Hệ thống pháp luật

Chương 7 Quyết định 1077-QĐ năm 1962 ban hành chế độ quản lý, sửa chữa đường ô tô do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ban hành

Chương 7:

NỀN ĐƯỜNG, MẶT ĐƯỜNG

A. NỀN ĐƯỜNG

Điều 36. - Nền đường là bộ phận chủ yếu của đường, mặt đường đẹp hay xấu là do nền đường có vững chắc hay không; nền đường vững chắc hay không là do xây dựng, chăm nom và sửa chữa thiết bị thoát nước tốt hay xấu quyết định một phần lớn. Do đó công tác sửa chữa rãnh thoát nước là làm thế nào để duy trì trạng thái tốt đẹp của nó để nước chạy được thông. Trước mùa mưa, phải sửa sang các thiết bị thoát nước được hoàn bị, và sau mỗi trận mưa thì cần dọn sạch những chỗ đọng bùn, rác rưởi ảnh hưởng đến sự thoát nước.

Công nhân sửa chữa đường cần phải tuần tra và xem xét để khai thông các thiết bị thoát nước kịp thời (rãnh thoát nước dọc theo đường, rãnh xương cá ngang lề đường rãnh đỉnh trên ta -luy, cống ngầm…)

Khi dọn rãnh thoát nước thì nên dọn từ cửa nước chạy ra rồi dần dần lên phía trên, và phải dọn các rãnh cho đúng hình cắt ngang cũ và độ dốc cũ. Nếu cần thì tăng hay giảm độ dốc (tăng độ dốc là để nước thoát mau chóng, giảm độ dốc là để giảm bớt tốc độ nước chạy xói lòng rãnh có thể làm trụt ta-luy rãnh).

Điều 37. - Lề đường cần phải bằng phẳng và vững chắc, có độ dốc ra rãnh thoát nước từ 4 – 5%. Mặt lề đường tiếp giáp với mặt đường cần phải bằng phẳng để không cản trở việc thoát nước ở mặt đường xuống rãnh.

Điều 38. - Lề đường phải được san cho bằng phẳng khi có vệt bánh xe, dấu chân súc vật đi lại. Đất dùng để đắp lề đường phải là đất tốt và chắc, hoặc loại đất giống như chất đất của lề đường. Đất đắp phải làm từng lớp dày 15-20cm đầm, nền kỹ. Nếu đất khô thì nên tưới nước để đầm cho dễ. Ở những đoạn đường mà lề đường thường bị xe cộ tránh nhau làm hỏng thành vệt hoặc bị người và súc vật đi lại làm trụt lở thì lề đường cần phải được chăm nom và sửa chữa thật chắc; trên lề đường rải cấp phối dày độ 5cm.

Điều 39. – Ta-luy đường đào không được để trụt lở. Khi thấy ta-luy đường đào bị hư hỏng hoặc trụt lở cần tìm nguyên nhân xem là do đất xấu, hay đào chưa đúng độ thoải hoặc là bị nước ngầm xuyên qua ta-luy. Phương pháp sửa chữa là đào ta-luy thêm độ thoải, xây kè, lát đá mái ta-luy, trồng cỏ, làm công trình dẫn nước ngầm đi lối khác, xây rãnh ngầm…

Điều 40. – Ta-luy đường đắp bị hư hỏng, nguyên nhân chính do đất thấp, đầm, nện không kỹ cho nên bị lún và trụt lở ta-luy, dốc đứng quá, chất đất đắp xấu. Phương pháp sửa chữa là đắp mái ta-luy, trồng cỏ, lát đá mái ta- luy, xây kè chân ta-luy…

Điều 41. - Ở những đoạn đường cong cần chú ý phát cây cối hai bên đường để bảo đảm tầm nhìn đã quy định. Ở trên đỉnh ta-luy cần chặt những cây ở sát mép ta-luy đề phòng cây đổ làm trụt ta-luy, cản trở giao thông hoặc gây ra tai nạn.

Điều 42. – Thùng đấu lấy đất sửa chữa đường không được đào sâu quá 1m và mép thùng đấu phía chân ta-luy phải cách xa chân ta-luy tối thiểu bằng năm lần bề sâu thùng đấu.

B. MẶT ĐƯỜNG

1. Mặt đường đất:

Điều 43. – Đường đất là loại đường chưa ổn định; thời tiết thay đổi rất ảnh hưởng đến tình hình xấu tốt của mặt đường. Vì tính chất chưa ổn định, cho nên việc thoát nước đối với đường đất rất quan trọng. Luôn luôn phải giữ gìn rãnh thoát nước được sạch sẽ, không bị cỏ lấp, bùn đọng; các cống ngầm được thông suốt.

Điều 44. – Mặt đường luôn luôn phải được sửa chữa cho bằng phẳng. Độ nghiêng mui luyện của mặt đường từ 3 – 4%. Lề đường phải có độ nghiêng 4 – 5%. Mặt đường và lề đường luôn luôn phải được giữ gìn không hư hỏng và nện chặt.

Điều 45. – Công tác chăm nom sửa chữa mặt đường đất qua các mùa:

a) Sau mùa mưa, đường đất thường thường có nhiều ổ gà và vệt lăn bánh xe do trong mùa mưa mặt đường ẩm ướt mà bị tổn hại. Đến lúc mặt đường khô ráo những vệt lăn bánh xe và ổ gà làm cho mặt đường rất xấu, xe chạy khó khăn.

Phương pháp sửa chữa là dùng đất tại chỗ mà lấp các ổ gà, rồi dùng xẻng mà cạo mặt đường cho bằng phẳng, làm mất hết các chỗ lồi lõm: Nếu có máy san thì dùng mà san mặt đường cho bằng phẳng.

b) Trong mùa nắng to, đất quá khô, xe chạy cạo đất mặt đường thành bụi làm hư hại mặt đường, do đó cần phải tưới nước rồi dùng trục lăn mà nén, nếu có trục máy càng tốt.

Điều 46. – Trước mùa mưa, cần chú trọng sửa chữa các thiết bị thoát nước (rãnh xương cá, rãnh thoát nước dọc lề đường, cống ngầm...).

Chuẩn bị vật liệu để chống đường trơn và chống lầy cho mùa mưa sắp tới.

Điều 47. – Trong mùa mưa, cần luôn luôn giữ mặt đường khỏi nước ứ đọng. Trong những ngày tạnh ráo, tranh thủ cạo mặt đường cho bằng phẳng. Nếu có hiện tượng trơn trượt làm cho xe khó chạy, thì phải dùng cát hay sỏi rải lên mặt đường.

Điều 48. – Nếu mặt đường sinh ra lầy lội nghiêm trọng thì phải chống lầy. Trước khi chống lầy phải tìm nguyên nhân lầy lội sinh ra do xây dựng hay do chăm nom sửa chữa.

Muốn sửa chữa những đoạn lầy lội nghiêm trọng, cần phải điều tra nghiên cứu kỹ tình hình thiên nhiên và quá trình những biến đổi của lầy lội để định ra biện pháp cụ thể.

Điều 49. – Nguyên nhân lầy lội và tình trạng lầy lội được xác định như sau:

a) Nguyên nhân lầy lội về mặt xây dựng là do thiết kế và thi công không đúng kỹ thuật, cụ thể là:

- Sự cấu tạo của mặt đường và nền đường không thích ứng với nhu cầu lưu lượng và sức nặng của xe cộ;

- Dùng những vật liệu không tốt để làm mặt đường.

- Không xây dựng đầy đủ thiết bị thoát nước;

- Ở những vùng đồng bằng thoát nước khó khăn, mức nước lụt cao nhưng bề cao nền đường không đủ.

b) Nguyên nhân lầy lội về mặt chăm nom sửa chữa là do không chu đáo, không theo đúng quy tắc, cụ thể là:

- Cỏ mọc đầy rãnh làm cho nước ứ tắc; ta-luy đổ trụt, rãnh ngầm không thông mặt đường, lề đường gồ ghề không bằng phẳng, không có độ nghiêng làm cho nước không thoát được, mặt đường ẩm ướt;

- Trâu kéo gỗ dọc theo đường; xe quẹt, xe bò, xe ngựa vành bánh sắt nhỏ bản, máy kéo bánh xích đi trên đường, cây mọc hai bên đường quá rậm rạp che kín mặt đường làm cho mặt đường trời mưa ẩm ướt, trời nắng lâu khô;

- Không chú trọng đến các đoạn đường lầy lội để chuẩn bị vật liệu cần thiết cho việc chống lầy kịp thời.

Điều 50. – Phương pháp để phòng và chống lầy lội:

a) Ở những đoạn đường mà độ dốc tương đối nhỏ (1-2%) hoặc những đoạn đường nhiều dốc thì cứ cách 50m phải có một rãnh thoát nước từ rãnh dọc ra ngoài.

b) Mặt đường khi nào cũng phải bằng phẳng có mui luyện cần thiết từ 3 đến 4% để việc thoát nước được dễ dàng; trên mặt đường không có nước ứ đọng.

c) Mỗi khi xe chạy gây thành những vệt sâu theo lằn bánh xe thì cần phải san phẳng và sửa chữa bằng cách gia cố thêm số lượng vật liệu, hay gia cố với vật liệu tốt hơn.

d) Trên những đoạn đường lầy lội nghiêm trọng chưa có thể sửa chữa hay ổn định ngay được thì có thể dùng mấy phương pháp sau đây:

- Vét hết bùn, cho cát xuống đầm nện kỹ; làm rảnh xương cá thoát nước (dùng cát to hạt không pha đất);

- Vét hết bùn, xây đá hộc cỡ 15 x 20cm, đổ sỏi sạn hay đá dăm, chèn các lỗ, kẽ;

- Làm cầu cạn rồi đổ lên trên một lớp cát hay sỏi.

Điều 51. – Gia cố mặt đường đất:

a) Qua các mùa tuy có phương pháp sửa chữa thường xuyên nhưng cũng khó bảo đảm cho xe chạy thuận lợi, cho nên đối với loại đường đất cần cải thiện hoặc làm vững chắc bằng cách gia cố với vật liệu sẵn có tại chỗ;

- Mặt đường là đất sét, đến mùa mưa, ẩm ướt trơn lầy, thì nên dùng cát to hạt, đá cuội, sạn, sỏi, gạch ngói vụn, xỉ lò cao, đất sét nung.

- Ở những đoạn đường đất cát đến mùa nắng sinh bụi thì dùng đất sét nhão mà gia cố;

b) Bề dày gia cố, tuỳ theo chất đất xấu tốt của đường và lưu lượng xe cộ mà quyết định.

- Nếu lượng xe chạy tương đối nhiều trên những đoạn đường đất đắp thì bề dày có thể là 20cm.

- Nếu lượng xe chạy ít và ở những đoạn đất đào thì bề dày độ 15cm;

- Trong mọi trường hợp, bề dày gia cố tối thiểu phải là 10cm.

2. Mặt đường cấp phối;

Điều 52. – Mặt đường cấp phối về mùa khô ráo, chất dính vỡ ra thành bột, các nguyên liệu (sỏi, sạn) rời rạc, xe chạy làm bỏng mặt đường. Về mùa mưa lụt, chất dính bị thấm nhiều nước thành nhão, xe chạy làm cho mặt đường bị lún, sinh ổ gà.

Do đó, mặt đường cấp phối phải được giữ gìn với độ ẩm thích hợp. Mùa khô cần phải tưới nước; mùa mưa phải làm cho thoát nước để mặt đường được khô ráo; và trong cả hai mùa cần rải lớp bảo vệ dày từ 5 đến 8mm với sỏi nhỏ hạt từ 2 đến 5mm. Cần chú ý luôn luôn quét vào lòng đường lớp sỏi bảo vệ bị xe chạy làm văng ra rìa đường.

Điều 53. - Ổ gà phát sinh nhiều trên mặt đường cấp phối. Muốn vá ổ gà, trước tiên dọn sạch những tạp vật ở trong ổ gà và vét đất đá bong ra xung quanh ổ gà. Đào các ổ gà theo hình góc, đào sâu hơn bề sâu ổ gà 2cm sắc cạnh đứng thành; tưới nước cho ẩm đáy ổ gà. Trộn cấp phối bằng vật liệu và theo tỷ lệ cấp phối của mặt đường rồi đắp vào và đầm nện kỹ. Ổ gà sâu từ 8cm trở xuống thì vá cấp phối một lớp; nếu ổ gà sâu quá 8cm thì vá hai lớp, lớp trên bằng 1/3 lớp dưới.

Điều 54. – Nếu trên một đoạn đường có nhiều hố, hoặc cấp phối bong ra vung vãi thì phải sửa chữa toàn bộ mặt đường theo hai phương pháp sau đây:

a) Nếu bề dầy cấp phối còn thích hợp, thì không cần thêm vật liệu.

Quét sạch tất cả các tạp vật trên đường.

Xới mặt đường, thêm chất dính, trộn đều, san bằng có mui luyện 3 – 4%.

- Tưới nước và dầm nện, nếu có trục nặng 5T mà lên thì tốt;

- Rải lớp bảo vệ dày từ 5 đến 8mm với sỏi hạt nhỏ từ 2 đến 5mm.

b) Nếu bề dày cấp phối không còn thích hợp,  thì cần phải thêm vật liệu:

- Chuẩn bị vật liệu để vá ổ gà và để rải lớp dầy thêm;

- Vá các ổ gà;

- Quét sạch các tạp vật trên mặt đường;

- Rải lớp dày thêm độ 3 đến 6cm;

- Rải lớp bảo vệ.

3. Mặt đường đá dăm:

Điều 55. – Mặt đường đá dăm sau khi mới làm xong, chưa được ổn định. Cho nên công trường rải đá dăm sau khi làm xong, phải tiếp tục chăm nom thêm một tháng bằng cách hàng ngày tưới nước và rải lớp bảo vệ. Sau đó mới giao lại cho công nhân sửa chữa đường.

Điều 56. - Để bảo vệ mặt đường đá dăm thường hay bị bong đá, dần dần sinh ra ổ gà, mặt đường luôn luôn phải được giữ gìn sạch sẽ và rải một lớp bảo vệ dày từ 5 đến 8mm có hạt từ 2 đến 5mm. Có thể tận dụng nguyên vật liệu sẵn có tại chộ như cát, sỏi, sạn, đá mạt, biên hoà, đá sít già…

Điều 57. – Mặt đường đá dăm có ổ gà sửa chữa theo những phương pháp sau đây:

- Bới sạch những đất đá nằm lỏng chỏng trong lòng ổ gà, những hòn đá to thì đập thành đá nhỏ độ 2cm;

- Đào vuông cạnh đứng thành; đào sâu hơn bề sâu ổ gà tối thiểu là 2cm và bề sâu tối thiểu của ổ gà sau khi đã đào thêm phải là 8-10cm, lúc đào phải để lại ở đáy ổ gà một lớp đá cũ;

- Đắp đá mới cỡ 3 – 4cm cho đầy ổ gà, tưới nước và đầm nện thật chặt;

- Dùng đá nhỏ cỡ 2cm (đá cũ đã đập sẵn nói trên chèn cho các kẽ hở cho chắc chắn);

- Rải và quét chất dính vào đầy các kẽ hở của đá, tưới nước và đầm nện, làm độ ba bận cho chất dính lấp đầy các kẽ;

- Rải lên trên cùng một lớp cát to hạt, đầy độ 5 – 8mm và đầm lại.

Điều 58. - Nếu mặt đường có nhiều ổ gà gần nhau thì nên kết hợp hai, ba ổ gà làm một mà vá, như vậy chắc chắn hơn và xe chạy đỡ xóc hơn.

Điều 59. - Nếu ổ gà sâu đến đất nền đường thì cũng phải đào sạch như vá ổ gà thường. Đầm nện đất đáy cho chắc chắn rồi mới vá ổ gà bằng đá dăm. Nếu thấy đất nền đường xấu thì phải lát đá mỏng cỡ 10 – 15cm rồi mới vá bằng đá dăm.

Điều 60. – Vá ổ gà thì nên dùng đá cùng một loại với đá cũ của mặt đường. Đá thường dùng có ba loại:

- Đá hoa cương,

- Đá cối xay,

- Đá vôi.

Loại đá vôi thích hợp và phổ biến hơn cả.

Điều 61. - Nếu mặt đường đá dăm đã có nhiều ổ gà hoặc đã bị bong nhiều thì phải tiến hành sửa chữa lại toàn bộ mặt đường bằng cách xào xới (thêm vật liệu từ 100 lít đến 250 lít/mét dài).

Phương pháp rải xáo xới như sau:

a) Trường hợp mặt đường có nhiều ổ gà sâu:

- Cuốc toàn bộ mặt đường lên, nhưng phải để lại một lớp đá cũ dày 3 – 7cm;

- Vá các ổ gà;

- San đá cũ cho đều, có mui luyện;

- Rải đá mới lên trên, san đều, có mui luyện;

- Tiến hành lu lèn theo quy phạm rải đá dăm.

b) Trường hợp mặt đường bong đá, ổ gà cạn:

- Cuốc toàn bộ mặt đường, nhưng phải để lại một lớp đá cũ dày độ 3 – 7cm;

- San đá cũ cho đều, có mui luyện;

- Rải đá mới lên trên, san đều, có mui luyện.

- Tiến hành lu lèn theo quy phạm rải đá dăm.

Điều 62. - Nếu mặt đường đá dăm đã mòn đến mức độ không bảo đảm lưu lượng và sức nặng của xe chạy trên đường, thì phải thiết kế mặt đường để rải lại một lớp mới lên trên mặt đường cũ. Vật liệu rải mới không dưới 350 lít/mét dài đối với mặt đường rộng 3,50m và không dưới 550 lít/mét dài đối với mặt đường rộng 5,50m.

Phương pháp tiến hành công tác như sau:

- Vá ổ gà nếu có;

- Sửa chữa mặt đường cũ cho có mui luyện cần thiết, bằng cách đào chân khay hai mét đường đứng thành, bề sâu bằng bề dầy lớp đá sắp rải, gọt mui luyện;

- Cuốc từng rãnh ngang trên mặt đường cũ, cứ cách 0,50m một rãnh, mục đích là để cho lớp đá mới gắn liền với mặt đá cũ;

- Tiến hành rải lớp đá mới theo quy phạm rải mặt đường đá dăm.

4. Mặt đường đá ong:

Điều 63. – Mặt đường đá ong về mùa nắng sinh nhiều bụi, cho nên cần chú ý thường xuyên tưới nước.

Về mùa mưa mặt đường có thể trơn lầy cần bảo đảm mui luyện để thoát nước dễ dàng, giữ mặt đường được khô ráo.

Điều 64. - Lề đường phải bằng phẳng, có độ nghiêng 4 – 5% không cản trở nước ở mặt đường chạy ra mương dọc. Hệ thống thoát nước như mương dọc, rãnh ngang, rãnh ngầm luôn luôn phải được thông suốt, không để nước ứ đọng.

Điều 65. – Khi thấy hai vết bánh xe mòn sâu thì rải lên trên một lớp đá ong đồng loại với đá ong của mặt đường, san đều và lợi dụng sức nặng của xe cộ qua lại để lèn chặt, mà không cần phải đầm nện. Trước khi rải lớp sỏi ong mới, cần tưới nước mặt đường cũ cho ẩm để bảo đảm sự dính kết tốt giữa vật liệu cũ và mới.

Điều 66. – Vá ổ gà trên mặt đường đá ong tiến hành như sau:

- Quét dọn hết tạp vật và sỏi ong rời rạc trong ổ gà;

- Đào vuông cạnh đứng thành, sâu hơn bề sâu của ổ gà 2cm; và bề sâu tối thiểu của ổ gà sau khi đã được đào thêm phải là 5cm.

Dùng sỏi ong cùng một loại với sỏi ong của mặt đường cho vào ổ gà, tưới nước, đầm nện thật kỹ.

Điều 67. – Nếu mặt đường đá ong đã mòn nhiều không bảo đảm lưu lượng và sức nặng xe chạy, thì phải thiết kế lại mặt đường để rải lại một lớp mới lên trên mặt đường cũ.

Phương pháp tiến hành rải lớp mới như sau:

- Vá ổ gà nếu có.

- Cuốc chân khay mép đường bề sâu bằng bề dày lớp mới định rải.

- Gọt mui luyện 3 – 4%.

- Tưới nước cho ẩm mặt đường cũ, rải vật liệu mới, san đều, có mui luyện, tưới nước và dùng lu 5T lèn đến độ 3T5 m3/cây số.

5. Mặt đường nhựa.

Điều 68. – Mùa nắng nhiệt độ trên mặt đường nhựa lên đến 50 - 650C, mà thường thường nhiệt độ mềm của nhựa rải đường thấp hơn nhiệt độ trên mặt đường cho nên nhựa chảy ra, xe chạy qua, nhựa dính vào bánh xe bị kéo lên từng lớp, làm hỏng mặt đường.

Để đề phòng hư hỏng mặt đường nhựa lúc trời nắng, cần dự trữ hai bên đường sỏi cỡ 5 – 15mm hoặc đá mạt để lúc nào thấy nhựa chớm chảy thì té ra mặt đường. Luôn luôn quét vun thành đống những sạn sỏi do xe chạy gạt ra hai bên đường để rồi té trả lại trên mặt đường.

Điều 69. - Nếu mặt đường nhựa có ổ gà thì phải tiến hành vá các ổ gà kịp thời khi mới phát sinh, nếu để ổ gà phát triển rộng và sâu thì việc sửa chữa sẽ rất tốn kém.

Công tác vá ổ gà mặt đường đá dăm rải nhựa tiến hành như sau:

Phương pháp thứ nhất:

a) Tiến hành vá ổ gà như vá ổ gà đá dăm thường.

b) Sau khi vá ổ gà bằng đá dăm xong, tuỳ theo tình hình mặt đường cũ đã được rải nhựa thấm sâu, thấm nửa chừng, hoặc mới thấm trên mặt  mà tiến hành rải nhựa mới.

- Nếu mặt đường rải nhựa đã thấm sâu và thấm nửa chừng thì sau khi vá ổ gà bằng đá dăm rồi, không cho chất dính vào kẽ  đá, mà đổ nhựa cho đầy các kẽ hở của đá.

Nếu mặt đường rải nhựa mới thấm trên mặt thi cho chất dính vào các kẽ hở của đá như vá ổ gà thường nhưng chữa lại độ 5 – 8mm bề sâu các kẽ đá và rải nhựa lên trên.

- Sau khi rải nhựa xong, rải ngay sỏi cỡ 5 – 15mm lên trên và đầm nện.

Phương pháp thứ hai:

a) Đào lòng ổ gà cũng như chuẩn bị vá ổ gà thường.

b) Trộn nhựa với sỏi và cát tỷ lệ: (sỏi 10 phần, nhựa 3 phần, cát 0,3 phần) đắp vào ổ gà và đầm nện.

Trong cả hai phương pháp, có thể dùng nhựa đặc hay nhựa nước. Nhựa đặc thì phải nấu và trộn nóng. Nhựa nước thì trộn nguội. Trộn nóng hoặc trộn nguội đều phải rải nguội. Nhựa đặc thì chỉ rải được lúc trời nắng ráo; nhựa nước thì rải được cả lúc trời mưa nhỏ.

Điều 70. – Trên mặt đường nhựa, về mùa rét nhựa co lại hoặc vì nhựa đường rải lâu ngày đã thoái hoá, những chất dễ bốc đã bốc hơi, mặt đường trở nên không tốt tạo thành những vết nứt rạn. Khi trời mưa, nước chạy vào các kẽ hở ấy ngấm xuống thân đường; khi nắng lên nhựa  lại dãn ra lấp các kẽ nứt, nước trong thân đường không bốc hơi được để thoát ra. Lần này qua lần khác, nước ngấm nhiều vào nền đường làm nền đường yếu, lún xuống sinh hỏng mặt đường. Vậy mỗi lúc nhựa bị nứt rạn thì phải lấy nhựa trát kín ngay các đường nứt. Nếu nứt từng miếng lớn thì phải láng toàn mặt cả miếng. Nếu toàn bộ mặt đường bị nứt nhiều hoặc bạc đầu thì phải tiến hành láng toàn bộ mặt đường. Tiêu chuẩn láng nhựa là 1kg200 – 1kg500/m2. Sỏi dùng để phủ nhựa là sỏi sông, sạch và hạt đồng đều cỡ 15 – 20mm theo tiêu chuẩn 15 – 18 lít/m2.

Điều 71. – Làm công tác rải mặt đường nhựa, phải chọn lúc trời nắng ráo, có nhiệt độ từ 20 đến 35oC mới có kết quả (không rải nhựa lúc nhiệt độ dưới 150C) nếu dùng nhựa nước thì có thể tiến hành lúc trời mưa phùn (mưa to không làm được).

Quyết định 1077-QĐ năm 1962 ban hành chế độ quản lý, sửa chữa đường ô tô do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ban hành

  • Số hiệu: 1077-QĐ
  • Loại văn bản: Quyết định
  • Ngày ban hành: 15/09/1962
  • Nơi ban hành: Quốc hội
  • Người ký: Dương Bạch Liên
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Số 47
  • Ngày hiệu lực: 15/09/1962
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
MỤC LỤC VĂN BẢN
MỤC LỤC VĂN BẢN
HIỂN THỊ DANH SÁCH