồng vào năm 2016, Vĩnh Phúc đã vươn lên đứng thứ 5/11 tỉnh vào năm 2020, vượt mức trung bình của cả nước.
Hình 7. Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng, 2010 – 2020
Đơn vị: Triệu đồng
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Điều tra khảo sát mức sống Hộ gia đình Việt Nam
Bảng 5: Thu nhập bình quân người/ tháng các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng
Tỉnh | 2016 | 2018 | 2020 |
Cả nước | 3.097 | 3.874 | 4.230 |
Đồng bằng sông Hồng | 3.891 | 4.775 | 5.005 |
Hà Nội | 4874 | 5900 | 5981 |
Vĩnh Phúc | 2860 | 3696 | 4290 |
Bắc Ninh | 4308 | 5441 | 5439 |
Hải Dương | 3169 | 3691 | 4388 |
Hải Phòng | 4375 | 5114 | 5199 |
Hưng Yên | 2895 | 3838 | 4043 |
Thái Bình | 2812 | 3546 | 4209 |
Hà Nam | 2826 | 3604 | 4029 |
Nam Định | 3013 | 3382 | 4096 |
Ninh Bình | 2913 | 3771 | 3904 |
Quảng Ninh | 3746 | 4774 | 4539 |
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Điều tra khảo sát mức sống Hộ gia đình Việt Nam
Mặc dù GRDP bình quân đầu người của tỉnh cao hơn nhiều so với mức trung bình của cả nước nhưng tốc độ tăng đang có xu hướng chậm lại và nếu chỉ xem xét thu nhập bình quân của người dân tại địa phương thì lại thấp hơn so với mặt bằng chung của cả nước và thấp hơn nhiều so với mức thu nhập bình quân của vùng Đồng bằng sông Hồng. Điều này cho thấy mặc dù quy mô GRDP của tỉnh tăng lên nhưng thu nhập của người dân lại không tăng trưởng tương xứng với sự mở rộng này. Hiện nay, bài toán thu hẹp khoảng cách giữa thu nhập bình quân đầu người và GRDP bình quân đầu người, đồng thời thu hẹp khoảng cách về thu nhập bình quân đầu người so với các địa phương khác đang là thách thức lớn đối với Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh trong thời gian tới.
Thu nhập của Vĩnh Phúc tăng nhanh so với các tỉnh khác nhưng vẫn trong nhóm thu nhập thấp của vùng. Năm 2020, thu nhập của Vĩnh Phúc vẫn thuộc nhóm thấp khi chỉ đứng thứ 6/11 tỉnh, thành trong vùng ĐBSH; cao hơn khoảng 10% so với mức thu nhập trung bình của cả nước, bằng 85% mức bình quân chung các tỉnh trong vùng, và bằng khoảng 70% thu nhập bình quân của người dân Hà Nội (Hà Nội là địa phương có thu nhập bình quân cao nhất vùng ĐBSH, đạt 6,2 triệu đồng/người/tháng).
Hình 8: Thu nhập bình quân đầu người/tháng các tỉnh vùng ĐBSH năm 2020 (triệu đồng/người/tháng)
Nguồn: TCTK
Trong giai đoạn 2016-2020, chỉ số bất bình đẳng thu nhập tại Vĩnh Phúc đã được cải thiện đáng kể. Chênh lệch thu nhập/người/tháng giữa nhóm thu nhập cao nhất và nhóm có thu nhập thấp nhất đã được co hẹp, từ 6,56 lần vào năm 2016 đã giảm xuống chỉ còn 4,12 lần vào năm 2020. Khi so sánh với các địa phương khác trong vùng Đồng bằng sông Hồng, Vĩnh Phúc thuộc nhóm có mức độ bất bình đẳng thu nhập tương đối thấp, khi mức độ chênh lệch thu nhập giữa nhóm có thu nhập cao nhất và nhóm có thu nhập thấp nhất tại Vĩnh Phúc trong năm 2020 chỉ cao hơn Hải Phòng, Hải Dương và Thái Bình. Trong năm 2021, xu hướng thu nhập của các nhóm bị ảnh hưởng một phần do tác động của đại dịch COVID-19. Chênh lệch giữa 2 nhóm thu nhập cao nhất và thấp nhất tại Vĩnh Phúc năm 2021 đã tăng lên 4,78 lần (đi ngược lại xu hướng giảm của giai đoạn 2016-2020), chủ yếu do thu nhập của nhóm có thu nhập cao nhất vẫn tăng lên khoảng 7,7%, trong khi thu nhập của nhóm có thu nhập thấp nhất lại giảm 7,17% so với năm 2020.
GRDP bình quân đầu người của tỉnh Vĩnh Phúc có sự chênh lệch rất lớn với thu nhập bình quân đầu người của tỉnh. Năm 2020, GRDP bình quân đầu người của tỉnh Vĩnh Phúc là 105,5 triệu đồng/người, nhưng thu nhập bình quân của tỉnh chỉ là 51,48 triệu đồng/người, chỉ bằng 49% GRDP bình quân đầu người. Đây là một hạn chế trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc khi đầu ra được tạo ra không thẩm thấu lại cho người dân Vĩnh Phúc. Mặc dù sự chênh lệch giữa mức thu nhập bình quân đầu người và GRDP bình quân đầu người của tỉnh đã thu hẹp lại trong giai đoạn 2016-2020, từ 44% năm 2016 nhưng vẫn thấp so với mức chênh lệch bình quân vùng là 66%. Đây là hiện tượng khá phổ biến tại các tỉnh có thu hút vốn FDI lớn như Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hải Phòng nhưng vẫn có một số tỉnh tận dụng khá tốt nguồn vốn FDI nhằm nâng cao mức sống của người dân trên địa bàn như TP. Hà Nội, tỷ lệ này là 60%, Hải Dương là 77%. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng chênh lệch này. Đầu tiên là yếu tố thuế, thuế sản phẩm chiếm tỷ trong cao trong GRDP, giai đoạn 2016-2020 bình quân chiếm 28%/năm, cao nhất cả nước. Bên cạnh đó, doanh nghiệp tại Vĩnh Phúc vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa, còn thiếu các doanh nghiệp lớn, việc thuê và sử dụng lao động tại địa phương ở trình độ giản đơn, làm việc chủ yếu trong các doanh nghiệp công nghiệp gia công, lắp ráp không đòi hỏi trình độ lao động cao nên mức thu nhập của người lao động chiếm trong giá trị sản phẩm không cao. Các doanh nghiệp có quy mô lớn sử dụng nhiều lao động tại tỉnh lại chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thuê lao động phổ thông, làm gia công cho nên mức thu nhập trả cho lao động thấp. Trong khi đó, lợi nhuận thu được của các nhà đầu tư nước ngoài lại lớn, thặng dư của nhà sản xuất chuyển về công ty mẹ ở nước ngoài là không nhỏ, chiếm trên 13% GRDP nên làm doãng rộng khoảng chênh lệch giữa giá trị gia tăng được tạo ra và tổng thu nhập chi trả cho người dân địa phương. Thị trường lao động còn thiếu sự cạnh tranh, chưa phát triển hoàn thiện có thể dẫn đến tiếng nói của người lao động còn mờ nhạt, phải chấp nhận mức lương thấp hơn so với năng lực của mình.
1.3. Về thu/chi ngân sách
Tăng trưởng kinh tế tốt đang tạo ra nguồn thu dồi dào cho ngân sách địa phương. Quy mô ngân sách tăng mạnh so với giai đoạn trước. Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đạt 293.699 tỷ đồng trong giai đoạn 2016-2020; tốc độ tăng thu ngân sách bình quân 9,3%/năm, trong đó năm 2020 đạt 70.340 tỷ đồng, gấp 1,4 lần so với năm 2016 (tăng trưởng ngân sách cả nước bình quân giai đoạn này là 4,8%/năm và bình quân của vùng là 8,4%/năm). Quy mô thu ngân sách tăng gấp 2,2 lần so với giai đoạn 2011-2015. Nguồn thu tăng tạo thêm nhiều dư địa sử dụng nguồn ngân sách cho các hoạt động của địa phương.
Cơ cấu nguồn thu có sự thay đổi đáng kể khi ngày càng có nhiều hơn nguồn bổ sung từ ngân sách cấp trên. Cơ cấu nguồn thu có sự thay đổi đáng kể khi tỷ lệ thu cân đối của địa phương giảm dần qua các năm từ 66% trong năm 2016 xuống còn 48% trong năm 2020. Trong khi đó, hỗ trợ từ ngân sách cấp trên có xu hướng tăng từ 14% trong năm 2016 lên 20% trong năm 2020. Giai đoạn 2016-2020, tổng số thu bổ sung từ nguồn ngân sách cấp trên đạt trên 46,79 nghìn tỷ đồng, tỉnh Vĩnh Phúc là tỉnh duy nhất trong vùng ĐBSH có tỷ lệ thu bổ sung từ ngân sách địa phương tăng nhanh trong giai đoạn này cho thấy sự hỗ trợ và quan tâm hơn từ Trung ương đến hoạt động của tỉnh (các tỉnh khác như Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình đều có tỷ lệ nguồn thu hỗ trợ từ ngân sách cao, chiếm từ 30-50% nhưng xu hướng chung là giảm xuống, trong khi nguồn thu trên địa bàn tăng lên nhanh). Từ năm 2018, Vĩnh Phúc có vay ngân sách nhà nước, tuy nhiên tỉ trọng rất nhỏ chỉ khoảng 0,1-0,4%.
Quy mô thu cân đối NSNN (thu NSĐP) mở rộng so với giai đoạn trước nhưng tăng trưởng còn thiếu ổn định. Trong giai đoạn 2016-2020, thu NSĐP đạt 163.222 tỷ đồng, gấp 1,7 lần giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 5%/năm. Thu NSĐP có dấu hiệu tăng chậm lại trong năm 2020 do ảnh hưởng của dịch bệnh, đạt 33.561 tỷ đồng, cao hơn 3% so với năm 2016. Năm 2021, thu NSĐP đạt 33.393 tỷ đồng, giảm 0,5% so với năm 2020 cho thấy hoạt động thu ngân sách của địa phương đang phục hồi trở lại, trong đó chủ yếu do thu nội địa tăng 4% so với cùng kỳ đạt 28.246 tỷ VND. Tỷ lệ huy động từ GRDP vào ngân sách của tỉnh đạt 27% năm 2020, chỉ thấp hơn Hải Phòng, Ninh Bình và Hà Nội trong vùng ĐBSH. Giai đoạn 2016-2019, tỷ lệ huy động này liên tục xếp vị trí đầu trong 11 tỉnh/thành thuộc ĐBSH. Tỉnh Vĩnh Phúc có tỷ trọng thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm tới 25,8% GRDP, tỷ lệ này cao nhất trong vùng ĐBSH và quy mô thuế chỉ thấp hơn so với TP Hà Nội. Tuy vậy, tỷ lệ huy động có xu hướng giảm từ 37,6% trong năm 2016, xuống còn 27,2% trong năm 2020 (chỉ còn xếp thứ 3/11 tỉnh/thành phố trong vùng trong năm 2020 sau Ninh Bình và Hà Nội) và tiếp tục giảm xuống còn 24,5% trong năm 2021.
Cơ cấu thu NSĐP có sự biến động đáng kể, trong đó nguồn thu nội địa có xu hướng giảm. Thu nội địa giai đoạn 2016-2020 đạt 140.933 tỷ đồng, chiếm 86% thu cân đối ngân sách, gấp 1,8 lần thu nội địa giai đoạn 2011-2015. Tỷ trọng thu nội địa trong thu NSĐP có dấu hiệu giảm dần qua từng năm từ mức 90% trong năm 2016 xuống còn 83% trong năm 2020, mặc dù có xu hướng giảm nhưng đây vẫn là tỷ lệ tương đối cao so với các tỉnh trong vùng, đứng thứ 5/11 tỉnh). Trong tổng thu nội địa, hơn 76% là nguồn thu từ doanh nghiệp và cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổng thu từ nguồn này giai đoạn 2016-2020 đạt trên 117 nghìn tỷ đồng. Đây là tỉnh có đóng góp từ nguồn hoạt động sản xuất kinh doanh rất lớn vào nguồn thu nội địa của địa phương, mặc dù giảm mạnh từ mức 90,6% năm 2015 xuống còn 72,8% năm 2021 nhưng đây vẫn là tỷ lệ cao nhất trong toàn bộ vùng ĐBSH và rất cao so với mức 51,4% của cả nước. Bên cạnh nguồn thu chính, các khoản thu một lần như các khoản thu từ nhà đất tăng nhanh từ tỷ trọng chiếm 4% trong năm 2016 lên 13% trong năm 2020 và tiếp tục tăng lên 15% trong năm 2021, đây là khoản thu không bền vững. Một nguồn thu khác khá lớn trong thu cân đối là thu từ hải quan. Tỷ trọng thu từ hải quan tăng 4,2 điểm phần trăm từ 9,9% trên thu cân đối ngân sách địa phương trong năm 2016 lên 14,1% trong năm 2020, chủ yếu đến từ nguồn thu thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu, chủ yếu là các mặt hàng ô tô, linh kiện lắp ráp ô tô, xe máy, linh kiện điện tử,… đạt trên 20,6 nghìn tỷ đồng giai đoạn 2016-2020. Nguồn thu từ hải quan vẫn đạt trên 4,6 nghìn tỷ đồng trong năm 2021, chỉ giảm 1,3% trong năm chịu tác động tiêu cực của COVID-19 cho thấy hoạt động sản xuất phục vụ xuất khẩu ít chịu ảnh hưởng.
Nguồn thu của tỉnh còn thiếu đa dạng và rủi ro. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh vẫn tập trung chủ yếu vào một số ngành công nghiệp thuộc khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt là công nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy. Giai đoạn 2016 2020, thu từ khu vực FDI chiếm khoảng gần 80% tổng thu nội địa trên địa bàn tỉnh (trong đó số thu của 02 công ty Toyota và Honda chiếm trên 90% tổng số thu ở lĩnh vực đầu tư nước ngoài). Tổng thu từ các lĩnh vực khác chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 20% tổng thu nội địa (trong đó thu từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khoảng 4,7%, thu từ doanh nghiệp nhà nước khoảng 1% , các khoản thu từ đất chiến khoảng 4-6%, lệ phí trước bạ 1,2%, thu thuế bảo vệ môi trường 1,4%...). Nguồn thu phụ thuộc vào hoạt động xuất nhập khẩu có xu hướng gặp khó khăn khi Việt Nam tiếp tục lộ trình thực hiện các cam kết giảm thuế trong các hiệp định thương mại tự do. Năm 2017, khi thuế nhập khẩu xe ô tô từ khu vực ASEAN giảm từ 40% xuống còn 30%, các doanh nghiệp sản xuất ô tô chuyển từ lắp ráp trong nước sang nhập khẩu một số dòng xe để hưởng ưu đãi thuế, dẫn tới thu ngân sách từ khu vực FDI giảm hơn 8.000 tỷ so với dự toán đầu năm. Năm 2020, do ảnh hưởng của COVID-19, hai doanh nghiệp Toyota và Honda buộc phải tạm dừng hoạt động trong tháng 3 và tháng 4 để phòng chống dịch dẫn đến nguồn thu thuế sụt giảm.
Bên cạnh đó, việc gián đoạn chuỗi cung ứng trên toàn cầu do các biến động về kinh tế, chính trị và tình trạng thiếu hụt chip bán dẫn ảnh hưởng đến khả năng sản xuất và cung ứng sản phẩm của Honda, công ty này phải giảm sản lượng một số mẫu xe tay ga sản xuất trong nước trong năm 2022 và có thể kéo dài sang các năm tiếp theo. Xu thế chuyển đổi từ xe xăng sang xe điện cũng là một yếu tố dự kiến làm ảnh hưởng đến sản lượng sản xuất của các công ty Honda và Toyota trong khi hai doanh nghiệp này chưa cho thấy khả năng cạnh tranh trong dòng xe điện. Cùng với sự tham gia của các hãng xe nội địa và việc Việt Nam thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan trong khu vực ASEAN và tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới sẽ là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp ô tô, xe máy và dự kiến có thể ảnh hưởng lớn đến nguồn thu của tỉnh Vĩnh Phúc trong tương lai.
Nhờ có nguồn thu tăng, tỉnh Vĩnh Phúc duy trì thặng dư ngân sách và đảm bảo chi ngân sách địa phương. Tổng chi cân đối ngân sách của địa phương trong giai đoạn 2016-2020 đạt 101.690 tỷ đồng, gấp 1,9 lần quy mô chi ngân sách giai đoạn 2011-2015, tăng trưởng bình quân đạt 7,7%/năm. Xu hướng chi ngân sách ngày càng mở rộng, năm 2020, chi cân đối ngân sách nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc là 20.882,8 tỷ đồng, tăng gấp 1,3 lần so với quy mô chi cân đối ngân sách của tỉnh năm 2015.
Trong đó, năm 2020, chi đầu tư phát triển đạt 10.530 tỷ đồng, chiếm 50,4% tổng chi cân đối ngân sách, tăng trưởng bình quân đạt 5,2%/năm. Tỷ trọng chi đầu tư phát triển từ năm 2017-2021 duy trì ổn định trong khoảng 49-50% chi cân đối ngân sách. So sánh với vùng ĐBSH, Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh có tỉ trọng chi đầu tư lớn nhất, chỉ sau Quảng Ninh. Trong giai đoạn này, Vĩnh Phúc đã tập trung hoàn thành hệ thống hạ tầng kỹ thuật với các tuyến đường khung đô thị và giao thông quan trọng cùng với hạ tầng xã hội với nhiều dự án tiêu biểu như: Bệnh viện Sản Nhi, Bệnh viện đa khoa tỉnh giai đoạn I, Chợ Vĩnh Yên,…
Các khoản chi thường xuyên chiếm khoảng 50% chi cân đối ngân sách, tỷ trọng ngày giảm từ mức 54,8% của năm 2019 và tăng bình quân đạt 4,1%/năm giai đoạn 2015-2020. Trong các khoản chi thường xuyên, các khoản chi lớn nhất là cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, mức chi cho hoạt động này đạt trên 3.250 tỷ đồng năm 2020, tăng trưởng bình quân đạt 8,2%/năm giai đoạn 2016-2020, tỷ trọng chi cho hoạt động này có xu hướng tăng nhanh, từ mức 25,9% chi thường xuyên năm 2015 lên 31,5% năm 2020. Tiếp đó là chi hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể, tăng bình quân 4,5%/năm, chiếm khoảng 19-20% chi thường xuyên. Tiếp đó chi sự nghiệp đảm bảo xã hội tăng trưởng bình quân đạt 5,2%/năm, chiếm khoảng 11,4% chi thường xuyên và có xu hướng ngày càng mở rộng. Chi cho sự nghiệp kinh tế và chi sự nghiệp đảm bảo an ninh quốc phòng chiếm tương ứng 11,3% chi thường xuyên, trong đó chi đảm bảo an ninh quốc phòng tăng nhanh, bình quân tăng 8%/năm.
Vĩnh Phúc duy trì được mức thặng dư ngân sách tương đối lớn, bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 16% GRDP của tỉnh,. Năm 2020, thu ngân sách nhà nước của Vĩnh Phúc là 32.593 tỷ đồng, tỉnh tự cân đối được ngân sách và có điều tiết về Trung ương và là một các tỉnh, thành có tỷ lệ điều tiết về ngân sách Trung ương lớn nhất, lên đến 47%, đứng thứ 2 ở miền Bắc sau thành phố Hà Nội và đứng thứ 5 cả nước sau TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương và Đồng Nai.
Cơ cấu chi ngân sách nhà nước của tỉnh chuyển dịch theo hướng hiệu quả hơn khi tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển, giảm tỷ trọng chi thường xuyên. Tuy vậy, tốc độ tăng thu ngân sách còn thiếu ổn định do nguồn thu tập trung chủ yếu vào một số ngành công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là công nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô và xe máy khiến cho nguồn thu ngân sách dù lớn nhưng khá rủi ro. Các khoản thu một lần có xu hướng tăng dần cho thấy sự thiếu bền vững trong cơ cấu nguồn thu.
2. Đánh giá cơ cấu kinh tế
2.1. Cơ cấu ngành
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp xây dựng, trong đó chủ yếu là ngành công nghiệp, cụ thể:
Tỷ trọng giá trị gia tăng ngành CN-XD tăng thêm 5,4 điểm % trong giai đoạn 2016-2020, đến năm 2020, ngành này chiếm tỷ trọng 45,5% và tiếp tục tăng lên 48% năm 2021.
Trong khi tỷ trọng ngành NLTS và DV có xu hướng giảm. Ngành NLTS có tỷ trọng thấp, giảm từ 7,4% năm 2015 xuống còn 6,1% năm 2020, đến năm 2021 còn 5,9%. Tỷ trọng ngành dịch vụ đến năm 2020 là 22,6%, tăng 0,28 điểm % so với năm 2015, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, tỷ trọng của ngành này giảm nhẹ trong năm 2020 và chưa hồi phục trong năm 2021, giảm còn 21,4%.
2.2. Cơ cấu ngành nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp tiếp tục được đẩy mạnh theo hướng tích cực. UBND tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định số 3216/QĐ-UBND ngày 10/11/2015 phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp gắn với chuyển đổi lao động nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Các giải pháp tập trung nhằm cải thiện chất lượng sản phẩm nông nghiệp và đảm bảo tăng trưởng của ngành. Đến năm 2020, quy mô giá trị gia tăng ngành NLTS đạt trên 7,5 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành), đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 1,9%/năm. Đến năm 2020, giá trị sản xuất của ngành NLTS đạt trên 10,4 nghìn tỷ đồng, trong đó, 92% là ngành nông nghiệp, còn lại là lâm nghiệp (1%) và thủy sản (7%).
Sản xuất nông nghiệp có sự chuyển đổi tích cực về cơ cấu với sự tăng lên của tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi từ 52% năm 2015 lên 55,7% năm 2020, trong khi tỷ trọng ngành trồng trọt giảm xuống từ 41,7% xuống còn 38,6%. Đây là xu hướng tích cực khi giá trị vật nuôi lớn hơn và ít chịu ảnh hưởng của yếu tố thời tiết so với giá trị cây trồng.
Cơ cấu chăn nuôi chuyển từ gia súc lớn sang bò sữa, gia cầm và lợn, sản xuất tập trung và sử dụng giống vật nuôi có sản lượng cao hơn. Ngành chăn nuôi phát triển mạnh về số lượng và chất lượng, đặc biệt chăn nuôi lợn, bò sữa và gia cầm đã trở thành thế mạnh của tỉnh, góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Các tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi được áp dụng rộng rãi, nhiều giống gia súc, gia cầm có năng suất, chất lượng tốt được đưa vào sản xuất, đã nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản xuất, tăng giá trị gia tăng. Giá trị sản xuất chăn nuôi tăng bình quân 3,3%/năm giai đoạn 2016-2020, cao so với mức tăng của ngành trồng trọt là 0,4%/năm. Hoạt động chăn nuôi chủ yếu được thực hiện tại các trang trại tập trung, số lượng trang trại chăn nuôi đã tăng từ 628 trang trại năm 2015 lên 690 trang trại năm 2020, chiếm 95% tổng số trang trại của tỉnh.[3]
Trên địa bàn tỉnh đã hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung lớn như: Chăn nuôi lợn ở Lập Thạch, Yên Lạc; chăn nuôi gia cầm ở Tam Dương, Tam Đảo; chăn nuôi bò sữa tại Vĩnh Tường, Lập Thạch, Tam Đảo... Nhiều trang trại đã áp dụng công nghệ cao trong chăn nuôi và liên kết theo chuỗi từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm, trong đó đã xây dựng được 3 mô hình chuỗi liên kết thịt lợn với sản lượng gần 1.000 tấn/năm, thịt gà an toàn 81 tấn/năm và trứng gà sạch khoảng 2,9 triệu quả/năm. Đàn lợn tăng lên trên 636 nghìn con năm 2018 trước khi giảm mạnh về 383,9 nghìn con trong năm 2019 do chịu thiệt hại từ dịch tả lợn châu Phi, đàn đang dần hồi phục về số lượng và có sự thay đổi về chất lượng với các giống lợn ngoại, lợn lai ngoại làm tăng trọng lượng lợn hơi xuất chuồng bình quân tăng từ 80,5 kg/con (năm 2015) lên 93,5 kg/con (năm 2020). Đàn bò duy trì trên 100 nghìn con trong giai đoạn 2016-2020, trong đó tỷ lệ bò lai đạt trên 90%, đàn bò cái lai sinh sản được lai tạo với các giống bò ngoại chuyên thịt có năng suất, chất lượng cao như: Brahman, Droughtmaster, Red Agus, BBB… trọng lượng bò thịt xuất chuồng tăng từ 172,7 kg/con (năm 2015) lên 186 kg/con (năm 2020); 100% bò sữa là bò ngoại HF, năng suất sữa/chu kỳ đạt bình quân 5,5 tấn, khoảng 30% số bò sữa đã đạt 6 tấn/chu kỳ.
Cơ cấu cây trồng chuyển đổi sang giống cây có năng suất và chất lượng cao hơn trong bối cảnh diện tích gieo trồng ngày càng giảm. Tổng diện tích gieo trồng cây nông nghiệp của tỉnh đến năm 2020 là 94,1 nghìn ha, trong đó, 85,9 nghìn ha được sử dụng cho cây trồng hằng năm (chiếm tỷ trọng 91,3%). Diện tích gieo trồng nông nghiệp của tỉnh giảm hơn 11 nghìn ha trong giai đoạn 2016-2020, chủ yếu giảm trên diện tích cây hằng năm (giảm 10,9 nghìn ha), trong khi diện tích cây lâu năm chỉ giảm nhẹ (giảm 102 ha, còn 8,2 nghìn ha đến năm 2020). Diện tích trồng lúa đạt trên 53,8 nghìn ha, chiếm 62,7% diện tích đất cây hằng năm. Mặc dù diện tích đất lúa giảm 4,6 nghìn ha trong giai đoạn 2016-2020, nhưng sản lượng lúa đạt trên 313 nghìn tấn năm 2020, năng suất lúa đạt 58,1 tấn/ha, tăng 2,3 tấn/ha so với năm 2015. Diện tích ngô giảm 6,4 nghìn ha nhưng năng suất ngô tăng 4,5 tấn/ha, đạt 47,68 nghìn tấn. Năng suất hầu hết các loại cây trồng đều tăng nhờ áp dụng các tiến bộ mới về giống, kỹ thuật canh tác, trong đó năng suất lúa tăng 0,8%/năm, ngô tăng 2%/năm, nhiều giống lúa mới có năng suất, chất lượng được đưa vào sản xuất như: RVT, TBR225, BC15, Thiên ưu 8,... Đến hết năm 2020 tỷ lệ giống lúa chất lượng đạt trên 75% tổng diện tích gieo trồng lúa trên toàn tỉnh, tăng 38,5% so với năm 2015. Cơ giới hóa trong khâu làm đất chiếm 95% tổng diện tích, thu hoạch lúa bằng máy đạt trên 70%. Mặc dù diện tích giảm nhanh nhưng năng suất cây lương thực có cải thiện, đảm bảo nhu cầu lương thực trong tỉnh.
Trong cơ cấu cây hằng năm, diện tích nhóm cây rau, đậu các loại có xu hướng tăng, đến năm 2020 đạt trên 10,3 nghìn ha, tăng bình quân mỗi năm 235 ha so với năm 2015, sản lượng đạt 226 nghìn tấn, tăng bình quân 4,3%/năm, năng suất đạt 219 tấn/ha, chỉ đứng sau mía (523 tấn/ha) và cao gấp 4 lần so với bình quân cây lương thực có hạt.
Trên địa bàn đã hình thành một số vùng sản xuất rau, quả an toàn thực phẩm theo quy trình VietGAP đạt trên 1.600 ha; trong đó có 987 ha rau an toàn được cấp chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm và 695 ha rau sản xuất theo VietGAP, sản lượng rau an toàn và rau được cấp giấy chứng nhận khoảng 40 nghìn tấn/năm (bằng 25% tổng sản lượng rau toàn tỉnh), đã vận hành 08 nhà sơ chế rau an toàn tại các vùng thuộc dự án QSEAP, liên kết chuỗi với Công ty Vineco Tam Đảo.
Các cây trồng có giá trị kinh tế cao như: Bí đỏ, bí xanh, cà chua, su su, dưa các loại được phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa; một số sản phẩm có thương hiệu và có sản phẩm xuất khẩu như: Thanh long ruột đỏ, ớt quả, chuối tiêu hồng...; đã có nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã sản xuất rau, củ, quả có quy mô, chất lượng cung cấp cho thị trường trong và ngoài tỉnh; mô hình sản xuất rau, quả theo chuỗi từ sản xuất đến tiêu thụ đang phát triển trên địa bàn tỉnh.
Giai đoạn 2016- 2020 đã chuyển đổi được trên 6.300 ha đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng các loại rau, củ, quả cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Thực hiện dồn thửa, đổi ruộng với diện tích trên 1,8 nghìn ha tạo điều kiện cho sản xuất hàng hóa tập trung. Giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích đất canh tác đạt trên 145 triệu đồng/ha, tăng trên 6% so với năm 2015; thu nhập đạt khoảng 65 triệu đồng/ha đất canh tác, tăng 7,5% so với năm 2015.
Tuy vậy, tăng trưởng ngành NLTS vẫn thấp so với bình quân cả nước và của vùng ĐBSH. Bình quân tăng trưởng giá trị gia tăng ngành NLTS của vùng ĐBSH là 2,2%/năm và cả nước là 2,9%/năm, cao hơn so với tăng trưởng ngành NLTS của tỉnh Vĩnh Phúc (1,9%/năm). Mặc dù tỷ trọng VA của ngành chỉ còn 6,1% đến năm 2020 nhưng vẫn cao hơn so với bình quân của vùng ĐBSH (5,8%).
Đáng chú ý là trong năm 2019, quy mô giá trị gia tăng của ngành NLTS giảm 2,8% so với năm 2018 do chịu ảnh hưởng của dịch bệnh. Quỹ đất sản xuất nông nghiệp có xu hướng giảm do chuyển đổi mục đích sử dụng dẫn đến khó khăn trong tăng trưởng sản xuất nông nghiệp, còn thiếu các trang trại trồng trọt quy mô lớn do đó hạn chế áp dụng cơ giới hóa và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ. Năng suất trồng trọt có cải thiện nhưng còn khá chậm. Năng suất lúa và ngô của Vĩnh Phúc năm 2020 vẫn thấp hơn mức bình quân chung của cả nước, năng suất lúa và ngô của Vĩnh Phúc lần lượt là 58,12 tạ/ha và 47,68 tạ/ha, so với năng suất lúa và ngô trung bình của cả nước lần lượt là 58,8 tạ/ha và 48,4 tạ/ha.
Tuy nhiên, tốc độ tăng năng suất lúa và ngô trong giai đoạn 2015-2020 của tỉnh (0,8%/năm cho lúa, 2%/năm cho ngô) đang tăng nhanh hơn so với mức bình quân chung của cả nước (0,41%/năm cho lúa và 1,56%/năm cho ngô) cho thấy năng suất ngành trồng trọt của Vĩnh Phúc đang trong xu hướng dần bắt kịp với mức bình quân của cả nước. Quy mô sản xuất nông nghiệp của tỉnh khá thấp, đây không phải là nguồn động lực chính cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
2.3. Cơ cấu ngành công nghiệp xây dựng
Ngành công nghiệp xây dựng là ngành chủ chốt trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc. Vĩnh Phúc hiện trở thành tỉnh có giá trị sản xuất công nghiệp lớn, là trung tâm sản xuất ô tô, xe máy của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Đến năm 2020, quy mô giá trị gia tăng ngành CN-XD đạt trên 56,2 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành), tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 10,28%/năm[4]. Năm 2020, tỷ trọng giá trị gia tăng của ngành CN-XD đạt 45,5% GRDP, cao hơn so với bình quân toàn vùng ĐBSH là 41,2%, đứng thứ 7/11 tỉnh trong vùng. Trong 5 năm, tỷ trọng ngành này tăng thêm 5,4 điểm %[5]. Tận dụng vị trí địa lý thuận lợi nằm liền kề với sân bay quốc tế Nội Bài và trong hàng lang kinh tế Côn Minh Lào Cai Hà Nội Quảng Ninh Vành đai phát triển công nghiệp phía Bắc, ngành công nghiệp được coi là nền tảng phát triển kinh tế của tỉnh. Thực tiễn cho thấy, tỷ trọng đóng góp của ngành CN-XD ngày càng lớn và vượt trội so với các ngành kinh tế còn lại. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã hình thành hệ thống khu công nghiệp, cụm công nghiệp với 14 KCN đã có chủ trương đầu tư, trong đó 08 KCN đã đi vào hoạt động, 32 CCN trong đó 16/32 CCN đã đi vào hoạt động, thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các dự án đầu tư đều hoạt động hiệu quả, góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Đóng góp chính của ngành CN-XD là ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (CNCBCT). Ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng 89,6% và ngành xây dựng là 10,4%. Trong đó, 96,8% VA ngành CN tập trung tại ngành chế biến, chế tạo, tỷ trọng này giữ nguyên trong giai đoạn 2016-2020 (các ngành điện, nước chỉ chiếm 2,65%). Tăng trưởng ngành CNCBCT đạt bình quân giai đoạn 2016-2019 là 11,7%/năm, riêng năm 2020 do ảnh hưởng của dịch COVID-19, ngành này chỉ tăng trưởng 4%, bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 10,2%/năm, đây là ngành tạo ra sự tăng trưởng chủ yếu của toàn ngành công nghiệp trên địa bàn. Kết quả tăng trưởng này thể hiện rõ rét định hướng thu hút đầu tư vào ngành công nghiệp, đặc biệt là cụm ngành công nghiệp điện tử công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ sản xuất ô tô, xe máy; điện tử, tin học…
Sản xuất công nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc có xu hướng ngày càng đa dạng nhưng tính đa dạng còn khá thấp. Các ngành công nghiệp tập trung chủ yếu vào ngành cơ khí, sản xuất kim loại và ngành linh kiện điện tử. Các ngành công nghiệp chủ yếu bao gồm sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học (chiếm 30% VA), ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác (chiếm 11,3% VA), sản xuất phương tiện vận tải khác (chiếm 11% VA), ngành sản xuất trang phục (chiếm tỷ lệ 9% VA), ngành sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic (chiếm tỷ lệ khoảng 4,3% VA)... Chuyển dịch trong nội bộ ngành CNCBCT cho thấy, sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng mạnh, chỉ từ năm 2015 đến năm 2019, tỷ trọng VA của ngành này tăng thêm 17,4 điểm %, đây là ngành tăng rất nhanh trong khi các ngành khác gần như không có sự thay đổi hoặc thậm chí giảm như ngành sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 7,8 điểm %, ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 4,9 điểm %.
Doanh thu linh kiện điện tử đến năm 2020 đạt trên 118,3 nghìn tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 46,5%/năm, đây là mức tăng trưởng rất nhanh so với các lĩnh vực khác. Nhóm cơ khí và sản xuất kim loại (chủ yếu là sản xuất sản phẩm ô tô, xe máy) bắt đầu tăng trưởng chậm lại. Sản lượng ô tô, xe máy bắt đầu giảm xuống kể từ năm 2019, bình quân giai đoạn 2016-2020, số lượng ô tô được sản xuất chỉ tăng 2,2%/năm, trong khi xe máy các loại giảm 3,5%/năm. Tỷ trọng giá trị sản xuất của các sản phẩm cơ khí và sản xuất kim loại này chỉ còn 45,3% đến năm 2020, giảm 27,4 điểm % so với năm 2015 do thị trường tiêu thụ trong nước các sản phẩm này ngày càng giảm và áp lực cạnh tranh ngày càng lớn. Thay vào đó là sự gia tăng mạnh giá trị sản xuất của ngành điện tử, thiết bị điện, chiếm 41,2% tổng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp, tăng thêm 29,6 điểm % so với năm 2015. Các mặt hàng khác quy mô thấp, không đóng góp nhiều tới sự chuyển đổi cơ cấu ngành.
Bảng 6: Chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất nhóm ngành công nghiệp giai đoạn 2015-2020 (%, theo giá hiện hành)
TT | Ngành công nghiệp | 2015 | 2020 | 2021 | Tăng/giảm |
2016-2020 | |||||
I | CN khai khoáng | 0,17 | 0,35 | 0,24 | 0,18 |
II | Chế biến, chế tạo | 99,04 | 98,89 | 99,03 | -0,15 |
1 | CB thực phẩm, đồ uống | 2,4 | 2,44 | 2,28 | 0,04 |
2 | Chế biến gỗ, giấy | 2,65 | 1,58 | 1,17 | -1,07 |
3 | Sản xuất VLXD | 5,44 | 3,6 | 3,14 | -1,84 |
4 | Dệt may, da giầy | 2,63 | 2,69 | 2,71 | 0,06 |
5 | Hoá chất, hoá dược, nhựa, cao su | 1,22 | 1,82 | 2,09 | 0,6 |
6 | Điện tử, thiết bị điện | 11,65 | 41,23 | 46,96 | 29,58 |
7 | Cơ khí và sản xuất kim loại | 72,69 | 45,28 | 40,4 | -27,41 |
8 | Công nghiệp khác | 0,36 | 0,25 | 0,28 | -0,11 |
III | Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí | 0,31 | 0,33 | 0,36 | 0,02 |
IV | Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải | 0,48 | 0,43 | 0,37 | -0,05 |
| Tổng cộng | 100 | 100 | 100 |
|
Nguồn: Báo cáo đề xuất KCN-CCN tỉnh Vĩnh Phúc
Tuy vậy, quy mô CN-XD của tỉnh còn khá thấp so với các tỉnh trong vùng. Quy mô ngành CN-XD của tỉnh Vĩnh Phúc chỉ chiếm 5,7% tổng giá trị gia tăng ngành CN-XD của vùng ĐBSH, chỉ bằng 1/5 so với Hà Nội, 1/3 so với Bắc Ninh và ½ so với Quảng Ninh. Tỷ trọng này có xu hướng giảm nhẹ so với năm 2015 là 6,2% và xu hướng diễn ra ngay cả khi trước thời điểm chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19. Điều này là do tăng trưởng ngành CN-XD của tỉnh Vĩnh Phúc thấp hơn so với tốc độ tăng chung của các tỉnh trong vùng ĐBSH (bình quân đạt 10,9%/năm giai đoạn 2016-2020).
Đóng góp chủ yếu vào ngành công nghiệp của tỉnh là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Đánh giá hai ngành công nghiệp chiếm tới 90% giá trị sản xuất của ngành công nghiệp trên địa bàn có thể thấy vai trò của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là chủ yếu. Đối với ngành cơ khí, sản xuất ô tô, xe máy 100% được thực hiện bởi khu vực đầu tư nước ngoài, không có doanh nghiệp tư nhân trong nước. Đối với ngành sản xuất linh kiện điện tử, 99,8% doanh thu đến từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Với hai ngành công nghiệp chủ chốt của tỉnh, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tính quyết định đến tăng trưởng của ngành. Chỉ có một số ngành có sự tham gia nhiều hơn của doanh nghiệp trong nước như sản xuất thức ăn gia súc (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 53,8%) hay sản xuất giày, dép thể thao (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 56,3%), sản xuất gạch ốp lát (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 63%). Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động khó lường, nền kinh tế nếu dựa chủ yếu vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động tiêu cực của kinh tế thế giới, đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh, phức tạp và nhiều rủi ro như hiện nay.
2.4. Cơ cấu ngành dịch vụ
Tỉnh Vĩnh Phúc là một trong hai tỉnh có tỷ trọng ngành dịch vụ trên tổng GRDP thấp nhất trong vùng ĐBSH. Năm 2020, tỷ trọng giá trị gia tăng của ngành dịch vụ là 22,6%, chỉ cao hơn so với tỉnh Bắc Ninh (16,8%) và chỉ bằng ½ tỷ trọng bình quân của ngành này của toàn vùng ĐBSH (43,7%). Quy mô ngành dịch vụ của tỉnh đến năm 2020 đạt 27,9 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành), chỉ bằng ¼ quy mô ngành dịch vụ của Hải Phòng, ½ của Quảng Ninh và 1/23 của Hà Nội. So với mục tiêu Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2016-2020, tỷ trọng này thấp so với mục tiêu 31,4% (nếu quy đổi tỷ trọng giá trị ngành dịch vụ trên tổng VA đạt 30,4% năm 2020).
Cơ cấu ngành dịch vụ chuyển dịch sang hướng tăng ngành thương mại, giáo dục và đào tạo, và ngành dịch vụ y tế trong khi giảm tỷ trọng ở hầu hết các ngành dịch vụ còn lại. Dịch vụ thương mại đã phát triển theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, đa dạng với nhiều siêu thị, chợ, trung tâm thương mại, cửa hàng tự chọn... Tỷ trọng VA ngành Bán buôn, bán lẻ hàng hóa chiếm 30% trong tổng VA ngành dịch vụ của địa phương, tỷ trọng này có xu hướng tăng nhẹ so với năm 2015 thêm 2,17 điểm %. Tăng trưởng của ngành giai đoạn 2016-2020 bình quân đạt 10,3%/năm[6], là tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành dịch vụ. Hoạt động kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh phong phú và đa dạng. Hàng hoá trên thị trường đáp ứng đủ nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng. Hạ tầng thương mại được quan tâm, nhiều trung tâm thương mại, siêu thị lớn đã đi vào khai thác. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 Trung tâm thương mại, 07 siêu thị, 81 chợ truyền thống và nhiều loại hình mua bán tự phục vụ khác. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt hơn 52,6 nghìn tỷ đồng năm 2020, đạt mức tăng trưởng bình quân 10,4%/năm, là mức tăng trưởng nhanh so với bình quân vùng ĐBSH (9,4%/năm) và cả nước (8,5%/năm). Sức mua bình quân đầu người năm 2020 của tỉnh đạt 44,9 triệu đồng/người, tăng gấp 1,6 lần so với năm 2015 cho thấy sự cải thiện đáng kể trong thu nhập và chi tiêu của người dân trên địa bàn, thể hiện rõ nét sự thay đổi về mức sống trong giai đoạn 2016-2020. Tuy vậy, mức mua sắm này vẫn thấp hơn so với bình quân chung của vùng ĐBSH.
Hình 9: Sức mua bình quân đầu người năm 2020
Nguồn: Tính toán theo số liệu TCTK
Các ngành dịch vụ cao cấp như dịch vụ tài chính, ngân hàng bảo hiểm, dịch vụ giáo dục và đào tạo, dịch vụ y tế có tỷ trọng đóng góp ngày càng lớn trong các ngành dịch vụ của tỉnh. Dịch vụ giáo dục chiếm tỷ trọng 14,23% trong VA ngành dịch vụ là ngành dịch vụ lớn thứ hai của tỉnh, tăng thêm 2,06 điểm % so với năm 2015. Ngành dịch vụ đứng thứ ba (không tính hoạt động của Đảng) là dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm chiếm tỷ trọng 8,36%. Ngành y tế chiếm tỷ trọng 7,79%. Trong đó, tỷ trọng ngành giáo dục, đào tạo và ngành y tế có xu hướng ngày càng tăng cho thấy lĩnh vực đầu tư cho con người được chú trọng đồng thời thể hiện sự thay đổi về cơ cấu tiêu dùng đang dần chuyển từ hàng hóa sang dịch vụ khi mức sống của người dân được cải thiện. Ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng bảo hiểm phát triển nhanh cùng với nhu cầu sử dụng như là ngành dịch vụ hỗ trợ cho các ngành kinh tế khác, đặc biệt là ngành công nghiệp, tăng trưởng giá trị gia tăng của ngành đạt bình quân đạt 7,4%/năm giai đoạn 2016-2020, đây là ngành ít chịu ảnh hưởng của COVID-19 và phát triển nhanh thứ hai chỉ sau ngành Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác. Riêng đối với ngành y tế, tăng trưởng của ngành này có sự biến động mạnh trong hai năm 2020-2021 do các hoạt động phục vụ phòng chống dịch bệnh và nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế tăng cao, đẩy tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 6,9%/năm giai đoạn 2016-2020, nhanh thứ ba trong các ngành dịch vụ.
Hình 10: Cơ cấu giá trị gia tăng các ngành dịch vụ năm 2020 (ngành dịch vụ 100%)
Nguồn: NGTK tỉnh năm 2021
Lợi thế ngành dịch vụ vận tải kho bãi đang ngày càng rõ nét nhưng chịu ảnh hưởng nặng nề của COVID-19. Với vị trí thuận lợi trên các trục giao thông chính kết nối các tỉnh biên giới, trung du, miền núi phía Bắc với vùng ĐBSH, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất công nghiệp trong tỉnh, ngành vận tải kho bãi của tỉnh cũng phát triển nhanh chóng. Tăng trưởng của ngành đạt bình quân 9,3%/năm giai đoạn 2016-2019 và có quy mô lớn 5/14 ngành dịch vụ, chiếm 7,6% VA ngành DV năm 2019. Khối lượng vận tải hàng hoá và hành khách đều tăng cao. Giai đoạn 2016-2019, khối lượng luân chuyển hàng hóa tăng 9,9%/năm (theo tấn) và số lượt hành khách luân chuyển tăng 5,2%/năm (theo người). Tuy vậy, đây là ngành chịu ảnh hưởng nặng nề bởi COVID-19, khiến tăng trưởng của ngành thu hẹp 12,7% trong năm 2020 và tiếp tục giảm 8,1% trong năm 2021 khiến tỷ trọng đóng góp của ngành này giảm thấp, còn 6,4% năm 2020 và 5,8% năm 2021.
Thương mại quốc tế của tỉnh Vĩnh Phúc tăng trưởng nhanh nhưng nhập siêu lớn. Trên địa bàn tỉnh có khoảng trên 200 doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu năm 2020 đạt trên 5 tỷ USD, tăng trưởng bình quân 23%/năm giai đoạn 2016-2020 và không chịu ảnh hưởng của COVID-19. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của tỉnh đạt trên 13,4 tỷ USD, tăng gấp 2,8 lần trong giai đoạn 2015-2020, đây là mức tăng nhanh nhất trong các tỉnh của vùng ĐBSH. Tuy vậy, tỉnh Vĩnh Phúc duy trì nhập siêu và có xu hướng nhập siêu ngày càng tăng nhanh. Trong các tỉnh thuộc vùng ĐBSH, tỉnh Vĩnh Phúc có quy mô nhập siêu lớn, chỉ đứng sau thành phố Hà Nội. Quy mô xuất nhập khẩu của Vĩnh Phúc tương đương với Hải Dương nhưng tỉnh này duy trì xuất siêu trong suốt giai đoạn. Nhập khẩu lớn chủ yếu là các nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng phục vụ sản xuất, thậm chí sử dụng cho các hoạt động sản xuất trong nội tỉnh không gắn với xuất khẩu cho thấy tỉ lệ nội địa hóa của tỉnh rất thấp.
Hoạt động du lịch, khách sạn nhà hàng đã phát triển khá trong các năm gần đây. Hệ thống nhà hàng, khách sạn được đầu tư, nâng cấp ngày càng hiện đại và tiện nghi, đáp ứng nhu cầu của khách trong và ngoài nước. Nhiều công trình văn hóa kết hợp phục vụ du lịch được đầu tư hoàn thiện. Hạ tầng du lịch đã từng bước được đầu tư cải tạo, nâng cấp như hệ thống đường giao thông, điện chiếu sáng, cấp, thoát nước... ở các khu, điểm du lịch, tạo điều kiện thu hút các dự án lớn nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của tỉnh về phát triển du lịch dịch vụ, bước đầu đã khẳng định được thế mạnh về du lịch nghỉ dưỡng, hội thảo hội nghị, du lịch kết hợp với chơi golf và du lịch văn hóa tâm linh, phát huy tốt các lợi thế về địa lý, tài nguyên du lịch, hệ thống di tích lịch sử và các giá trị văn hóa phi vật thể. Các hoạt động quảng bá của tỉnh, của doanh nghiệp được triển khai mạnh mẽ hơn nhằm giới thiệu du lịch Vĩnh Phúc đến với du khách trong và ngoài nước. Số lượt khách du lịch đến tham quan tại tỉnh ngày càng tăng, năm 2019 đạt xấp xỉ 6,1 triệu lượt khách, bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 16,4%/năm, năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nên số lượng khách du lịch đến tỉnh chỉ ước đạt 4 triệu lượt khách. Doanh thu du lịch của các cơ sở lữ hành và cơ sở lưu trú năm 2019 đạt 1.910 tỷ đồng, tăng bình quân giai đoạn 2016-2019 là 13,3%/năm, ước năm 2020 đạt 1.150 tỷ đồng. Doanh thu du lịch tăng ổn định qua các năm, đem lại hiệu quả đáng kể tăng nguồn thu cho ngân sách và góp phần nâng cao mức sống cho người dân địa phương.
Dịch vụ thông tin liên lạc trong tỉnh phát triển khá nhanh, về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu thông tin liên lạc trong quản lý, kinh doanh và đời sống xã hội. Các dịch vụ bưu chính cơ bản được triển khai đến tận thôn, bản, 100% xã, phường có điểm phục vụ bưu chính. Dịch vụ điện thoại di động được phủ sóng toàn tỉnh. Tính đến năm 2019, mật độ thuê bao trên địa bàn (bao gồm cả cố định và di động) đạt 108 máy/100 dân, tăng 28 máy/100 dân so năm 2015. Tính đến nay có khoảng 1,1 triệu thuê bao điện thoại (tăng 929 nghìn thuê bao so với năm 2015); 190 nghìn thuê bao Internet (tăng 100 nghìn thuê bao so với năm 2015); 50 nghìn thuê bao truyền hình trả tiền (giảm 10 nghìn so với năm 2015); Doanh thu của các doanh nghiệp viễn thông giai đoạn 2016-2020 là 7.513 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân cả giai đoạn đạt 5,5%/năm (giai đoạn 2011-2015 đạt 4%). Nhìn chung, dịch vụ thông tin truyền thông trong tỉnh phát triển nhanh, theo kịp với những tiến bộ về công nghệ của cả nước nhưng do trình độ phát triển kinh tế chưa cao nên nhu cầu sử dụng các dịch vụ trong tỉnh vẫn còn hạn chế, thị trường dịch vụ thông tin còn ở mức tiềm năng.
3. Đánh giá nguồn lực đầu vào của mô hình tăng trưởng
3.1. Nguồn lực vốn
a) Tăng trưởng và cơ cấu vốn đầu tư xã hội
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao với xu hướng chuyển dịch nhiều hơn cho đầu tư xây dựng cơ bản. Năm 2020, quy mô vốn đầu tư toàn tỉnh đạt 44.172 tỷ đồng (giá hiện hành); tốc độ tăng giai đoạn 2016-2020 đạt 11,1%/năm, cao hơn tốc độ tăng của cả nước là 8,2%/năm[7] và là một trong những tỉnh có tốc độ tăng tổng vốn đầu tư lớn của vùng Đồng bằng sông Hồng, chỉ đứng sau Hải Phòng (21,6%/năm) và Nam Định (11,9%/năm).
Tuy nhiên, nếu so sánh với các địa phương khác trong vùng Đồng bằng sông Hồng, có thể thấy quy mô tổng vốn đầu tư của tỉnh Vĩnh Phúc còn tương đối hạn chế, chỉ lớn hơn Hưng Yên, Hà Nam và Ninh Bình (đến năm 2020) và thấp hơn rất nhiều so với các địa phương còn lại của vùng Đồng bằng sông Hồng.
Tỷ trọng vốn/GRDP của tỉnh bình quân giai đoạn 2016-2020 ở mức 33,3% GRDP, năm 2020 đã tăng lên 35,7% GRDP. Trong đó:
+ Tỷ trọng vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản (XDCB) chiếm 70,2% tổng vốn đầu tư toàn tỉnh[8]; vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không qua XD là 23,7%[9]; tỷ lệ tương ứng của cả nước là 72,4% và 17,6%.
+ Tốc độ tăng vốn đầu tư XDCB bình quân của tỉnh giai đoạn 2016-2020 đạt 13,4%/năm, cao hơn tốc độ tăng bình quân cả nước là 8,5%/năm và chỉ đứng sau tốc độ tăng của thành phố Hải Phòng là 22,4%/năm.
Hình 2. Quy mô và tốc độ tăng tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với tăng trưởng GRDP của các tỉnh trong vùng ĐBSH giai đoạn 2016-2020
Nguồn: NGTK tỉnh các năm.
Tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực nhà nước và khu vực tư nhân trong nước trên địa bàn tỉnh có xu hướng giảm dần; trong khi tăng dần tỷ trọng từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn từ khu vực nhà nước giảm từ 25,4% tổng vốn đầu tư năm 2015 xuống 22% năm 2020; vốn khu vực ngoài nhà nước giảm từ 48,7% xuống 43,1%; trong khi vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng từ 25,8% lên 34,9%, cao hơn rất nhiều so với mức bình quân của cả vùng Đồng bằng sông Hồng là 19,2%[10] và của cả nước là 16,5%. Nếu so với các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng, có thể thấy tỷ trọng vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh chỉ thấp hơn so với tỷ lệ của tỉnh Bắc Ninh là 49,7% (đến năm 2020). Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2020 của vốn khu vực nhà nước, vốn khu vực ngoài nhà nước và vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh lần lượt là 7,8%/năm; 8,3%/năm và 18,1%/năm[11], cho thấy vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh chủ yếu đến từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Hình 3. Tỷ trọng vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tốc độ tăng trưởng vốn FDI bình quân giai đoạn 2016-2020 của các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng
Nguồn: NGTK tỉnh năm 2021.
Nguồn vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước chủ yếu đến từ khu vực dân cư, trong khi khu vực doanh nghiệp ngày càng hạn chế. Trong tổng nguồn vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước, tỷ trọng vốn từ tổ chức doanh nghiệp ngày càng giảm, phản ánh khó khăn của khu vực doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn tỉnh. Tỷ trọng vốn của khu vực này đã giảm mạnh từ 37,1% vốn khu vực ngoài nhà nước năm 2015 xuống còn 29,1% năm 2020; tốc độ tăng bình quân nguồn vốn này giai đoạn 2016-2020 chỉ đạt 3,2%/năm, rất thấp so với mức tăng trưởng vốn bình quân chung của tỉnh là 11,1%/năm. Năm 2021, quy mô vốn khu vực doanh nghiệp bị thu hẹp lại, giảm chỉ còn 11,9%, thấp hơn rất nhiều so với các tỉnh khác trong vùng Đồng bằng sông Hồng (trong đó, tỷ lệ cao nhất là tại Hà Nội với 85,8%; tiếp đến là Hải Phòng 77,1% và Quảng Ninh 68,7%).
Trong khi đó, quy mô vốn của dân cư tăng nhanh chóng; tỷ trọng tăng từ 62,9% lên 70,9% tổng vốn khu vực ngoài nhà nước; tốc độ tăng giai đoạn 2016-2020 đạt 11%/năm. Năm 2021, nguồn vốn khu vực dân cư tiếp tục tăng 2,75% so với năm 2020. Đây là điểm khác biệt của tỉnh Vĩnh Phúc so với các tỉnh phát triển nhanh với quy mô lớn khác trong vùng ĐBSH như Hà Nội (tỷ trọng của khu vực dân cư chiếm 17,3% vốn khu vực ngoài nhà nước), Hải Phòng (22,9%), Quảng Ninh (31,3%), Bắc Ninh (51,5%). Khu vực dân cư có tỷ trọng vốn lớn của tỉnh Vĩnh Phúc chỉ cho thấy những hạn chế trong việc mở rộng hoạt động sản xuất với quy mô lớn hơn, vốn dân cư nhỏ lẻ, manh mún, khó trong áp dụng khoa học kỹ thuật, không đủ để đầu tư sản xuất lớn, công nghệ cao.
Hình 4. Tỷ trọng vốn đầu tư của tổ chức doanh nghiệp trong vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước và tăng trưởng vốn khu vực doanh nghiệp bình quân giai đoạn 2016-2020 trong vùng Đồng bằng sông Hồng
Nguồn: NGTK tỉnh các năm.
Khu vực kinh tế nhà nước có mức độ hiệu quả sử dụng vốn thấp nhất; hiệu quả sử dụng vốn của các khu vực kinh tế còn lại có xu hướng giảm dần, đặc biệt là khu vực vốn FDI. Trong giai đoạn 2016-2020, ngoại trừ khu vực nhà nước có mức độ cải thiện nhẹ về hiệu quả sử dụng vốn (tỷ lệ vốn đầu tư so với GRDP giảm từ 74,3% xuống 73,5%), chất lượng nguồn vốn đầu tư đều giảm dần tại khu vực ngoài nhà nước (tăng từ 47,4% lên 50,7%) và đáng kể tại khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (tăng từ 26,5% lên 37,7%), cao hơn nhiều so với mức bình quân cả nước đối với khu vực ngoài nhà nước và FDI lần lượt là 39,5% và 28,8%.
Vốn đầu tư toàn tỉnh tập trung chủ yếu cho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình; trong khi đó vốn đầu tư cho cho các dịch vụ y tế, giáo dục trên địa bàn tỉnh còn tương đối hạn chế; hoạt động kinh doanh bất động sản có sự tăng trưởng nóng. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có tỷ trọng quy mô đầu tư lớn nhất so với các ngành kinh tế khác, đến năm 2020 chiếm 41,6% tổng quy mô vốn đầu tư toàn tỉnh[12]. Trong giai đoạn 2016-2020, tốc độ tăng trưởng bình quân vốn đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến chế tạo là 26,8%/năm; của hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình là 13,2%/năm; nhờ đó, tỷ trọng vốn đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng vốn đầu tư toàn tỉnh.
- Tổng quy mô vốn đầu tư cho 03 ngành, gồm: hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội, trên địa bàn tỉnh còn tương đối hạn chế, chỉ chiếm tổng tỷ trọng là 7,14% tổng vốn đầu tư toàn tỉnh năm 2015; đến cuối năm 2020 giảm xuống chỉ còn 5,3%. So với các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng, tỷ trọng này tương đối lạc quan, chỉ thấp hơn so với Hà Nội (14,7%); Hà Nam (9%) và Nam Định (6,2%). Tỷ trọng vốn đầu tư của từng ngành cũng có xu hướng giảm trong giai đoạn 2015-2020, ngoại trừ hoạt động y tế và hoạt động trợ giúp xã hội. Cụ thể, tỷ trọng này của hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ giảm từ 1,1% xuống 0,4% (tốc độ vốn đầu tư của ngành này bình quân giảm 8,45%/năm); của hoạt động giáo dục và đào tạo giảm từ 4,0% xuống 2,4% (tốc độ tăng là 0,11%/năm); trong khi của y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng nhẹ từ 2,1% lên 2,6% (tốc độ tăng là 16,09%/năm).
- Quy mô vốn đầu tư cho ngành kinh doanh bất động sản chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng vốn đầu tư toàn tỉnh giai đoạn 2015-2020[13], nhưng có tốc độ tăng trưởng quy mô vốn đầu tư lớn nhất so với tất cả các ngành kinh tế còn lại. Cụ thể, quy mô vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh bất động sản đến năm 2019 đạt 909,3 tỷ đồng (theo giá hiện hành), cao gấp 23 lần so với năm 2015 (do tác động của dịch bệnh Covid-19, năm 2020 chỉ đạt 680 tỷ đồng, cao gấp 17,2 lần so với năm 2015). Tốc độ tăng trưởng bình quân của vốn đầu tư cho ngành này giai đoạn 2016-2020 là 72,85%/năm (nếu loại bỏ tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 113,88%/năm), chỉ thấp hơn so với tốc độ tăng của tỉnh Thái Bình (117,2%/năm) và tỉnh Hà Nam (84,9%/năm).
Hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho các ngành kinh tế chưa tương xứng với quy mô vốn đầu tư cho các ngành này. Tỷ lệ vốn đầu tư so với tổng sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã tăng từ 18,4% (năm 2015) lên 38,3% (năm 2020). Tương tự, ngành kinh doanh bất động sản của tỉnh cũng có tỷ lệ này tăng mạnh từ 3,8% lên 47,3%, cho thấy giá trị gia tăng được tạo ra của ngành là rất nhỏ, trong khi quy mô vốn đầu tư vào ngành này tăng mạnh[14]. Thực trạng tương tự đối với hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình. Ngược lại, giáo dục và đào tạo; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội có tỷ lệ này giảm dần trong giai đoạn 2015-2020 dù vốn đầu tư cho các ngành này vẫn tăng trưởng dương qua từng năm. Cụ thể, tỷ lệ này của ngành giáo dục và đào tạo giảm từ 43,5% xuống 26,4%; của ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm từ 60,1% xuống 52,7%. Điều này cho thấy hiệu quả đầu tư vào các ngành dịch vụ này cao hơn so với các ngành khác.
b) Vốn theo hình thức sở hữu
b.1) Đầu tư công
Kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2016-2020 của tỉnh Vĩnh Phúc dự kiến tổng nguồn vốn giai đoạn này là 31.446 tỷ đồng, trong đó phân bổ theo nguyên tắc, tiêu chí và tiền đất là 22.161 tỷ đồng, còn lại là các nguồn khác như nguồn ODA, nguồn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, vốn Trái phiếu chính phủ. Giai đoạn 2016-2020, tổng vốn đầu tư công[15] của tỉnh đạt 27.186 tỷ đồng, đạt 86,5% tổng kế hoạch thực hiện giai đoạn này.
Đối với nguồn vốn đầu tư khu vực nhà nước, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đạt 7.917 tỷ đồng (giá hiện hành). Tuy nhiên, tốc độ tăng vốn ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2015-2020 chỉ đạt 6,2%/năm, thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng vốn huy động khác, dẫn đến cơ cấu của nguồn vốn này trong tổng vốn đầu tư khu vực nhà nước giảm xuống từ 87,5% (năm 2015) còn 81,6% (năm 2020); trong khi tỷ trọng nguồn huy động khác tăng mạnh từ 1,2% lên 13,8%.
Đáng chú ý, trong giai đoạn 2015-2020, nguồn vốn vay có xu hướng giảm dần; tốc độ giảm bình quân 13,2%/năm, dẫn đến tỷ trọng nguồn vốn này giảm chỉ còn 3,5% đến năm 2020. Điều này cho thấy nguồn vốn đầu tư khu vực nhà nước của tỉnh Vĩnh Phúc chủ động trong các nguồn vốn, ít phụ thuộc vào nguồn vốn vay cho hoạt động khu vực Nhà nước. tỷ trọng vốn vay trong tổng vốn đầu tư công trên địa bàn tỉnh là tương đối thấp so với các địa phương khác trong vùng Đồng bằng sông Hồng.
Bảng 7: Nguồn vốn đầu tư công trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2015-2020
Nguồn vốn | Giá trị hiện hành (tỷ VND) | Cơ cấu (%) | Tốc độ tăng (%/năm) | ||
2015 | 2020 | 2015 | 2020 | 2016-2020 | |
Vốn ngân sách Nhà nước | 5.213 | 7.917 | 88,3 | 82,5 | 6,2 |
Vốn vay | 616 | 337 | 10,4 | 3,5 | -13,2 |
Vốn huy động khác | 73 | 1.340 | 1,2 | 14,0 | 74,7 |
Tổng vốn đầu tư công | 5.902 | 9.595 | 100,0 | 100,0 | 7,7 |
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Công tác quản lý đầu tư công được quan tâm chỉ đạo, giám sát chặt chẽ; quyết liệt trong điều hành, trong đó tập trung vào công tác giải phóng mặt bằng, thi công công trình và giải ngân nguồn vốn đầu tư công. Công tác phân bổ vốn đầu tư công được thực hiện đúng theo các nguyên tắc trong cơ chế giao và điều hành kế hoạch nhà nước, trong đó tập trung ưu tiên thanh toán nợ, công trình chuyển tiếp, bố trí dự án mới khi đảm bảo đầy đủ thủ tục đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công và các văn bản hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
b.2) Đầu tư tư nhân
Số lượng doanh nghiệp của tỉnh có mức tăng trưởng khá trong giai đoạn 2016-2020 nhưng mật độ doanh nghiệp còn thấp và quy mô vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn nhỏ. Cụ thể, đến năm 2020, tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh đạt 6.610 doanh nghiệp; tốc độ tăng bình quân số doanh nghiệp đạt 17,9%/năm giai đoạn 2016-2020, cao hơn nhiều mức bình quân 7%/năm của vùng Đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, mật độ doanh nghiệp bình quân trên 1.000 dân trong độ tuổi lao động của tỉnh chỉ là 14[16], thấp hơn nhiều so với mức bình quân của vùng là 24,3[17].
Quy mô vốn sản xuất kinh doanh bình quân một doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh của tỉnh có xu hướng tăng từ 44,8 tỷ đồng/doanh nghiệp (năm 2015) lên 53,8 tỷ đồng/doanh nghiệp (năm 2020), nhưng vẫn thấp hơn so với mức bình quân của vùng Đồng bằng sông Hồng là 65,9 tỷ đồng/doanh nghiệp và của cả nước là 67,6 tỷ đồng/doanh nghiệp; số lượng doanh nghiệp tỉnh với quy mô vốn từ 500 tỷ đồng trở lên chỉ là 1,8% tổng số doanh nghiệp tỉnh, tỷ lệ này của vùng Đồng bằng sông Hồng và của cả nước lần lượt là 1,4% và 1,3%. Đến 2020, số lao động bình quân của một doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh của tỉnh là 33,3 lao động/doanh nghiệp, của vùng Đồng bằng sông Hồng là 22,5 lao động/doanh nghiệp và của cả nước là 21,5 lao động/doanh nghiệp. Đến năm 2020, doanh nghiệp tỉnh với quy mô lao động dưới 10 người chiếm tỷ trọng 74,9% tổng số doanh nghiệp tỉnh, gần tương đương với tỷ lệ của vùng Đồng bằng sông Hồng và của cả nước lần lượt là 75,52% và 79,03%. Điều này cho thấy quy mô lao động bình quân một doanh nghiệp của tỉnh lớn hơn nhiều so với mức bình quân của vùng Đồng bằng sông Hồng và của cả nước, trong khi thấp hơn về quy mô bình quân vốn sản xuất, cho thấy phần nào sự thâm dụng lao động lớn tại các doanh nghiệp của tỉnh.
Bảng 8: Doanh nghiệp đang hoạt động của tỉnh theo khu vực kinh tế và ngành kinh tế
Phân theo khu vực và ngành kinh tế | Số doanh nghiệp | Cơ cấu | ||
2015 | 2020 | 2015 | 2020 | |
TỔNG SỐ | 2.895 | 6.610 | 100% | 100% |
Phân theo khu vực kinh tế |
|
|
|
|
Doanh nghiệp Nhà nước | 16 | 10 | 0,6% | 0,2% |
DN 100% vốn Nhà nước | 7 | 6 | 0,2% | 0,1% |
DN hơn 50% vốn Nhà nước | 9 | 4 | 0,3% | 0,1% |
Doanh nghiệp ngoài Nhà nước | 2.741 | 6.238 | 94,7% | 94,4% |
Tư nhân | 237 | 170 | 8,2% | 2,6% |
Công ty hợp danh | - | 7 | 0,0% | 0,1% |
Công ty TNHH | 1.938 | 4.576 | 66,9% | 69,2% |
Công ty cổ phần có vốn Nhà nước | 3 | 12 | 0,1% | 0,2% |
Công ty cổ phần không có vốn Nhà nước | 563 | 1.473 | 19,4% | 22,3% |
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài | 138 | 362 | 4,8% | 5,5% |
DN 100% vốn nước ngoài | 125 | 337 | 4,3% | 5,1% |
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài | 13 | 25 | 0,4% | 0,4% |
Phân theo ngành kinh tế |
|
|
|
|
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản | 16 | 57 | 0,6% | 0,9% |
Khai khoáng | 18 | 28 | 0,6% | 0,4% |
Công nghiệp chế biến, chế tạo | 571 | 1.362 | 19,7% | 20,6% |
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí | 11 | 35 | 0,4% | 0,5% |
Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải | 19 | 37 | 0,7% | 0,6% |
Xây dựng | 619 | 1.267 | 21,4% | 19,2% |
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy và xe có động cơ khác | 1.075 | 2.257 | 37,1% | 34,1% |
Vận tải, kho bãi | 154 | 329 | 5,3% | 5,0% |
Dịch vụ lưu trú và ăn uống | 88 | 225 | 3,0% | 3,4% |
Thông tin và truyền thông | 7 | 25 | 0,2% | 0,4% |
Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm | 6 | 26 | 0,2% | 0,4% |
Hoạt động kinh doanh bất động sản | 19 | 132 | 0,7% | 2,0% |
Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ | 193 | 498 | 6,7% | 7,5% |
Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ | 55 | 195 | 1,9% | 3,0% |
Hoạt động của Đảng Cộng sản, tổ chức chính trị - xã hội, quản lý nhà nước, an ninh, QP; | - | - | 0,0% | 0,0% |
Giáo dục và đào tạo | 15 | 76 | 0,5% | 1,1% |
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội | 9 | 16 | 0,3% | 0,2% |
Nghệ thuật, vui chơi và giải trí | 7 | 16 | 0,2% | 0,2% |
Hoạt động dịch vụ khác | 13 | 29 | 0,4% | 0,4% |
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Số lượng doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng chủ yếu với tốc độ tăng trưởng nhanh, tiếp tục lấn át tỷ trọng doanh nghiệp khu vực nhà nước và FDI, tuy nhiên quy mô doanh nghiệp của khu vực này ngoài nhà nước (xét trên khía cạnh lao động và vốn) vẫn rất khiêm tốn so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể, trong giai đoạn 2016-2020, tốc độ tăng doanh nghiệp của khu vực ngoài nhà nước đạt 17,9%/năm; của khu vực doanh nghiệp nhà nước -9,0%/năm; của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 21,3%/năm. Nhờ đó, tỷ trọng doanh nghiệp của các khu vực này đến 2020 lần lượt đạt 94,4%; 0,2%; 5,5%[18]. Tuy nhiên, tiềm lực sản xuất của khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước của tỉnh còn rất khiêm tốn so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Đến năm 2020, doanh nghiệp ngoài nhà nước với quy mô lao động trên 200 người chỉ chiếm 19,5% tổng số lượng doanh nghiệp ngoài nhà nước; của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 27,9%. Về quy mô vốn, tỷ trọng doanh nghiệp ngoài nhà nước với quy mô vốn từ 01 đến dưới 500 tỷ đồng chiếm 85,2% tổng số doanh nghiệp ngoài nhà nước; từ 500 tỷ đồng trở lên chiếm 0,9%; đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, tỷ trọng này lần lượt đạt 81,5% và 16,0%.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giữ vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm và thu nhập cho người dân trên địa bàn tỉnh. Đến năm 2020, số lượng lao động bình quân đang làm việc trong 01 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 391 lao động/doanh nghiệp; trong 01 doanh nghiệp ngoài nhà nước chỉ là 12 lao động/doanh nghiệp. Tỷ trọng lao động làm việc trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng đáng kể, từ mức 56% (năm 2015) lên 64% (năm 2020); trong khi giảm dần tại khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước từ 41% xuống 35%. Đến năm 2020, thu nhập bình quân một tháng của người lao động trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 9.669 nghìn đồng (cao gấp 1,62 lần so với năm 2015); trong khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước là 7.062 nghìn đồng (cao gấp 1,32 lần so với năm 2015); trong khu vực doanh nghiệp nhà nước là 5.940 nghìn đồng (thấp hơn 0,98 lần so với năm 2015).
Doanh nghiệp tập trung chủ yếu trong 06 ngành kinh tế[19]; tuy nhiên ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có xu hướng phát triển mạnh mẽ hơn nhiều so với các ngành kinh tế khác với tiềm lực lao động và nguồn vốn lớn. Tỷ trọng doanh nghiệp của ngành công nghiệp, chế biến, chế tạo; ngành chuyên môn, khoa học và công nghệ; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống có mức tỷ trọng tăng dần trong giai đoạn 2015-2020, với tốc độ tăng bình quân lần lượt là 19%/năm; 20,9%/năm; 20,7%/năm, cho thấy đây là những ngành đang có xu hướng mở rộng sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Doanh nghiệp với quy mô từ 200 người trở lên hầu như chỉ tập trung tại ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 84,8% tổng số doanh nghiệp có quy mô lao động từ 200 người trở lên). Tỷ trọng lao động trong các doanh nghiệp đến năm 2020 tập trung chủ yếu trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (76,8%). Xét về quy mô vốn, doanh nghiệp với quy mô vốn từ 500 tỷ đồng trở lên tập trung chủ yếu tại ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (58,9%).
Mặc dù tỷ trọng doanh nghiệp trong hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ có sự tăng trưởng trong giai đoạn qua, nhưng tiềm lực về lao động và vốn của doanh nghiệp trong ngành còn yếu. Số lượng lao động trong hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ có có xu hướng tăng mạnh trong giai đoạn 2015-2020, với tốc độ tăng bình quân 21,7%/năm, nhưng chỉ chiếm tỷ trọng 7,5% tổng số lao động đến 2020. Mặt khác, nguồn lực đầu tư cho tài sản cố định và tài chính dài hạn cho hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ còn tương đối hạn chế. Tài sản cố định trang bị cho một lao động trong ngành này chỉ đạt 78 triệu đồng/lao động (năm 2020), thấp hơn 4,4 lần so với ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và thậm chí thấp hơn ngành dịch vụ ăn lưu trú và ăn uống là 4,9 lần.
Doanh nghiệp có sự chuyển dịch tương đối mạnh mẽ giữa các huyện trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn 2015-2020. Cụ thể, số lượng doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số doanh nghiệp toàn tỉnh và có xu hướng tăng dần; đến năm 2020 chiếm tỷ trọng 37,4%, cao hơn so với năm 2015 là 37,1%. Trong khi đó, tỷ trọng số lượng doanh nghiệp tại thành phố Phúc Yên có xu hướng giảm rõ rệt (từ 18,8% xuống 12,7%), trong khi tăng dần tại huyện Bình Xuyên (từ 11,9% lên 14,7%); huyện Tam Đảo (từ 1,6% lên 2,7%); huyện Tam Dương (từ 3,9% lên 6,5%).
Huyện Bình Xuyên và thành phố Vĩnh Yên là địa phương tập trung nhiều doanh nghiệp có tiềm lực lớn về lao động và nguồn vốn. Theo đó, đến năm 2020, doanh nghiệp với quy mô lao động từ 200 người trở lên tập trung chủ yếu tại huyện Bình Xuyên (49,3%) và thành phố Vĩnh Yên (26,1%). Đối với quy mô vốn từ 500 tỷ đồng trở lên, doanh nghiệp cũng tập trung chủ yếu tại huyện Bình Xuyên (40,2%) và thành phố Vĩnh Yên (35,9%). Tuy nhiên, tỷ trọng lao động tại thành phố Vĩnh Yên có xu hướng giảm mạnh trong giai đoạn qua; trong khi có xu hướng dịch chuyển mạnh hơn về huyện Bình Xuyên. Cụ thể, tỷ trọng lực lượng lao động trong doanh nghiệp tại thành phố Vĩnh Yên giảm từ 44% (năm 2015) xuống 32% (năm 2020); trong khi tỷ lệ này ở huyện Bình Xuyên tăng từ 19% lên 37%.
Huyện Bình Xuyên và thành phố Vĩnh Yên cũng là địa phương mà khu vực doanh nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng lợi nhuận khá, mặc dù có xu hướng giảm dần; thu nhập của người lao động tại 02 địa phương này đạt khá. Cụ thể, lợi nhuận trước thuế của các doanh nghiệp tại thành phố Vĩnh Yên và huyện Bình Xuyên trong giai đoạn 2016-2020 lần lượt đạt 1,1%/năm và 28,5%/năm; tỷ lệ bình quân chung toàn tỉnh đạt 5,0%/năm[20]. Đến năm 2020, thu nhập bình quân một tháng của người lao động trên địa bàn thành phố Phúc Yên là cao nhất, đạt 12.606 nghìn đồng/người/tháng; tiếp đến là thành phố Vĩnh Yên 9.119 triệu đồng/người/tháng; tại huyện Bình Xuyên là 8.743 triệu đồng/người/tháng. Thấp nhất là ở huyện Lập Trạch với mức thu nhập đạt 4.796 triệu đồng/người/tháng.
b.3) Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Số lượng các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài duy trì tốc độ tăng trong giai đoạn qua; quy mô vốn thực hiện thường lớn hơn tổng vốn đăng ký. Theo đó, các dự án FDI được cấp phép trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng dần trong giai đoạn 2015-2019, đặc biệt có sự tăng trưởng vượt bậc trong 04 năm liên tiếp từ 2016-2019. Tuy nhiên, số lượng dự án FDI trong năm 2020 giảm mạnh so với năm 2019 do tác động tiêu cực của dịch bệnh COVID-19. Trong 02 năm 2019-2020, quy mô tổng vốn thực hiện thấp hơn tổng vốn đăng ký dự án, trong khi các năm trước đó đều cao hơn. Tính trong cả giai đoạn 2015-2020, tổng số dự án FDI được cấp phép trên địa bàn tỉnh là 271 dự án; tổng vốn đăng ký là 2.044 triệu USD; tổng vốn thực hiện là 2.023 triệu USD; bình quân vốn đăng ký trên một dự án là 7,54 triệu USD/dự án, cao hơn mức bình quân của vùng Đồng bằng sông Hồng là 5,17 triệu USD/dự án, nhưng thấp hơn mức bình quân cả nước là 11,61 triệu USD/dự án.
Các dự án FDI tập trung chủ yếu cho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống. Lũy kế các dự án FDI còn hiệu lực đến năm 2020, có tổng số 410 dự án được cấp phép, trong đó 357 dự án trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 87%) và 49 dự án trong lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống (chiếm 12%). Bình quân vốn FDI đăng ký cho một dự án trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là 15,3 triệu USD/dự án (cao hơn mức bình quân của cả nước là 14,97 triệu USD/dự án); trong ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống là 8,2 triệu USD/dự án, cho thấy ngành công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn là ngành thế mạnh tiềm năng thu hút vốn FDI trên địa bàn tỉnh.
Quy mô vốn FDI đăng ký của các quốc gia không tỷ lệ thuận với số lượng các dự án đăng ký. Cụ thể, Hàn Quốc có số lượng dự án FDI được cấp phép trên địa bàn tỉnh lớn nhất (51%); tiếp đến là Nhật Bản và Trung Quốc (mỗi quốc gia 13%); sau đó là Đài Loan (10%) và Singapore (3%). Tuy nhiên, quy mô bình quân vốn đăng ký của một dự án FDI từ Hàn Quốc và Trung Quốc rất nhỏ lẻ, đạt lần lượt 11,3 triệu USD/dự án và 8,0 triệu USD/dự án, thấp hơn cả mức bình quân toàn tỉnh (14,9 triệu USD/dự án). Trong khi đó, số lượng dự án FDI được cấp phép từ Singapore chỉ chiếm 3% nhưng quy mô vốn đăng ký chiếm 8% tổng vốn FDI trên địa bàn tỉnh, cho thấy quy mô bình quân vốn đăng ký của mỗi dự án FDI từ Singapore là rất lớn. Cụ thể, quy mô vốn bình quân mỗi dự án FDI từ Singapore đạt 37,1 triệu USD/dự án; tiếp đến là Đài Loan và Nhật Bản lần lượt là 25,4 và 25,2 triệu USD/dự án.
Mặc dù có sự đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh[21], nhưng hiệu quả kết nối, tạo hiệu ứng lan tỏa về công nghệ và năng suất lao động từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đến các doanh nghiệp địa phương vẫn chưa được như kỳ vọng. Theo đó, hoạt động sản xuất và đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh dựa chủ yếu vào gia công lắp ráp, sử dụng lao động giá rẻ và tạo ra ít giá trị gia tăng; tỷ lệ nội địa hóa và lan tỏa thay đổi không đáng kể, đóng góp thấp vào việc chuyển giao công nghệ.
Hộp 1. Kết nối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh còn nhiều khó khăn
Trên địa bàn tỉnh hiện đã có một số doanh nghiệp trong nước kết nối được với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, điển hình như Công ty TNHH Công nghệ Cosmos, Khu công nghiệp Khai Quang (Vĩnh Yên). Thành lập từ năm 2005 với lĩnh vực hoạt động chính là chế tạo khuôn mẫu, gia công cơ khí chính xác, đến nay, Cosmos đã trở thành nhà cung cấp linh kiện uy tín cho nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như Công ty Toyota Việt Nam, Honda Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng các doanh nghiệp trong nước có kết nối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh như Cosmos hiện nay chưa nhiều.
Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường có xu hướng nhập vật tư, hàng hóa đầu vào từ nước xuất xứ của mình hoặc các nước có giá thành rẻ hơn, mà ít sử dụng nhà cung cấp tư nhân trong nước. Mặt khác, các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh hiện nay vẫn chủ yếu mang quy mô nhỏ và vừa, năng suất hạn chế, công nghệ, kinh nghiệm, nhân lực, quản lý còn nhiều yếu kém. Ngoài ra, nguyên nhân quan trọng khiến cho hiệu ứng lan tỏa, chuyển giao công nghệ trong thu hút đầu tư FDI chưa đạt như kỳ vọng là do chưa có những ràng buộc pháp lý chặt chẽ bắt buộc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ sau thời gian đầu tư.
3.2. Nguồn lực lao động
a) Cơ cấu lao động theo ngành
Dân số Vĩnh Phúc năm 2020 là 1.171,2 nghìn người (tăng 116,7 nghìn người so với năm 2015), trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 634,47 nghìn người, chiếm 54,17% dân số toàn tỉnh. Trong giai đoạn 2016-2020, tốc độ tăng lực lượng lao động tại Vĩnh Phúc trung bình đạt 0,28%/năm, nhanh thứ 3 trong số các tỉnh trong vùng ĐBSH, chỉ sau Bắc Ninh và Hà Nội.
Hình 14. Quy mô lao động năm 2020 và tốc độ tăng lao động trung bình giai đoạn 2016-2020 của Vĩnh Phúc và các tỉnh trong vùng ĐBSH
Nguồn: TCTK
Trong giai đoạn 2016-2020, cơ cấu lao động tại Vĩnh Phúc chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng lao động trong các ngành CN-XD, giảm dần tỷ trọng lao động trong các ngành NLTS. Trong những năm qua, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa ở Vĩnh Phúc diễn ra rất nhanh. Cơ cấu kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc đã có sự thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng của công nghiệp-xây dựng và giảm tỷ trọng nông lâm thuỷ sản. Cùng với quá trình giảm tỷ trọng trong GRDP, cơ cấu lao động chuyển dịch theo nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Hình 15. Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế (%)
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Vĩnh Phúc
Lao động làm việc trong các ngành NLTS tại Vĩnh Phúc đã giảm nhanh trong giai đoạn 2016-2020. Trong năm 2020, lao động làm việc trong các ngành NLTS chiếm 23,7% tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hàng năm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc (tương ứng với 147,4 nghìn lao động), giảm 14,7 điểm phần trăm tương ứng với 90,8 nghìn lao động so với năm 2016 (tỷ trọng là 38,4%). Sau 5 năm, NLTS đã từ nhóm ngành thâm dụng nhiều lao động nhất tại Vĩnh Phúc trong năm 2016 thành ngành sử dụng ít lao động nhất. Trung bình giai đoạn 2016-2020, lao động làm việc trong các ngành NLTS tại Vĩnh Phúc giảm 11,3%/năm, cao gấp 2,1 lần so với mức bình quân chung của cả nước (giảm 5,46%/năm), và cao hơn mức trung bình của vùng ĐBSH (giảm 10,22%/năm). Tốc độ giảm lao động trong NLTS của Vĩnh Phúc đứng thứ 4/11 trong vùng ĐBSH, chỉ sau Bắc Ninh (giảm trung bình 12,87%/năm), Nam Định (giảm trung bình 12,81%/năm) và Hà Nam (giảm trung bình 12,33%/năm)[22]. Lao động trong NLTS tại Vĩnh Phúc giảm phù hợp với thực tế cơ cấu của các ngành này trong cơ cấu kinh tế chung của tỉnh đang ngày càng giảm.
Hình 5. Quy mô lao động nông nghiệp năm 2020 và tốc độ tăng lao động trong nông nghiệp trung bình giai đoạn 2016-2020 của Vĩnh Phúc và các tỉnh trong vùng ĐBSH
Nguồn: TCTK
Trong khi đó, lao động làm việc trong các ngành CN-XD có xu hướng tăng nhanh, đều và ổn định. Năm 2020, lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành CN-XD tại Vĩnh Phúc chiếm 44,9% (tương ứng với 279,6 nghìn lao động), tăng 11,6 điểm phần trăm (tương ứng với 279,6 nghìn lao động) so với năm 2016 (tỷ trọng là 33,3%). CN-XD là ngành thâm dụng nhiều lao động nhất trong năm 2020, cao hơn hẳn khi so sách với NLTS và DV, phản ánh đúng với xu thế phát triển các ngành CN, chế biến chế tạo, cũng như thành quả thu hút FDI vào các ngành này tại Vĩnh Phúc trong những năm gần đây. Tốc độ tăng lao động trong ngành CN-XD tại Vĩnh Phúc trung bình đạt 7,86%/năm trong giai đoạn 2016-2020, cao hơn 1,48 lần mức bình quân chung của cả nước (5,3%/năm), gấp 1,6 lần mức bình quân chung của vùng ĐBSH (4,89%/năm). Khi so sánh với các địa phương khác trong vùng, tốc độ tăng lao động làm việc trong nhóm ngành CN-XD của Vĩnh Phúc đứng thứ 2/11 địa phương, chỉ sau Hưng Yên (tăng trung bình 9,47%/năm). Trong năm 2021, số lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong các ngành CN-XD tiếp tục tăng lên, đạt 293.217 lao động, tăng 13.582 lao động so với năm 2020.
Hình 6. Quy mô lao động trong nhóm các ngành CNXD năm 2020 và tốc độ tăng lao động trong CNXD trung bình giai đoạn 2016-2020 của Vĩnh Phúc và các tỉnh trong vùng ĐBSH
Nguồn: TCTK
Đối với các ngành Dịch vụ, tỷ trọng lao động tăng lên trong giai đoạn 2016-2020 cho thấy xu hướng ngày càng phát triển của các ngành này tại Vĩnh Phúc. Năm 2020, có 31,4% lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong các ngành DV, tăng 3,1 điểm phần trăm (tăng 19,9 nghìn lao động) so với năm 2016. Các ngành DV từ vị trí là ngành thâm dụng ít lao động nhất trong năm 2016, trong năm 2020 đã vươn lên thứ 2, vượt qua NLTS và sử dụng lao động nhiều chỉ sau các ngànhh CN-XD. Trong giai đoạn 2016-2020, lao động trong các ngành DV tại Vĩnh Phúc tăng bình quân 2,74%/năm, cao hơn mức trung bình cả nước (2,23%/năm), và cao hơn mức trung bình của Đồng bằng sông Hồng (2,3%/năm). So với các tỉnh trong vùng, tốc độ tăng lao động làm việc trong các ngành DV tại Vĩnh Phúc đứng thứ 5/11. Trong năm 2021, số lao động có việc làm trong nhóm các ngành DV tiếp tục tăng thêm 4.416 người, lên 199.752 lao động.
Hình 7. Quy mô lao động trong nhóm các ngành dịch vụ năm 2020 và tốc độ tăng lao động trong ngành Dịch vụ trung bình giai đoạn 2016-2020 của Vĩnh Phúc và các tỉnh trong vùng ĐBSH
Nguồn: TCTK
b) Chất lượng lao động
Trong những năm qua, nhờ tăng cường công tác đào tạo nghề, chất lượng nguồn nhân lực của Vĩnh Phúc được cải thiện qua từng năm. Vĩnh Phúc đã dành nhiều nguồn lực ưu tiên cho phát triển nguồn nhân lực, nhiều giải pháp phát triển nguồn nhân lực đã được triển khai đồng bộ tạo bước đột phá đáng kể về chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh, đặc biệt là nguồn nhân lực có kỹ năng nghề. Bên cạnh đó, mạng lưới các cơ sở đào tạo nghề được phát triển tương đối đa dạng về loại hình, trình độ, ngành nghề đào tạo. Công tác tuyển sinh, đào tạo sơ cấp, trung cấp, cao đẳng thực hiện linh hoạt với nhiều hình thức phong phú, đa dạng đáp ứng nhu cầu học nghề của người lao động. Đội ngũ nhà giáo phát triển cả về số lượng và chất lượng từng bước được chuẩn hóa. Trên cơ sở đó, chất lượng của người lao động tại Vĩnh Phúc đã được cải thiện đáng kể.
Năm 2020, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo tại Vĩnh Phúc đạt 28,59%, tăng 6,59 điểm phần trăm so với năm 2016 (28,59%). Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo tại Vĩnh Phúc năm 2020 cao hơn tỷ lệ chung của cả nước là 24,05%, nhưng thấp hơn so với vùng ĐBSH là 32,62%. So sánh với các địa phương khác trong vùng ĐBSH, trong năm 2020, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo của Vĩnh Phúc chỉ xếp hạng 5/11 tỉnh, thành phố, thấp hơn đáng kể so với các địa phương dẫn đầu: thấp hơn 19,91 điểm phần trăm so với Hà Nội (48,5%), thấp hơn 10,1 điểm phần trăm khi so với Quảng Ninh (38,65%) và thấp hơn 9,93 điểm phần trăm so với Hải Phòng (34,7%). Cùng với sự thay đổi trong cách thức thống kê số lượng lao động có việc làm, tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo tại Vĩnh Phúc cũng có thay đổi đáng kể. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm đã qua đào tạo tại Vĩnh Phúc năm 2021 là 34,69%, xếp thứ 4/11 tỉnh, thành phố trong vùng, sau Hà Nội (50,3%), Quảng Ninh (41,4%), và Hải Phòng (36%).
Hình 19: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo các tỉnh vùng ĐBSH năm 2020 (%)
Nguồn: TCTK
Như vậy, về cơ bản, cơ cấu lao động trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã có sự chuyển dịch đáng kể từ Nông nghiệp là nhóm ngành thâm dụng lao động nhưng có năng suất thấp sang các ngành Công nghiệp Xây dựng là những ngành có năng suất cao hơn. Sự tăng trưởng nhanh và ổn định NSLĐ trong các nhóm ngành CN-XD cho thấy các nhóm ngành này sẽ tiếp tục là nam châm hút lao động của Vĩnh Phúc trong thời gian tới. Với đóng góp chủ yếu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, lao động làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang tăng lên nhanh so với các khu vực còn lại, đây là cơ hội để lao động của Vĩnh Phúc tiếp cận với môi trường làm việc và công nghệ hiện đại theo chuẩn quốc tế.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo giai đoạn 2016-2020 đang tăng lên qua từng năm cho thấy chất lượng lao động tại tỉnh đã có sự cải thiện theo thời gian; mặc dù vậy, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của tỉnh còn thấp hơn khi so sánh với nhiều địa phương trong vùng và trong cả nước. Năm 2021, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Vĩnh Phúc đạt 34,7%, thấp hơn so với mức bình quân của vùng Đồng bằng sông Hồng (37%).
Cơ cấu lao động tại Vĩnh Phúc giai đoạn 2016-2020 vừa qua cũng bộc lộ 1 số hạn chế. Về cơ cấu lao động theo ngành, khác với xu hướng tăng tỷ trọng lao động trong nhóm ngành DV tại 1 số địa phương, tại Vĩnh Phúc, lao động trong nhóm các ngành Dịch vụ thời gian qua dao động không ổn định, sau 5 năm, lao động làm việc trong nhóm các ngành Dịch vụ còn có xu hướng giảm đi. Mặc dù chất lượng lao động tại Vĩnh Phúc đã có sự cải thiện theo hướng tích cực, tuy nhiên, khi so sánh với các địa phương khác trong vùng ĐBSH, chất lượng lao động tại Vĩnh Phúc vẫn kém hơn mức bình quân của vùng, đồng thời kém hơn nhiều so với một số địa phương dẫn đầu, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục nỗ lực hơn nữa trong nâng cao chất lượng lao động của tỉnh.
NSLĐ của Vĩnh Phúc trong giai đoạn 2016-2020 đã có sự gia tăng đáng kể. NSLĐ Vĩnh Phúc năm 2020 đạt 198,55 triệu đồng/lao động (xếp vị trí thứ 5/11 địa phương trong vùng ĐBSH), cao gấp 1,43 lần so với NSLĐ năm 2016 (139,1 triệu đồng/lao động). NSLĐ của Vĩnh Phúc nằm trong nhóm các địa phương có NSLĐ cao của vùng đồng bằng sông Hồng, và cao hơn mức trung bình NSLĐ cả nước (NSLĐ năm 2020 của cả nước là 146,68 triệu đồng/lao động, chỉ bằng 74% NSLĐ của Vĩnh Phúc).
Mặc dù NSLĐ của Vĩnh Phúc được cải thiện theo thời gian, tuy nhiên còn thấp hơn đáng kể khi so sánh với những địa phương trong vùng ĐBSH. Năm 2020, NSLĐ của Vĩnh Phúc chỉ bằng 63% NSLĐ của Quảng Ninh, 74% NSLĐ của Bắc Ninh, 77% NSLĐ của Hải Phòng, và 80% NSLĐ của Hà Nội. NSLĐ của Vĩnh Phúc giai đoạn 2016-2020 tăng trưởng trung bình 6,95%/năm, cao hơn mức trung bình của cả nước (6%/năm). So sánh với các tỉnh trong vùng ĐBSH, Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh có mức tăng trưởng NSLĐ thấp nhất, đứng thứ 9/11 địa phương. Các tỉnh có tốc độ tăng NSLĐ nhanh nhất bao gồm Hải Phòng (15,38%/năm), Quảng Ninh (11,44%/năm), Hà Nam (11,87%/năm). Năm 2021, so có sự thay đổi về cách thức thống kê số lượng lao động có việc làm trong ngành Nông nghiệp đã kéo theo sự thay đổi về số liệu thống kê NSLĐ ngành Nông nghiệp nói riêng cũng như NSLĐ toàn tỉnh nói chung, NSLĐ của Vĩnh Phúc năm 2021 đạt 238,92 triệu đồng/lao động.
Hình 20: NSLĐ các tỉnh vùng ĐBSH năm 2020
Nguồn: TCTK
Nông-lâm-thuỷ sản là nhóm ngành có NSLĐ thấp nhất tại Vĩnh Phúc. NSLĐ các ngành NLTS Vĩnh Phúc năm 2020 đạt 51,22 triệu đồng/lao động, cao gấp 2 lần so với năm 2016 (25,42 triệu đồng/lao động, giá hiện hành). Mặc dù NSLĐ ngành NLTS tại Vĩnh Phúc đã tăng gấp hơn 2 lần sau 5 năm, nhưng giá trị tuyệt đối NSLĐ của ngành NLTS tại Vĩnh Phúc là rất thấp so với cả nước cũng như các tỉnh trong vùng ĐBSH. Năm 2020, NSLĐ ngành NLTS Vĩnh Phúc là 51,22 triệu đồng/lao động, bằng 89,2% so với mức bình quân NSLĐ chung cả nước là 57,44 triệu đồng/lao động.
Khi so sánh với các địa phương khác trong vùng ĐBSH, NSLĐ ngành NLTS của Vĩnh Phúc thuộc nhóm xếp hạng thấp. Năm 2020, NSLĐ ngành NLTS Vĩnh Phúc xếp thứ 7/11 địa phương trong vùng ĐBSH, bằng 58% NSLĐ ngành NLTS Hải Phòng (địa phương xếp 1/11 vùng ĐBSH), bằng 66% NSLĐ ngành NLTS Quảng Ninh (địa phương xếp thứ 2/11 vùng ĐBSH). Tốc độ tăng NSLĐ ngành NLTS Vĩnh Phúc giai đoạn 2016-2020 là 11,36%/năm, cao hơn mức bình quân chung của cả nước (8,56%/năm), nhưng chỉ xếp thứ 9/11 địa phương và thuộc nhóm thấp nhất trong vùng. Trong năm 2021, sự điều chỉnh về thống kê lao động làm việc trong nhóm ngành Nông nghiệp đã khiến NSLĐ trong ngành này tăng lên đáng kể, từ 51,22 triệu đồng/lao động trong năm 2020 lên 104,2 triệu đồng trong năm 2021.
Công nghiệp-xây dựng mặc dù là ngành có NSLĐ cao, thu hút ngày càng nhiều lao động, tuy nhiên đây lại là ngành có mức tăng trưởng NSLĐ thấp nhất trong cả 3 nhóm ngành tại Vĩnh Phúc trong giai đoạn 2016-2020. NSLĐ ngành CN-XD Vĩnh Phúc năm 2020 là 201,17 triệu đồng/lao động, tăng 1,2 lần so với năm 2016 (166,67 triệu đồng/lao động), cao hơn mức bình quân cả nước (BQ cả nước năm 2020 là 179,05 triệu đồng/lao động). NSLĐ ngành CN-XD của Vĩnh Phúc tiếp tục tăng nhanh, đạt 223 triệu đồng/lao động vào năm 2021, tăng 10,86% so với năm 2020. Khi so sánh với các địa phương khác trong vùng ĐBSH, NSLĐ nhóm ngành CN-XD của Vĩnh Phúc thuộc nhóm khá, xếp thứ 4/11 địa phương trong năm 2020, sau Quảng Ninh, Bắc Ninh và Hải Phòng. So sánh về giá trị tuyệt đối, mặc dù xếp thứ 4, nhưng NSLĐ ngành CN-XD Vĩnh Phúc vẫn còn khoảng cách khá xa với các địa phương dẫn đầu, cụ thể NSLĐ ngành CN-XD Vĩnh Phúc năm 2020 chỉ bằng 35% NSLĐ ngành CN-XD Quảng Ninh, 55% NSLĐ ngành CN-XD Bắc Ninh và 65% NSLĐ ngành CN-XD Hải Phòng. Về tốc độ tăng NSLĐ, ngành CN-XD Vĩnh Phúc có tốc độ tăng NSLĐ rất thấp, xếp thứ 10/11 địa phương trong vùng, chỉ cao hơn Hưng Yên. Trung bình giai đoạn 2016-2020, NSLĐ ngành CN-XD tại Vĩnh Phúc tăng 0,25%/năm, thấp hơn nhiều (chỉ bằng 1/5) so với mức bình quân của cả nước là 1,28%/năm.
Khi so sánh với 2 nhóm ngành lớn là NLTS và DV, NSLĐ ngành CN-XD Vĩnh Phúc cao hơn rất nhiều. Năm 2020, NSLĐ ngành CN-XD Vĩnh Phúc (201,17 triệu đồng/lao động) cao gấp 3,93 lần NSLĐ ngành NLTS (51,22 triệu đồng/lao động) và cao gấp 1,4 lần NSLĐ ngành DV (142,97 triệu đồng/lao động).
Dịch vụ là ngành có NSLĐ cao thứ hai tại Vĩnh Phúc, chỉ sau Công nghiệp-xây dựng. Trong giai đoạn 2016-2020, NSLĐ ngành DV tại Vĩnh Phúc tăng trưởng tương đối ổn định. NSLĐ ngành DV Vĩnh Phúc năm 2020 đạt 142,97 triệu đồng/lao động, tăng 1,3 lần so với năm 2016 (109,76 triệu đồng/lao động). NSLĐ ngành DV tại Vĩnh Phúc hiện thấp hơn mức bình quân chung của cả nước (173,67 triệu đồng/lao động vào năm 2020). Năm 2021, NSLĐ ngành DV tại Vĩnh Phúc có xu hướng tăng nhưng tương đối chậm, chỉ đạt 146 triệu đồng/lao động (tăng 2,12% so với năm 2020). Khi so sánh với các địa phương khác trong vùng ĐBSH, NSLĐ ngành DV Vĩnh Phúc cũng thuộc nhóm trung bình, xếp thứ 5/11 địa phương trong năm 2020.
Tuy nhiên, khi xem xét tới tốc độ tăng NSLĐ, tốc độ tăng NSLĐ ngành DV Vĩnh Phúc lại thuộc nhóm có tốc độ tăng nhanh trong vùng ĐBSH. Trong giai đoạn 2016-2019, NSLĐ ngành DV Vĩnh Phúc có tốc độ tăng trưởng xếp thứ 2/11 địa phương vùng ĐBSH, trung bình tăng 8,9%/năm, chỉ xếp sau Hải Phòng (tăng 10,72%/năm).
3.3. Năng suất nhân tố tổng hợp
a) Khoa học và công nghệ
Đầu tư cho hoạt động KH&CN (gồm nguồn kinh phí sự nghiệp, đầu tư phát triển: KHCN và CNTT) đạt mức trung bình trong cả nước, đạt 0,8%, chưa đạt 2,0% tổng chi NSNN theo tiêu chí tại Nghị quyết số 20-NQ/TW. Kinh phí sự nghiệp KH&CN chủ yếu đầu tư nghiên cứu khoa học và nghiên cứu ứng dụng cho các lĩnh vực: các đề tài, dự án, đề án, chương trình, kế hoạch khung. Tính đến năm 2020, kinh phí sự nghiệp KH&CN giao đoạn 2011-2020 là 525,36 tỷ đồng. Kinh phí đầu tư phát triển KH&CN chủ yếu đầu tư cho các nghành KH&CN quản lý, ngành thông tin và truyền thông. Tính đến năm 2020, kinh phí đầu tư phát triển KH&CN giao đoạn 2011-2020 là 335,29 tỷ đồng. Thông qua các dự án đầu tư, tiềm lực KH&CN (cơ sở vật chất, trang thiết bị) của các cơ quan, đơn vị ngày càng được tăng cường, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước, hoặc đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ.
Nghiên cứu khoa học công nghệ và ứng dụng
Giai đoạn 2016-2020: Thực hiện 327 đề tài, dự án khoa học và công nghệ cấp tỉnh (gồm đề tài nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn và đề tài nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ), với tổng kinh phí trên 160,0 tỷ đồng.
Áp dụng thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật, lĩnh vực công nghiệp đã chế tạo thành công nhiều thiết bị, dây chuyền sản xuất, chủng loại vật liệu mới phục vụ nghành cơ khí chế tạo, năng lượng, công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp,... theo TCVN ISO 9001:2008. Hàm lượng KH&CN trong các sản phẩm chủ lực của tỉnh như ô tô, xe máy, điện, điện tử, vật liệu xây dựng ngày càng tăng,...
Các KCN Vĩnh Phúc đầu tư đổi mới công nghệ tiên tiến châu Âu, Nhật Bản, nâng cao hiệu quả sản xuất, cắt giảm tối đa chi phí sản xuất, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm... KH&CN góp phần đưa Vĩnh Phúc trở thành trung tâm phụ trợ công nghiệp của cả nước.
Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ KH&CN vào sản xuất và đời sống trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã có những bước đi, cách làm đột phá, có sự tham gia chỉ đạo sát sao, quyết tâm của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là sự tham gia tâm huyết, có trách nhiệm của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong quá trình nghiên cứu, ứng dụng, triển khai thực hiện các nhiệm vụ KH&CN. Nhiều mô hình KH&CN có hiệu quả được triển khai như: bảo tồn, phát triển cây dược liệu quý hiếm Trà hoa vàng, ba kích; trồng chanh tứ quý, cam không hạt (cam V2) chất lượng cao; nhà kính, nhà lưới ứng dụng công nghệ cao; sản xuất, cung ứng chế phẩm Biomix1; xử lý chất thải chăn nuôi bằng công nghệ tách rắn-lỏng... tuyển chọn và phát triển một số giống lúa thuộc nhóm Japonica chất lượng trên địa bàn tỉnh; trồng thử nghiệm một số giống ớt thương phẩm nhập nộị; ứng dụng công nghệ thụ tinh nhân tạo để phát triển đàn trâu lai Murrah tại Vĩnh Phúc...
b) Môi trường kinh doanh
Chỉ số PCI của Vĩnh Phúc giai đoạn 2015-2021 đã có sự cải thiện tích cực về cả điểm số và xếp hạng cho thấy nỗ lực của chính quyền địa phương trong quản lý, điều hành và cải thiện năng lực cạnh tranh của tỉnh, đặc biệt trong bối cảnh dịch COVID-19 ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sản xuất của người dân và doanh nghiệp trong giai đoạn 2020-2021. Về điểm số, mặc dù tại các năm giữa giai đoạn 2015-2021, điểm số PCI của Vĩnh Phúc khá biến động, không ổn định, song nhìn chung xu hướng chung cả giai đoạn là tích cực, điểm đánh giá PCI của Vĩnh Phúc trong giai đoạn 2015-2021 nhìn chung đã có cải thiện, tổng điểm đánh giá đã tăng từ 62,56 điểm vào năm 2015 lên 69,69 điểm vào năm 2021 (tăng 7,13 điểm). Năm 2015, chỉ số PCI của Vĩnh Phúc xếp hạng rất cao so với các tỉnh, thành, đứng thứ 4/63 trong cả nước; sang năm 2016, sự sụt giảm mạnh tổng điểm đánh giá xuống chỉ còn 57,82 (giảm 4,74 điểm) đã khiến thứ hạng của Vĩnh Phúc cũng giảm sâu, xuống 37/63. Trong các năm sau đó, mặc dù tổng điểm đánh giá PCI của Vĩnh Phúc đã tăng trở lại, cao hơn mốc 62,56 điểm của năm 2015, tuy nhiên, do hầu hết các địa phương trong cả nước đều có sự cải thiện về thể chế và môi trường kinh doanh, dẫn đến trong bảng xếp hạng chung, Vĩnh Phúc vẫn luôn nằm ngoài nhóm 10 địa phương có xếp hạng PCI cao nhất cả nước, năm 2020 vẫn ở hạng 29/63. Tuy vậy, chỉ số PCI của tỉnh Vĩnh Phúc cải thiện đáng kể trong năm 2021. Năm 2021, với sự hiệu quả từ các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc. Trong tổng số 10 chỉ số thành phần trong năm 2021, Vĩnh Phúc chỉ có 02/10 chỉ số giảm điểm và giảm thứ hạng[23], 01 chỉ số giảm điểm và tăng thứ hạng[24], 07/10 chỉ số tăng điểm và tăng thứ hạng[25]. Chính vì vậy, về tổng thể, Vĩnh Phúc đã tăng thứ hạng trở lại, chỉ số PCI của Vĩnh Phúc tăng cả về điểm số và thứ hạng. Thứ hạng PCI của Vĩnh Phúc vượt 24 bậc so với năm 2020, lên thứ 5/63 tỉnh, thành phố trong cả nước, vượt mục tiêu của tỉnh (nằm trong top 20). Với kết quả bứt phá trong năm 2021, Vĩnh Phúc đã quay trở lại nhóm các địa phương có chất lượng điều hành tốt nhất trong cả nước. Khi so sánh với các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng, Vĩnh Phúc cũng thuộc nhóm có điểm số và thứ hạng cao khi chỉ xếp sau Quảng Ninh (xếp thứ 1/63) và Hải Phòng (xếp thứ 2/63).
Trong số các chỉ số thành phần tăng về điểm số và thứ hạng, chỉ số Tiếp cận đất đai tăng đến 54 bậc lên vị trí thứ 07/63 tỉnh/thành phố, là chỉ số có mức tăng cao nhất của tỉnh Vĩnh Phúc; đứng thứ hai là chỉ số Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tăng 41 bậc lên vị trí 18/63 tỉnh thành phố; chỉ số Chi phí không chính thức tăng 40 bậc lên vị trí 03/63 tỉnh, thành phố; chỉ số Cạnh tranh bình đẳng tăng 35 bậc lên vị trí 07/63 tỉnh, thành phố. Hai chỉ số giữ thứ hạng cao nhất của tỉnh Vĩnh Phúc là chỉ số Chi phí thời gian và Chi phí không chính thức đều xếp hạng 03/63 tỉnh, thành phố. Hầu hết các chỉ số thành phần đều đạt điểm số và thứ hạng cao so với năm 2020. 02 chỉ số có sự giảm sâu về cả thứ hạng và điểm số là Chỉ số Tính minh bạch giảm 32 bậc và Chỉ số Gia nhập thị trường giảm 14 bậc đây là các chỉ số cần được Vĩnh Phúc quan tâm và cải thiện trong thời gian tới.
c) Chất lượng chính quyền
Thời gian qua, Vĩnh Phúc luôn đặc biệt quan tâm đến công tác cải cách thủ tục hành chính và coi đây là khâu đột phá để cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX). Qua 10 năm thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2010-2020, tỉnh Vĩnh Phúc đều đạt và vượt mục tiêu theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ và Nghị quyết số 60/NQ-HĐND ngày 19/7/2012 của Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc. Nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức về cải cách hành chính (CCHC) được nâng lên; tinh thần, thái độ và ý thức trách nhiệm trong giải quyết công việc được nâng cao; cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư tốt hơn, cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và mang lại hiệu quả cao; bộ máy hành chính được tổ chức khoa học; hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước được nâng cao; thể chế, bộ máy các cơ quan hành chính ngày càng hoàn thiện, phát huy dân chủ và thực hiện chế độ công khai, minh bạch; công tác ban hành văn bản tiếp tục đổi mới về chất lượng, nội dung và quy trình góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Vĩnh Phúc đã kết nối 651 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 với Cổng Dịch vụ công quốc gia; chỉ đạo, thực hiện rút ngắn tối thiểu 20% thời hạn giải quyết của 825 thủ tục hành chính có thời hạn giải quyết trên 10 ngày làm việc, đặc biệt là các thủ tục hành chính liên quan đến quá trình đầu tư của doanh nghiệp theo hướng công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp sản xuất, mở rộng đầu tư, kinh doanh. Đồng thời, tăng cường kiểm soát, đôn đốc quá trình xử lý hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính tại các cơ quan, đơn vị, địa phương, gắn với vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu tại các cơ quan. Nhờ những nỗ lực không ngừng, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị cùng những giải pháp bứt phá về cải cách thủ tục hành chính, sau những thụt lùi về điểm số và thứ hạng trong giai đoạn 2016-2020, vào năm 2021, Vĩnh Phúc đã lọt vào nhóm 5 địa phương dẫn đầu cả nước về xếp hạng Chỉ số cải cách hành chính năm 2021, tăng 10 bậc so với năm 2020. Khi so sánh với các tỉnh khác trong vùng Đồng bằng sông Hồng, trong năm 2021, Vĩnh Phúc chỉ xếp sau Hải Phòng (hạnhg 1/63) và Quảng Ninh (hạng 2/63) trong thực hiện cải cách hành chính.
Hiệu quả chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc cải thiện đáng kể trong giai đoạn 2016-2021. Chỉ số PAPI tại Vĩnh Phúc đã biến động tăng giảm liên tục từ năm 2015 đến 2021, đã giảm từ hạng 30/63 vào năm 2015 xuống 41/63 vào năm 2016, và sau đó tăng nhẹ lên mức 38/63 vào năm 2017. Kể từ năm 2018, sau khi có sự bổ sung thêm 2 chỉ số thành phần mới đánh giá về Quản trị môi trường và Quản trị điện tử[26], thứ hạng của Vĩnh Phúc đã bắt đầu được cải thiện theo chiều hướng tích cực hơn, khi đạt thứ hạng 16/63 vào năm 2018. Trong thời gian 3 năm gần đây, thứ hạng PAPI của Vĩnh Phúc lại đang có chiều hướng giảm nhẹ, đứng ở vị trí thứ 23/63 vào năm 2021, thuộc nhóm có điểm số trung bình cao. Trong đó, trong năm 2021, các mặt đạt kết quả khá cao của tỉnh là sự cải thiện thủ tục hành chính công (đứng đầu cả nước); cung ứng dịch vụ công (vị trí 7/63) và quản trị điện tử (5/63). Trong khi đó tỉnh không được đánh giá cao về quản trị môi trường (chỉ đạt 3/10 điểm, xếp vị trí 57/63). Về chỉ số quản trị điện tử, điểm đánh giá của Vĩnh Phúc trong năm 2021 cũng chỉ đạt 3,3/10 điểm. Về tổng thể, mặc dù có nhiều chỉ số được đánh giá cao, hiệu quả chính quyền của tỉnh không đạt kết quả cao so với các tỉnh trong vùng. Xếp hạng PAPI của Vĩnh Phúc là tương đối thấp, khi trong năm 2021, điểm số PAPI của Vĩnh Phúc chỉ xếp thứ 8/9 tỉnh, thành phố trong vùng ĐBSH (loại trừ Quảng Ninh và Bắc Ninh chưa có thông tin đánh giá).
Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS)[27] là khá cao. Năm 2017 là năm đầu tiên thực hiện xếp hạng SIPAS, Vĩnh Phúc đã đứng thứ 1 toàn quốc, tuy nhiên, Vĩnh Phúc không giữ được thứ hạng đó ở các năm tiếp theo. Theo kết quả công bố của Ban Chỉ đạo CCHC của Chính phủ, năm 2017 chỉ số SIPAS của tỉnh Vĩnh Phúc đạt 95,75%, xếp thứ nhất trên 63 tỉnh, thành phố; năm 2018, đạt 88,2%, xếp thứ 13/63 tỉnh, thành phố; năm 2019, đạt 83,4%, xếp thứ 11/63 tỉnh, thành phố; năm 2020, đạt 90,5%, xếp thứ 6/63 tỉnh, thành phố. Trong đó, 4/5 tiêu chí có tỷ lệ đánh giá hài lòng trên 90%, như tiêu chí tiếp cận dịch vụ đạt 91,33%; thủ tục hành chính (TTHC): 93,1%; công chức tiếp nhận và giải quyết TTHC: 90,9%; kết quả dịch vụ công: 93,7%; việc tiếp nhận, xử lý ý kiến góp ý, phản ánh kiến nghị: 82,7%. Ngoài ra, các nhận định, đánh giá của người dân năm 2020 đều cải thiện mạnh mẽ so với năm 2019, cụ thể: tỷ lệ hài lòng về tiếp cận dịch vụ nói chung đạt 91,33%; tỷ lệ hài lòng về TTHC đạt 93,1%; tỷ lệ hài lòng công chức tiếp nhận và xử lý hồ sơ TTHC đạt 90,1%; việc tiếp nhận xử lý phản ánh kiến nghị đạt 82,7%[28]. Những chỉ số này, thể hiện sự tiến bộ, tích cực của các cấp chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc trong việc xây dựng nền hành chính chính quyền chuyên nghiệp, hiện đại, năng động, trách nhiệm, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của người dân và các tổ chức trong tỉnh.
Tuy nhiên, sang năm 2021, mặc dù đây là năm đầu tiên Vĩnh Phúc lọt vào top 5 địa phương dẫn đầu về chỉ số cải cách hành chính (PAR), nhưng đồng thời cũng là năm mà kết quả SIPAS lại giảm mạnh, tụt xuống hạng thứ 29/63 trong bảng xếp hạng, với tỷ lệ hài lòng là 87,14%, giảm 23 bậc so với năm 2020. Trong số các tiêu chí đánh giá của SIPAS 2021, Vĩnh Phúc xếp thứ 10/63 đối với chỉ số hài lòng về TTHC với 90,9 điểm; xếp thứ 26/63 đối với chỉ số hài lòng về tiếp cận dịch vụ với 88,96 điểm; xếp thứ 35 đối với chỉ số hài lòng về cán bộ, công chức với 87,5 điểm; xếp thứ 42 đối với chỉ số về việc tiếp nhận, xử lý ý kiến với 78,7 điểm. Khi so sánh với các địa phương khác trong vùng Đồng bằng sông Hồng, xếp hạng SIPAS của Vĩnh Phúc không ổn định và ở mức trung bình, cách biệt khá xa với các tỉnh có thành tích cao nổi bật như Quảng Ninh (nhiều năm liền xếp hạnh 1/63), hay Hải Phòng, Hưng Yên, Hải Dương (đều là các tỉnh nhiều năm liên tiếp nằm trong top 10 tỉnh có thứ hạng SIPAS cao nhất cả nước)
d) Các yếu tố khác (Đất đai)
Đất đai là một trong những nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc. Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 là 123,6 nghìn ha, trong đó đất nông nghiệp là 91,4 nghìn ha, đất phi nông nghiệp là 35,1 nghìn ha. Hoạt động nông nghiệp sử dụng đất cho thấy xu hướng đất trồng lúa giảm xuống (còn 31,9 nghìn ha, giảm 2,7 nghìn ha so với năm 2010), thay vào đó là đất trồng cây lâu năm có xu hướng tăng lên (tăng thêm 5,2 nghìn ha so với năm 2010, đạt trên 13,7 nghìn ha). Đất nuôi trồng thủy sản tăng thêm 1,2 nghìn ha so với năm 2010, đạt trên 4,7 nghìn ha. Việc chuyển đổi sử dụng đất sang các hoạt động kinh tế có hiệu quả cao hơn đóng vai trò quan trọng trong việc cơ cấu lại hoạt động của ngành nông, lâm thủy sản trên địa bàn. Đất phi nông nghiệp được bố trí cho phát triển khu công nghiệp, phát triển hạ tầng, nâng cấp, mở rộng và làm mới các tuyến đường giao thông, các dự án về du lịch, công trình hạ tầng xã hội. Việc sử dụng đất hiệu quả, phù hợp với các hoạt động kinh tế góp phần tích cực trong việc cơ cấu lại nền kinh tế của tỉnh, cụ thể:
- Diện tích đất trồng lúa, trồng cây hàng năm khác, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được duy trì và phát triển. Đáp ứng được mục tiêu an toàn lương thực và tạo thu nhập cho người dân.
- Thực hiện giao đất sản xuất nông nghiệp ổn định cùng với các chính sách đẩy mạnh sản xuất hàng hóa đã làm cho nông dân năng động hơn, bố trí hợp lý cơ cấu cây trồng, vật nuôi...
- Diện tích đất dành cho mở rộng du lịch trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm gần đây luôn được quan tâm và phát triển. Đặc biệt là diện tích đất thương mại, dịch vụ như các khu resot, nhà hàng, khách sạn, điểm bán hàng,... phục vụ cho nhu cầu du lịch đang ngày càng phát triển như hiện nay.
- Việc bố trí quỹ đất đáp ứng nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển công nghiệp, dịch vụ, chỉnh trang và xây dựng mới cơ sở hạ tầng các khu dân cư đô thị, nông thôn đã tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển với tốc độ tăng khá, giúp cho việc giao lưu của người dân thuận tiện hơn và người dân được hưởng thụ những lợi ích từ cơ sở hạ tầng đem lại, tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Đất đai của tỉnh đã được khai thác đưa vào sử dụng đạt 98% diện tích tự nhiên. Việc chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất của 3 nhóm đất chính cũng như các loại đất trong tỉnh cho thấy những năm gần đây việc sử dụng đất của tỉnh đã hợp lý hơn. Cơ cấu trong nội bộ đất nông nghiệp đang dần được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ lệ sử dụng đất dành cho các loại hình sử dụng đất có hiệu quả kinh tế cao như trồng lúa, trồng rau màu, trồng cây lâu năm... tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn thấp so với yêu cầu phát triển và so với tổng diện tích đất nông nghiệp.
Tuy nhiên, quá trình phân bổ đất đai, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong giai đoạn 2016-2020 còn bộc lộ nhiều hạn chế, chủ yếu do:
- Cơ cấu sử dụng đất trong nội bộ đất phi nông nghiệp còn chưa hợp lý. Diện tích đất có ý nghĩa quan trọng đối với chiến lược quốc phòng - an ninh, đất trụ sở các cơ quan, đất sản xuất kinh doanh, đất thương mại, dịch vụ và đất các công trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh như đất giao thông, đất cho các công trình sản xuất mới chỉ chiếm khoảng 6,76% diện tích đất tự nhiên của tỉnh.
- Còn thiếu tính đồng bộ giữa quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng (chưa có sự thống nhất về không gian và thời gian, nội dung lập và điều chỉnh quy hoạch còn nhiều điểm khác nhau ở hệ thống quy hoạch, việc xác định các chỉ tiêu sử dụng đất của cùng một giai đoạn được xác định không thống nhất...); quy hoạch các khu công nghiệp, đô thị, khu dân cư nông thôn, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, quy hoạch xây dựng nông thôn mới chưa thống nhất và tuân thủ theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Thiếu các giải pháp có tính khả thi để thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; trong đó có hai khâu quan trọng là không cân đối đủ nguồn vốn cho xây dựng hạ tầng và sự bất cập trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất dẫn đến các công trình, dự án thường kéo dài tiến độ thực hiện. Tình trạng dự án sau khi giải phóng mặt bằng còn bỏ hoang hóa trong khi người dân thiếu đất sản xuất.
- Một số tổ chức kinh tế lập dự án đầu tư và hồ sơ đất đai chậm, một số hạng mục công trình đã có trong chỉ tiêu kế hoạch sử dụng đất hàng năm nhưng cơ quan chủ đầu tư chưa lập xong dự án và hồ sơ đất đai, nên phải lùi tiến độ thực hiện.
- Việc tổ chức, kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt thực hiện chưa nghiêm và chưa thường xuyên; việc công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhiều nơi còn mang tính hình thức.
- Kế hoạch sử dụng đất hàng năm chưa sát với thực tiễn, do chưa bám sát vào quy hoạch sử dụng đất đã được duyệt mà thường chỉ căn cứ vào nhu cầu sử dụng đất của cấp huyện, cấp xã và các tổ chức sử dụng đất. Việc đăng ký nhu cầu sử dụng đất của các tổ chức còn chủ quan, không có dự án tiền khả thi nên không có khả năng thực hiện.
4. Đánh giá chung
4.1. Thành tựu
Trong bối cảnh cả nước thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, tỉnh Vĩnh Phúc có điều kiện thuận lợi trong thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế trên địa bàn tỉnh. Sau 5 năm triển khai thực hiện, tỉnh đạt được những kết quả tích cực.
Tăng trưởng kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc đạt cao so với cả nước và so với giai đoạn trước, quy mô GRDP bình quân đầu người có xu hướng tăng nhanh. Cơ cấu các ngành kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp xây dựng. Mặc dù năm 2020 là năm chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch COVID-19, nhưng tốc độ tăng trưởng của tỉnh vẫn đạt mức khá so với mặt bằng chung của cả nước.
Chuyển đổi cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp tiếp tục được đẩy mạnh, sản xuất nông nghiệp có sự chuyển dịch sang các ngành chăn nuôi với giá trị gia tăng cao hơn. Tiếp tục tăng cường ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nhờ đó tiếp tục đẩy nhanh năng suất cây trồng, vật nuôi. Cơ cấu cây trồng được chuyển đổi sang giống cây có năng suất và sản lượng cao hơn. Trong khi giá trị gia tăng của ngành tiếp tục được mở rộng, lao động nông nghiệp có xu hướng giảm và chuyển dịch sang các ngành khác, năng suất lao động của ngành NLTS tăng nhanh nhất trong các ngành kinh tế.
Chuyển đổi cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp theo hướng đa dạng hóa sản phẩm, trong đó các ngành mũi nhọn của tỉnh là ngành sản xuất phương tiện vận tải, sản xuất linh kiện điện tử, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất trang phục. Trong đó, ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học chiếm tỷ trọng lớn nhất và tăng trưởng nhanh nhất trong các ngành công nghiệp. Công nghiệp năng lượng tái tạo được quan tâm đầu tư và bắt đầu có dự án đi vào hoạt động.
Chuyển đổi cơ cấu nội bộ ngành dịch vụ cho thấy sự tăng lên rõ rệt của các ngành dịch vụ thương mại, dịch vụ y tế và giáo dục. Lợi thế phát triển các dịch vụ vận tải kho bãi ngày càng được phát huy khi tỷ trọng đóng góp của ngành ngày càng tăng. Thương mại quốc tế của tỉnh ngày càng có quy mô lớn với độ mở kinh tế lớn so với cả nước. Hệ thống hạ tầng du lịch đã được đầu tư và từng bước cải thiện, hoạt động du lịch của tỉnh tăng ổn định qua các năm.
Tỉnh cơ bản hoàn thành công tác sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước, tăng cường công tác giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà ước theo đúng tinh thần cơ cấu lại DNNN để hoạt động khu vực này có hiệu quả hơn.
Cơ cấu lại NSNN đạt những kết quả đáng ghi nhận. Tỷ trọng thu nội địa vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong thu ngân sách địa phương. Cơ cấu chi ngân sách ngày càng hợp lý khi tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng lên. Tỉnh Vĩnh Phúc có tỷ lệ thu thuế cao trong GRDP và luôn duy trì mức thặng dư ngân sách do đó có sự chủ động trong các nguồn chi ngân sách của tỉnh.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội của tỉnh tiếp tục xu hướng tăng nhanh, tập trung chủ yếu và tăng dần cho đầu tư xây dựng cơ bản. Các ngành CNCBCT, xây dựng, thương mại là những ngành thu hút nguồn vốn đầu tư chủ yếu. Thu hút vốn nước ngoài đạt nhiều thành tựu, vốn của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh trong giai đoạn 2016-2020.
Công tác quản lý đầu tư công được quan tâm chỉ đạo, giám sát chặt chẽ; quyết liệt trong điều hành, trong đó tập trung vào công tác giải phóng mặt bằng, thi công công trình và giải ngân nguồn vốn đầu tư công. Nguồn vốn đầu tư công được tỉnh chủ động huy động từ nguồn ngân sách, ít phụ thuộc vào nguồn vốn vay.
Chất lượng lao động ngày càng được cải thiện. Vĩnh Phúc đã dành nhiều nguồn lực ưu tiên cho phát triển nguồn nhân lực, nhiều giải pháp phát triển nguồn nhân lực đã được triển khai đồng bộ tạo bước đột phá đáng kể về chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh, đặc biệt là nguồn nhân lực có kỹ năng nghề.
Tác động tổng hợp của các biện pháp cơ cấu lại nền kinh tế đã tạo được sự chuyển dịch bước đầu về chất lượng tăng trưởng, tăng NSLĐ, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế dần dịch chuyển sang chiều sâu, thể hiện ở mức đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng kinh tế ngày một lớn. NSLĐ có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm.
4.2. Hạn chế
Cơ cấu lại nền kinh tế trên địa bàn tỉnh còn chưa thực sự đi vào thực chất nhằm giải quyết những hạn chế trong tăng trưởng của tỉnh.
Cơ cấu lại, phát triển công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thiếu bền vững; chưa tạo ra được những ngành công nghiệp trong nước có năng lực cạnh tranh cao. Sản xuất công nghiệp chủ yếu là gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp. Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp trong nước dẫn đến tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp đạt thấp; nguyên vật liệu, linh kiện phục vụ sản xuất trên địa bàn còn phụ thuộc lớn vào bên ngoài. Tỷ lệ nội địa hóa thấp, phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thâm hụt thương mại kéo dài. Năng suất lao động của ngành mặc dù cao so với các ngành kinh tế khác nhưng gần như không tăng trong cả giai đoạn 2016-2020.
Cơ cấu lại, phát triển nông nghiệp tăng trưởng chậm. Tăng trưởng ngành NLTS ở mức rất thấp so với bình quân cả nước và cả vùng ĐBSH. Sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún. Năng suất cây trồng như lúa, ngô có xu hướng tăng nhưng vẫn chưa đạt được mức bình quân cả nước. Đổi mới tổ chức sản xuất còn chậm; đa số doanh nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp có quy mô nhỏ, hoạt động hiệu quả chưa cao. Việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế.
Chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng; tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ còn khá thấp so với bình quân ngành dịch vụ của vùng ĐBSH. Các ngành dịch vụ phục vụ công nghiệp như tài chính ngân hàng, vận tải kho bãi, logistic còn phát triển chưa tương xứng với nhu cầu. Du lịch tăng trưởng nhanh nhưng chất lượng tăng trưởng chưa được chú trọng, chưa có nhiều sản phẩm đa dạng và chưa đảm bảo tính bền vững.
Thu NSĐP chưa bền vững, tỷ trọng khoản thu một lần như thu từ đất đai còn chiếm tỷ trọng lớn. Đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn thu của địa phương gây ra những rủi ro tiềm ẩn khi nguồn thu còn thiếu tính đa dạng.
Khu vực kinh tế tư nhân chưa thực sự phát huy được vai trò động lực. Đây là khu vực quy mô nhỏ, vốn ít và có dấu hiệu bị lấn át bởi khu vực đầu tư nước ngoài. Tăng trưởng khu vực tư nhân còn khá chậm so với khu vực cá thể và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực tư nhân của tỉnh có dấu hiệu thu hẹp nguồn vốn, sức chống chịu yếu với các cú sốc bên ngoài, chưa trở thành động lực chính trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
4.3. Nguyên nhân
a) Nguyên nhân khách quan
Bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, tác động tiêu cực đến quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Bối cảnh quốc tế đã có nhiều yếu tố rủi ro như bất ổn địa chính trị, chiến tranh thương mại diễn ra gay gắt, đặc biệt là chiến tranh thương mại Mỹ-Trung Quốc, xu thế chuyển sang các chính sách hướng nội, thậm chí tiến tới chủ nghĩa bảo hộ, và chủ trương đưa sản xuất về trong nước của một số nước phát triển, … Trong khi đó, độ mở của tỉnh khá lớn, dễ dàng chịu tác động từ các cú sốc bên ngoài, gây khó khăn, hạn chế cho khả năng nắm bắt, phân tích, dự báo, khả năng cạnh tranh và tính tự chủ các giải pháp phát triển kinh tế của tỉnh.
Những yếu tố bất thường xảy ra như dịch bệnh trên động vật, dịch COVID-19 ảnh hưởng nghiêm trong đến quá trình thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, đặc biệt là ngành nông nghiệp.
Thể chế, chính sách liên quan còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, là rào cản thực hiện tại địa phương.
CMCN 4.0 đã và đang nổi lên mạnh mẽ với nhiều thách thức mới và to lớn trong đổi mới tư duy, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, với nhiều công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới như kinh tế chia sẻ, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn và đổi mới sáng tạo, … trong sản xuất, kinh doanh.
b) Nguyên nhân chủ quan
Mặc dù có sự thay đổi căn bản nhưng nhận thức một số vấn đề về cơ cấu lại nền kinh tế còn chưa được sâu sắc, các mối quan tâm về chất lượng tăng trưởng, chuyển đổi mô hình tăng trưởng giữa các cấp, các ngành còn chưa đúng mức. Tỉnh đã có chủ động trong việc chỉ đạo triển khai chủ trương, chính sách cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng nhưng còn thiếu các Đề án, chính sách triển khai tổng thể thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế cũng như Kế hoạch cơ cấu lại cho từng ngành kinh tế, từng lĩnh vực kinh tế.
Còn thiếu sự phối hợp hành động, kịp thời giữa các đơn vị, sở, ngành trong thực hiện các nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế của tỉnh. Một số nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế có tính chất liên ngành, đa lĩnh vực, đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều đơn vị để tạo sự đồng thuận nhưng còn khó khăn.
5. Đánh giá mô hình tăng trưởng
- Mô hình tăng trưởng kinh tế của Vĩnh Phúc theo chiều rộng, phụ thuộc nhiều vào yếu tố vốn. Đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh là yếu tố vốn. Trong giai đoạn 2016-2020, tăng trưởng vốn của tỉnh đạt bình quân 11,1%/năm, nhanh gấp 1,4 lần so với tốc độ tăng trưởng vốn của cả nước trong cùng giai đoạn. Các nguồn vốn đều tăng trưởng nhanh nhưng đáng kể là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, tăng bình quân đạt 18,1%/năm khiến cho tỉnh Vĩnh Phúc nằm trong các tỉnh tốp đầu của vùng ĐBSH trong thu hút FDI giai đoạn 2016-2020 trong khi tăng trưởng khu vực này của cả nước bình quân chỉ đạt 6,4%/năm. Tỷ trọng vốn FDI trên tổng vốn của cả nước năm 2020 chỉ là 16,5% nhưng tỉnh Vĩnh Phúc đạt tới 34,9%. Nhờ tăng trưởng vốn nhanh, kết cấu hạ tầng của tỉnh đã tương đối được đầu tư phát triển, nhất là hạ tầng kết nối liên vùng tương đối hoàn chỉnh đã góp phần quan trọng vào thu hút vốn FDI cho tỉnh. Các khu, cụm công nghiệp được đầu tư, hình thành cụm ngành công nghiệp chuyên về sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy với các đối tác điện tử lớn của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Nhờ đó, tăng trưởng kinh tế của tỉnh duy trì ở mức tăng trưởng nhanh và khá cao so với mặt bằng chung của vùng ĐBSH và cả nước. Ước tính đóng góp của các yếu tố vốn bình quân giai đoạn 2016-2019 khoảng 55,6%, riêng năm 2020, do tăng trưởng thấp trong khi vốn tăng trưởng khá cao do đó đóng góp của vốn tăng mạnh trong năm này (trên 95%, yếu tố lao động ảnh hưởng tiêu cực làm giảm tăng trưởng khoảng 28% do lao động giảm 0,8% trong năm này), do đó bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt trên 63,5%. Trong khi đó, đóng góp của các yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) duy trì bình quân đạt 41,7% giai đoạn 2016-2019, thấp so với bình quân cả nước là 45,7%.
Hình 21: Đóng góp yếu tố cho mô hình tăng trưởng giai đoạn 2016-2019
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tổng hợp
Cơ cấu kinh tế cho thấy ngành công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc. Tỷ trọng giá trị gia tăng ngành công nghiệp xây dựng của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 đạt 45,5%, tiếp tục tăng lên 48% trước những khó khăn trong giai đoạn chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19. Tương tự, nguồn vốn đầu tư cho ngành này đang chiếm tới 49% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh (bình quân cả nước chỉ là 42%) và có xu hướng vượt ngành dịch vụ. Tăng trưởng ngành nhanh, đóng góp lớn là những đặc điểm cho thấy mô hình tăng trưởng của tỉnh là kết quả của quá trình công nghiệp hóa đạt được nhiều thành tựu.
Mô hình tăng trưởng theo hướng hiện đại đã được thể hiện ngày càng rõ rệt. Đã có nhiều thành quả ứng dụng công nghệ, hiệu quả sản xuất được tăng lên duy trì đóng góp của TFP ở mức khá cao. Tỉnh đã có nhiều thành tự tiến bộ kỹ thuật, lĩnh vực công nghiệp đã chế tạo thành công nhiều thiết bị, dây chuyền sản xuất,chủng loại vật liệu mới phục vụ sản xuất, cơ khí chế tạo, năng lượng, công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp công nghệ cao. Với nguồn vốn FDI lớn, nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lớn của nhiều đối tác chiến lược với Việt Nam đã đầu tư trên địa bàn tỉnh. Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ KH&CN vào sản xuất và đời sống trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã có những bước đi, cách làm đột phá, có sự tham gia chỉ đạo sát sao, quyết tâm của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là sự tham gia tâm huyết, có trách nhiệm của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong quá trình nghiên cứu, ứng dụng, triển khai thực hiện các nhiệm vụ KH&CN. Nhiều mô hình KH&CN có hiệu quả được triển khai. Trên địa bàn tỉnh đã có những thay đổi rõ rệt nhằm cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh có tính chiến lược, chú trọng thu hút, phát triển doanh nghiệp lớn, có uy tín, năng lực và sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, không ảnh hưởng môi trường; khuyến khích đổi mới công nghệ sản xuất, kinh doanh, đáp ứng hội nhập quốc tế, thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển nhanh, bền vững.
Tuy vậy, mô hình tăng trưởng như vậy bộc lộ một số hạn chế, đó là:
Một là, vốn đầu tư đổ vào quá nhanh trong khi tăng trưởng kinh tế mặc dù cao nhưng duy trì ở mức tương đối ổn định cho thấy hiệu quả sử dụng vốn có xu hướng giảm xuống. Hệ số ICOR năm 2016 ước tính ở mức 4,3, tăng lên 5,1 năm 2019 và riêng năm 2020 là 13,2. Vốn là nguồn lực có hạn, đặc biệt là sự phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài quá lớn là điểm yếu do nguy cơ rủi ro và tính bất định của nguồn vốn này. Thị trường xe máy có dấu hiệu bão hòa, sản phẩm ô tô trong nước đã có và tăng sức cạnh tranh với thị trường xe lắp ráp trong khi Việt Nam thực hiện các cam kết FTAs khiến thuế nhập khẩu giảm vì vậy nhiều doanh nghiệp chuyển sang nhập khẩu thay vì sản xuất và lắp ráp trong nước. Tỉnh Vĩnh Phúc là một trong số ít các tỉnh thuộc vùng ĐBSH có thâm hụt thương mại, cho thấy việc sản xuất chỉ là gia công lắp ráp, chưa kết nối được với doanh nghiệp phụ trợ trong nước, giá trị gia tăng tạo ra không lớn trong khi phần thu nhập khá lớn của tỉnh chuyển ra nước ngoài.
Hai là, sự lấn át doanh nghiệp nội địa trên địa bàn tỉnh. Việc chú trọng phát triển doanh nghiệp trên địa bàn được HĐND tỉnh Vĩnh Phúc quan tâm với nhiều chính sách đặc thù được ban hành, số lượng doanh nghiệp trên địa bàn tăng bình quân 18%/năm, cao gấp 2,5 lần bình quân của vùng ĐBSH nhưng lại đa số là doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (97,7%). Số lượng doanh nghiệp nội địa khá nhiều nhưng doanh nghiệp có quy mô lớn trên 200 lao động chỉ chiếm 0,7%, còn khu vực FDI là 29,8%. Trong giai đoạn 2016-2020, trong khi vốn của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng bình quân 70,8%/năm thì vốn của tổ chức doanh nghiệp nội địa trên địa bàn lại giảm bình quân 7%/năm.
Ba là, công nghiệp hóa nhanh gây ra những hệ lụy về xã hội và môi trường: Lao động tập trung đông tại các khu, cụm công nghiệp dẫn đến việc giải quyết các vấn đề về môi trường sống, an ninh xã hội, hạ tầng giáo dục, y tế chưa đáp ứng kịp với nhu cầu. Tiếp đó là tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải sinh hoạt và công nghiệp, ô nhiễm bụi, tiếng ồn… ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người dân.
Bốn là, công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh nhưng Vĩnh Phúc mới chỉ tham gia vào được giai đoạn có giá trị gia tăng thấp. Ngành công nghiệp trong những năm gần đây chủ yếu phát triển dựa trên các ngành lắp ráp điện tử, lắp ráp ô tô, xe máy, giá trị gia tăng tạo ra chưa lớn, chưa có các ngành công nghiệp chuyên sâu, công nghiệp công nghệ cao, về lâu dài, không tạo ra sự đột phá trong tăng trưởng kinh tế tỉnh.
Năm là, tăng trưởng đang phụ thuộc nhiều vào yếu tố FDI là rất rủi ro trong khi khu vực tư nhân trên địa bàn sức chống chịu thấp. Đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GRDP của tính chiếm tới 32,9%, là khu vực chủ chốt và gấp 3 lần tỷ trọng của khu vực tư nhân trong nước. Vai trò của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng trong giai đoạn 2016-2020 do tốc độ tăng trưởng vốn của khu vực này rất lớn, bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 78,9%/năm, gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng vốn khu vực tư nhân và dân cư trên địa bàn tỉnh, do đó, tỷ trọng vốn FDI đến năm 2020 chiếm 45,4% tổng vốn thực hiện trên địa bàn. Đáng chú ý, riêng khu vực công nghiệp, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 79,54% tổng giá trị sản xuất của khu vực này năm 2019 càng khẳng định vai trò quan trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong khu vực công nghiệp. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài dự kiến đóng góp tới 2,8 tỷ USD giai đoạn 2016-2020, nộp NSNN 0,53 tỷ USD và giải quyết việc làm cho khoảng 117,6 nghìn người lũy kế đến năm 2020, tương đương 18,9% lực lượng lao động của tỉnh. Tuy vậy, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tạo nguy cơ tiềm ẩn. Nhìn chung, hoạt động sản xuất và đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài vẫn chủ yếu dựa trên gia công lắp ráp sử dụng lao động giá rẻ và tạo ra ít giá trị gia tăng. Tỷ lệ nội địa hóa và lan tỏa thay đổi không đáng kể, đóng góp thấp vào việc chuyển giao công nghệ cũng như quá trình công nghiệp hóa tại Việt Nam. Bên cạnh đó, việc phụ thuộc vào một vài doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lớn, cụ thể như TOYOTA và HONDA, tăng trưởng kinh tế bị ảnh hưởng và nguồn thu ngân sách trên địa bàn thiếu bền vững khi các doanh nghiệp này thay đổi chiến lược sản xuất, kinh doanh hoặc gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Sáu là, vốn FDI đang cho thấy sự chững lại về hiệu quả. Tỷ trọng vốn/GRDP của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng mạnh từ mức chỉ là 26% năm 2015 lên 43% năm 2021 (cao nhất là 47% năm 2019 sau đó giảm về 38% năm 2020 do ảnh hưởng của dịch COVID-19), vượt khu vực kinh tế ngoài nhà nước là 40%. Vốn FDI tăng nhanh nhưng giá trị gia tăng tạo ra chưa tương xứng và hiệu quả sử dụng vốn có xu hướng giảm. Hệ số ICOR của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên đáng kể trong năm 2019, từ 3,7 năm 2015 lên 4,7 năm 2020. Tăng trưởng vốn FDI nhanh, lấn át vai trò của khu vực tư nhân trên địa bàn, tỷ trọng vốn của khu vực nhà nước giảm 11 điểm % và khu vực ngoài nhà nước giảm 7 điểm % trong giai đoạn 2015-2021. Vốn đầu tư của tổ chức doanh nghiệp trong tỉnh có dấu hiệu suy giảm kể từ năm 2019 sau khi vốn FDI tăng mạnh trong giai đoạn này vùng với đó là tỷ lệ nội địa hóa thấp, kết nối giữa doanh nghiệp trên địa bàn với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hạn chế, doanh nghiệp có sức cạnh tranh yếu, quy mô nhỏ, sức chống chịu với cú sốc từ bên ngoài như COVID-19 khá thấp khi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tăng trưởng nhanh và phục hồi nhanh hơn khu vực tư nhân trên địa bàn. Trong khi đó, nhờ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, độ mở của tỉnh Vĩnh Phúc là lớn, đạt trên 250% GRDP, cao hơn so với mức bình quân của cả nước là 222%, nhưng thâm hụt thương mại rất lớn, trên 3,3 tỷ USD và có xu hướng tăng lên. Vĩnh Phúc là tỉnh duy nhất trong vùng ĐBSH có độ mở cao trên 200% GRDP nhưng có thâm hụt thương mại. Một số tỉnh khác có bối cảnh tương tự như Hải Dương, Hải Phòng hay Hà Nam đều có độ mở trên 200% nhưng duy trì thặng dư thương mại. Về lâu dài, vốn FDI sẽ ngày càng bị hạn chế và tính cạnh tranh lớn hơn trong khi khu vực tư nhân trên địa bàn còn khá yếu có thể ảnh hưởng đến tính ổn định trong tăng trưởng của tỉnh trong trung hạn.
Bảy là, nên tiếp tục mô hình tăng trưởng hiện tại nhưng sử dụng vốn hiệu quả hơn từ định hướng điều chỉnh cơ cấu nội bộ ngành kinh tế thay vì tập trung vào sự mất cân đối của thành phần kinh tế. Mô hình tăng trưởng hiện tại đã tạo ra sự thay đổi đáng kể bộ mặt của tỉnh trong thời gian vừa qua, góp phần quan trọng trong việc cải thiện mức sống của người dân, bắt đầu có tích lũy và thu nhập cao hơn giai đoạn trước. Việc duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình ở mức cao là thành tựu của tỉnh đạt được trong trong giai đoạn này. Tuy vậy, vấn đề của Vĩnh Phúc là sự mất cân đối giữa các thành phần kinh tế và khu vực tư nhân yếu kém. Nhưng vốn FDI vẫn sẽ là nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng với tăng trưởng kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc trong tương lai gần. Do đó, để giảm thiểu những yếu tố rủi ro trong mô hình tăng trưởng của tỉnh, cần sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, trong đó tập trung vào việc phát triển một khu vực tư nhân nội địa mạnh mẽ trong thời gian tới. Vốn trong khu vực dân cư còn rất lớn và nhiều cơ hội để chuyển đổi sang hình thức vốn tổ chức, vốn doanh nghiệp khi tích lũy đủ lớn và có đội ngũ doanh nhân đủ mạnh trên địa bàn tỉnh. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nội địa, kết nối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần được đẩy mạnh bên cạnh việc tận dụng hiệu quả nguồn vốn FDI và đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế theo hướng hiệu quả, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ cao là cần thiết trong giai đoạn tới.
Phần thứ hai
ĐỊNH HƯỚNG CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ GẮN MỚI ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG TỈNH VĨNH PHÚC ĐẾN NĂM 2030
I. CĂN CỨ XÁC ĐỊNH MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG VÀ CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ
1. Quan điểm phát triển
Cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển nhanh và bền vững gắn với phát triển kinh tế số, kinh tế tri thức và đổi mới sáng tạo;
Phát huy tiềm năng, lợi thế so sánh của tỉnh để huy động tối đa các nguồn lực, tập trung đầu tư đồng bộ và hiện đại kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng liên thông và đa mục tiêu;
Phát triển kinh tế tỉnh tập trung vào các nhóm ngành quan trọng: (i) Công nghiệp chế biến chế tạo, (ii) Du lịch sinh thái nghỉ dưỡng, du lịch đặc thù, (iii) Dịch vụ tài chính, ngân hàng, dịch vụ thương mại và Logictics và (iv) Nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao.
Nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế dựa trên nền tảng cải thiện môi trường đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ và phát huy yếu tố con người;
Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc trong tỉnh; sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường;
Tăng cường các liên kết phát triển giữa Vĩnh Phúc với vùng và các địa phương lân cận; xác định Hà Nội là thị trường quan trọng để phát triển tỉnh;
Chủ động hội nhập và hợp tác quốc tế để gắn với khắc phục các tác động tiêu cực của các xu thế kinh tế quốc tế và khu vực.
2. Kinh nghiệm quốc tế trong đổi mới mô hình tăng trưởng
2.1. Kinh nghiệm Hàn Quốc: chính sách phát triển kinh tế dựa trên nghiên cứu và phát triển (R&D)
Quan sát chặng đường phát triển của Hàn Quốc từ những thập niên 1960 và những thành tựu vượt bậc ngày nay, bài học lớn nhất là đầu tư rất sớm cho R&D. Hàn Quốc là một hiện tượng của châu Á nói riêng và thế giới nói chung về tốc độ tăng trưởng cao (trung bình 6,7%/năm trong giai đoạn 1965-2017), giúp cho chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người so với Mỹ thay đổi đáng kể (từ chỉ bằng 3% lên 50% cũng trong giai đoạn này). Sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Hàn Quốc trong nhiều thập kỷ được đặc trưng bởi những bước chuyển dịch sâu sắc trong cấu trúc ngành từ nền nông nghiệp kém phát triển sang nền công nghiệp hiện đại hướng về xuất khẩu. Hàn Quốc ngày nay có những công ty dẫn đầu toàn cầu trong sản xuất màn hình tinh thể lỏng, chip bộ nhớ, điện thoại thông minh, các công ty đóng tàu lớn nhất thế giới và các nhà sản xuất ô tô thuộc nhóm đầu trên thế giới. Chính sách phát triển dựa trên R&D của Hàn Quốc bắt đầu từ giai đoạn học hỏi từ các doanh nghiệp nước ngoài tiêu biểu (1960s), sau đó là tự phát triển các tổ chức nghiên cứu hỗ trợ cho năng lực công nghệ (1970s), đẩy mạnh đầu tư Nhà nước và khuyến khích tư nhân đầu tư vào R&D (1980s) và sau đó là doanh nghiệp chủ động đầu tư vào lĩnh vực R&D. Chính phủ tập trung vào các chính sách hỗ trợ R&D. Hàn Quốc năm 2013 đề xuất chiến lược xây dựng “Nền kinh tế sáng tạo” với các nội dung chính là: (i) bù đắp thỏa đáng cho sáng tạo và xây dựng hệ sinh thái thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp; (ii) tăng cường vai trò của doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm, doanh nghiệp nhỏ và vừa và nâng cao khả năng gia nhập thị trường toàn cầu; (iii) tạo động lực tăng trưởng để dẫn đầu các thị trường mới và các ngành công nghiệp mới; (iv) nuôi dưỡng tài năng sáng tạo toàn cầu ứng phó với thách thức và theo đuổi khát vọng; (v) tăng cường năng lực đổi mới KHCN và CNTT, tạo nền tảng cho kinh tế sáng tạo; (vi) xây dựng nền văn hóa kinh tế sáng tạo. Hàn Quốc chủ trương lấy doanh nghiệp nhỏ và vừa, hơn 30.000 doanh nghiệp khởi nghiệp làm động lực chính tăng trưởng kinh tế với hệ sinh thái khởi nghiệp phát triển mạnh mẽ. Trên 120 công ty đầu tư mạo hiểm, 17 “Trung tâm xúc tiến ý tưởng sáng tạo kinh tế khu vực” (CCEI) hỗ trợ lĩnh vực Công nghệ thông tin - Truyền thông và cách mạng công nghiệp 4.0, giúp doanh nghiệp khởi nghiệp kết nối với các tập đoàn lớn. Chính phủ chỉ định tổ chức chuyển giao công nghệ thương mại hóa và hỗ trợ 70% hợp đồng công nghệ từ các trung tâm nghiên cứu, bảo lãnh dựa trên giá trị công nghệ để doanh nghiệp vay tiền từ ngân hàng không thế chấp.
2.2. Kinh nghiệm Malaysia: Chuyển dịch mô hình tăng trưởng kinh tế để trở thành nước công nghiệp mới.
Trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 20, Malaysia đã đạt những thành tựu kinh tế - xã hội ấn tượng. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, với tốc độ bình quân 8%/năm trong giai đoạn 1960-1997 (sau đó giảm nhẹ xuống còn 7%/năm), song song với quá trình chuyển từ một quốc gia sản xuất các sản phẩm thô thành quốc gia xuất khẩu hàng chế biến. Tăng trưởng được duy trì và chia sẻ thông qua việc thực hiện liên tiếp các chính sách phát triển quan trọng của nhà nước như Chính sách kinh tế mới (NEP), Chính sách phát triển quốc gia (NDP), và Chính sách tầm nhìn quốc gia (NVP). Malaysia là một ví dụ chuyển dịch mô hình tăng trưởng kinh tế thành công trong nhóm các nước công nghiệp mới (NICs).
- Trước những năm 1970: công nghiệp hóa tập trung vào một số ngành mũi nhọn như ô tô, sản xuất động cơ xe máy, thép, xi-măng, lọc dầu và tinh chế sản phẩm từ dầu mỏ…, thông qua đầu tư công và chính sách bảo hộ.
- Từ 1970: NEP được triển khai nhằm chuyển dịch trọng tâm từ các ngành công nghiệp nặng sang các ngành định hướng xuất khẩu dựa trên tài nguyên của quốc gia; tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tư nhân hóa các doanh nghiệp mà chính phủ đang nắm quyền chi phối, mà không đủ sức cạnh tranh nếu xóa bỏ bảo hộ; đầu tư cho khoa học, công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực để hỗ trợ sự phát triển của khu vực doanh nghiệp.
- Từ 1990: NDP và NVP giúp xoay trục nền kinh tế sang các hoạt động sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn, thể hiện qua Kế hoạch Phát triển doanh nghiệp mới, nhằm tăng cường mối liên kết giữa các ngành và thúc đẩy các hoạt động sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn, từ đó đảm bảo sự tồn tại và phát triển một cách bền vững của các doanh nghiệp Malaysia trong bối cảnh tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa ngày càng gia tăng.
2.3. Kinh nghiệm từ nền kinh tế Đài Loan: Gắn công nghiệp với kinh tế nông thôn, doanh nghiệp nhà nước mở đường, đầu tư nguồn lực KHCN.
Đài Loan là những nền kinh tế đi từ nghèo sang giàu chỉ trong giai đoạn 1970 đến năm 2010. Đặc điểm chung là bắt đầu từ huy động vốn, sau đó cải thiện KHCN, nâng cao chất lượng lao động. Ở Đài Loan 1970-1975 đầu tư đóng góp gần một nửa tăng trưởng rồi giảm mạnh từ 2000, 2010-2017, đầu tư không còn đóng góp cho tăng trưởng. Đài Loan gắn công nghiệp với kinh tế nông thôn khi chuyển nhà máy về nông thôn, từ đó hút hết lao động dư thừa vào làm công nghiệp. Đầu thập kỷ 1950, Đài Loan phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu. Thập kỷ 1970-1980, phát triển công nghiệp thâm dụng vốn (hóa chất, công nghiệp nặng, điện tử, điện cơ và cơ khí). Tiếp đó ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ cao. Năm 1952, ở Đài Loan doanh nghiệp Nhà nước chiếm 57% sản lượng công nghiệp, nắm mọi ngành kinh tế then chốt. Khi công nghệ định hình, có lợi nhuận cạnh tranh, có thị trường thì cổ phần hóa cho tư nhân làm. Năm 1982, doanh nghiệp nhỏ chiếm 70% số lượng, góp 76% tỷ lệ xuất khẩu, sản xuất phụ kiện, làm vệ tinh cho doanh nghiệp lớn. Thập kỷ 1990, doanh nghiệp thâm dụng công nghệ là chủ chốt, đầu tư vào Đại lục Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Chi tiêu cho R&E của Đài Loan chiếm 3,33% GDP năm 2017, xếp thứ 4 thế giới chỉ sau, Isarel, Hàn Quốc và Thụy Sĩ, chủ yếu là nguồn vốn của tư nhân.
2.4. Kinh nghiệm Singapore: Xây dựng chiến lược, kế hoạch đầu tư mạnh và xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp gắn với ĐMST.
Singapore có xếp hạng ĐMST toàn cầu tương đối cao (GII) - năm 2017 thứ 7/127. Nước này thành lập cơ quan Khoa học Công nghệ và Nghiên cứu (A*STAR) có 14 viện nghiên cứu với 2.250 nhà khoa học đóng vai trò chủ chốt. Cùng với đó xây dựng kế hoạch KH&CN 5 năm vào năm 2015 có 6 mục tiêu chính: (i) Đầu tư khoa học cơ bản và tri thức tạo “vốn trí tuệ” - cơ sở ĐMST tương lai; (ii) thu hút và phát triển nguồn nhân lực tài năng khoa học; (iii) tài trợ thúc đẩy đổi mới và ý tưởng; (iv) phối hợp R&D khu vực công và doanh nghiệp, ưu tiên tài trợ R&D doanh nghiệp; (v) thương mại hóa sản phẩm trí tuệ (vi) thương mại hóa ý tưởng nghiên cứu cơ bản. Giai đoạn 2016-2020 nhắm tới mục tiêu trở thành “Quốc gia thông minh” (Smart Nation) và RIE 2020 được đưa ra với khẩu hiệu “chiến thắng tương lai thông qua KH&CN”. Singapore thành lập các công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp và vườn ươm năng lực, gắn với Đại học Quốc gia và Đại học bách khoa tạo thành hệ sinh thái công nghệ.
2.5. Kinh nghiệm của Trung Quốc: Sáng tạo là định hướng quan trọng trong chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế
Sau hơn 40 năm cải cách và mở cửa, Trung Quốc đạt nhiều thành tựu to lớn, tạo cơ sở vững chắc cho quốc gia này khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Trung Quốc đã có sự chuyển biến mạnh mẽ về thể chế kinh tế, xã hội, đến năm 2010, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 sau Mỹ. Tăng trưởng GDP của nước này duy trì ở mức cao 7-8%/năm kể từ năm 1997 trở lại đến trước thời điểm COVID-19. Tỷ trọng GDP của Trung Quốc trong GDP toàn cầu từ 1,8% năm 1978 tăng lên 15% năm 2018. Tuy vậy, Trung Quốc gặp nhiều vấn đề trong tăng trưởng kinh tế. Kinh tế của nước này có xu hướng chậm dần. Do tăng trưởng tốc độ cao trong một thời gian dài, những hệ lụy để lại cho nền kinh tế Trung Quốc vẫn chưa được giải quyết triệt để, chưa được khắc phục kịp thời, như cạn kiệt các nguồn tài nguyên và ô nhiễm môi trường, mức độ chênh lệch giàu - nghèo cao, phát triển không cân đối... vượt qua “bẫy thu nhập trung bình”, hướng tới thu nhập cao, chất lượng cao, phát triển xã hội và quản trị xã hội vẫn là những thức thức lớn. Trung Quốc vốn là một quốc gia lạm dụng vốn, khi tỷ lệ đầu tư trong GDP của nước này không ngừng tăng lên từ 25% năm 1990 lên 42% năm 2008, để phục hồi tăng trưởng do khủng hoảng tài chính toàn cầu, nước này đã đẩy mức đầu tư trên GDP lên mức kỷ lục 50% năm 2010. Tuy vậy, hiệu quả sử dụng nguồn vốn này lại đang có xu hướng giảm và đầu tư đang có xu hướng dư thừa và nguồn vốn lại không được phân bố cho các khu vực doanh nghiệp theo hiệu suất. Ví dụ, khu vực doanh nghiệp quốc doanh có tỷ suất lợi nhuận tương đối thấp, nhưng lại được các ngân hàng ưu tiên cấp vốn dễ dàng với lãi suất thấp, trong khi khu vực tư doanh (đặc biệt trong ngành dịch vụ) mặc dù tỷ suất lợi nhuận cao hơn - thì lại luôn trong tình trạng khát vốn đầu tư. Trung Quốc đã có những điều chỉnh trong chính sách kinh tế.
- Chuyển từ đầu tư về “lượng” sang tập trung đầu tư về “chất”. Trước đây, mục tiêu và chính sách của Trung Quốc chủ yếu là thu hút thật nhiều vốn và kỹ thuật từ nước ngoài để bổ sung cho nguồn vốn và kỹ thuật còn thiếu ở trong nước. Tuy vậy, trong bản “Quy hoạch thu hút vốn nước ngoài trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 11” công bố năm 2006, mặc dù Trung Quốc vẫn tiếp tục đẩy mạnh việc thu hút nguồn vốn FDI, nhưng đã thay đổi căn bản từ “lượng” sang “chất”, chuyển trọng tâm thu hút đầu tư nước ngoài từ bổ sung nguồn vốn và ngoại tệ không đủ sang thu hút nguồn kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý và nhân tài có tố chất cao.
- Chú trọng nâng cấp chất lượng hàng hóa xuất khẩu. Trung Quốc đã khai thác mô hình phát triển mới, đẩy mạnh chuyển đổi và nâng cấp cơ cấu sản xuất, chú trọng điều chỉnh mô hình phát triển của ngành gia công chế biến xuất khẩu, khuyến khích các doanh nghiệp gia công chế biến tự chủ, sáng tạo, từng bước chuyển từ ủy thác gia công chế biến sang tự thiết kế và tự tạo thương hiệu cho doanh nghiệp. Từ năm 2006, Trung Quốc đưa ra chính sách mậu dịch mới đối với ngành gia công chế biến, hướng dẫn áp dụng một loạt biện pháp tổng hợp nhằm thúc đẩy việc chuyển đổi và nâng cấp ngành này. Ví dụ, thực hiện chuyển từ gia công chế biến đơn thuần sang liên kết chặt chẽ hơn với các ngành như liên kết các ngành thiết kế, nghiên cứu phát triển, thương hiệu và dịch vụ,... Kết quả là chỉ trong ít năm chuyển đổi, đã có sự chuyển biến rõ rệt trong từng ngành xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đã tạo dựng được thương hiệu riêng.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Tăng cường cạnh tranh là điều kiện để tạo ra một nền kinh tế năng động, theo đó thì phải có nhiều thành phần cùng tồn tại và cùng tham gia cạnh tranh. Quan điểm xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần cho phép Trung Quốc phát triển mạnh mẽ kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân, đóng góp to lớn vào sự phát triển liên tục và ổn định của nền kinh tế Trung Quốc nhiều năm qua, giải quyết những thiếu sót và khó khăn trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc.
- Sáng tạo trở thành định hướng và giải pháp quan trọng trong chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế. Mức chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) đã tăng 52,2% kể từ năm 2012, đạt 1.570 tỷ NDT vào năm 2016. Tỷ lệ chi tiêu cho R&D trong GDP đã tăng từ 1,91% lên 2,11% (từ năm 2012 đến 2016). Số lượng các đơn xin cấp bằng sáng chế mà Trung Quốc nhận được trong năm 2016 tăng 69% kể từ năm 2012, trong khi số bằng sáng chế được cấp năm 2016 tăng 39,7%. Từ năm 2013, Trung Quốc đã trở thành quốc gia hàng đầu trên toàn cầu về doanh số bán rô-bốt công nghiệp. Cường quốc rô-bốt sẽ là một nhiệm vụ chiến lược để Trung Quốc thúc đẩy mạnh mẽ Chiến lược “Made in China 2025”. Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu các sản phẩm khoa học công nghệ cao đứng đầu châu Á. Từ giai đoạn 2006 - 2020, Trung Quốc áp dụng mô hình tăng trưởng “đổi mới nội sinh” dựa trên nền tảng KH&CN. Tăng mạnh tài trợ R&D cho đại học, tạo ra năng lực nghiên cứu mạnh trong một số lĩnh vực chủ chốt với tầm cỡ thế giới. Trung Quốc đứng thứ 7 bảng xếp hạng các trường đại học các quốc gia có nền kinh tế mới nổi , đứng vị trí 17 về chỉ số ĐMST toàn cầu. Thành lập các tổ chức chuyển giao công nghệ trong đại học, viện nghiên cứu, các khu CNC quốc gia,…, các tổ chức đào tạo nguồn nhân lực KH&CN, chứng nhận chuyên gia. Các viện nghiên cứu Nhà nước tập trung vào công nghệ cao, nhiều viện trở thành doanh nghiệp thử nghiệm và ứng dụng. Doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư R&D cho các công nghệ số hàng đầu trên thế giới, đầu tư tài chính mạo hiểm trong lĩnh vực công nghiệp điện và điện tử cho các start-up công nghệ. Nhà nước cho vay tín dụng hoặc thông qua các quỹ, đầu tư R&D. Nhà nước ưu tiên mua thiết bị từ các dự án và doanh nghiệp công nghệ cao. Hệ sinh thái ĐMST được hỗ trợ bằng mạng lưới các trung tâm ĐMST của ngành chế tạo, trung tâm ĐMST công nghệ quốc gia và mạng lưới trình diễn ý tưởng.
2.6. Kinh nghiệm của Thái Lan: Chính sách đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số
Nằm ở trung tâm ASEAN, Thái Lan là điểm đến lý tưởng của thương mại và đầu tư. Thái Lan có mạng lưới giao thông hiện đại, hệ thống ngân hàng lành mạnh, cơ sở hạ tầng phát triển và lực lượng lao động chất lượng cao. Lợi thế địa lý chiến lược giúp Thái Lan phát huy vai trò kiến tạo kết nối khu vực. Mô hình tăng trưởng kinh tế do Chính phủ Thái Lan đề ra có sự liên tục về bối cảnh: Thái Lan 1.0 tập trung phát triển cơ sở nông nghiệp. Thái-lan 2.0 chuyển sang tập trung vào các ngành công nghiệp nhẹ và phát triển cơ cấu kinh tế để hỗ trợ các sản phẩm thực phẩm, hàng dệt may và hàng thủ công. Thái Lan 3.0 chuyển hướng sang ngành công nghiệp nặng, trong đó có việc sản xuất thiết bị và máy móc như sản xuất ô-tô, một lĩnh vực mà nước này đã khá thành công. Thái-lan 4.0 bao gồm các khoản đầu tư quốc gia vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, thay đổi về luật pháp để hỗ trợ đổi mới sáng tạo, đầu tư và xây dựng mạng lưới hạ tầng thông tin tại Thái Lan và khu vực xuyên biên giới. Thái Lan đang theo đuổi mô hình phát triển bền vững nhằm tăng cường “sức chống chịu” của nền kinh tế bên cạnh mô hình tăng trưởng thông thường. Thái Lan cần giải quyết một số vấn đề cơ bản nhằm thúc đẩy phát triển bền vững trong dài hạn và xây dựng xã hội tốt đẹp hơn cho các thế hệ tương lai. Để làm được điều này, Thái Lan phát triển mỗi chuỗi giá trị lên trình độ cao hơn nhằm tăng cường năng suất trong khi tạo ra lợi thế cạnh tranh mới một cách bền vững.
Hiện nay, chính phủ Thái Lan nhằm chuyển đổi nền kinh tế nước này từ dựa vào sản xuất sang dựa vào công nghệ số và không giấu tham vọng dẫn đầu khu vực ASEAN trong lĩnh vực công nghệ số. Mục tiêu của Chính phủ Thái Lan, đến năm 2027, nền kinh tế số sẽ đóng góp 25% GDP cho nước này. Để làm được điều đó, Thái Lan đã đầu tư 2,5 tỷ bạt cho nghiên cứu và ứng dụng công nghệ số; lên kế hoạch xây dựng thành phố thông minh ở bảy tỉnh; nâng cấp đường truyền internet tốc độ cao tới hơn 74 nghìn đơn vị cấp phường ở địa phương; Ứng dụng công nghệ số vào các lĩnh vực như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, phát triển ngành nông nghiệp thông minh; Thiết lập cơ chế cấp giấy phép một lần cho khởi nghiệp, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các tổ chức như Kết nối doanh nhân toàn cầu hay Liên minh Viễn thông Quốc tế. Mục tiêu của của Thái Lan là điểm đến hấp dẫn nhất trong khu vực ASEAN đối với các nhà đầu tư có tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo về kỹ thuật số. Thái Lan định hướng phát huy năng lực sáng tạo và tinh thần kinh doanh với sự ủng hộ của chính phủ, có hệ sinh thái phù hợp để nuôi dưỡng thành công. Tăng cường phối hợp đối tác công tư. Mục tiêu để tạo ra sự liên doanh giữa nhà đầu tư tư nhân và nhà nước trong các dự án hạ tầng lớn. Quá trình thẩm định quy củ đã góp phần tăng cường tính minh bạch, giữ vững lòng tin của các nhà đầu tư, bảo đảm công bằng và trách nhiệm giải trình. Cải thiện môi trường thông qua ổn định kinh tế vĩ mô, đầu tư vào khoa học công nghệ và đổi mới nhằm tạo ra các giá trị gia tăng, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật nhằm tăng cường sức cạnh tranh quốc gia và cung cấp lực lượng lao động, cơ sở hạ tầng, mạng lưới logistic và công nghệ thông tin chất lượng quốc tế.
2.7. Kinh nghiệm của các tỉnh trong nước
a) Bài học từ tỉnh Quảng Ninh: Đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư
Quảng Ninh là tỉnh nằm trong vùng ĐBSH, nằm trong tốp các địa phương có chất lượng điều hành kinh tế xuất sắc nhất cả nước và tốp các tỉnh đứng đầu về chỉ số năng lực cạnh tranh. Tỉnh Quảng Ninh được đánh giá là điểm sáng trong việc thực các đột phá chiến lược, đáng kể trong thu hút nguồn lực đầu tư lớn để phát triển hạ tầng, các dự án động lực trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ… tạo nền tảng quan trọng để chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh”. Để làm được điều này, tỉnh Quảng Ninh đã nêu cao tinh thần chủ động, tích cực trong xây dựng và triển khai các mô hình mới, cách làm mới, nhấn mạnh phương châm “lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư” với nguyên tắc Nhà nước không làm những gì người dân, doanh nghiệp làm được và làm tốt hơn. Trên cơ sở vốn đầu tư công được phân bổ từ Trung ương, tỉnh đã linh hoạt phân cấp triệt để nguồn vốn cho các sở, ngành, địa phương để chủ động phân bổ, lựa chọn các dự án, công trình đầu tư. Trong đó, đặc biệt quan tâm đến dự án cải thiện mạnh mẽ hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng giao thông vùng khó khăn, không sử dụng tiền ngân sách đầu tư vào lĩnh vực, dự án mà các thành phần kinh tế khác có thể đầu tư. Đầu tư công được bố trí tập trung, không phân tán, đảm bảo công khai minh bạch và có tính đến sự hài hòa giữa các ngành/lĩnh vực. Bên cạnh đó, phương châm công khai, minh bạch, rõ ràng các điều kiện trong các quy hoạch chiến lược, các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư đã trở thành nguồn vốn quan trọng bổ sung vào nguồn vốn đầu tư công. Đến năm 2020, tỉnh có 44 dự án đầu tư công theo hình thức PPP, trong đó vốn ngân sách chỉ chiếm 10% được tập trung cho công tác giải phóng mặt bằng, như vậy với 1 đồng ngân sách bỏ ra có thể huy động được từ 8-9 đồng từ khối kinh tế tư nhân tham gia đầu tư. Sự phát triển vượt bậc của Quảng Ninh nằm ở chỗ tỉnh không chỉ dựa vào kế hoạch và vốn đầu tư Trung ương mà chủ động đề xuất, chủ động triển khai bằng các nguồn vốn hợp pháp do địa phương huy động, với sự tham gia tự giác và tích cực của nhiều doanh nghiệp tư nhân lớn. Đây là bằng chứng cho thấy kết quả tích cực nhờ tư duy từ nội lực, dám dựa vào dân, vào khu vực doanh nghiệp tư nhân của chính quyền địa phương. Kinh nghiệm của tỉnh cho thấy, trước hết là phải kiến tạo môi trường kinh doanh minh bạch, thông thoáng, tư duy đổi mới, định hướng đến thu hút doanh nghiệp nội địa, xác định tầm nhìn lâu dài từ nền kinh tế nâu sang xanh, tức là phát triển du lịch và thu hút đầu tư công nghệ cao, đặc biệt chú trọng đến việc thu hút các dự án FDI phù hợp với định hướng ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên mà tỉnh đặt ra.
b) Thành phố Hồ Chí Minh: Hướng tới kinh tế số toàn diện
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất Việt Nam với đặc điểm là một thành phố năng động. Năm 2020, GRDP của thành phố đạt trên 1,37 nghìn tỷ đồng, đóng góp trên 22% GDP và 27% tổng thu ngân sách của cả nước. Với nhiều lợi thế cạnh tranh, TP. Hồ Chí Minh nằm trong tốp đầu các tỉnh/thành có thu nhập bình quân đầu người cao đứng đầu cả nước. Đời sống người dân ở mức cao, các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa đều giữ vị trí hàng đầu. Tuy nhiên, khoảng một thập kỷ gần đây, dưới nhiều tác động và áp lực khác nhau, tăng trưởng của thành phố có sự giảm sút. Tốc độ tăng trưởng của TP HCM có chậm lại một phần do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, một phần do nhiều điểm nghẽn chưa được tháo gỡ như thể chế, hạ tầng, nguồn nhân lực. Trong bối cảnh đó, đặc biệt sau ảnh hưởng nghiêm trọng của COVID-19, TP đã ban hành Đề án “Phát triển kinh tế số, kinh tế chia sẻ và kinh tế tuần hoàn trên địa bàn TP. HCM giai đoạn 2020-2025, tầm nhìn 2030”. TP nhận định nhiều tác động tích cực từ chuyển đổi số, nhận thấy khi chuyển đổi số, các doanh nghiệp sẽ có thể tăng năng lực cạnh tranh, nâng cao năng suất và xây dựng mô hình kinh doanh mới đáp ứng được nhu cầu thị trường và môi trường cạnh tranh.
2.8. Bài học rút ra
Từ thực tiễn các nước trên thế giới và ở Việt Nam, một số bài học kinh nghiệm thiết thực có thể được rút ra như sau:
Một là, phát triển doanh nghiệp tư nhân thành động lực tăng trưởng chính cho tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Hầu hết kinh nghiệm của các quốc gia đều cho thấy để đảm bảo sự tăng trưởng trong dài hạn, khu vực tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ giảm nghèo đói, đặc biệt là có mối liên kết, gắn kết chặt chẽ với địa phương hơn các khu vực kinh tế khác, do đó có thể tận dụng nguồn lực tại chỗ thay vì phụ thuộc vào các tập đoàn xuyên quốc gia. Khu vực doanh nghiệp nhà nước không chiếm tỷ trọng quá lớn nhưng kinh nghiệm cho thấy khu vực này thường hoạt động kém hiệu quả hơn khu vực tư nhân do đó việc cổ phần hóa đối với doanh nghiệp nhà nước là bắt buộc để nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh. Cùng với đó, bản thân các Chính phủ các nước cũng có những nhận thức về sự cần thiết cần tránh lệ thuộc quá nhiều vào các doanh nghiệp nước ngoài trong quá trình phát triển kinhh tế. Hội nhập là xu hướng bắt buộc nhưng cạnh tranh giữa các quốc gia trong việc thu hút đầu tư nước ngoài khiến cho khu vực này có sự đặc quyền nhất định, chèn ép doanh nghiệp trong nước trong khi tính ổn định không cao. Chính vì vậy, các chính sách hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp cần hướng nhiều hơn vào khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa, hay vì nhóm các doanh nghiệp FDI.
Hai là, đổi mới sáng tạo theo hướng phát triển lĩnh vực, sản phẩm mới và tạo thêm việc làm. Tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua hoạt động đổi mới sáng tạo được chứng minh tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên, việc đổi mới sáng tạo là việc hương đến các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, tạo ra các sản phẩm mới và tập trung vào các lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh. Việc chuyển đổi giữa các công đoạn của chuỗi giá trị đòi hỏi nguồn lực lao động có chất lượng cao nhưng có thể dẫn đến tỷ lệ lao động thất nghiệp có tay nghề giản đơn tăng lên. Chính phủ có thể hỗ trợ doanh nghiệp thử nghiệm trong các lĩnh vực công nghệ cao, các lĩnh vực công nghệ mới cũng như tham gia vào đào tạo nâng cao chất lượng lao động.
Ba là, đầu tư cơ sở hạ tầng để tạo nền tảng cho phát triển. Việc hình thành các cực tăng trưởng trong bối cảnh nguồn lực hạn chế nhưng có thể tạo ra sự mất cân đối, mất bình đẳng giữa các khu vực. Chính sách đầu tư vào cơ sở hạ tầng cần hướng đến tính tương đối đồng đều và có tính kết nối về sản xuất và thương mại. Điều này cũng giúp giảm bớt được áp lực gia tăng chi phí cho doanh nghiệp liên quan tới đất đai, lao động và các dịch vụ cơ sở hạ tầng khác, qua đó nâng cao hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bốn là, nguyên tắc đảm bảo mô hình tăng trưởng kinh tế cần kết hợp với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Trung Quốc có sự tăng trưởng lệch rất lớn giữa các đặc khu kinh tế và vùng còn lại dẫn đến những hậu quả về mặt xã hội, môi trường. Việc điều chỉnh chính sách cần hướng đến khía cạnh phân phối và tạo cơ hội cho người nghèo có thể tham gia nhiều hơn vào quá trình tăng trưởng. Chính phủ cần tập trung đầu tư cho giáo dục, y tế và bảo vệ môi trường nhằm hình thành vốn con người và duy trì vốn tài nguyên đây là những yếu tố ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất và thu nhập của người nghèo.
Năm là, năng lực và trách nhiệm giải trình của chính quyền đóng vai trò then chốt: Hầu hết các quốc gia đều cho thấy một thể chế hiệu quả, minh bạch kèm theo trách nhiệm giải trình của chính phủ là cần thiết để phát triển khu vực tư nhân và mang lại tăng trưởng.
3. Đường lối, chủ trương về cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng
Đại hội lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Đổi mới mô hình tăng trưởng trong thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững”. Tiếp tục đến Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu chủ yếu cho phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó nhấn mạnh mục tiêu trọng tâm đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao với GDP bình quân đầu người đạt 7.500 USD. Theo đó, để đạt mục tiêu này định hướng phát triển kinh tế tập trung chủ yếu vào đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Quan điểm tiếp cận đến cơ cấu lại nền kinh tế là cơ cấu lại nền kinh tế trên cơ sở nền tảng của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, toàn dụng lao động quốc gia, bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội. Trong đó, toàn dụng lao động quốc gia là mục tiêu trung tâm để gợi mở phương án cơ cấu lại nền kinh tế nhằm bảo đảm ổn định xã hội.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 xác định một trong những phướng hướng nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô.
Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12/11/2021 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 đặt ra mục tiêu tổng quát “Hình thành cơ cấu hợp lý, hiệu quả trong từng ngành, lĩnh vực; giữa các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế; phát triển được nhiều sản phẩm quốc gia dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao; tạo bứt phá về năng lực cạnh tranh của một số ngành kinh tế chủ lực và chuyển biến thực chất, rõ nét về mô hình tăng trưởng, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, nâng cao tính tự chủ, khả năng thích ứng, sức chống chịu của nền kinh tế.”. Chính phủ ra Nghị Quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 2025, đặt mục tiêu giai đoạn 2021-2025, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân trên 6,5%/năm, trong đó tốc độ tăng năng suất lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 6,5 - 7%/năm, nâng cao tỷ trọng đóng góp của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng, trong đó năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đạt khoảng 45% GDP. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 05 năm khoảng 32 - 34% GDP, nâng cao chất lượng thể chế quản lý đầu tư công đạt mức tiệm cận quốc tế. Tỷ trọng chi cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt không dưới 1% GDP; số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15%/năm giai đoạn 2021 - 2025. Phấn đấu đạt khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp, trong đó có khoảng 60.000 đến 70.000 doanh nghiệp quy mô vừa và lớn; tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP khoảng 55%. Tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP đạt khoảng 20%; tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%. Phấn đấu đến hết năm 2025 có khoảng 35.000 hợp tác xã, trong đó có trên 3.000 hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và tiêu thụ nông sản, khoảng 50% hợp tác xã nông nghiệp liên kết với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị.
Các Bộ, ngành và địa phương tập trung thực hiện nhiệm vụ, giải pháp bao gồm (1) Tập trung hoàn thành các mục tiêu cơ cấu lại đầu tư công, ngân sách nhà nước, hệ thống các tổ chức tín dụng và đơn vị sự nghiệp công lập; (2) Phát triển các loại thị trường, nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn lực; (3) Phát triển lực lượng doanh nghiệp; thúc đẩy kết nối giữa doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã; (4) Phát triển kinh tế đô thị, tăng cường liên kết vùng, liên kết đô thị - nông thôn và phát huy vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn; (5) Cơ cấu lại các ngành theo hướng hiện đại, phát triển kinh tế xanh, bền vững và phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế.
4. Bối cảnh tỉnh Vĩnh Phúc
Tiếp tục kế thừa những thành tựu đạt được trong hơn 20 năm tái lập tỉnh với nhiều bài học kinh nghiệm, thực hiện các văn bản quan trọng định hướng cho sự phát triển lâu dài của tỉnh đã được phê duyệt cho giai đoạn 2021-2025 là cơ hội cho tỉnh tiếp tục cơ cấu lại nền kinh tế trong giai đoạn tới. Tỉnh Vĩnh Phúc đã có những thành tựu trong cơ cấu lại nền kinh tế trong giai đoạn 2016-2020, tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng tích cực, năng suất và chất lượng tăng trưởng có sự cải thiện. Trong bối cảnh cả nước thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế trong giai đoạn mới, tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều thuận lợi về mặt chính sách và hỗ trợ từ trung ương trong thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Đến năm 2030, từ bên ngoài, sự phục hồi tăng trưởng kinh tế và thương mại thế giới sau dịch COVID-19 đang dần phục hồi lại chuỗi cung ứng hàng hóa toàn cầu sau thời gian dài bị gián đoạn. Tuy vậy, cả thế giới đang phải khắc phục những hậu quả bất ổn do chính sách phục hồi kinh tế trong giai đoạn dịch bệnh. Lạm phát kỷ lục diễn ra tại nhiều quốc gia sau thời gian dài các chính sách tài khóa mở rộng được thực hiện. Gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu và chiến tranh Nga Ucraina khiến tình trạng khan hiếm nhiên liệu và giá cả mặt hàng này tăng cao. Giá cả các mặt hàng đầu vào tăng mạnh ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí nhập khẩu và giá thành sản xuất của Vĩnh Phúc. CMCN 4.0 và xu hướng tự động hóa trong công nghiệp chế biến, chế tạo sẽ làm mất dần lợi thế về lực lượng lao động rẻ, dồi dào của tỉnh. Trong khi đó, với việc gia nhập ngày càng sâu vào kinh tế thế giới, cơ hội để mở rộng thị trường xuất khẩu và thu hút thêm dòng vốn đầu tư nước ngoài là rõ ràng, do đó cần đẩy mạnh xúc tiến đầu tư và mức độ đáp ứng về cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực của các nhà đầu tư nước ngoài.
Từ bên trong, Vĩnh Phúc nằm trong vùng ĐBSH, vùng kinh tế - xã hội trọng điểm của cả nước với mục tiêu đi đầu trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, hình thành kinh tế số, xã hội số. Điều này tạo cơ hội cho Vĩnh Phúc xác định mục tiêu phát triển công nghiệp và các ngành ưu tiên. Trong khi đó, những chuyển biến tích cực từ hoạt động điều hành của Tỉnh đang tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, hạ tầng ngày càng hoàn thiện, cải cách hành chính diễn ra hiệu quả, khuyến khích khu vực tư nhân phát triển. Những đột phá trong lĩnh vực công nghiệp, phát triển đô thị, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đang có tác động tích cực đến tăng trưởng của tỉnh và làm bàn đạp cho phát triển của tỉnh trong giai đoạn tới.
Tuy nhiên, những hạn chế trong giai đoạn trước đòi hỏi tỉnh cần tiếp tục khắc phục như việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng còn chậm, mô hình tăng trưởng còn phụ thuộc chủ yếu yếu tố vốn và vốn FDI, năng suất và hiệu quả còn thấp và chậm cải thiện, chất lượng lao động còn thấp so với bình quân vùng ĐBSH, phát triển khoa học công nghệ còn hạn chế, dư địa và không gian cho phát triển không còn nhiều (đặc biệt là đất đai, tài nguyên). Khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ, năng lực cạnh tranh, trình độ quản trị thấp, khả năng tiếp cận các nguồn lực hạn chế. Khả năng tìm kiếm động lực tăng trưởng mới mang tính đột phá trong bối cảnh hiện nay là rất khó. Do đó việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế cần sự thay đổi về tư duy và quyết tâm nỗ lực rất lớn từ các cấp, các ngành để đạt được mục tiêu tăng trưởng đề ra.
II. ĐỊNH HƯỚNG TÁI CƠ CẤU ĐỂ ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG VĨNH PHÚC
1. Lựa chọn mô hình tăng trưởng
Mô hình tăng trưởng kinh tế hiện nay dưới sức ép của CMCN 4.0 và nhu cầu của thị trường đang có xu hướng chuyển đổi dần sang mô hình tăng trưởng dựa trên KHCN và đổi mới sáng tạo. Các nghiên cứu tại nhiều quốc gia phát triển cho thấy khi nền kinh tế hiện đại thì đổi mới sáng tạo sẽ trở thành yếu tố quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng cao. Thực tiễn phát triển cho thấy đổi mới sáng tạo thực chất là kết quả của quá trình phát triển kinh tế và có sự ràng buộc tương quan giữa hai yếu tố này, các quốc gia có thu nhập cao có chỉ số đổi mới sáng tạo càng lớn và ngược lại.
Hình 22: Mối quan hệ giữa đổi mới sáng tạo và thu nhập các quốc gia
Nguồn: Tính toán theo số liệu Global Innovative Index 2019
Mặc dù xác định được đích đến nhưng việc đổi mới mô hình tăng trưởng cần xác định dựa trên thực tiễn của từng quốc gia/vùng. Cho đến nay, không có một quốc gia đang phát triển nào có thể đi ngay vào việc áp dụng KHCN để công nghiệp hóa hiện đại hóa thành công. Quá trình để trở thành một nền kinh tế hiện đại là một quá trình với sự tích lũy nguồn lực cơ sở vật chất và tri thức cũng như thúc đẩy vai trò của KHCN. Tại các quốc gia phát triển, sau giai đoạn tích lũy để đạt được tới thu nhập nhất định, KHCN và tài nguyên con người mới trở thành nhân tố quan trọng và quay lại trở thành động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tại Vĩnh Phúc, thu nhập bình quân đầu người của tỉnh chỉ đạt 4,3 triệu đồng/người (năm 2020), vẫn trong nhóm thu nhập thấp của vùng và xấp xỉ mức bình quân cả nước. Đóng góp bình quân TFP khoảng 42% GDP nhưng khi phân rã thành phần của TFP theo phương pháp ước lượng hàm sản xuất biên ngẫu nhiên (SFA), hiệu quả công nghệ chỉ chiếm tỷ trọng 5,8% giai đoạn 2016-2019, thuộc nhóm có hiệu quả công nghệ thấp nhất vùng ĐBSH (bình quân đạt 8,62% và bình quân cả nước là 8,65%)[29]. Tỷ lệ đô thị hóa của của Vĩnh Phúc đến năm 2020 chỉ đạt 30%, thấp so với bình quân cả nước (36,8%) và bình quân vùng ĐBSH (37,1%), tốc độ tăng trưởng đô thị chậm chưa đảm bảo các tiêu chí về đô thị. Đánh giá những đóng góp của các yếu tố cho thấy mô hình tăng trưởng của tỉnh vẫn đang là mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, phụ thuộc vào sự gia tăng yếu tố đầu vào và chưa tạo ra được những yếu tố nội sinh trong tăng trưởng. Do đó, vấn đề đặt ra đối với mô hình tăng trưởng của tỉnh là tiếp tục tạo ra được tích lũy đủ mức để trở thành nền tảng cho công nghiệp hóa, đồng thời trên cơ sở phát triển kinh tế công nghiệp và đô thị, phát triển đủ mạnh vốn tri thức và nâng cao tài nguyên con người để theo đuổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu. Giai đoạn 2021-2030 là giai đoạn có tính quyết định để đạt được thành công trong công nghiệp hóa, do đó trong bối cảnh CMCN 4.0, tỉnh bắt buộc phải định hướng mô hình tăng trưởng dựa trên tích lũy tri thức và công nghệ, chú trọng cải thiện chất lượng và năng lực cạnh tranh của cộng đồng doanh nghiệp, khuyến khích chuyển dịch sang những ngành nghề, dịch vụ đòi hỏi trình độ công nghệ, trí tuệ và mang lại giá trị gia tăng cao. Để thực hiện chuyển đổi mô hình, cần ưu tiên:
- Tăng cường đầu tư và tích lũy vốn (bao gồm vốn tư bản và vốn con người). Điều này có nghĩa là bên cạnh những yếu tố như nguyên vật liệu, công nghệ có thể mua, vay mượn thì việc đầu tư và cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục, y tế để tăng vốn con người là cần thiết.
- Tận dụng lợi thế người đi sau. Tăng cường việc trao đổi để mua sắm và sử dụng công nghệ mới thay vì đầu tư nghiên cứu mới. Đầu tư mới chỉ trong điều kiện đủ nguồn lực nhưng nguồn lực của tỉnh là hạn chế và chưa đủ tích lũy. Do đó, cần hướng đến mô hình tăng trưởng theo phân bổ hiệu quả lại nguồn lực. Phân bổ các ngành công nghiệp theo hướng tập trung, không dàn đều theo địa giới hành chính. Chuyển dần các ngành công nghiệp có tác động xấu tới môi trường sang các ngành công nghiệp thân thiện, công nghệ cao và thích ứng tốt với CMCN 4.0.
- Thực thi tốt các chính sách khuyến khích, hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh. Doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn là nguồn lực quan trọng để đảm bảo tăng trưởng trong dài hạn, vừa tạo việc làm, tích lũy vốn và là nguồn đầu tư ổn định. Tăng cường mối liên kết giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp nước ngoài, tăng tỷ lệ nội địa hóa đối với các sản phẩm công nghiệp có triển vọng.
- Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực công nghiệp. Hệ thống đào tạo và dạy nghề cần chuyển sang định hướng thực hành, gắn kết với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp.
- Hoàn thiện cơ sở hạ tầng, kinh tế đô thị, đáp ứng tốt nhu cầu tăng trưởng kinh tế.
- Không đánh đổi mọi thứ cho tăng trưởng kinh tế. Đảm bảo sự hài hòa trong tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đối khí hậu.
2. Mục tiêu cơ cấu lại nền kinh tế đến năm 2030
2.1. Mục tiêu tổng quát
Cơ cấu lại nền kinh tế trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nhằm hình thành cơ cấu hợp lý, đẩy nhanh chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực, tăng năng suất và sức cạnh tranh, góp phần đạt tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, gắn với bảo vệ môi trường và công bằng xã hội. Đến năm 2030, Vĩnh Phúc là tỉnh công nghiệp phát triển, một trong những trung tâm công nghiệp, dịch vụ, du lịch của vùng và cả nước.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Các mục tiêu, chỉ tiêu chi tiết được nêu tại các nhóm nhiệm vụ, trong đó, các mục tiêu chung bao gồm:
(1) Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn đạt 10,5-11%/năm.
(2) Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng đóng góp của các ngành dịch vụ, đến năm 2030, cơ cấu giá trị gia tăng các ngành nông, lâm nghiệp thủy sản, công nghiệp xây dựng và dịch vụ lần lượt là 3%, 61-62% và 35-36%.
(3) Tốc độ tăng năng suất lao động đạt trên 11%/năm, năm 2030 năng suất lao động bình quân đạt 540 triệu đồng/lao động (giá hiện hành);
(4) Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp trong tăng trưởng GRDP của tỉnh đạt khoảng 55-60%;
(5) Tổng vốn toàn xã hội đầu tư cho khoa học và công nghệ chiếm tối thiểu 2% GRDP.
(6) Số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15%/năm.
(7) Tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GRDP tăng lên 20%.
(8) Tỷ lệ kinh tế số trên GRDP trong từng ngành/lĩnh vực đạt tối thiểu 10%.
(9) Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 48%.
(10) Chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn, tăng tỷ lệ rác thải được tái chế. Đến năm 2025, tái sử dụng, tái chế, xử lý 85% lượng chất thải nhựa phát sinh; giảm dần mức sản xuất và sử dụng túi ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần.
3. Nhiệm vụ, giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế
3.1. Cơ cấu lại ngành theo định hướng ngành ưu tiên
3.1.1. Cơ cấu lại ngành công nghiệp
a) Mục tiêu
Phấn đấu trở thành một tỉnh công nghiệp phát triển, một trong những trung tâm công nghiệp của vùng và cả nước gắn với phát triển bền vững; khai thác hiệu quả vị trí, tiềm năng và lợi thế của tỉnh, nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp.
Hoàn thiện hệ thống hạ tầng công nghiệp hiện đại (các khu, cụm công nghiệp) trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2030, đảm bảo sự phát triển bền vững (tạo việc làm, nâng cao thu nhập và tác phong công nghiệp cho người lao động) và góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các địa phương và vào tăng trưởng kinh tế chung của toàn tỉnh.
Đến năm 2030, công nghiệp của tỉnh phát triển với cơ cấu hợp lý; chuyển đổi sang các ngành công nghiệp thâm dụng công nghệ, hiệu quả và có giá trị gia tăng cao hướng xuất khẩu và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Năm 2025, tỉ trọng ngành công nghiệp trong GRDP đạt trên 40%; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt trên 45%. Năm 2030, tỉ trọng ngành công nghiệp đạt trên 55%.
b) Nhiệm vụ, giải pháp
- Triển khai xây dựng và đưa vào thực hiện Đề án tăng cường chất lượng sản phẩm ngành công nghiệp; xây dựng danh mục các ngành công nghiệp ưu tiên phù hợp với lợi thế của địa phương và nhu cầu tiêu dùng, xuất khẩu;
- Tập trung đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật, sử dụng vốn đầu tư công có hiệu quả cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Xây dựng và ban hành các cơ chế chính sách đặc thù để thu hút doanh nghiệp đầu tư xây dựng kinh doanh hạ tầng khu, cụm công nghiệp, hạ tầng năng lượng;
- Xây dựng và triển khai quy hoạch phát triển các cụm liên kết ngành công nghiệp chuyên môn hóa; hình thành chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị đảm bảo chất lượng và nguồn gốc xuất xứ tại các cụm ngành; thúc đẩy liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp và các viện nghiên cứu, các tổ chức liên quan. Mở rộng hợp tác về phát triển công nghiệp với các địa phương trong vùng ĐBSH để hình thành phát huy lợi thế, khai thác tiềm năng của tỉnh, hình thành chuỗi giá trị theo địa phương và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua việc tổ chức triển lãm thành tựu nghiên cứu, công nghệ trong các ngành công nghiệp ưu tiên, giới thiệu kết nối doanh nghiệp phụ trợ trong nước với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
- Tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư có định hướng. Tăng cường thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp nền tảng như công nghiệp cơ khí chế tạo, điện tử, luyện kim, vật liệu xây dựng, phù hợp với thế mạnh của tỉnh. Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ đầu vào cho công nghiệp xuất khẩu. Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ mới, công nghệ cao, có lợi thế cạnh tranh đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu như công nghệ thông tin, công nghiệp điện tử, công nghiệp chế tạo thông minh, công nghiệp vi mạch bán dẫn, công nghiệp sản xuất robot, ô tô, thiết bị tích hợp vận hành tự động, điều khiển từ xa, công nghiệp sản xuất phần mềm, sản phẩm số, công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp, công nghiệp vật liệu mới.
- Chính quyền địa phương tổ chức các khóa đào tạo, cung cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật hỗ trợ đóng gói và thử nghiệm vi mạch, kết nối doanh nghiệp với nhà nghiên cứu, xây dựng Trung tâm thiết kế vi mạch nằm trong trung tâm đổi mới sáng tạo của tỉnh. Thực hiện tuyên truyền, quảng bá về vai trò nguồn nhân lực đối với phát triển công nghiệp, xây dựng chương trình kết nối đội ngũ nghiên cứu liên quan đến công nghiệp vi mạch bán dẫn để hợp tác kinh doanh, tiếp thu kiến thức, công nghệ thực hành.
- Xây dựng chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, công nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin; xây dựng và triển khai một số chương trình kết nối kinh doanh giữa nhà cung cấp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để hình thành các chuỗi cung ứng của các ngành công nghiệp; tạo điều kiện hình thành các tập đoàn kinh tế lớn trong nước trong lĩnh vực công nghiệp có vai trò dẫn dắt phát triển ngành và có khả năng cạnh tranh trên thị trong nước và nước ngoài; tăng cường các biện pháp bảo vệ các ngành, doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trong nước trước áp lực của cạnh tranh từ quá trình mở cửa hội nhập.
- Xây dựng cơ chế để khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ như hỗ trợ về mặt bằng đất đai, cơ sở hạ tầng giao thông kết nối, kết nối doanh nghiệp đầu vào, xúc tiến tìm kiếm thị trường. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, thực hiện điều tra, khảo sát hằng năm để đánh giá tiến độ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp đưa ra các chính sách phù hợp.
- Xây dựng mô hình phát triển công nghiệp theo điển hình Singapore. Điều chỉnh vị trí xây dựng các khu công nghiệp lớn chuyển dần ra vùng ngoại ô hoặc bố trí tại vùng nông thôn, việc này yêu cầu việc bố trí đất đai, hình thành hạ tầng giao thông kết nối phù hợp. Chuyển dần các ngành công nghiệp gây ô nhiễm vùng trung tâm, khu vực dân cư và quy hoạch các cơ sở hạ tầng thiết yếu đi kèm. Tiếp theo là tập trung vào chất lượng sản phẩm công nghiệp và tạo danh tiếng cho tỉnh về các sản phẩm được sản xuất. Để tái cơ cấu các ngành công nghiệp, công nghệ, kĩ năng và tri thức là các yếu tố quan trọng hàng đầu, do đó việc chuyển đổi đầu tư sang các ngành công nghiệp thâm dụng công nghệ là bắt buộc, chú trọng tới việc tạo ra các sản phẩm mới phù hợp với xu hướng phát triển và nhu cầu của thế giới ngày nay. Chính sách của chính quyền địa phương cần làm là việc tạo quỹ đất cho các doanh nghiệp sử dụng theo như yêu cầu và có dự phòng quỹ đất phù hợp, chi phí cho doanh nghiệp trong khai thác quỹ đất này cần đảm bảo ở mức thấp nhất. Đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ đất cho công nghiệp hằng năm để xem xét bổ sung hoặc thu hồi đất chưa phù hợp với mục đích sử dụng và khuyến khích doanh nghiệp mở rộng sản xuất, sử dụng hết quỹ đất được cấp.
Lập kế hoạch chuyên môn hóa các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, đặc biệt chú trọng đến các ngành công nghiệp phụ trợ, vi mạch bán dẫn phục vụ cho sản xuất linh kiện điện tử. Thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp trong cùng một ngành công nghiệp tập trung tại một địa điểm để tạo thành cụm sản xuất, điều này cũng sẽ tối đa hóa việc tận dụng nguồn đất đai. Lập kế hoạch sử dụng đất công nghiệp theo các vành đai, khu dân cư được coi là trung tâm, tiếp đó là vành đai công nghiệp tiên tiến, vành đai công nghiệp nhẹ và vành đai công nghiệp chung hoặc nặng. Tạo không gian công nghiệp sôi động thông qua việc thiết kế không gian đô thị với quy hoạch công nghiệp, xây dựng các khu tổ hợp thương mại dịch vụ kết hợp giữa hoạt động sản xuất theo cụm, trung tâm logistic, kinh doanh, khách sạn và giải trí.
3.1.2. Cơ cấu lại các ngành dịch vụ
a) Mục tiêu
Phát triển một số ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, trong đó bao gồm các ngành dịch vụ phục vụ công nghiệp như vận tải kho bãi, logistic, phát triển dịch vụ du lịch, tăng cường ứng dụng dịch vụ số để phát triển thương mại điện tử, một số mục tiêu cụ thể như sau:
- Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GRDP khoảng 35-36% vào năm 2030.
- Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (chưa loại trừ yếu tố giá) đạt 9-9,5%/năm.
- Tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ logistic đạt 18%/năm.
- Đến năm 2030, thu hút 150 nghìn lượt khách quốc tế, 16 triệu lượt khách nội địa.
b) Nhiệm vụ, giải pháp
- Phát triển hạ tầng thương mại hiện đại. Đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng thương mại phù hợp với từng địa bàn đô thị và nông thôn, trong đó ưu tiên xây dựng các hạng mục thiết yếu, đáp ứng nhu cầu trao đổi mua sắm của người dân theo khu vực. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư công để hoàn thiện hạ tầng thương mại. Có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế tham gia góp vốn đầu tư.
- Tập trung hỗ trợ hình thành các doanh nghiệp trong lĩnh vực phân phối bán buôn, bán lẻ (gồm FDI và doanh nghiệp nội địa) nhằm hiện đại hóa ngành thương mại, thực hiện chuyển dịch hệ thống phân phối sang các loại hình phân phối hiện đại như trung siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi.
- Hình thành các trung tâm logistics nhằm tận dụng vị trí địa lý thuận lợi của tỉnh Vĩnh Phúc và phục vụ cho sản xuất công nghiệp và phân phối hàng hóa. Ứng dụng các công nghệ mới trong hoạt động logistics, khuyến khích phát triển ứng dụng các phương tiện giao thông mới hỗ trợ việc vận chuyển, giao nhận hàng hoá trong thương mại điện tử; Tổ chức triển khai hiệu quả Đề án nâng cao chất lượng hành khách công cộng bằng xe buýt trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025, trong đó nghiên cứu mở mới thêm các tuyến xe buýt, điểm đón trả khách tới các khu công nghiệp, điều chỉnh lộ trình một số tuyến cho phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho công nhân và người lao động.
- Ưu tiên bố trí kinh phí từ ngân sách cho các dự án xây dựng và phát triển hạ tầng thương mại điện tử, khuyến khích doanh nghiệp khai thác các phương thức thanh toán điện tử và các phương tiện, dịch vụ thanh toán mới.
- Tổ chức hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ số truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý thị trường nhằm tăng cường công tác kiểm soát, đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc.
- Khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTAs) đã ký để tạo động lực phát triển xuất nhập khẩu dịch vụ bền vững. Đẩy nhanh quá trình đa dạng hóa thị trường, không để phụ thuộc quá lớn vào một thị trường, nghiên cứu cảnh báo sớm rủi ro, bảo đảm cân bằng cán cân xuất, nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, đồng thời đa dạng hoá và cơ cấu lại mặt hàng xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị sản phẩm hàng hoá qua chế biến và tìm kiếm các mặt hàng xuất khẩu mới.
- Tập trung cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số. Tập trung nguồn lực phát triển một số ngành dịch vụ tiềm năng, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như tài chính, ngân hàng, thông tin và truyền thông, an toàn thông tin, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, du lịch, logistics và vận tải, phân phối.
- Phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thương mại đáp ứng yêu cầu hội nhập và cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nhằm tạo ra nguồn nhân lực thương mại có khả năng tiếp nhận và làm chủ được công nghệ quản lý hoạt động kinh doanh mới, có định hướng đến các ngành ưu tiên. Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo lao động phục vụ theo nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp.
- Cơ cấu lại ngành du lịch, bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện đại; ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của CMCN 4.0 vào phát triển du lịch. Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật phục vụ du lịch. Sớm đưa Nghị quyết hỗ trợ phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2022-2025 vào triển khai thực hiện; Triển khai hiệu quả Kế hoạch phát triển du lịch giai đoạn 2022-2026 định hướng đến năm 2030. Chú trọng liên kết giữa ngành du lịch với các ngành, lĩnh vực khác trong chuỗi giá trị hình thành nên các sản phẩm du lịch để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế chủ chốt. Tổ chức các hoạt động sự kiện, chương trình quảng bá, giới thiệu du lịch Vĩnh Phúc và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản lý, đội ngủ hướng dẫn viên, thuyết minh viên, nhân viên phục vụ và cộng đồng dân cư tham gia hoạt động du lịch. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch, đảm bảo môi trường du lịch phát triển bền vững; đảm bảo an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, nếp sống văn minh tại các khu du lịch, nhất là trước, trong và sau tết và mùa lễ hội, mùa du lịch; triển khai Bộ quy tắc ứng xử văn minh du lịch và phát động phong trào người dân ứng xử văn minh, tận tình hỗ trợ khách du lịch; phát động phong trào “Mỗi người dân là một hướng dẫn viên, niềm nở với khách du lịch” “Chung tay xây dựng hình ảnh du lịch Vĩnh Phúc văn minh - Lịch sự”. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng làm du lịch cho lao động tại các cơ sở lưu trú, địa điểm ăn uống, doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch.
3.1.3. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp
a) Mục tiêu
Tập trung cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh nông sản; bảo vệ môi trường, sinh thái; nâng cao thu nhập cho người dân ở khu vực nông thôn; đảm bảo an ninh lương thực và an ninh quốc phòng. Đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp hiện đại, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, gắn với phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thích ứng với biến đổi khí hậu và kết nối bền vững với chuỗi giá trị nông sản toàn cầu. Một số mục tiêu cụ thể đến năm 2030 như sau:
Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng ngành nông nghiệp đạt bình quân từ 2,5 đến 2,9%/năm;
Tốc độ tăng năng suất lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt bình quân trên 10%/năm;
Tỷ lệ giá trị sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đạt trên 20%.
b) Nhiệm vụ, giải pháp
- Tổ chức triển khai hiệu quả các Đề án, Kế hoạch, Chương trình về cơ cấu lại ngành nông nghiệp, trong đó điển hình như: Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2025; Đề án phát triển sản phẩm OCOP giai đoạn 2021-2025, định hướng 2030; Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2023-2025, định hướng 2030; Đề án phát triển thủy sản giai đoạn 2023-2030…
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng chuyển đổi cơ cấu giống, cây trồng, vật nuôi phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường, chuyển đổi linh hoạt, hiệu quả quy mô và cơ cấu sản xuất theo nhóm sản phẩm chủ lực địa phương; nhóm sản phẩm theo mô hình “Mỗi xã một sản phẩm” nhằm phát huy lợi thế, phù hợp với nhu cầu thị trường và thích ứng biến đổi khí hậu. Bố trí quỹ đất phù hợp theo chuỗi giá trị, từ nguồn thức ăn, khu vực chăn nuôi, trồng trọt đến chế biến.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp, nông thôn để nâng cao thu nhập. Đa dạng hóa thu nhập cho người dân từ nhiều ngành nghề (nông nghiệp và phi nông nghiệp, tại chỗ và ngoài nông thôn). Tổ chức đào tạo lao động nông nghiệp để bổ sung nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu đổi mới phương thức sản xuất trong nông nghiệp.
- Khuyến khích tích tụ ruộng đất, phát triển các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, tổ chức sản xuất theo chuỗi đối với các sản phẩm chủ lực. Khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, sạch, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm sử dụng các loại phân bón vô cơ, hóa chất bảo vệ thực vật. Thúc đẩy phát triển cơ giới hóa nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản, phát triển công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistic phục vụ nông nghiệp.
- Nâng cao trình độ nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo để phát triển nông nghiệp thông minh, hiện đại. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả. Đẩy mạnh hiệu quả liên kết giữa 4 nhà “Nhà nước - Nhà nông - Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp” nhằm gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, kết nối với hệ thống tiêu thụ trong nước và toàn cầu, tiến tới sản xuất hàng hóa quy mô lớn và hiện đại. Khuyến khích hình thành và phát triển các mô hình doanh nghiệp, hợp tác xã ứng dụng công nghệ quản trị tiên tiến, có khả năng tổ chức liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân ở những vùng sản xuất tập trung. Khơi dậy tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp, nông thôn.
- Đẩy mạnh đầu tư, thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hội nhập quốc tế và xây dựng nông thôn mới.
- Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin về giá cả thị trường (xây dựng trang web thông tin hàng ngày thị trường giá cả nông sản chủ lực trong nước và thế giới; thông tin các danh mục sản phẩm, giá cả nông sản chủ lực của các doanh nghiệp trong nước), dự báo nhu cầu thị trường trong nước và thế giới; dự báo cân đối cung cầu thị trường trong nước và thế giới đối với một số nông sản chủ lực, … Đổi mới phương thức quảng bá giới thiệu sản phẩm, xúc tiến thương mại cho sản phẩm nông sản chủ lực của tỉnh. Xây dựng các đề án dự án về quảng bá nông sản kết hợp nông nghiệp với du lịch để thu hút các nhà đầu tư.
3.2. Nâng cao năng suất lao động và chất lượng lao động
3.2.1. Mục tiêu
Tốc độ tăng năng suất lao động đạt trên 11%/năm.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 48% đến năm 2030.
Tiếp tục giảm lao động làm việc trong ngành nông nghiệp xuống còn 20-23% năm 2025, và còn 18-20% vào năm 2030.
3.2.2. Nhiệm vụ, giải pháp
a) Cải thiện chất lượng dạy và học, tăng cường trình độ cho người lao động
- Hằng năm, lập kế hoạch và đánh giá kết quả dạy và học, đảm bảo việc cải thiện chất lượng dạy học đi vào thực chất. Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống giáo dục và đào tạo. Tập trung đầu tư vào cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học tiếp cận chuẩn khu vực và thế giới.
- Xây dựng chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, thu hút nguồn nhân lực khoa học công nghệ chất lượng cao, đào tạo nguồn nhân lực số, nhân lực có kỹ năng, trình độ chuyên môn cao thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo từng lĩnh vực, ngành nghề.
- Phát triển giáo dục nghề nghiệp; đảm bảo trình độ tay nghề, kỹ năng, văn hóa lao động của người lao động đáp ứng được các nhu cầu ngày càng đổi mới và khắt khe của thị trường; đảm bảo gắn kết cung cầu lao động với doanh nghiệp. Tiếp tục thực hiện phân luồng học sinh sau trung học cơ sở; đẩy mạnh công tác tư vấn, hướng nghiệp trong nhà trường với doanh nghiệp và thị trường lao động. Tập trung đào tạo các nghề trọng điểm đạt chuẩn Quốc tế, khu vực cho đội ngũ lao động chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Cơ cấu lại mạng lưới giáo dục nghề nghiệp theo nguyên tắc: tăng cường chất lượng đào tạo, tăng quyền tự chủ; nhà nước và doanh nghiệp đặt hàng đào tạo; ngân sách hỗ trợ đầu tư thiết bị đào tạo có điều kiện thông qua số lượng, chất lượng đào tạo. Tập trung đầu tư bồi dưỡng, đào tạo ngoại ngữ. Thu hút các Trung tâm, các Trường hoặc mở các khoa đào tạo tiếng Anh, Trung, Hàn, Nhật…
- Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, tập trung vào các trường cao đẳng, đào tạo đa cấp trình độ, đa ngành nghề; đẩy mạnh liên kết đào tạo của các trường trung cấp, cao đẳng; mở rộng liên kết đào tạo giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc Trung ương với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp ở địa phương; tập trung đầu tư phát triển trường cao đẳng nghề chất lượng cao của tỉnh và các ngành, nghề trọng điểm, hướng tới tăng quy mô đào tạo; khai thác tiềm năng sẵn có của tỉnh.
- Tăng cường mối liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp, giữa các cơ sở đào tạo với người sử dụng lao động. Chú trọng gắn kết đào tạo lý thuyết với yêu cầu thực hành, đào tạo nhân lực chất lượng cao cho từng lĩnh vực cụ thể và đào tạo lại nhân lực lao động đáp ứng yêu cầu cuộc CMCN 4.0, yêu cầu chuyển đổi số và phát triển kinh tế số, xã hội số.
- Nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ giáo viên thông qua thực hiện: Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đủ tầm, đáp ứng yêu cầu. Triển khai Đề án đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý đảm bảo đạt chuẩn trình độ đào tạo, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2021-2025. Tổ chức bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng thường niên cho giáo viên các cấp. Hằng năm tổ chức, tham gia các hội giảng nhà giáo giáo dục nghề nghiệp.
- Tăng cường đầu tư hạ tầng, đầu tư cơ sở vật chất, máy móc, trang thiết bị dạy và học các cấp, đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng, cải tiến giáo trình dạy nghề nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường và nhà tuyển dụng. Chú trọng đầu tư các ngành nghề là thế mạnh và nhu cầu của tỉnh như: cơ khí chế tạo, lắp ráp linh kiện điện tử, tin học, dệt may, da giầy,…
b) Hỗ trợ phát triển thị trường lao động
- Tiếp tục triển khai Kế hoạch số 156/KH-UBND ngày 17/6/2021 của UBND tỉnh về hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động; dự báo về thị trường lao động và việc làm, đánh giá thị trường lao động theo hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
- Triển khai tổ chức thu thập, cập nhật, lưu trữ, tổng hợp dữ liệu về thị trường lao động hàng năm theo hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Thực hiện số hóa, cập nhật thông tin dữ liệu về người lao động; lưu trữ, quản lý dữ liệu và cập nhật thông tin thị trường lao động thống nhất với cơ sở dữ liệu toàn quốc, phù hợp với thực tế của tỉnh, kết nối liên thông từ cấp xã đến cấp tỉnh. Chú trọng nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ việc thu thập, lưu trữ số liệu, phân tích và dự báo về cung - cầu lao động đáp ứng yêu cầu quản lý, phân tích, chia sẻ, công bố thông tin về thị trường lao động.
- Triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm; các chương trình, đề án, kế hoạch cải thiện môi trường và điều kiện làm việc, mối quan hệ hài hoà, hợp tác giữa doanh nghiệp và người lao động. Ban hành và tổ chức thực hiện hiệu quả một số chính sách chính sách hỗ trợ giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025. Xây dựng Chương trình việc làm tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025 và xây dựng Chương trình mục tiêu về việc làm, an toàn lao động theo hướng dẫn của Trung ương. Thực hiện các chương trình, đề án, kế hoạch cải thiện môi trường và điều kiện làm việc, mối quan hệ hài hoà, hợp tác giữa doanh nghiệp và người lao động gắn bó lâu dài.
- Triển khai kết nối, khai thác cơ sở dữ liệu dân cư, đăng ký doanh nghiệp, bảo hiểm xã hội theo quy định; kết nối, liên thông giữa cổng thông tin và giao tiếp điện tử của Sở Lao động- Thương binh và Xã hội, Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh với cổng thông tin điện tử về lao động, việc làm ở trung ương theo hướng dẫn của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, đảm bảo cập nhật kịp thời các thông tin thiết yếu phục vụ người lao động, người dân.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm dịch vụ việc làm. Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác dịch vụ việc làm về kiến thức và kỹ năng thu thập, xử lý, khai thác thông tin thị trường lao động phục vụ tư vấn, giới thiệu việc làm. Triển khai các công cụ (phần mềm, bộ tiêu chí, tiêu chuẩn) về dịch vụ việc làm theo hướng dẫn của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong các giao dịch về lao động, việc làm.
- Tiếp tục triển khai có hiệu quả Kế hoạch số 272/KH-UBND ngày 03/11/2021 của UBND tỉnh về triển khai cung ứng lao động cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2022-2025.
- Nghiên cứu xây dựng các Đề án về : i) vấn đề việc làm trong bối cảnh CMCN 4.0 để nhận diện những thay đổi, biến động của thị trường lao động và vấn đề việc làm trong bối cảnh CMCN4.0; ii) đào tạo và đào tạo lại nhân lực trong bối cảnh CMCN 4.0 để nhận diện những nghề cần đào tạo để chuẩn bị nhân lực; những ngành nghề và con người nào cần đào tạo và đào tạo lại để chuẩn bị nhân lực.
- Đẩy mạnh công tác dự báo nhu cầu thị trường nhân lực trong ngắn hạn và dài hạn. Nghiên cứu nhu cầu lao động của các doanh nghiệp trong cuộc CMCN 4.0 để định hướng đào tạo đối với các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử, tự động hóa, nông nghiệp công nghệ cao, chăm sóc sức khỏe, ngoại ngữ sẽ có nhu cầu lao động rất lớn mở ra cơ hội việc làm cho thanh niên ở cả trong nước và quốc tế.
c) Tăng cường kết nối thị trường lao động trong và ngoài tỉnh, trong và ngoài nước
- Thiết kế chương trình hướng nghiệp đa dạng về đối tượng, nội dung và hình thức, linh hoạt địa điểm, đào tạo đội ngũ nhân sự tham gia tổ chức hướng nghiệp cho học sinh, sinh viên.
- Nghiên cứu và phổ biến các hệ thống chứng nhận nghề, kỹ năng nghề theo tiêu chuẩn quốc tế hỗ trợ người lao động tham gia các thị trường lao động trong và ngoài nước.
- Đa dạng hóa hình thức kết nối cung - cầu lao động, tăng cường phối hợp giữa Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh với các Trung tâm dịch vụ việc làm trong và ngoài tỉnh; với các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm để mở rộng khả năng khai thác nguồn lao động, mở rộng phạm vi cung ứng lao động; hỗ trợ người lao động rút ngắn thời gian tìm việc, người sử dụng lao động giảm chi phí về thời gian cho công tác tuyển dụng lao động; với các doanh nghiệp dịch vụ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài trong công tác tạo nguồn, tổ chức đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng. Phối hợp với UBND cấp huyện, cấp xã nắm bắt thông tin người lao động đi làm việc ở nước ngoài hoặc các tỉnh, thành phố trở về địa phương để kịp thời hỗ trợ thông tin thị trường lao động, tư vấn, giới thiệu công việc phù hợp cho người lao động có nhu cầu giải quyết việc làm hoặc tổ chức các phiên giao dịch việc làm kết nối người lao động với doanh nghiệp có nhu cầu tuyển lao động.
- Triển khai có hiệu quả Luật người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và Nghị quyết số 07/2022/NQ - HĐND ngày 20/7/2022 của HĐND tỉnh. Qua đó, hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài để nâng cao thu nhập, có cơ hội học tập, tiếp cận với công nghệ tiên tiến, hiện đại, nâng cao trình độ, kỹ năng và tác phong công nghiệp. Nghiên cứu, đề xuất giải pháp phù hợp để khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài hết hạn hợp đồng trở về nước, đặc biệt là lao động từ các thị trường Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc.
3.3. Tăng cường tích lũy vốn và đóng góp của khu vực tư nhân
3.3.1. Mục tiêu
Phát triển lực lượng doanh nghiệp tư nhân hiện đại, tham gia sâu vào chuỗi giá trị trong nước, khu vực và toàn cầu. Mục tiêu cụ thể như sau:
- Phấn đấu mỗi năm có từ 1.000 1.500 doanh nghiệp thành lập mới.
- Quy mô vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước trong giai đoạn 2021-2025 đạt khoảng 129 nghìn tỷ đồng; giai đoạn 2026-2030 đạt 220 nghìn tỷ đồng, trong đó, tỷ trọng vốn của tổ chức doanh nghiệp tư nhân trong tổng vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước đạt bình quân 35,5% trong giai đoạn 2021-2030. Tỷ trọng bình quân vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tỉnh đạt 39,6% trong giai đoạn 2021-2030.
- Thực hiện qua mạng 100% các thủ tục đăng ký kinh doanh, thành lập doanh nghiệp, điều chỉnh giấy phép, tăng giảm vốn, các thủ tục, giấy tờ liên quan khác đến hoạt động doanh nghiệp.
- Tăng cường chuyển đổi số trong các doanh nghiệp trên tất cả các ngành lĩnh vực để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên địa bàn. 100% doanh nghiệp được nâng cao nhận thức về chuyển đổi số.
- Tạo thuận lợi phát triển khu vực kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành và phát triển một số tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có công nghệ hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến, có khả năng cạnh trạnh khu vực, quốc tế, dẫn dắt các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế.
3.3.2. Nhiệm vụ, giải pháp
- Tập trung cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp để triển khai Đề án phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2022-2025
- Thực hiện quyết liệt và hiệu quả cải cách thủ tục hành chính; rà soát các văn bản nhằm bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch; bảo đảm đầy đủ quyền tự do kinh doanh, an toàn trong hoạt động kinh doanh; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ các thủ tục nộp thuế, phí của người dân và doanh nghiệp.
- Đổi mới công tác xúc tiến đầu tư, thu hút làn sóng đầu tư mới có chất lượng nhằm phát triển công nghiệp, dịch vụ, chế biến nông, lâm sản tỉnh có lợi thế cạnh tranh. Tăng cường xúc tiến đầu tư thông qua các doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn. Thực hiện tốt Quy chế phối hợp trong việc xây dựng, quản lý và thực hiện Chương trình xúc tiến đầu tư hằng năm. Công tác xúc tiến đầu tư cần định hướng đầu tư tư nhân theo những lĩnh vực ưu tiên của tỉnh nhằm phát huy lợi thế và tăng cường năng lực cạnh tranh của tỉnh. Các lĩnh vực ưu tiên bám sát theo định hướng Quy hoạch tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2050.
- Hoàn thành bộ tiêu chí về đầu tư nhằm tận dụng tối đa lợi thế của địa phương, thu hút các dự án phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh; quy định một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021 -2025.
- Xây dựng chính sách khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp trên địa bàn tiếp cận và nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài, trong đó ưu tiên các dự án đầu tư về công nghiệp công nghệ cao, công nghệ sạch và công nghiệp hỗ trợ nhằm tạo ra các sản phẩm có chất lượng, sức cạnh tranh, thân thiện với môi trường.
- Ưu tiên tập trung xây dựng và hoàn thiện Đề án thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc, tạo điều kiện hỗ trợ, kết nối hoạt động đổi mới sáng tạo trong cộng đồng và các cơ sở giáo dục đào tạo bậc đại học, cao đẳng, dạy nghề, viện nghiên cứu, các startup, doanh nghiệp, quỹ đầu tư trong nước và ngoài nước.
- Phát huy vai trò của Bộ phận Chỉ đạo Hỗ trợ đầu tư và Phát triển doanh nghiệp và Tổ công tác trực tiếp giúp Chủ tịch UBND tỉnh tiếp nhận và xử lý thông tin nhằm xử lý kịp thời, nghiêm túc mọi phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp, nhà đầu tư, góp phần tháo gỡ khó khăn trong quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Xây dựng hình ảnh, thương hiệu của tỉnh thông qua việc xây dựng những biểu trưng, ấn phẩm, những đặc điểm riêng biệt của tỉnh Vĩnh Phúc so với các địa phương khác, tổ chức xúc tiến, quảng bá các điểm đến hấp dẫn, điều kiện hạ tầng và yếu tố con người Vĩnh Phúc ... với các bạn bè, doanh nghiệp trong và ngoài nước.
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp về đào tạo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; hỗ trợ chi phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh đối với các dự án thuộc lĩnh vực tỉnh khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh; các chính sách hỗ trợ liên quan đến đất đai của tỉnh cho doanh nghiệp như: tạo quỹ đất sạch để thu hút đầu tư, hỗ trợ bồi thường, cưỡng chế, giải phóng mặt bằng đối với các dự án trọng điểm; chính sách hỗ trợ về quy hoạch như: hỗ trợ về chi phí lập hồ sơ đề xuất dự án đầu tư trực tiếp, thủ tục giới thiệu địa điểm, quy hoạch chi tiết 1/500, chi phí lập báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh.
- Tổ chức phổ biến kiến thức về hội nhập, tạo mạng lưới chia sẻ thông tin, kết nối cộng đồng doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp nước ngoài trên địa bàn, hỗ trợ doanh nghiệp nội địa tìm kiếm thị trường xuất khẩu, tận dụng thời cơ từ các Hiệp định thương mại tự do. Thường xuyên tập hợp các ý kiến phản ánh, nguyện vọng từ phía doanh nghiệp; Tham mưu tôn vinh các doanh nghiệp có nhiều đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhằm động viên, khuyến khích doanh nghiệp; tổ chức các cuộc gặp mặt đối thoại giữa doanh nghiệp với lãnh đạo tỉnh, chính quyền địa phương. Xây dựng và duy trì các diễn đàn doanh nghiệp riêng cho doanh nghiệp trong nội bộ tỉnh và kết nối với các doanh nghiệp lớn trong nước và nước ngoài. Tăng cường hiệu quả hoạt động của Cổng thông tin đối thoại doanh nghiệp Chính quyền của tỉnh Vĩnh Phúc.
- Xây dựng chính sách hỗ trợ tăng cường năng lực đáp ứng các yêu cầu của thị trường xuất khẩu cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đổi mới công tác xúc tiến thương mại và phát triển thương hiệu theo chiều sâu vào từng thị trường và mặt hàng cụ thể. Nâng cao vai trò của các tổ chức hỗ trợ xuất khẩu; xây dựng và phát triển hệ thống các cơ quan đại diện, các văn phòng nghiên cứu phát triển thương mại và đầu tư đại diện cho doanh nghiệp, ngành hàng ở nước ngoài…
- Tăng cường liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, trường cao đẳng dạy nghề và các tổ chức liên quan với mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, chuẩn bị lực lượng lao động được đào tạo đúng định hướng ngành nghề và đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.
- Thành lập Quỹ nghiên cứu cải tiến quy trình sản xuất do doanh nghiệp trích lập, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trên địa bàn nhưng chưa được đánh giá cao về trình độ công nghệ để khuyến khích doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao vào sản xuất.
- Hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện thủ tục đăng ký sở hữu trí tuệ theo hướng đơn giản, nhanh chóng, thuận lợi nhằm bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hiệu lực, hiệu quả.
- Thực hiện hiệu quả Đề án chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia xây dựng hạ tầng số và các hạ tầng khác phục vụ chuyển đổi số quốc gia theo hình thức PPP trên địa bàn tỉnh.
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 5 năm, hàng năm để xây dựng các khu, cụm công nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuê làm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận tín dụng, tiếp cận đất đai, giảm chi phí gia nhập thị trường; giải quyết kịp thời các vướng mắc, kiến nghị hợp lý của các nhà đầu tư. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc các dự án chậm tiến độ đã cam kết; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật.
- Khuyến khích, hỗ trợ các hộ gia đình, hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi sang hình thức doanh nghiệp. Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp như y tế, giáo dục, đào tạo nghề, văn hóa, thể thao khoa học công nghệ... Thành lập các quỹ như quỹ tín dụng nhân dân ở những nơi có nhu cầu và đủ điều kiện, quỹ bảo hiểm sản xuất… thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại để huy động vốn đầu tư tại chỗ để đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của tỉnh.
- Triển khai tốt Kế hoạch hoàn thiện và nhân rộng mô hình HTX kiểu mới, hiệu quả trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025; Quyết định của UBND tỉnh quy định một số nội dung hỗ trợ cho các mô hình HTX thí điểm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Tăng cường chuyển đổi mô hình hoạt động các hợp tác xã theo đúng Luật Hợp tác xã. Hỗ trợ, hướng dẫn để phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hộ hoạt động hiệu quả. Hỗ trợ hình thành các mô hình sản xuất mới trong nông nghiệp, gắn kết giữa người nông dân với doanh nghiệp.
- Khuyến khích hình thành và phát triển các mô hình kinh doanh mới hướng đến phát triển bền vững, như mô hình kinh doanh tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh doanh vì người thu nhập thấp,…
3.4. Đẩy mạnh đầu tư vào khoa học công nghệ, thúc đẩy kinh tế số, chuyển đối số
3.4.1. Mục tiêu
Thúc đẩy đổi mới công nghệ, tăng số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15%/năm.
Tốc độ đổi mới công nghệ bình quân toàn tỉnh giai đoạn 2021-2030 đạt 20%, riêng các lĩnh vực ưu tiên đạt trên 20%.
Tổng vốn toàn xã hội đầu tư cho khoa học và công nghệ chiếm tối thiểu 2% GRDP (theo Điều 49 Luật Khoa học và công nghệ năm 2013) trong giai đoạn 2021-2030 và duy trì trên 2% trong các năm tiếp theo.
Tăng cường cơ chế tự chủ các tổ chức, doanh nghiệp KH&CN. Đến năm 2030, 100% các tổ chức KH&CN công lập chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Hình thành và phát triển các doanh nghiệp KH&CN, kết hợp với xây dựng hạ tầng kỹ thuật và phát triển nhân lực công nghệ cao.
Tham gia, kết nối vào mạng lưới khoa học công nghệ cả nước nhằm nâng cao năng lực; đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao tiến bộ KH&CN, tiến tới làm chủ và tạo ra công nghệ cao.
Ứng dụng hiệu quả công nghệ cao trong các lĩnh vực sản xuất sản phẩm, phát triển kinh tế-xã hội, hướng tới mục tiêu lấy KH&CN làm nền tảng cho các ngành sản xuất trên địa bàn tỉnh. Tỷ lệ kinh tế số trên GRDP đạt tối thiểu 10%.
Phấn đấu đến năm 2030 tỷ lệ nhân lực KH&CN đạt 5-7 người/ 1 vạn dân.
3.4.2. Nhiệm vụ, giải pháp
a) Nâng cao năng lực, phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của tỉnh trên các khía cạnh cơ bản: thể chế, chính sách; cơ sở vật chất; nhân lực; vốn đầu tư; hợp tác.
* Thể chế, chính sách
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò nền tảng, động lực, giải pháp đột phá để phát triển kinh tế - xã hội của KH&CN.
+ Xây dựng đồng bộ cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ và ĐMST, trong đó tập trung hoàn thành và triển khai Chương trình chuyển giao, đổi mới công nghệ và phát triển thị trường công nghệ Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025.
+ Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội, thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công nghệ; chú trọng tháo gỡ các rào cản về hệ thống luật pháp; cho phép thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới, chấp nhận rủi ro cho việc triển khai và ứng dụng công nghệ mới, ĐMST, mô hình kinh doanh mới. Hình thành và phát triển hệ thống ĐMST, lấy doanh nghiệp làm trung tâm thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST. Đẩy nhanh xây dựng chính quyền số.
* Cơ sở vật chất
+ Phát triển hệ thống mạng lưới tổ chức KH&CN, các trung tâm nghiên cứu ứng dụng tiến bộ KH&CN, các tổ chức ứng dụng, dịch vụ khoa học kỹ thuật. Đẩy mạnh quá trình tái cấu trức, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức KH&CN công lập; phát triển mạng lưới các tổ chức tư vấn, hỗ trợ, chuyển giao công nghệ đa dạng, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực nông nghiệp, nông thôn.
+ Triển khai mô hình Trung tâm ĐMST và khởi nghiệp tỉnh và các phân khu, tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển các hoạt động ĐMST và khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh, tạo nền tảng và điều kiện cho các hoạt đông nghiên cứu phát triển (R&D), gắn với thử nghiệm, ứng dụng và sản xuất. Xây dựng và hoàn thiện các chủ trương, chính sách hỗ trợ mạng lưới cơ sở hạ tầng ĐMST và khởi nghiệp. Phát triển các cơ sở ươm tạo, khu sản xuất sản phẩm ĐMST trong lĩnh vực công nghiệp CNC, nông nghiệp CNC, du lịch dịch vụ và khởi nghiệp. Một số lĩnh vực ưu tiên phát triển của Trung tâm ĐMST và khởi nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc bao gồm: Công nghiệp CNC, nông nghiệp CNC, ứng dụng công nghệ số và dữ liệu số cho logistics, môi trường, thương mại điện tử, du lịch, dịch vụ và chăm sóc sức khoẻ, phòng chống dịch bệnh, …
+ Đẩy mạnh xây dựng các cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ hoạt động KH&CN, đặc biệt đối với các lĩnh vực KH&CN ưu tiên của tỉnh như: hệ thống phòng thí nghiệm, hệ thống thông tin, tư liệu KH&CN, …
+ Tăng cường năng lực, cơ sở vật chất hình thành mạng lưới tổ chức KH&CN, doanh nghiệp KH&CN, hạ tầng KH&CN. Hình thành các cơ sở ươm tạo công nghệ, cơ sở ươm tạo doanh nghiệp KH&CN.
* Nhân lực
+ Tăng cường phát triển nguồn nhân lực KH&CN, tăng cường công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ KH&CN hiện có, kết hợp với xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo mới nguồn nhân lực KH&CN để đáp ứng tốt cho các nhu cầu nhân lực phục vụ dự án ĐMST và khởi nghiệp của tỉnh trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
+ Kết hợp hiệu quả giữa đào tạo, đào tạo lại với sử dụng và trọng dụng nhân tài. Xây dựng kế hoạch và chính sách khuyến khích, trọng dụng, thu hút cán bộ KH&CN, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao, các lĩnh vực là thế mạnh cũng như trọng tâm phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh trong và ngoài nước về làm việc tại Vĩnh Phúc; thực hiện chế độ đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ khoa học và công nghệ trẻ, tài năng.
+ Hình thành các nhóm chuyên gia nghiên cứu, tư vấn trong các lĩnh vực Công nghiệp, Công nghệ sinh học và môi trường, công nghệ thông tin, Y dược,....
* Vốn đầu tư
+ Chú trọng đầu tư ngân sách nhà nước cho hoạt động KH&CN. Bảo đảm đầu tư ít nhất 2% trong tổng chi NSNN cho KH&CN trong giai đoạn 2021-2030.
+ Tăng cường xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực cho phát triển khoa học, công nghệ và ĐMST, nhất là đầu tư từ doanh nghiệp. Chú trọng phát triển năng lực ĐMST của doanh nghiệp, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, là động lực chính của tăng trưởng kinh tế, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Tập trung vào nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ công nghệ mới, tham gia các chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị gia tăng cao, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
+ Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, ứng dụng công nghệ, đổi mới công nghệ. Hỗ trợ doanh nghiệp trích lập và sử dụng quỹ khoa học và công nghệ phục vụ đổi mới công nghệ, ĐMST.
+ Tăng cường cơ chế tự chủ các tổ chức, doanh nghiệp KH&CN.
* Tăng cường hợp tác quốc tế; hợp tác trong nước trong hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ
+ Tăng cường hợp tác, liên danh, liên kết trong nước trong các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao các sản phẩm, kết quả KH&CN: i) giữa các tổ chức KH&CN trong nội bộ tỉnh Vĩnh Phúc; ii) giữa các tổ chức KH&CN của tỉnh Vĩnh Phúc với các tổ chức KH&CN thuộc các tỉnh, thành khác trong cả nước; và iii) giữa các tổ chức KH&CN của tỉnh Vĩnh Phúc với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước. Tăng cường gắn kết các tổ chức KH&CN với các cơ sở đào tạo và tổ chức ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (người dân và doanh nghiệp).
+ Tăng cường hợp tác quốc tế trong các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao các sản phẩm, kết quả KH&CN, thu hút các dự án đầu tư về nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp công nghệ cao, phát triển công nghệ mới, các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0; hợp tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về chuyên môn nghiệp vụ trong các ngành nghề, lĩnh vực là thế mạnh, ưu tiên phát triển của tỉnh, cũng như hợp tác tăng cường năng lực tin học, ngoại ngữ cho cán bộ thuộc các tổ chức KH&CN công lập của tỉnh.
+ Xây dựng danh mục dự án khoa học công nghệ của tỉnh để kêu gọi đầu tư tư nhân và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực khoa học và chuyển giao công nghệ.
+ Từng bước hình thành và phát triển Mạng lưới tổ chức KH&CN; Thị trường KH&CN, để KH&CN và ĐMST thực sự làm nền tảng và động lực cho chuyển đổi mô hình tăng trưởng của tỉnh.
b) Đẩy mạnh hoạt động ứng dụng, nghiên cứu, tiếp thu chuyển giao tiến bộ KH&CN; tăng cường xác lập quyền sở hữu trí tuệ; đổi mới công nghệ, ứng dụng KH&CN nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa chủ lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
b.1) Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và hấp thụ tiến bộ KH&CN, các thành tựu KH&CN
+ Đề xuất các nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN thiết yếu, kết chặt chẽ khoa học xã hội và nhân văn với khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ trong quá trình triển khai các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến 2030 theo hướng phát triển nhanh, bền vững; lựa chọn ngành, lĩnh vực thế mạnh của tỉnh, từng bước tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
+ Xây dựng cơ chế hỗ trợ cho các tổ chức KH&CN nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật có khả năng tạo ra các sản phẩm KH&CN có tính cạnh tranh trên thị trường. Tập trung nâng cao năng lực hấp thụ, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Phát triển doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp công nghệ cao,..
+ Phát triển KH&CN theo hướng đóng góp tích cực vào nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa và dịch vụ, cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế toàn tỉnh. Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng KH&CN vào thực tiễn sản xuất và đời sống. Khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ; nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới; đưa công nghệ cao, công nghệ tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường vào sản xuất - kinh doanh, đặc biệt là các ngành công nghiệp bảo quản, chế biến nông sản thực phẩm, cơ khí, điện tử, sản xuất vật liệu xây dựng.
+ Đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất phù hợp với những đặc thù và lợi thế riêng của tỉnh Vĩnh Phúc. Chú trọng phát triển các sản phẩm Công nghiệp, dịch vụ chủ lực tỉnh gắn với chế biến đáp ứng nhu cầu thị trường và thích ứng biến đổi khí hậu. Gắn KH&CN với sản xuất kinh doanh để nâng cao năng suất, chất lượng, đạt tiêu chuẩn Quốc tế hướng tới mục tiêu xuất khẩu và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
- Đẩy mạnh hoạt động thu hút đầu tư các dự án sản xuất các sản phẩm mới, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao và các sản phẩm chủ lực của tỉnh: Cơ khí phục vụ công nghiệp ô tô, cơ khí nông nghiệp; linh phụ kiện điện tử - tin học;… Xây dựng cơ chế khuyến khích, đặc biệt đẩy mạnh liên kết, liên doanh, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật thực hiện các dự án đầu tư sản xuất nông nghiệp theo quy mô công nghiệp, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, chất lượng sạch.
+ Đẩy mạnh hoạt động của sàn giao dịch công nghệ và thiết bị trực tuyến Vĩnh Phúc để thu hút ngày càng nhiều doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện các giao dịch mua, bán công nghệ, thiết bị, …
+ Tăng cường phối hợp giữa các sở, ngành nhằm nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành triển khai thực hiện các nhiệm vụ, đặc biệt là triển khai các Chương trình nghiên cứu ứng dụng KH&CN, các dự án đầu tư tăng cường tiềm lực KH&CN trên địa bàn tỉnh. Từng bước tăng cường, khuyến khích và đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động KH&CN thông qua các chương trình, đề tài, dự án để huy động mọi nguồn lực đầu tư cho KH&CN, thúc đẩy kinh tế-xã hội của tỉnh phát triển.
b.2) Thúc đẩy các hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo
+ Tăng cường tuyên truyền về ĐMST; xây dựng và vận hành Cổng thông tin khởi nghiệp ĐMST tỉnh; tổ chức sự kiện ngày hội khởi nghiệp ĐMST; phát triển hoạt động đào tạo, nâng cao năng lực và dịch vụ cho khởi nghiệp ĐMST.
+ Thường xuyên tổ chức các hoạt động đối thoại chính sách để nắm bắt kịp thời các nguyện vọng, kỳ vọng và đề xuất của các nhà ĐMST và khởi nghiệp để có những điều chỉnh chính sách kịp thời, cần thiết và phù hợp. Cập nhật thường xuyên và đầy đủ những chủ trương, chính sách mới cho các nhà ĐMST, nhằm hỗ trợ các hoạt động ĐMST và khởi nghiệp một cách hiệu quả.
+ Xây dựng mô hình và thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc. Hỗ trợ, kết nối hoạt động ĐMST trong cộng đồng và các cơ sở giáo dục đào tạo bậc đại học, cao đẳng, dạy nghề, viện nghiên cứu, các startup, doanh nghiệp, quỹ đầu tư trong nước và ngoài nước.
+ Chú trọng khai thác kịp thời, có hiệu quả những động lực mới cho tăng trưởng dựa trên KH&CN và ĐMST, ưu tiên thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công nghệ; nghiên cứu cơ chế, chính sách đặc thù, khuyến khích lấy doanh nghiệp là trung tâm nghiên cứu, phát triển và ứng dụng, chuyển giao công nghệ.
+ Chú trọng ứng dụng công nghệ số. Hình thành năng lực sản xuất mới, tăng cường năng lực tự chủ và khả năng thích ứng với những biến động của nền kinh tế.
+ Hằng năm tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về khởi nghiệp ĐMST cho các đối tượng khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh, cộng đồng khởi nghiệp ĐMST, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp các Hợp tác xã của tỉnh.
+ Tổ chức cuộc thi về khởi nghiệp ĐMST, sự kiện Ngày hội khởi nghiệp ĐMST Vĩnh Phúc 02 năm/lần; Hỗ trợ giới thiệu các doanh nghiệp khởi nghiệp tiềm năng tại tỉnh tham dự TECHFEST quốc gia. Tổ chức hội nghị, hội thảo, diễn đàn, sự kiện khởi nghiệp ĐMST, sự kiện kết nối hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST của tỉnh; tham gia kết nối với hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST quốc gia, các tỉnh, thành khác; tìm kiếm, giới thiệu và kết nối đối tác kinh doanh, nhà đầu tư cho dự án, doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST.
+ Hỗ trợ ươm tạo, khởi nghiệp ĐMST đối với các cá nhân, nhóm cá nhân có dự án khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới.
b.3) Tăng cường công tác Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng
+ Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, áp dụng và duy trì cải tiến hệ thống TCVN ISO 9001:2015 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, phối hợp thanh tra, kiểm tra về đo lường chất lượng sản phẩm hàng hoá một cách kịp thời, đảm bảo đo lường thống nhất, chính xác, hạn chế hàng giả, hàng kém chất lượng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
+ Thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền về công tác tiêu chuẩn đo lường chất lượng, hướng dẫn các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp xây dựng, công bố tiêu chuẩn cơ sở, áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá, tăng cường tính chất cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
b.4) Tăng cường quản lý công nghệ và phát triển thị trường công nghệ
+ Thường xuyên tổ chức khảo sát, điều tra đánh giá trình độ công nghệ và phát triển thị trường KH&CN trên địa bàn tỉnh. Tổ chức hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của các trung tâm giao dịch công nghệ, sàn giao dịch công nghệ, các tổ chức trung gian của thị trường KH&CN, doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn tỉnh.
+ Hướng dẫn các tổ chức, cá nhân trong hoạt động ươm tạo công nghệ, xây dựng giải pháp hỗ trợ đổi mới công nghệ.
+ Hướng dẫn, quản lý các hoạt động chuyên giao công nghệ trên địa bàn, bao gồm: chuyển giao công nghệ, đánh giá, định giá, giám định công nghệ, môi giới và tư vấn chuyển giao công nghệ, các dịch vụ chuyển giao công nghệ khác theo quy định.
+ Thực hiện thẩm định công nghệ cho 100% các dự án đầu tư vào tỉnh để lựa chọn công nghệ hiện đại, tiên tiến đầu tư vào tỉnh, nhất là các ngành công nghiệp ưu tiên của tỉnh như: ô tô, xe máy, vật liệu xây dựng, điện điện tử, … đồng thời loại bỏ các dự án sử dụng các công nghệ cũ lạc hậu, tiêu hao nhiều nguyên, nhiên liệu, năng lượng, gây ô nhiễm môi trường;
+ Quản lý việc khai báo, thống kê các nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ, chất thải phóng xạ trên địa bàn theo quy định của pháp luật; tổ chức thực hiện việc kiểm soát và xử lý sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân trên địa bàn.
b.5) Tăng cường quản lý các hoạt động sáng kiến, sáng chế, tài sản trí tuệ
+ Thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định quản lý hoạt động sáng kiến trên địa bàn tỉnh. Xây dựng kế hoạch, tiếp nhận hồ sơ đề nghị công nhận sáng kiến của các cá nhân, tổ chức, tiến hành phân loại hồ sơ, thẩm định, đánh giá sáng kiến cấp cơ sở, cấp tỉnh nghiêm túc, chặt chẽ, minh bạch, đúng quy định. Phối hợp với các cấp, ngành triển khai nhân rộng và đánh giá hiệu quả các sáng kiến có khả năng ứng dụng thực tiễn.
+ Tăng cường công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Hướng dẫn hoàn thiện các thủ tục cho 100% các tổ chức, cá nhân có nhu cầu đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp và cung cấp, tra cứu thông tin về sở hữu trí tuệ; tham mưu giúp Hội đồng sáng kiến tỉnh xem xét, chứng nhận sáng kiến.
+ Triển khai các chương trình, kế hoạch của tỉnh về thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ. Tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo về đăng ký khai thác nhãn hiệu, sáng chế và sở hữu công nghiệp cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh; thực hiện quản trị tài sản trí tuệ, đăng ký khai thác nhãn hiệu cho sản phẩm đặc trưng của các làng nghề, địa phương cho các hộ kinh doanh, hợp tác xã, làng nghề trên địa bàn tỉnh.
+ Xây dựng và đăng ký nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu hàng hoá cho các sản phẩm đặc trưng, chủ lực của các địa phương trên địa bàn tỉnh.
+ Hỗ trợ quản lý và phát triển tài sản trí tuệ đối với các sản phẩm đặc trưng của các địa phương mang địa danh đã được bảo hộ, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể.
+ Đẩy mạnh hoạt động thông tin, thống kê KH&CN và hoạt động sở hữu trí tuệ để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng và nhà sản xuất trên địa bàn. Xây dựng chương trình hành động với các chỉ tiêu cụ thể để ứng dụng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong mọi mặt hoạt động ở các cấp, các nghành của tỉnh.
c) Thúc đẩy kinh tế số, chuyển đổi số
- Triển khai thực hiện các nghị quyết của Trung ương, của tỉnh về chuyển đổi số, ứng dụng thành tựu KH&CN vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh như: Xây dựng chính quyền điện tử, tiến tới chính quyền số (trước mắt tập trung vào việc giải quyết các TTHC trực tuyến), xây dựng thành phố thông minh, quản lý xã hội; thanh toán không dùng tiền mặt (trước mắt triển khai trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục, nộp thuế); quan trắc môi trường tự động, hồ sơ quản lý sức khỏe điện tử, ứng dụng trong công tác quản lý nhà nước, xây dựng thành phố thông minh.
- Nâng cao nhận thức về phát triển nền kinh tế số thông qua tăng cường các hoạt động tuyên truyền, phổ biến về sự cần thiết, lợi ích và vai trò của kinh tế số trong phát triển kinh tế-xã hội, để các DN hoạt động trên địa bàn có sự chuẩn bị phù hợp, kịp thời nắm bắt cơ hội, cũng như bảo đảm tính cạnh tranh quốc tế trong nền kinh tế số toàn cầu; đẩy mạnh đầu tư cho hạ tầng công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực khi tham gia vào nền kinh tế số.
- Xây dựng chiến lược về chuyển đổi số, kinh tế số của tỉnh, khuyến khích cái mới, tạo môi trường, điều kiện và cơ hội cho cái mới ra đời và phát triển. Chủ động tham gia vào các cơ chế, chính sách để phát triển kinh tế số, chính sách về dữ liệu, quản trị dữ liệu, tạo thuận lợi cho việc kết nối, chia sẻ và khai thác dữ liệu bảo đảm an toàn, an ninh mạng, tiến tới kết nối với các tỉnh và toàn quốc; triển khai hạ tầng di động 5G trên toàn tỉnh, Internet băng thông rộng phủ sóng 100% đến cấp xã. Đề xuất cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp tư nhân có đủ năng lực tham gia xây dựng hạ tầng viễn thông và các hạ tầng khác cho chuyển đổi số, cho quá trình phát triển mô hình đô thị thông minh. Hoàn thiện các quy định, cơ chế, chính sách về quản trị dữ liệu, tạo thuận lợi cho việc tạo dựng, kết nối, chia sẻ và khai thác dữ liệu đảm bảo an toàn, an ninh mạng tiến đến kết nối trong nước và khu vực ASEAN.
+ Tăng cường phối hợp giữa các Sở, ngành để nghiên cứu, đề xuất giải pháp chính sách tập trung phát triển kinh tế số trong các ngành ưu tiên có mức độ sẵn sàng cao như: Công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông; an toàn, an ninh mạng; công nghiệp chế tạo thông minh; tài chính - ngân hàng số; thương mại điện tử; nông nghiệp số; du lịch số; y tế kết nối số; giáo dục và đào tạo thông minh.
- Nghiên cứu thay đổi nội dung, phương pháp đào tạo nhằm xây dựng nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới; tập trung vào thúc đẩy đào tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, ngoại ngữ, tin học; xây dựng chương trình đào tạo, đào tạo lại kiến thức nghề nghiệp;... Có chính sách kết nối với cộng đồng khoa học công nghệ trong nước với nước ngoài, đặc biệt với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
- Chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng số, trong đó nhanh chóng phát triển dịch vụ internet di động 5G, đầu tư mở rộng mạng lưới cáp quang tốc độ cao và tăng băng thông internet quốc tế; chú trọng công tác bảo vệ an ninh kinh tế, an ninh thông tin, an ninh chính trị, an ninh văn hoá và an ninh quốc gia nói chung qua không gian mạng
- Tập trung phát triển sản phẩm nội dung số, truyền thông số, quảng cáo số. Phát triển công nghiệp sáng tạo, hệ sinh thái nội dung số Việt Nam đa dạng, hấp dẫn.
3.5. Phát huy vai trò của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nghiên cứu tăng cường liên kết, kết nối doanh nghiệp FDI và trong nước
3.5.1. Mục tiêu
Phát huy vai trò của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong nâng cấp chuỗi giá trị, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, gắn với liên kết và phát huy nội lực của nền kinh tế tỉnh. Một số mục tiêu cụ thể:
- Thu hút thêm vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước và vốn đầu tư nước ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của Vĩnh Phúc. Thu hút trên 47 nghìn tỷ đồng vốn của tổ chức doanh nghiệp tư nhân và trên 142 nghìn tỷ đồng vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2021-2025, 76 nghìn tỷ đồng vốn của tổ chức doanh nghiệp tư nhân và trên 143 nghìn tỷ đồng vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2026-2030.
- Tăng tỉ lệ doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến, quản trị hiện đại, bảo vệ môi trường, hướng đến công nghệ cao.
3.5.2. Nhiệm vụ, giải pháp:
- Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh; tạo lợi thế trong việc thu hút nguồn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài. Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính.
- Tổ chức triển khai Kế hoạch 194/KH-UBND ngày 26/7/2022 về việc thực hiện Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021 - 2030 trên địa bàn tỉnh; Đề án hỗ trợ kết nối, liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp của tỉnh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từng bước tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu; Đề án cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) giai đoạn 2021-2025.
- Hiện đại hóa công tác xúc tiến đầu tư theo hướng hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm vào các đối tác tiềm năng; thu hút nhà đầu tư chiến lược có năng lực kinh nghiệm, tài chính, các tập đoàn xuyên quốc gia có công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghệ xanh thân thiện với môi trường. Các nội dung cần hiện đại hóa - có thể bao gồm: phạm vi các hoạt động xúc tiến đầu tư, cách tiếp cận, công cụ và các chỉ số hiệu quả FDI được sử dụng.
- Chủ động trong xây dựng chiến lược ngành rõ ràng và định hướng xúc tiến FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu đầu tư của địa phương. Trong đó, cần định hướng tăng cường thu hút FDI quy mô lớn và các ngành công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghệ mới, tiên tiến, thân thiện với môi trường; có kết nối giữa doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh. Ưu tiên các dự án trong các lĩnh vực công nghiệp điện tử, viễn thông, công nghiệp cơ khí, vật liệu xây dựng, vật liệu mới và công nghiệp hỗ trợ của ngành sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử; các dự án phát triển hạ tầng khu công nghiệp, dự án du lịch dịch vụ, trường đại học tầm cỡ quốc tế và các dự án đầu tư vào ngành dịch vụ như: Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, y tế, giáo dục-đào tạo, vận tải, logistics. Mở rộng đối tác thu hút FDI như các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản, Hàn Quốc và hướng tới các đối tác tiềm năng đến từ châu Âu và Hoa Kỳ.
- Thực hiện tốt công tác quy hoạch và tập trung hoàn thiện kết cấu hạ tầng để phục vụ thu hút đầu tư. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo tính minh bạch, lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi nhất để các nhà đầu tư đến đầu tư vào Vĩnh Phúc. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các hỗ trợ xây dựng hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào khu công nghiệp theo Nghị quyết số 57/2016/NQ-HĐND ngày 12/12/2016 của Hội đồng Nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
- Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài để có lựa chọn các dự án đầu tư phù hợp với Quy hoạch tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2050. Trong đó, ưu tiên các tiêu chí lựa chọn đảm bảo tính phù hợp với ngành ưu tiên, giảm thiểu các tác động tiêu cực đến xã hội và môi trường trên địa bàn tỉnh.
- Tăng cường thêm các cam kết của nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trên địa bàn tỉnh như tăng tỷ lệ nội địa hóa, đảm bảo về môi trường, trình độ công nghệ trung bình trở lên... thông qua việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách chuyển giao công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, thúc đẩy liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị với doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân trong tỉnh.
- Tiếp tục các chính sách ưu đãi về thuế, đất đai cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng xây dựng các chế tài phạt nặng nếu các cam kết bị vi phạm. Từng bước nâng cao các tiêu chuẩn, kỹ thuật về sản phẩm, bảo vệ môi trường, tài nguyên, tiết kiệm năng lượng. Không gia hạn hoạt động đối với dự án công nghệ lạc hậu, thâm dụng tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường.
- Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tham gia đào tạo, nâng cao kỹ năng, trình độ cho lao động trên địa bàn tỉnh.
- Xây dựng cơ chế, chính sách huy động nguồn thu; đa dạng hóa các hình thức huy động vốn. Tăng cường huy động vốn đầu tư theo cơ chế công tư kết hợp (PPP) dưới nhiều hình thức. Nghiên cứu xây dựng danh mục các công trình đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng theo hình thức PPP cho từng giai đoạn để thu hút nhà đầu tư, coi đây là giải pháp đột phá để hoàn thiện cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và hướng tới mục tiêu xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Các dự án PPP phải được nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng; công tác chuẩn bị hồ sơ và công việc sơ bộ cần được ưu tiên và tập trung thực hiện trước khi bắt đầu các cuộc thảo luận PPP với các nhà đầu tư tiềm năng. Đồng thời, tăng cường huy động nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp, đón các làn sóng chuyển dịch đầu tư thời kỳ hậu Covid-19; Kiều hối và huy động đầu tư từ bên ngoài.
3.6. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư công
3.6.1. Mục tiêu
Thực hiện đúng tiến độ và có hiệu quả kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 đã được HĐND tỉnh ban hành tại các Nghị quyết số 56/NQ-HĐND ngày 21/12/2021, Nghị quyết số 01/NQ-HĐND ngày 24/6/2022, Nghị quyết số 12/NQ-HĐND ngày 20/7/2022… nhằm nâng cao hiệu quả và tác động lan tỏa của nguồn lực đầu tư công trong thu hút tối đa các nguồn lực cho đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu, cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tỉnh, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu, chỉ tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc khóa XVII nhiệm kỳ 2020-2025; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm giai đoạn 2021 - 2025; Quy hoạch tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 và các quy hoạch ngành, lĩnh vực cấp quốc gia được phê duyệt. Một số mục tiêu cụ thể như sau:
- Ưu tiên nguồn lực đầu tư công tập trung vào các dự án trọng điểm để hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, hạ tầng cho kinh tế số và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
- Tăng cường hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công trong trung hạn, tránh lãng phí, thất thoát và đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công.
- Thúc đẩy tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công cao trên địa bàn tỉnh; gắn trách nhiệm người đứng đầu các đơn vị với tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công cao như là một tiêu chí để đánh giá chất lượng hoàn thành công việc hàng năm.
- Huy động trên 35 nghìn tỷ đồng vốn khu vực Nhà nước cho phát triển kết cấu hạ tầng của tỉnh giai đoạn 2021-2025, tăng lên trên 58 nghìn tỷ đồng giaii đoạn 2026-2030.
3.6.2. Nhiệm vụ, giải pháp
- Đa dạng hóa nguồn thu ngân sách và bồi dưỡng nguồn thu bền vững cho ngân sách. Đảm bảo thực hiện đúng Luật ngân sách nhà nước để huy động tối đa nguồn thu, tránh thất thoát.
- Tiếp tục tranh thủ sự hỗ trợ của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương, các nhà tài trợ để thu hút các nguồn vốn từ ngân sách trung ương, nguồn vốn hỗ trợ ODA và các nguồn vốn hỗ trợ khác để đầu tư các dự án lớn, ưu tiên hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội (kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi), hạ tầng cho kinh tế số và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành ngay từ khâu xây dựng quy hoạch và kế hoạch, đảm bảo các công trình, dự án trọng điểm của tỉnh được thể hiện đầy đủ trong quy hoạch, kế hoạch đầu tư của Bộ ngành, nhằm đảo bảo vốn cho đầu tư phát triển.
- Rà soát lại tất cả các dự án đầu tư, kiểm soát chặt chẽ phạm vi, quy mô của từng dự án đầu tư theo đúng mục tiêu, lĩnh vực và chương trình đã được phê duyệt. Thực hiện đúng các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước tỉnh giai đoạn 2021-2025 theo tinh thần Nghị quyết số 38/NQ-HĐND ngày 14/12/2020 của HĐND tỉnh. Xem xét ngừng khởi công hoặc giãn tiến độ đầu tư đối với các dự án chưa thật sự cấp thiết, không giải phóng được mặt bằng và các dự án không có khả năng bố trí vốn đảm bảo theo các nguyên tắc; các dự án chuyển tiếp phải dừng, giãn tiến độ cần bố trí vốn hoàn thành đến điểm dừng kỹ thuật để đưa phần công trình hoàn thành vào sử dụng và phát huy hiệu quả vốn đã đầu tư.
- Xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm. Đổi mới cơ bản cơ chế phân bổ vốn và quản lý sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước về đầu tư công, kiên quyết khắc phục đầu tư dàn trải, phân tán. Áp dụng quy trình hợp lý, chặt chẽ và có hiệu quả về thẩm định, lựa chọn, phân bổ vốn đầu tư và thực hiện dự án đầu tư nhà nước, theo đó chỉ lựa chọn những dự án đáp ứng tiêu chí về hiệu quả kinh tế - xã hội; tập trung bố trí đủ vốn đầu tư thực hiện các dự án trọng tâm, trọng điểm, dự án cấp bách, dự án có tính chất liên kết vùng, là động lực cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; không sử dụng vốn NSNN để đầu tư mới vào các dự án thuộc ngành, lĩnh vực mà khu vực tư nhân có khả năng và sẵn sàng đầu tư kinh doanh như các dịch vụ thương mại, khách sạn, nhà hàng, kinh doanh bất động sản, lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng và một số ngành, lĩnh vực khác. Đồng thời, tăng cường công tác theo dõi, đánh giá, giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện kế hoạch đầu tư công hàng năm và trung hạn và thực hiện các chương trình, dự án đầu tư một cách công khai, minh bạch và có tính khả thi. Xác định các điểm nghẽn từ giai đoạn lập kế hoạch để đưa ra giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn trong quá trình thực hiện, đẩy nhanh tốc độ giải ngân vốn đầu tư công.
- Đảm bảo việc công khai, minh bạch thông tin về các dự án, công trình, thủ tục, chế độ chính sách. Lấy tiêu chí về tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công cao trên địa bàn tỉnh là một trong những tiêu chí để đánh giá, xếp loại đơn vị, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu các đơn vị hàng năm.
- Nâng cao trách nhiệm người đứng đầu đơn vị trong việc quyết định chủ trương đầu tư các dự án đầu tư được phân cấp theo quy định của pháp luật; bảo đảm chất lượng lập báo cáo đề xuất, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư dự án. Chỉ quyết định chủ trương đầu tư những dự án thật sự cần thiết khi đã thẩm định, làm rõ hiệu quả của dự án, nguồn vốn, khả năng cân đối, bố trí vốn cho từng dự án, bảo đảm dự án được phê duyệt có đủ nguồn lực tài chính để thực hiện.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giám sát, đánh giá đầu tư, tích hợp các hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu về quản lý đầu tư.
- Tăng cường quản lý, đánh giá chất lượng công trình đầu tư công, tăng cường sự giám sát từ Chính quyền địa phương và của cộng đồng đối với hoạt động đầu tư công nhằm cải thiện chất lượng công trình.
- Hoàn thiện chính sách phát huy vai trò của đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư nhân để tạo đột phá thu hút nguồn vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước trong và ngoài tỉnh theo phương thức PPP vào các công trình thiết yếu, quan trọng, có sức lan tỏa rộng và tác động lớn tới phát triển kinh tế; các dự án hạ tầng xã hội phục vụ cộng đồng dân sinh, trong đó ưu tiên tăng trưởng xanh, các công viên, khu vui chơi giải trí, nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân, nước sạch nông thôn. Ngoài ra, cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin về đầu tư theo phương thức PPP.
3.7. Cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập
- Triển khai Kế hoạch sắp xếp lại doanh nghiệp giai đoạn 2022-2025 ngay sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Chỉ đạo các doanh nghiệp nhà nước xây dựng và trình cấp có thẩm quyền hoặc phê duyệt theo thẩm quyền Đề án/phương án cơ cấu lại doanh nghiệp giai đoạn 2022-2025.
- Hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý chuyển thành công ty cổ phần giai đoạn 2022-2025 theo quy định tại Quyết định số 26/2021/QĐ-TTg ngày 12/8/2021 của Thủ tướng Chính phủ; tiếp tục thực hiện thoái vốn Nhà nước đối với các đơn vị (Công ty cổ phần Nước sạch Vĩnh Phúc, Công ty cổ phần Cấp thoát nước số 1 Vĩnh Phúc và Công ty cổ phần Quản lý và Sửa chữa đường bộ Vĩnh Phúc).
- Xây dựng Đề án sáp nhập đối với 04 Công ty TNHH một thành viên thủy lợi: Liễn Sơn, Tam Đảo, Lập Thạch, Phúc Yên.
- Công khai, minh bạch thông tin doanh nghiệp nhà nước; khích doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường; nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh; phòng ngừa, phát hiện và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong doanh nghiệp nhà nước; tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ việc huy động, sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước, nhưng phải đảm bảo công khai, minh bạch trong triển khai thực hiện, bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc thị trường.
3.8. Từng bước cơ cấu lại chi ngân sách địa phương theo hướng tích cực
3.8.1. Mục tiêu
- Tỷ trọng chi đầu tư phát triển bình quân giai đoạn 2021-2025 khoảng 45-50% tổng chi ngân sách địa phương; tỷ trọng chi thường xuyên chiếm khoảng 50-55% tổng chi ngân sách địa phương; ưu tiên bảo đảm chi trả nợ các khoản vay.
- Căn cứ tình hình thực tế, số bố trí chi đầu tư phát triển sẽ được HĐND tỉnh xem xét, quyết định trong dự toán chi ngân sách địa phương hằng năm.
3.8.2. Nhiệm vụ, giải pháp
- Tập trung tổ chức, chỉ đạo thu với phương châm tích cực nhất, thường xuyên đánh giá phân tích tình hình thu trên tất cả các lĩnh vực, các sắc thuế từ đó có các giải pháp cụ thể để quản lý, chỉ đạo và tham mưu có hiệu quả. Quản lý chặt chẽ mọi nguồn thu, triển khai đồng bộ các biện pháp tổ chức quản lý thu trên tất cả các lĩnh vực và địa bàn để phấn đấu hoàn thành vượt mức dự toán thu ngân sách nhà nước, bảo đảm tỷ trọng thu nội địa cao, phù hợp với sự phát triển của tỉnh; giảm tỷ trọng các khoản thu từ xuất nhập khẩu. Đẩy mạnh các biện pháp chống thất thu thuế và các khoản thu ngân sách nhà nước.
- Tăng hợp lý tỷ trọng chi đầu tư phát triển, giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên; Bảo đảm chi cho con người, an sinh xã hội, phòng chống thiên tai, dịch bệnh và chi cho quốc phòng, an ninh, các chính sách do địa phương và Trung ương ban hành địa phương đảm bảo nguồn. Bố trí cho chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề và sự nghiệp khoa học và công nghệ không thấp hơn dự toán Trung ương giao.
- Thực hiện cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà nước bảo đảm theo mục tiêu, định hướng đã đề ra. Từng bước thực hiện quản lý ngân sách theo kết quả thực hiện nhiệm vụ (kết quả đầu ra). Thực hiện có hiệu quả các giải pháp bảo đảm an ninh, an toàn tài chính của tỉnh.
- Tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định về đổi mới quản lý ngân sách nhà nước theo Luật ngân sách nhà nước, sắp xếp các khoản chi, triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, tăng nguồn thu sự nghiệp; không ban hành các chính sách, chế độ, các chương trình, đề án khi không cân đối được nguồn; kiểm soát chặt chẽ việc ứng trước dự toán, chi chuyển nguồn, chi từ nguồn dự phòng ngân sách.
- Thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính trong thu, chi ngân sách nhà nước. Tăng cường thanh tra, kiểm tra để chống thất thu, ngăn chặn các hành vi gian lận thương mại, chuyển giá, trốn thuế, chống thất thoát, lãng phí trong chi ngân sách nhà nước, đặc biệt là trong chi đầu tư xây dựng cơ bản. Tích cực đôn đốc, xử lý nợ đọng thuế và các khoản thu ngân sách nhà nước; giảm tối đa nợ đọng thuế. Xử lý nghiêm, kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật về quản lý, thu, chi ngân sách nhà nước, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu các sở, ngành, địa phương và đơn vị trong việc quản lý ngân sách nhà nước. Kiên quyết cắt giảm những khoản chi đã có trong dự toán nhưng không cần thiết, chậm triển khai; hạn chế chuyển nguồn ngân sách.
- Thực hiện chính sách tiền lương cùng với việc quyết liệt, đồng bộ các cơ chế, chính sách liên quan đến việc đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Đẩy mạnh sắp xếp và tăng cường giao tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, giảm mức hỗ trợ trực tiếp cho đơn vị sự nghiệp công lập khi giá dịch vụ công được điều chỉnh theo lộ trình.
- Đẩy mạnh việc cơ cấu lại và nâng cao chất lượng quản trị, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ hoặc nắm quyền chi phối theo cơ chế thị trường bảo đảm tối đa hóa lợi ích của Nhà nước và người dân.
- Kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu nợ công của tỉnh trong giới hạn cho phép; bố trí nguồn bảo đảm trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Các khoản vay mới chỉ thực hiện sau khi đã đánh giá đầy đủ tác động lên quy mô nợ công của tỉnh và khả năng trả nợ trong trung hạn.
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính. Thực hiện hiện đại hóa công tác quản lý tài chính ngân sách thông qua đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tài chính đồng bộ. Tăng cường tính minh bạch các thông tin tài chính ngân sách theo quy định.
- Tiếp tục thực hiện quản lý, sắp xếp xe công và xử lý tài sản công trong giai đoạn 2021-2025 theo mục tiêu, lộ trình đề ra và đảm bảo quy định của Nhà nước./.
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
BQGĐ | Bình quân giai đoạn |
CMCN | Cách mạng công nghiệp |
CN-XD | Công nghiệp và xây dựng |
ĐBSH | Đồng bằng sông Hồng |
ĐMST | Đổi mới sáng tạo |
DNNN | Doanh nghiệp nhà nước |
DNNN | Doanh nghiệp nhà nước |
DV | Dịch vụ |
FDI | Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài |
GDP | Tổng sản phẩm quốc nội |
GRDP | Tổng sản phẩm trên địa bàn |
ICOR | Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư |
KCN | Khu công nghiệp |
KH&CN | Khoa học và công nghệ |
NLTS | Nông lâm thủy sản |
NSĐP | Ngân sách địa phương |
NSLĐ | Năng suất lao động |
NSNN | Ngân sách nhà nước |
PAPI | Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh |
PCI | Chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh |
R&D | Nghiên cứu và phát triển |
TCTD | Tổ chức tín dụng |
TCTK | Tổng cục Thống kê |
TFP | Năng suất các nhân tố tổng hợp |
TSCĐ | Tài sản cố định |
XD | Xây dựng |
XDCB | Xây dựng cơ bản |
Phụ lục 1: CÁC CHỈ TIÊU CHUNG CỦA KẾ HOẠCH CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2021-2030
TT | Mục tiêu đến năm 2030 | Căn cứ xác định | Thực trạng giai đoạn 2016-2020 |
1 | Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 10,5-11%/năm | Nghị quyết số 01/NQ-ĐH XVII ngày 16/11/2020 | Bình quân giai đoạn đạt 7,03%/năm |
2 | Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng đóng góp của các ngành dịch vụ, đến năm 2030, cơ cấu giá trị gia tăng các ngành nông, lâm nghiệp thủy sản, công nghiệp xây dựng và dịch vụ lần lượt là 3%, 61-62% và 35-36%. | Nghị quyết số 01/NQ-ĐH XVII ngày 16/11/2020. - Chỉ tiêu này thể hiện kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế. | Đến năm 2020, cơ cấu giá trị gia tăng các ngành NLTS, CN-XD và DV lần lượt là 8,2%, 61,3% và 30,4% (không tính đến thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm) |
3 | Tốc độ tăng năng suất lao động đạt trên 11%/năm (giá hiện hành) | Nghị quyết số 01/NQ-ĐH XVII ngày 16/11/2020. - Chỉ tiêu này thể hiện chất lượng tăng trưởng kinh tế. | Bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 7%/năm (giá cố định), 9,4%/năm (giá hiện hành) |
4 | Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng 55-60% | Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 Tăng cường vai trò của khoa học công nghệ so với giai đoạn trước. | Đạt 41,6% giai đoạn 2016-2019 |
5 | Tổng vốn toàn xã hội đầu tư cho khoa học và công nghệ chiếm tối thiểu 2% GRDP | - Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII khẳng định KHCN và ĐMST đóng vai trò quan trọng trong phát triển KTXH của đất nước; - Nghị quyết 20/NQ-TW Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI ngày 01/11/2012 về phát triển KHCN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế đặt mục tiêu nâng tổng đầu tư xã hội cho khoa học và công nghệ đạt 1,5% GDP vào năm 2015, trên 2% GDP vào năm 2020 và khoảng 3% GDP vào năm 2030; Kế hoạch hoạt động khoa học và công nghệ 5 năm 2021-2025 Kế hoạch cơ cấu lại hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2021-2025 | Đầu tư cho KH&CN giai đoạn 2016-2020 đạt 0,8% GRDP. |
6 | Số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15%/năm. | Quyết định số 118/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 25/01/2021 ban hành Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030 đặt mục tiêu đến năm 2025 số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15%/năm. Kế hoạch hoạt động khoa học và công nghệ 5 năm 2021-2025 Kế hoạch cơ cấu lại hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2021-2025 | Đây là vấn đề mới nên chưa có số liệu thống kê cho giai đoạn 2016-2020 |
7 | Tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GRDP tăng lên 20%. | - Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; - Phấn đấu đạt khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp vào năm 2025, trong đó có khoảng 60.000 đến 70.000 doanh nghiệp quy mô vừa và lớn. - Thể hiện vai trò của khu vực tư nhân trong phát triển kinh tế. | Đến năm 2020, đóng góp 15,9% GRDP. |
8 | Tỷ lệ kinh tế số trên GRDP đạt tối thiểu 10%. | - Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; - Nghị quyết của Quốc hội ngày 27/7/2021 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025. | Đây là vấn đề mới nên chưa có số liệu thống kê cho giai đoạn 2016-2020 |
9 | Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 48% vào năm 2030. | Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 | Đến năm 2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 28,59% |
10 | Chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn, tăng tỷ lệ rác thải được tái chế. Đến năm 2025,tái sử dụng, tái chế, xử lý 85% lượng chất thải nhựa phát sinh; giảm dần mức sản xuất và sử dụng túi ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần | Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07/6/2022 về phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam | Đây là vấn đề mới nên chưa có số liệu thống kê cho giai đoạn 2016-2020 |
Phụ lục 2:
DANH MỤC CÁC CHƯƠNG TRÌNH, ĐỀ ÁN, KẾ HOẠCH, NHIỆM VỤ THỰC HIỆN CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2021-2030
STT | Nội dung | Cơ quan chủ trì thực hiện | Thời gian thực hiện |
| Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 2025 và 2026-2030 | Sở Kế hoạch và Đầu tư | 2021-2030 |
| Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2022-2025 và giai đoạn tiếp theo | Sở Kế hoạch và Đầu tư | 2021-2030 |
| Quy hoạch tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 | Sở Kế hoạch và Đầu tư | 2021-2030 |
| Đề án cải thiện môi trường đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh giai đoạn 2021-2025 | Sở Kế hoạch và Đầu tư | 2021-2030 |
| Kế hoạch tài chính - ngân sách 3 năm 2023-2025 và các giai đoạn tiếp theo | Sở Tài chính | 2021-2030 |
| Chính sách thu hút dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc | BQL Các KCN tỉnh | 2021-2030 |
| Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2025 | Sở NN&PTNT | 2021-2025 |
| Đề án phát triển sản phẩm OCOP giai đoạn 2021-2025, định hướng 2030 | Sở NN&PTNT | 2021-2030 |
| Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2023-2025, định hướng 2030 | Sở NN&PTNT | 2021-2030 |
| Đề án phát triển thủy sản giai đoạn 2023-2030 | Sở NN&PTNT | 2023-2030 |
| Đề án phát triển thương mại điện tử đến năm 2030 | Sở Công thương | 2021-2030 |
| Đề án phát triển công nghiệp phụ trợ đến năm 2030 | Sở Công thương | 2021-2030 |
| Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước tham gia chuỗi giá trị sản xuất vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030. | Sở Công thương | 2021-2030 |
| Đề án sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong doanh nghiệp sản xuất công nghiệp đến năm 2030 | Sở Công thương | 2021-2030 |
| Đề án phát triển công nghiệp theo chiều sâu, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm trên địa bàn tỉnh đến năm 2030 | Sở Công thương | 2021-2030 |
| Đề án thu hút doanh nghiệp bán lẻ hiện đại đầu tư trên địa bàn tỉnh | Sở Công thương | 2021-2030 |
| Đề án nâng cao chất lượng các dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025 và giai đoạn tiếp theo | Sở Công thương | 2021-2030 |
| Đề án tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư kết hợp xúc tiến thương mại trong bối cảnh mới | Sở Công thương | 2021-2030 |
| Đề án sắp xếp lại các trường Cao đẳng thuộc tỉnh | Sở Lao động Thương binh và Xã hội | 2021-2025 |
| Đề án về đầu tư, hỗ trợ thực hiện hoạt động giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025 | Sở Lao động Thương binh và Xã hội | 2021-2025 |
| Chương trình phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021 - 2030 | Sở Lao động Thương binh và Xã hội | 2021-2030 |
| Đề án thúc đẩy doanh nghiệp ứng dụng tiến bộ công nghệ và đổi mới sáng tạo. | Sở Khoa học và Công nghệ | 2021-2030 |
| Đề án phát triển Trung tâm đổi mới sáng tạo và Khởi nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc | Sở Khoa học và Công nghệ | 2021-2030 |
| Chương trình Năng suất chất lượng tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. | Sở Khoa học và Công nghệ | 2021-2030 |
| Chương trình Chuyển giao, đổi mới công nghệ và phát triển thị trường công nghệ Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025. | Sở Khoa học và Công nghệ | 2021-2025 |
| Đề án xây dựng đô thị Vĩnh Phúc văn minh hiện đại đến năm 2030 | Sở Xây dựng | 2021-2025 |
| Đề án chỉnh trang đô thị tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2030 | Sở Xây dựng | 2021-2030 |
| Kế hoạch sử dụng đất 2021-2025 của tỉnh | Sở TNMT | 2021-2025 |
| Đề án Quản lý bền vững Chất thải rắn xây dựng cho tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 | Sở TNMT | 2021-2030 |
| Đề án phát triển kinh tế số và xã hội số trên địa bàn giai đoạn 2021-2030. | Sở TTTT | 2021-2030 |
| Chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực thích ứng cho doanh nghiệp trong bối cảnh CMCN 4.0 | Sở TTTT | 2021-2030 |
| Kế hoạch phát triển du lịch giai đoạn 2022-2026 định hướng đến năm 2030. | Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch | 2021-2030 |
[1] Trong đó, có 5 mục tiêu quan trọng đã hoàn thành vượt xa so với kế hoạch đề ra, bao gồm: (1) Quy mô nợ công giảm mạnh, từ mức 63,7% GDP cuối năm 2016 xuống 55,2% GDP năm 2020. Năm 2020, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, nợ công tăng nhẹ song thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu đặt ra cho giai đoạn 2016-2020 là không quá 65% GDP. (2) Quy mô nợ chính phủ đã giảm mạnh từ 52,7% năm 2016 xuống 48% GDP đến cuối năm 2019, tăng lên 49,1% năm 2020, thấp hơn so với mục tiêu không quá 54%. (3) Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm mạnh từ 44% năm 2015 xuốn còn năm 2020 còn 33,1%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu dưới 40%. (4) Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2020 khoảng 41,5%, vượt xa so với mục tiêu 30-35% được đề ra trong Nghị quyết. (5) Dư nợ thị trường trái phiếu đến năm 2019 đạt 40,1% vượt xa so với mục tiêu đến năm 2020 đạt 30% GDP1; (6) Lao động qua đào tạo đạt 26,1% năm 2020, vượt mục tiêu là 25%. Bốn mục tiêu không hoàn thành, trong đó, 02 mục tiêu về cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, 01 mục tiêu về cơ cấu lại đầu tư công và 01 mục tiêu về phát triển doanh nghiệp.
[2] Năm 2020 do ảnh hưởng của dịch Covid-19, GDP năm 2020 giảm mạnh so với kế hoạch dẫn đến hệ số ICOR năm 2020 là 18,07, tác động mạnh đến hệ số ICOR của giai đoạn 2016 -2020 ước khoảng 8,5.
[3] Năm 2019, số lượng trang trại chăn nuôi đã tăng lên 1.073 trang trại, tăng thêm 445 trang trại so với năm 2015 nhưng sụt giảm trong năm 2020. Nguồn: NGTK tỉnh Vĩnh Phúc.
[4] Tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 11,68%/năm.
[5] Một số tỉnh có tỷ trọng ngành CN-XD tăng nhanh đáng kể như Hải Phòng (12,8 điểm %), Thái Bình (10,9 điểm %) hay Hà nam (7,8 điểm %).
[6] Tăng trưởng của ngành đạt 11,5%/năm giai đoạn 2016-2019. Do ảnh hưởng của COVID-19, tăng trưởng của ngành chỉ đạt 5,3% năm 2020.
[7] Nếu không tính tới tác động tiêu cực của đại dịch COVID -19, tốc độ tăng tổng vốn đầu tư toàn tỉnh đạt
13,05%/năm trong giai đoạn 2016-2019; của cả nước đạt 9,4%/năm.
[8] Chỉ thấp hơn tỷ lệ của tỉnh Hà Nam (78,4%); Hưng Yên (72,6%); Nam Định (71,9%); Ninh Bình (74,2%).
[9] Chỉ thấp hơn tỷ lệ của tỉnh Bắc Ninh (39,3%); Hà Nội (25,5%); Hải Dương (27,6%); Quảng Ninh (24,9%).
[10] Theo Cục Thống kê tỉnh Nam Định (2021), “Nam Định: Thực trạng kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020 và vị thế trong khu vực Đồng bằng sông Hồng”.
[11] Chỉ thấp hơn tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 -2020 của vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Hải Dương là 27,2%/năm; của thành phố Hải Phòng là 19,8%/năm; của tỉnh Thái Bình là 39,9%/năm; của tỉnh Hà Nam là 21,5%/năm.
[12] Vốn đầu tư toàn tỉnh tập trung chủ yếu cho các ngành kinh tế sau: (1) ngành công nghiệp chế biến, chế tạo;
(2) ngành xây dựng; (3) ngành bán buôn, bán lẻ sửa chữa ô tô, xe máy và xe có động cơ khác; (4) ngành vận tải, kho bãi; (5) hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình. Năm 2015, tổng quy mô vốn đầu tư cho 05 ngành kinh tế này chiếm 74,7% tổ ng vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh; đến năm 2020 tăng lên 83,3%.
[13] Cụ thể tỷ trọng này đến cuối năm 2015 và 2020 lần lượt chỉ là 0,2% và 1,5%.
[14] Quy mô vốn đầu tư cho ngành kinh doanh bất động sản của tỉnh tăng 17,2 lần, trong khi quy mô GRDP của ngành chỉ tăng 1,37 lần trong giai đoạn 2015-2020.
[15] Khái niệm vốn đầu tư công sử dụng ở đây theo Luật Đầu tư công 2014, Đầu tư công “là hoạt động đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội”. Vốn đầu tư công bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn công trái quốc gia, vốn trái phiếu chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn đầu tư từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà nước, các khoản vốn vay của ngân sách địa phương để đầu tư. Đến năm 2019, Luật Đầu tư công đã đưa ra định nghĩa m ở rộng hơn so với Luật đầu tư công
2014. Theo đó, vốn đầu tư công bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn từ nguồn thu hợp pháp của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập dành để đầu tư theo quy định của pháp luật. Đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án và đối tượng đầu tư công khác như đầu tư phục vụ công tác lập, thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt, công bố và điều chỉnh quy hoạch theo quy định của pháp luật về quy hoạch; Cấp bù lãi suất tín dụng ưu đãi, phí quản lý ; cấp vốn điều lệ cho các ngân hàng chính sách, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách; hỗ trợ đầu tư cho các đối tượng chính sách khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên chưa có thống kê chính thức theo định nghĩa của Luật đầu tư công năm 2019, do đó, ở đây sử dụng định nghĩa của Luật năm 2014.
[16] Cao hơn so với các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình.
[17] Theo sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam 2021.
[18] Tỷ trọng này năm 2015 đạt 94,7%; 0,6%; 4,8%.
[19] Gồm: (1) Công nghiệp chế biến, chế tạo (20,6%); (2) Xây dựng (19,2%); (3) Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy và xe có động cơ khác (34,1%); (4) Vận tải, kho bãi (5%); (5) Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ (7,5%); (6) Dịch vụ lưu trú và ăn uống (3,4%). Tổng số doanh nghiệp của 06 ngành này đã chiếm trên 90% tổng số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đến 2020.
[20] Nếu không tính tới tác động tiêu cực của đại dịch COVID -19, chỉ tiêu này trong giai đoạn 2016 -2019 đạt lần lượt 13,8%/năm và 25,9%/năm, toàn tỉnh đạt 10,8%/năm.
[21] Về tạo việc làm; là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách tỉnh; thúc đẩy tăng trưởng GRDP bình quân của tỉnh.
[22] Kể từ năm 2021, số liệu lao động được thống kê và tính toán theo tiêu chuẩn ICLS 19, theo đó, những người làm việc với mục đích sản xuất sản phẩm tự cung tự cấp trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản sẽ không được xác định là những người có việc làm như quy định trước đây của tiêu chuẩn ICLS13, vì vậy số lao động đang làm việc nói chung cũng như số lao động có việc làm trong lĩnh vực Nông nghiệp của không chỉ Vĩnh Phúc mà tại các địa phương trong cả nước đều có sự biến động đáng kể. Do biến động về thống kê và tính toán như vậy, số liệu lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp cũng như năng suất lao động nông nghiệp của năm 2021 không thể so sánh với các năm liền trước đó.
[23] Các chỉ số: Gia nhập thị trường, Tính minh bạch.
[24] Chỉ số Đào tạo lao động.
[25] Các Chỉ số: Tiếp cận đất đai, Chi phí thời gian, Chi phí không chính thức, Cạnh tranh bình đẳng, Tính năng động, Chính sách hỗ trợ Doanh nghiệp, Đào tạo lao động, Thiết chế pháp lý và an ninh trật tự.
[26] Trong giai đoạn trước 2018, chỉ số PAPI tiến hành điều tra 6 nội dung chính từ (1) đến (6); kể từ năm 2018, khảo sát tiến hành điều tra thêm 2 chỉ số thành phần là (7) và (8):
(1). Tham gia của người dân ở cấp cơ sở
(2). Công khai, minh bạch trong việc ra quyết định
(3). Trách nhiệm giải trình với người dân
(4). Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công
(5). Thủ tục hành chính công (6). Cung ứng dịch vụ công (7). Quản trị môi trường
(8). Quản trị điện tử
[27] Năm 2017 là năm đầu tiên Ban Chỉ đạo CCHC của Chính phủ đưa Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước ( Satisfaction Index of Public Administrative Services - SIPAS) vào đánh giá, xếp hạng đối với 63 tỉnh, thành phố trên cả nước.
[28] https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/11/23/vinh-phuc-khong-ngung-nang-cao-chi-so-hai-long-cua-nguoi- dan-doanh-nghiep/
[29] Ước tính trên dữ liệu điều tra doanh nghiệp.
- 1Kế hoạch 161/KH-UBND năm 2022 triển khai Nghị quyết 54/NQ-CP về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Cà Mau
- 2Kế hoạch 377/KH-UBND năm 2022 về cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
- 3Kế hoạch 441/KH-UBND năm 2022 về cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 do tỉnh Hà Tĩnh ban hành
- 1Nghị quyết 30c/NQ-CP năm 2011 về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 do Chính phủ ban hành
- 2Luật hợp tác xã 2012
- 3Quyết định 339/QĐ-TTg năm 2013 phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 4Luật khoa học và công nghệ năm 2013
- 5Luật Đầu tư công 2014
- 6Nghị quyết 60/NQ-HĐND năm 2012 thông qua Chương trình cải cách hành chính tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2012-2020
- 7Nghị quyết 20-NQ/TW năm 2012 về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 8Luật ngân sách nhà nước 2015
- 9Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015
- 10Quyết định 3216/QĐ-UBND năm 2015 phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp gắn với chuyển đổi lao động nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
- 11Nghị quyết 05-NQ/TW năm 2016 về chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 12Nghị quyết 24/2016/QH14 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 do Quốc hội ban hành
- 13Nghị quyết 57/2016/NQ-HĐND về biện pháp đặc thù thu hút đầu tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
- 14Nghị quyết 27/NQ-CP năm 2017 Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 05-NQ/TW về chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế và Nghị quyết 24/2016/QH14 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 do Chính phủ ban hành
- 15Luật Đầu tư công 2019
- 16Nghị quyết 89/2019/NQ-HĐND về chính sách Hỗ trợ đổi mới công nghệ và phát triển thị trường công nghệ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2020-2025
- 17Nghị quyết 135/2020/QH14 về Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV do Quốc hội ban hành
- 18Nghị quyết 08/2020/NQ-HĐND về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 do tỉnh Vĩnh Phúc ban hành
- 19Nghị quyết 20/2020/NQ-HĐND về chính sách hỗ trợ cơ cấu lại ngành nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho nông dân tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025
- 20Quyết định 118/QĐ-TTg năm 2021 về Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 21Quyết định 255/QĐ-TTg năm 2021 phê duyệt Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2025 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 22Nghị quyết 38/NQ-HĐND năm 2020 về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025
- 23Quyết định 26/2021/QĐ-TTg về danh mục ngành, lĩnh vực thực hiện chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 24Nghị quyết 31/2021/QH15 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 do Quốc hội ban hành
- 25Nghị quyết 56/NQ-HĐND năm 2021 về kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm giai đoạn 2021-2025 do tỉnh Vĩnh Phúc ban hành
- 26Nghị quyết 54/NQ-CP năm 2022 Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 do Chính phủ ban hành
- 27Quyết định 687/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 28Nghị quyết 07/2022/NQ-HĐND quy định chính sách vay vốn giải quyết việc làm cho người lao động và hỗ trợ một số chi phí đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2022-2025
- 29Kế hoạch 194/KH-UBND năm 2022 thực hiện Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2030 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
- 30Kế hoạch 161/KH-UBND năm 2022 triển khai Nghị quyết 54/NQ-CP về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Cà Mau
- 31Kế hoạch 377/KH-UBND năm 2022 về cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
- 32Kế hoạch 441/KH-UBND năm 2022 về cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 do tỉnh Hà Tĩnh ban hành
Quyết định 2971/QĐ-UBND năm 2023 phê duyệt Đề án cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2030
- Số hiệu: 2971/QĐ-UBND
- Loại văn bản: Quyết định
- Ngày ban hành: 29/12/2023
- Nơi ban hành: Tỉnh Vĩnh Phúc
- Người ký: Vũ Việt Văn
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 29/12/2023
- Tình trạng hiệu lực: Đã biết