Chương 4 Quyết định 1077-QĐ năm 1962 ban hành chế độ quản lý, sửa chữa đường ô tô do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ban hành
CÔNG TÁC SỬA CHỮA THƯỜNG XUYÊN
Điều 13. – Công tác sửa chữa thường xuyên mặt đường về mùa khô gồm có:
a) Trên mặt đường đất: Tưới nhẹ nước lên mặt đường để giữ độ ẩm cho mặt đường và đề phòng sinh bụi, cạo gợn sóng cho mặt đường bằng phẳng. Ở vùng có nước mặn thì lấy nước mặn tưới mặt đường để giữ đất ẩm được lâu.
b) Trên mặt đường cấp phối: Dọn sạch lá cây, rác rưởi, rải đất dính, tưới nước, đầm, nện hoặc té cát sỏi…
c) Trên mặt đường đá dăm: Rải biên hoà hoặc cát to hạt rồi quét đi quét lại cho cát lọt xuống kẽ đá. Tưới nước, thu nhặt đá bị bong; quét và vun cát sạn bị bắn ra lề đường để rồi rải lại trên mặt đường.
d) Trên mặt đường đá dăm kết vữa: Rải đất núi, đất lẫn đá mạt cho những đoạn mà vữa ở kẽ đá đã mòn sâu.
e) Trên mặt đường đá ong: Rải một lớp đá ong dày 3 – 4cm ở hai vệt bánh xe rồi tưới nước.
g) Trên mặt đường nhựa: Những nơi nào trời nóng nhựa chưa gợn lên thành làn sóng thì rải sỏi hay đá mạt. Chỗ nào bị trũng sâu, nhựa đọng lại đấy thì phải cuốc lên, vá nhựa lại cho bằng phẳng. Luôn luôn quét và vun thành đống những sạn do xe chạy gạt ra hai bên lề đường, để dùng lại khi cần.
h) Luôn luôn chú ý vá những ổ gà chớm phát sinh trên các loại mặt đường.
Điều 14. – Công tác sửa chữa thường xuyên mặt đường về mùa mưa gồm có:
a) Trên mặt đường đất, cấp phối và đá dăm. Dọn sạch bùn lầy, rải sỏi hay cát to hạt cho khỏi trơn, nhất là đối với mặt đường đất và cấp phối.
b) Nói chung trên mặt đường, phải làm cho khỏi ứ đọng nước.
c) Lát ván, lát đá hộc, làm cầu cạn trên các quãng đường lầy.
d) Đối với những hư hỏng chưa sửa chữa kịp, nếu xét có ảnh hưởng đến sự đi lại của xe cộ, thì phải cắm cọc tiêu hay bảng hướng dẫn giao thông; nếu hư hỏng nặng có thể nguy hiểm cho xe cộ thì phải rào lại và đặt tín hiệu an toàn.
Điều 15. – Công tác sửa chữa thường xuyên mặt đường chung cho cả hai mùa gồm có:
a) Vá ổ gà mặt đường đất mà diện tích vá không quá 20% diện tích mặt đường; vá ổ gà mặt đường cấp phối mà diện tích không quá 15% diện tích mặt đường; vá ổ gà mặt đường đá dăm nhựa, đá dăm kết vữa mà diện tích vá không quá 10% diện tích mặt đường.
b) Rải lại mặt đường cấp phối, đá dăm theo lối xáo xới, có lu lên và thêm vật liệu mới không quá 100lít/mét đường.
c) Rải lớp đá ong ở hai vệt bánh xe trên mặt đường đá ong, rải dày 3-4cm không lên;
d) Làm tầng hao mòn trên mặt đường đá dăm và mặt đường cấp phối.
e) Dự trữ vật liệu như đá dăm, sạn cát, biên hoà chất dính, để vá ổ gà, làm lớp bảo vệ;
Điều 16. – Công tác sửa chữa thường xuyên nền đường và hệ thống thoát nước về mùa khô gồm có:
a) Sửa chữa lề đường, mái ta-luy
b) Sửa chữa hình dáng của nền đường; xén cỏ trên mép đường trên ta-luy và rãnh ở lề đường.
c) Sửa chữa đường ngầm bằng phằng cho dễ đi.
d) Sửa chữa rãnh ngầm.
Điều 17. – Công tác sửa chữa thường xuyên nền đường và hệ thống thoát nước về mùa mưa gồm có:
a) Cắt cỏ trên lề đường. Trồng cỏ những chỗ thiếu trên ta-luy, cắt cỏ những chỗ quá tốt;
b) Sửa chữa rãnh ngầm cho thông; khơi rãnh thoát nước; dọn cỏ rác; vét đất bùn.
c) Đắp lề đường bị lún: đắp mái ta-luy bị lở; hốt đất sụt với khối lượng nhỏ để khai thông đường.
d) Giữ gìn đường ngầm khỏi bị xói lở, trơ đá; cắm tiêu dọn cỏ rác, cây củi lấp lên trên đường ngầm.
Điều 18. – Công tác sửa chữa thường xuyên nền đường chung cho cả hai mùa gồm có:
a) Sửa chữa hư hỏng ở những đoạn lẻ tẻ của nền đường, có đào, đắp, đầm san phẳng, hốt đất trụt với khối lượng không quá 100m3/cây số.
b) Đắp đất, khối lượng nhỏ, hình chóp của cầu; trồng lại cỏ với những diện tích nhỏ.
c) Sửa chữa đá khan hình chóp, đá khan áp trúc ta-luy đường với diện tích nhỏ.
d) Đào rãnh mới; lát lại đường ngầm từng diện tích nhỏ với khối lượng đá độ 10-20m3.
e) Phát cây hai bên đường để giữ tầm nhìn luôn luôn được tốt.
Điều 19: Các công trình cầu cống được phân loại như sau:
a) Công trình vĩnh cửu: Mố và trụ xây; mố và trụ bê-tông, bê-tông cốt thép. Mố và trụ sắt thép. Mặt cầu bê-tông, sắt thép. Các công trình cuốn xây bằng gạch đá.
b) Công trình bán vĩnh cửu: Mố trụ vĩnh cửu, mặt cầu bằng gỗ hoặc bằng thép nhưng không bảo đảm khổ cầu; cầu thép lắp bằng chốt; cầu IPN; cầu hoàn toàn bằng gỗ tứ thiết, có phòng mục, phòng hà, thiết kế đúng chuẩn tắc.
c) Công trình tạm thời: Toàn bộ bằng gỗ, không phòng mục, không phòng hà; mố và trụ bằng gỗ, mặt bằng sắt thép; mố và trụ bằng đá xây khan, mặt gỗ.
Điều 20. – Các công trình cầu được phân hạng căn cứ vào chiều dài và tầm của công trình như sau:
a) Cầu hãng lớn:
- Cầu nhiều dịp và chiều dài bằng hoặc hơn 100m;
- Cầu nhiều dịp và chiều dài từ 80m đến 100m; nhưng tối thiểu có một dịp dài bằng hoặc hơn 16m;
- Cầu một dịp dài bằng hoặc hơn 30m.
b) Cầu hạng vừa:
- Cần nhiều dịp và chiều dài từ trên 30m đến dưới 100m;
- Cầu nhiều dịp chiều dài dưới 30m nhưng có một dịp dài trên 10m;
- Cầu một dịp dài từ trên 10m đến 30m
c) Cầu hạng nhỏ:
- Cầu nhiều dịp dài bằng hoặc dưới 30m, các dịp cầu đều dài bằng hoặc dưới 10m.
- Cầu một dịp dài bằng hoặc dưới 10m.
Điều 21. – Phân biệt cầu và cống như sau:
a) Cầu là những công trình có khẩu độ từ 3m trở lên, không có đất đắp lên trên, nếu có thì bề dày đất đắp kể cả mặt đường không quá 0,50m.
Những công trình vòm mà khẩu độ trên 6m, dù lớn đất đắp lên trên dày hơn 0,50m cũng gọi là cầu.
b) Cống là những công trình có khẩu độ từ 3m trở xuống. Những công trình có khẩu độ từ 3m đến 6m mà bề dày đất đắp kể cả mặt đường trên 0,50m cũng gọi là cống.
Điều 22. - Chiều dài của công trình là chiều dài đo theo mặt trên của công trình.
Tâm của công trình là chiều dài đo từ tim gối này qua tim gối kia của công trình.
Khẩu độ của công trình là khoảng trống từ mố này qua mố kia của công trình.
Điều 23. – Công tác sửa chữa thường xuyên các công trình cầu gồm có:
a) Giữ gìn sạch sẽ các bộ phận của công trình; thông cống, đóng đinh ván cầu; xiết bu lông; cho dầu mỡ.
b) Sửa chữa hoặc thay đổi một vài tấm ván mặt cầu, một vài lan can, tay vịn.
c) Sơn một vài bộ phận nhỏ như bu-lông, ri-vê.
d) Sửa chữa mặt cầu cho bằng phẳng, thoát nước.
e) Sửa chữa đường vào đầu cầu cho bằng phẳng với mặt cầu.
g) Sửa chữa hoặc thay thế các bộ phận cá biệt ngẫu nhiên hư hỏng, hoặc để đề phòng hư hỏng.
h) Thay một số đinh ri-vê, bu-lông hay các bộ phận khác không phức tạp.
i) Quét lại thuốc phòng mục các bộ phận bằng gỗ.
k) Sửa chữa mạch vữa ở tường cánh gà, mố và trụ cầu; sửa chữa những hư hỏng nhỏ các bộ phận bằng đá, bằng bê-tông hoặc bê-tông cốt thép.
l) Thay một số ván mặt cầu, một số ván băng lăn, chắn bánh xe, lan can, tay vịn.
m) Thay lẻ tẻ các bộ phận khác của cầu không phức tạp.
n) Làm cống gỗ.
Điều 24. - Giới hạn thuộc phạm vi bến phà gồm có:
a) Đường ô-tô từ biển báo hiệu của bến bên này đến biển báo hiệu của bến bên kia.
b) Bờ sông trong phạm vi 100m về phía thượng lưu bến phà và 100m về phía hạ lưu bến phà.
Điều 25. – Công tác sửa chữa thường xuyên bến phà, phà, và ca-nô gồm có:
a) Về mùa khô:
- Sửa chữa nhỏ đường xuống phà;
- Thay thế một vài tấm ván phà, ca-nô;
- Sắm sửa, thay thế chèo, sào, giây cáp, giây neo, pu-li xích;
- Cạo rêu bám mạn phà, ca-nô (một tháng một lần), tưới nước cho gỗ được ẩm khỏi nứt nẻ và các mạch xảm được kín.
Ở các bến phà chỉ dùng trong mùa mưa, thì mùa khô phải tìm chỗ nước sâu để dìm phà. Ở vùng có nước mặn, nếu vì một lý do gì mà phà không dùng thì phải kích lên chỗ cao ráo, cạo hà, sơn lườn phà và ca-nô; có mái che mưa nắng và phải trông nom thường xuyên.
b) Về mùa mưa:
- Thay đổi vị trí cọc, xích phà thích hợp với tình hình sông nước.
- Luôn luôn chú ý tát nước phà, ca-nô;
- Chuẩn bị chỗ dấu phà và ca-nô khi lụt bão;
- Thường xuyên kiểm tra cột căng dây cáp, cho dầu mỡ dây cáp và pu-li.
c) Đối với máy ca-nô:
- Hàng ngày: thường xuyên kiểm tra các bộ phận của máy, cho dầu, thử lái, tiếp điện;
- Sau 100 giờ máy chạy; thay dầu mỡ toàn bộ, thay dầu máy, bơm mỡ, xem lại nước bình điện và thêm hoặc thay nếu cần. Kiểm tra và sửa chữa nhỏ các bộ phận bên ngoài;
- Sau 300 giờ máy chạy: xem lại bi-en, hạ bi-en nếu cần, xem lại hơi nén của máy;
- Sau 1000 giờ máy chạy: rà lại xu-páp, xiết lại ốc, kiểm tra máy, xem lại séc-măng, cạo ống hút hơi, nắn trục bị cong, chân vịt vẹo.
Điều 26. – Công tác sửa chữa thường xuyên nhà cửa và thiết bị an toàn gồm có:
a) Giữ gìn sạch sẽ nhà cửa của cán bộ công nhân ở, tu bổ vườn, bảo vệ cây trong vườn.
b) Về mùa mưa, lũ, bão, bảo vệ nhà cửa khỏi dột, sụp đổ.
c) Bảo vệ, chăm sóc thường xuyên cây trồng hai bên đường; thay cây chết; chăm sóc vườn hoa.
d) Trồng cây lại cột số, sơn, kẻ chữ lại và trồng lại biển báo hiệu; quét nước vôi các cọc tiêu, hàng rào an ninh, tường chắn…
e) Bảo quản, tu sửa thường xuyên các dụng cụ, phương tiện vận chuyển, máy móc, thiết bị thường dùng trong công tác hàng ngày, các dụng cụ tập thể, bàn ghế, giường tủ…
Quyết định 1077-QĐ năm 1962 ban hành chế độ quản lý, sửa chữa đường ô tô do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ban hành
- Số hiệu: 1077-QĐ
- Loại văn bản: Quyết định
- Ngày ban hành: 15/09/1962
- Nơi ban hành: Quốc hội
- Người ký: Dương Bạch Liên
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 47
- Ngày hiệu lực: 15/09/1962
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
- Điều 1. – Nay ban hành kèm theo quyết định này bản chế độ quản lý, sửa chữa đường ô-tô để hướng dẫn thống nhất về nhận thức và quy định cụ thể về công tác và kỹ thuật trong công việc quản lý và sửa chữa đường ô-tô.
- Điều 2. Bản chế độ này có hiệu lực kể từ ngày ban hành và bãi bỏ bản “qui phạm tạm thời tu dưỡng đường bộ” do Nha Giao thông xuất bản năm 1958.
- Điều 3. – Các ông Chánh văn phòng Bộ Giao thông vận tải, Cục trưởng Cục Đường bộ, Giám đốc và Trưởng ty các Sở, Ty giao thông vận tải chiếu quyết định thi hành.
- Điều 4. – Các yếu tố thiên nhiên như nắng, mưa, gió, nhiệt độ thời tiết thay đổi không những tăng thêm tác động của bánh xe đối với mặt đường mà chính các yếu tố ấy cũng phá hoại mặt đường rất nhiều.
- Điều 5. – Do tác động của sức nặng bánh xe và do sự phá hoại của các yếu tố thiên nhiên, mặt đường dần dần giảm bớt bề dày, (tính bằng mm hay bằng m3 trên một cây số/năm).
- Điều 6. – Tác động của các loại xe (xe ô-tô, xe thô sơ có vành bánh sắt, xe bánh xích) là một trong những nguyên nhân chính kết hợp với các yếu tố thiên nhiên làm cho mặt đường biến dạng và hư hỏng. Cũng như xe nặng quá, xe chạy nhiều và tốc độ nhanh làm cho mặt đường nứt nẻ, lún xuống và phát sinh ổ gà. Cho nên việc theo dõi tình hình mặt đường là rất quan trọng. Có theo dõi sát và thường xuyên thì mới đề ra được những phương pháp sửa chữa, cách chọn vật liệu cũng như thành phần cấp phối thích hợp để sửa chữa mặt đường.
- Điều 7. – Công tác sửa chữa đường ô tô chia ra làm 2 loại, loại có thể dự đoán trước và loại không thể dự đoán trước:
- Điều 8. – Do tính chất công tác, hai loại công tác chăm nom và sửa chữa nhỏ được gộp làm một và gọi là “sửa chữa thường xuyên”. Và bản chế độ này chỉ quy định về loại công tác có thể dự đoán trước nói ở điểm 1) điều 7 trên.
- Điều 9. – Công tác sửa chữa thường xuyên là những công tác giữ gìn và chăm nom các công trình đề phòng hư hỏng và sửa chữa kịp thời những hư hỏng nhỏ. Công tác này tiến hành trong suốt cả năm và trên toàn tuyến đường, nhằm duy trì tình trạng tốt sẵn của các công trình để đảm bảo giao thông vận tải liên tục, nhanh chóng và an toàn.
- Điều 10. – Công tác sửa chữa vừa là công tác sửa chữa định kỳ ngắn hạn (hai năm trở lên một lần) tiến hành giữa hai lần sửa chữa lớn nhằm giữ vững chất lượng của công trình bằng cách sửa chữa một số bộ phận của công trình cho đúng tiêu chuẩn và kỹ thuật đã quy định.
- Điều 11. – Công tác sửa chữa lớn là những công tác sửa chữa định kỳ dài hạn, tổng hợp và toàn diện nhằm sửa chữa tất cả hư hỏng của một đoạn đường dài hoặc của một công trình kỹ thuật nhằm khôi phục khả năng cũ của các công trình; có khi nâng cao tiêu chuẩn một vài bộ phận của công trình.
- Điều 12. – Công tác sửa chữa thường xuyên lúc đầu phải kết hợp với sửa chữa vừa và sửa chữa lớn để hoàn thiện các công trình; đến lúc công trình đã được hoàn thiện thì sửa chữa thường xuyên là công tác chủ yếu trong toàn bộ công tác sửa chữa.
- Điều 13. – Công tác sửa chữa thường xuyên mặt đường về mùa khô gồm có:
- Điều 14. – Công tác sửa chữa thường xuyên mặt đường về mùa mưa gồm có:
- Điều 15. – Công tác sửa chữa thường xuyên mặt đường chung cho cả hai mùa gồm có:
- Điều 16. – Công tác sửa chữa thường xuyên nền đường và hệ thống thoát nước về mùa khô gồm có:
- Điều 17. – Công tác sửa chữa thường xuyên nền đường và hệ thống thoát nước về mùa mưa gồm có:
- Điều 18. – Công tác sửa chữa thường xuyên nền đường chung cho cả hai mùa gồm có:
- Điều 19. Các công trình cầu cống được phân loại như sau:
- Điều 20. – Các công trình cầu được phân hạng căn cứ vào chiều dài và tầm của công trình như sau:
- Điều 21. – Phân biệt cầu và cống như sau:
- Điều 22. Chiều dài của công trình là chiều dài đo theo mặt trên của công trình.
- Điều 23. – Công tác sửa chữa thường xuyên các công trình cầu gồm có:
- Điều 24. Giới hạn thuộc phạm vi bến phà gồm có:
- Điều 25. – Công tác sửa chữa thường xuyên bến phà, phà, và ca-nô gồm có:
- Điều 26. – Công tác sửa chữa thường xuyên nhà cửa và thiết bị an toàn gồm có:
- Điều 27. – Công tác sửa chữa vừa mặt đường và nền đường gồm có:
- Điều 28. – Công tác sửa chữa vừa các công trình cầu cống gồm có:
- Điều 29. – Công tác sửa chữa vừa bến phà, phà, ca-nô gồm có:
- Điều 30. – Công tác sửa chữa nhà cửa và các thiết bị an toàn gồm có:
- Điều 31. – Công tác sửa chữa lớn mặt đường gồm có:
- Điều 32. – Công tác sửa chữa lớn nền đường gồm có:
- Điều 33. – Công tác sửa chữa lớn cầu, cống gồm có:
- Điều 34. – Công tác sửa chữa lớn bến phà, phà, ca-nô gồm có:
- Điều 35. – Công tác sửa chữa lớn nhà cửa gồm có:
- Điều 36. Nền đường là bộ phận chủ yếu của đường, mặt đường đẹp hay xấu là do nền đường có vững chắc hay không; nền đường vững chắc hay không là do xây dựng, chăm nom và sửa chữa thiết bị thoát nước tốt hay xấu quyết định một phần lớn. Do đó công tác sửa chữa rãnh thoát nước là làm thế nào để duy trì trạng thái tốt đẹp của nó để nước chạy được thông. Trước mùa mưa, phải sửa sang các thiết bị thoát nước được hoàn bị, và sau mỗi trận mưa thì cần dọn sạch những chỗ đọng bùn, rác rưởi ảnh hưởng đến sự thoát nước.
- Điều 37. Lề đường cần phải bằng phẳng và vững chắc, có độ dốc ra rãnh thoát nước từ 4 – 5%. Mặt lề đường tiếp giáp với mặt đường cần phải bằng phẳng để không cản trở việc thoát nước ở mặt đường xuống rãnh.
- Điều 38. Lề đường phải được san cho bằng phẳng khi có vệt bánh xe, dấu chân súc vật đi lại. Đất dùng để đắp lề đường phải là đất tốt và chắc, hoặc loại đất giống như chất đất của lề đường. Đất đắp phải làm từng lớp dày 15-20cm đầm, nền kỹ. Nếu đất khô thì nên tưới nước để đầm cho dễ. Ở những đoạn đường mà lề đường thường bị xe cộ tránh nhau làm hỏng thành vệt hoặc bị người và súc vật đi lại làm trụt lở thì lề đường cần phải được chăm nom và sửa chữa thật chắc; trên lề đường rải cấp phối dày độ 5cm.
- Điều 39. – Ta-luy đường đào không được để trụt lở. Khi thấy ta-luy đường đào bị hư hỏng hoặc trụt lở cần tìm nguyên nhân xem là do đất xấu, hay đào chưa đúng độ thoải hoặc là bị nước ngầm xuyên qua ta-luy. Phương pháp sửa chữa là đào ta-luy thêm độ thoải, xây kè, lát đá mái ta-luy, trồng cỏ, làm công trình dẫn nước ngầm đi lối khác, xây rãnh ngầm…
- Điều 40. – Ta-luy đường đắp bị hư hỏng, nguyên nhân chính do đất thấp, đầm, nện không kỹ cho nên bị lún và trụt lở ta-luy, dốc đứng quá, chất đất đắp xấu. Phương pháp sửa chữa là đắp mái ta-luy, trồng cỏ, lát đá mái ta- luy, xây kè chân ta-luy…
- Điều 41. Ở những đoạn đường cong cần chú ý phát cây cối hai bên đường để bảo đảm tầm nhìn đã quy định. Ở trên đỉnh ta-luy cần chặt những cây ở sát mép ta-luy đề phòng cây đổ làm trụt ta-luy, cản trở giao thông hoặc gây ra tai nạn.
- Điều 42. – Thùng đấu lấy đất sửa chữa đường không được đào sâu quá 1m và mép thùng đấu phía chân ta-luy phải cách xa chân ta-luy tối thiểu bằng năm lần bề sâu thùng đấu.
- Điều 43. – Đường đất là loại đường chưa ổn định; thời tiết thay đổi rất ảnh hưởng đến tình hình xấu tốt của mặt đường. Vì tính chất chưa ổn định, cho nên việc thoát nước đối với đường đất rất quan trọng. Luôn luôn phải giữ gìn rãnh thoát nước được sạch sẽ, không bị cỏ lấp, bùn đọng; các cống ngầm được thông suốt.
- Điều 44. – Mặt đường luôn luôn phải được sửa chữa cho bằng phẳng. Độ nghiêng mui luyện của mặt đường từ 3 – 4%. Lề đường phải có độ nghiêng 4 – 5%. Mặt đường và lề đường luôn luôn phải được giữ gìn không hư hỏng và nện chặt.
- Điều 45. – Công tác chăm nom sửa chữa mặt đường đất qua các mùa:
- Điều 46. – Trước mùa mưa, cần chú trọng sửa chữa các thiết bị thoát nước (rãnh xương cá, rãnh thoát nước dọc lề đường, cống ngầm...).
- Điều 47. – Trong mùa mưa, cần luôn luôn giữ mặt đường khỏi nước ứ đọng. Trong những ngày tạnh ráo, tranh thủ cạo mặt đường cho bằng phẳng. Nếu có hiện tượng trơn trượt làm cho xe khó chạy, thì phải dùng cát hay sỏi rải lên mặt đường.
- Điều 48. – Nếu mặt đường sinh ra lầy lội nghiêm trọng thì phải chống lầy. Trước khi chống lầy phải tìm nguyên nhân lầy lội sinh ra do xây dựng hay do chăm nom sửa chữa.
- Điều 49. – Nguyên nhân lầy lội và tình trạng lầy lội được xác định như sau:
- Điều 50. – Phương pháp để phòng và chống lầy lội:
- Điều 51. – Gia cố mặt đường đất:
- Điều 52. – Mặt đường cấp phối về mùa khô ráo, chất dính vỡ ra thành bột, các nguyên liệu (sỏi, sạn) rời rạc, xe chạy làm bỏng mặt đường. Về mùa mưa lụt, chất dính bị thấm nhiều nước thành nhão, xe chạy làm cho mặt đường bị lún, sinh ổ gà.
- Điều 53. Ổ gà phát sinh nhiều trên mặt đường cấp phối. Muốn vá ổ gà, trước tiên dọn sạch những tạp vật ở trong ổ gà và vét đất đá bong ra xung quanh ổ gà. Đào các ổ gà theo hình góc, đào sâu hơn bề sâu ổ gà 2cm sắc cạnh đứng thành; tưới nước cho ẩm đáy ổ gà. Trộn cấp phối bằng vật liệu và theo tỷ lệ cấp phối của mặt đường rồi đắp vào và đầm nện kỹ. Ổ gà sâu từ 8cm trở xuống thì vá cấp phối một lớp; nếu ổ gà sâu quá 8cm thì vá hai lớp, lớp trên bằng 1/3 lớp dưới.
- Điều 54. – Nếu trên một đoạn đường có nhiều hố, hoặc cấp phối bong ra vung vãi thì phải sửa chữa toàn bộ mặt đường theo hai phương pháp sau đây:
- Điều 55. – Mặt đường đá dăm sau khi mới làm xong, chưa được ổn định. Cho nên công trường rải đá dăm sau khi làm xong, phải tiếp tục chăm nom thêm một tháng bằng cách hàng ngày tưới nước và rải lớp bảo vệ. Sau đó mới giao lại cho công nhân sửa chữa đường.
- Điều 56. Để bảo vệ mặt đường đá dăm thường hay bị bong đá, dần dần sinh ra ổ gà, mặt đường luôn luôn phải được giữ gìn sạch sẽ và rải một lớp bảo vệ dày từ 5 đến 8mm có hạt từ 2 đến 5mm. Có thể tận dụng nguyên vật liệu sẵn có tại chộ như cát, sỏi, sạn, đá mạt, biên hoà, đá sít già…
- Điều 57. – Mặt đường đá dăm có ổ gà sửa chữa theo những phương pháp sau đây:
- Điều 58. Nếu mặt đường có nhiều ổ gà gần nhau thì nên kết hợp hai, ba ổ gà làm một mà vá, như vậy chắc chắn hơn và xe chạy đỡ xóc hơn.
- Điều 59. Nếu ổ gà sâu đến đất nền đường thì cũng phải đào sạch như vá ổ gà thường. Đầm nện đất đáy cho chắc chắn rồi mới vá ổ gà bằng đá dăm. Nếu thấy đất nền đường xấu thì phải lát đá mỏng cỡ 10 – 15cm rồi mới vá bằng đá dăm.
- Điều 60. – Vá ổ gà thì nên dùng đá cùng một loại với đá cũ của mặt đường. Đá thường dùng có ba loại:
- Điều 61. Nếu mặt đường đá dăm đã có nhiều ổ gà hoặc đã bị bong nhiều thì phải tiến hành sửa chữa lại toàn bộ mặt đường bằng cách xào xới (thêm vật liệu từ 100 lít đến 250 lít/mét dài).
- Điều 62. Nếu mặt đường đá dăm đã mòn đến mức độ không bảo đảm lưu lượng và sức nặng của xe chạy trên đường, thì phải thiết kế mặt đường để rải lại một lớp mới lên trên mặt đường cũ. Vật liệu rải mới không dưới 350 lít/mét dài đối với mặt đường rộng 3,50m và không dưới 550 lít/mét dài đối với mặt đường rộng 5,50m.
- Điều 63. – Mặt đường đá ong về mùa nắng sinh nhiều bụi, cho nên cần chú ý thường xuyên tưới nước.
- Điều 64. Lề đường phải bằng phẳng, có độ nghiêng 4 – 5% không cản trở nước ở mặt đường chạy ra mương dọc. Hệ thống thoát nước như mương dọc, rãnh ngang, rãnh ngầm luôn luôn phải được thông suốt, không để nước ứ đọng.
- Điều 65. – Khi thấy hai vết bánh xe mòn sâu thì rải lên trên một lớp đá ong đồng loại với đá ong của mặt đường, san đều và lợi dụng sức nặng của xe cộ qua lại để lèn chặt, mà không cần phải đầm nện. Trước khi rải lớp sỏi ong mới, cần tưới nước mặt đường cũ cho ẩm để bảo đảm sự dính kết tốt giữa vật liệu cũ và mới.
- Điều 66. – Vá ổ gà trên mặt đường đá ong tiến hành như sau:
- Điều 67. – Nếu mặt đường đá ong đã mòn nhiều không bảo đảm lưu lượng và sức nặng xe chạy, thì phải thiết kế lại mặt đường để rải lại một lớp mới lên trên mặt đường cũ.
- Điều 68. – Mùa nắng nhiệt độ trên mặt đường nhựa lên đến 50 - 650C, mà thường thường nhiệt độ mềm của nhựa rải đường thấp hơn nhiệt độ trên mặt đường cho nên nhựa chảy ra, xe chạy qua, nhựa dính vào bánh xe bị kéo lên từng lớp, làm hỏng mặt đường.
- Điều 69. Nếu mặt đường nhựa có ổ gà thì phải tiến hành vá các ổ gà kịp thời khi mới phát sinh, nếu để ổ gà phát triển rộng và sâu thì việc sửa chữa sẽ rất tốn kém.
- Điều 70. – Trên mặt đường nhựa, về mùa rét nhựa co lại hoặc vì nhựa đường rải lâu ngày đã thoái hoá, những chất dễ bốc đã bốc hơi, mặt đường trở nên không tốt tạo thành những vết nứt rạn. Khi trời mưa, nước chạy vào các kẽ hở ấy ngấm xuống thân đường; khi nắng lên nhựa lại dãn ra lấp các kẽ nứt, nước trong thân đường không bốc hơi được để thoát ra. Lần này qua lần khác, nước ngấm nhiều vào nền đường làm nền đường yếu, lún xuống sinh hỏng mặt đường. Vậy mỗi lúc nhựa bị nứt rạn thì phải lấy nhựa trát kín ngay các đường nứt. Nếu nứt từng miếng lớn thì phải láng toàn mặt cả miếng. Nếu toàn bộ mặt đường bị nứt nhiều hoặc bạc đầu thì phải tiến hành láng toàn bộ mặt đường. Tiêu chuẩn láng nhựa là 1kg200 – 1kg500/m2. Sỏi dùng để phủ nhựa là sỏi sông, sạch và hạt đồng đều cỡ 15 – 20mm theo tiêu chuẩn 15 – 18 lít/m2.
- Điều 71. – Làm công tác rải mặt đường nhựa, phải chọn lúc trời nắng ráo, có nhiệt độ từ 20 đến 35oC mới có kết quả (không rải nhựa lúc nhiệt độ dưới 150C) nếu dùng nhựa nước thì có thể tiến hành lúc trời mưa phùn (mưa to không làm được).
- Điều 72. Cầu cống cần luôn luôn giữ gìn sạch sẽ đất bùn, phân súc vật, cỏ rác phải dọn ra khỏi mặt cầu mà không nên quét xuống dưới gầm cầu làm đọng lại trên rầm cầu hoặc các bộ phận khác, sinh ra nguyên nhân han rỉ, mục, mọt, phá hoại cầu và do đó dễ gây ra tai nạn.
- Điều 73. – Sau mỗi trận mưa, có nước đọng trên mặt cầu thì phải lập tức quét cho khô ráo.
- Điều 74. Ở dưới gầm cầu, phải phát dọn cây cối để có diện thoát nước đầy đủ, giòng nước mưa lũ không bị cản trở, phá hoại móng mố cầu.
- Điều 75. – Trong cống phải vét hết cỏ rác, xúc hết đất, cát, bùn ứ đọng làm tắc cống. Về mùa mưa lũ, cần ngăn ngừa cây củi trôi, va chạm cột cầu, mố cầu. Cần vớt hết rác bám vào cột trụ cầu.
- Điều 76. – Đối với cầu gỗ, phải luôn luôn lấy nấm và cạo mối.
- Điều 77. – Ván mặt cầu hay ván băng lăn trên mặt cầu phải đầy đủ. Đinh phải đóng chặt xuống ván và đầu đinh phải chìm xuống ván để khỏi tác hại đến lốp xe.
- Điều 78. – Trên những mặt cầu rải bằng cấp phối hoặc đá dăm thì không được để có ổ gà. Nếu có đá bong lên thì phải quét dọn ngay ra ngoài mặt cầu.
- Điều 79. Tất cả các cầu, nhất là cầu gỗ, hoặc có bộ phận bằng gỗ đều phải được phòng hoả. Dụng cụ vật liệu phòng hoả là những thùng chứa nước, chứa cát và bình chứa chất liệu làm tắt lửa. Tuỳ theo tính chất quan trọng của mỗi công trình mà trang bị.
- Điều 80. – Để phòng hoả trên các cầu gỗ, cần chú ý những điểm sau đây:
- Điều 81. Gỗ bị mục là loại gỗ tạp, gỗ hồng sắc, gỗ giác (gỗ tứ thiết “lỏi” không bị mục) dùng tươi hoặc khô, nhưng bị ẩm ướt sinh ra nấm.
- Điều 82. – Có rất nhiều phương pháp phòng mục. Dưới đây là hai phương pháp thích hợp với điều kiện trang bị và thi công hiện nay của ta:
- Điều 83. – Những cầu cũ chưa được phòng mục thì phải lợi dụng lúc tiến hành công tác sửa chữa thường xuyên và sửa chữa vừa mà làm công tác phòng mục cho các bộ phận cũ và mới.
- Điều 84. – Công tác phòng mục không phải làm một lần là đủ mà phải luôn luôn theo dõi những chỗ mới phát sinh nấm để cạo đi và quét thuốc phòng mục.
- Điều 85. – Nguyên nhân chủ yếu sinh ra trong mọt là do trong tế bào gỗ, nhất là gỗ tươi, có chất đường và chất bột làm thức ăn cho mọt.
- Điều 86. – Các công trình bằng gỗ thường bị mối ăn, nguyên nhân cũng do trong gỗ có chất đường và chất bột làm thức ăn cho mối.
- Điều 87. – Đối với cầu sắt thép thường xuyên tiếp xúc với không khí, mưa, nắng, hơi nước mặn (ở miền biển), phải có biện pháp phòng rỉ để đề phòng sắt thép chống rỉ hư hỏng.
- Điều 88. – Biện pháp chống rỉ thông thường là sơn, nhằm che kín mặt ngoài của sắt thép khỏi tiếp xúc với không khí, mưa nắng, hơi nước mặn.
- Điều 89. – Đối với các bộ phận quan trọng dễ bị han rỉ (rầm dọc, rầm ngang, rầm thượng, rầm hạ) thì cần xét tình hình thực tế mà đề ra kỳ hạn sơn lại ngắn hơn đối với các bộ phận khác, đồng thời nên dùng một loại sơn tương đối bền hơn.
- Điều 90. Phải luôn luôn kiểm tra, nếu thấy có bộ phận bị tróc sơn hoặc bị rỉ thì lập tức phải cạo rỉ và quét sơn lại. Trước khi sơn phải quét sạch bụi bặm, đất bùn, cạo sạch lớp sơn cũ, lớp han rỉ.
- Điều 91. Trước khi tiến hành sơn cầu sắt, cần phải kiểm tra kỹ những công tác chuẩn bị như: cạo sạch lớp sơn cũ, cạo rỉ đã tốt chưa.
- Điều 92. – Công việc sơn cầu chỉ được tiến hành trong những ngày khô ráo, nhiệt độ từ 150C đến 250C. Khi trời mưa hay có sương mù thì tuyệt đối không được sơn.
- Điều 93. – Các công trình bằng gỗ làm ở nước mặn đều bị hà ăn hư hỏng rất mau chóng. Ở vùng nước mặn hoàn toàn, hà ít ăn hơn vùng nước dở mặn dở ngọt (ở các khúc sông gần biển vừa có nước mặn vừa có nước ngọt lên xuống). Do đó trong công trình nằm dưới nước thì hà ăn hại nhiều nhất ở những bộ phận nằm trong phạm vi nước thuỷ triều lên xuống. Vì vậy cần phải có biện pháp phòng hà và chống hà cho các công trình bằng gỗ làm dưới nước mặn (kể cả công trình mới và cũ).
- Điều 94. – Các phương pháp phòng hà và chống hà như sau:
- Điều 95. Muốn bảo vệ công trình bê-tông khỏi bị hư hại vì nước mặn phải:
- Điều 96. – Đối với công trình mới bằng bê-tông ở nước mặn.
- Điều 97. – Đối với công trình cũ bằng bê-tông ở nước mặn:
- Điều 98. – Các khe co dãn giữa các bộ phận bằng sắt thép, bằng bê-tông cốt thép cần được luôn luôn chú ý không để có vật gì làm trở ngại sự co dãn. Để bảo đảm không cho nước ứ đọng trong các khe hở co dãn; nên dùng nhựa đường trát bằng mặt các khe này.
- Điều 99. Để cho toàn bộ cầu được co dãn đều đặn, bảo đảm an toàn cho cầu, cần luôn luôn chú ý kiểm tra các con đệm cọ xát hay con đệm xoay các con đệm phải có tác dụng đầy đủ.
- Điều 100. – Đối với phà và vỏ ca-nô đóng mới thì trước khi đóng, gỗ phải được phòng hà theo phương pháp thứ nhất “nấu nóng, ngâm lạnh” nói ở điều 94 ban hành chế độ này.
- Điều 101. – Đối với phà hoặc vỏ ca-nô đã có đóng rồi hoặc đang dùng mà gỗ chưa được phòng hà thì phải phòng hà và chống hà như sau:
- Điều 102. – Toàn bộ công tác sửa chữa đường ô-tô quy định trong bản chế độ này do các Sở và Ty Giao thông vận tải quản lý.
- Điều 103. – Đối với hệ thống đường quốc lộ, mỗi khu, tỉnh, thành phố tổ chức một đoạn bảo dưỡng phụ trách công tác sửa chữa thường xuyên các tuyến đường quốc lộ trong địa phương mình, khu, tỉnh nào mà chiều dài đường quốc lộ trên 400Km thì có thể tổ chức thành hai đoạn.
- Điều 104. – Các đoạn bảo dưỡng mặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các Sở, Ty giao thông vận tải, đồng thời chịu sự chỉ đạo về kỹ thuật nghiệp vụ của Cục Vận tải đường bộ thuộc Bộ Giao thông vận tải.
- Điều 105. Tổ chức sản xuất trực thuộc các đoạn bảo dưỡng gồm có:
- Điều 106. Để bảo đảm công tác sửa chữa thường xuyên, các đoạn bảo dưỡng có những lực lượng công nhân chuyên nghiệp như sau:
- Điều 107. Đoạn bảo dưỡng đường có những nhiệm vụ như sau:
- Điều 108. – Đối với công tác phà, bến phà còn có nhiệm vụ:
- Điều 109. – Các hạt đường, hạt cầu và bến phà được trang bị đầy đủ dụng cụ và thiết bị thích ứng để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ công tác kịp thời tốt và an toàn.
- Điều 110. – Đối với công tác sửa chữa vừa và sửa chữa lớn, tổ chức những đội chủ lực về đường và những đội chủ lực về công trình kỹ thuật.
- Điều 111. – Đối với hệ thống đường địa phương việc tổ chức thực hiện do Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố quyết định tuỳ theo hoàn cảnh và khả năng của từng địa phương.
- Điều 112. – Công tác kiểm tra thường xuyên do các đoạn và hạt đường phụ trách đối với hệ thống đường quốc lộ và do các phòng giao thông huyện phụ trách đối với hệ thống đường địa phương và thực hiện ít nhất mỗi tháng một lần, ngoài công tác sửa chữa thường xuyên hàng ngày, nhằm:
- Điều 113. Ngoài việc kiểm tra thường xuyên hàng tháng, công tác kiểm tra còn cần phải được tiến hành sau mỗi trận mưa lũ đối với các cống. Đối với những cầu cống có hiện tượng lún, nứt… thì tuỳ theo mức độ nghiêm trọng mà có thể định thêm kỳ kiểm tra.
- Điều 114. – Công tác kiểm tra định kỳ do các Sở, Ty Giao thông vận tải phụ trách và thực hiện mỗi năm ba kỳ:
- Điều 115. – Công tác kiểm tra bất thường được tiến hành trong những trường hợp sau đây:
- Điều 116. Việc phân công kiểm tra bất thường quy định như sau:
- Điều 117. – Công tác sửa chữa đường, cầu, phà là những công tác lao động có tính chất phức tạp và dễ gây tai nạn, cho nên vấn đề bảo vệ an toàn lao động cần phải được đề cao. Các quy định về chế độ trang bị bảo hộ lao động phải được thi hành nghiêm chỉnh.
- Điều 118. – Sửa chữa đường, cầu, phà là để bảo đảm giao thông vận tải được liên tục, nhanh chóng và an toàn. Do đó vấn đề bảo vệ an toàn giao thông luôn luôn phải được chú trọng, nhất là trong thời kỳ đường, cầu, phà đang được tiến hành sửa chữa. Các biện báo hiệu, các cọ tiêu, các hàng rào an ninh, phải luôn luôn được đầy đủ, rõ ràng, cắm đúng vị trí và quy tắc đã định.