Điều 8 Dự thảo Thông tư quy định xếp loại chấp hành án phạt tù cho phạm nhân do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành
1. Phạm nhân được xếp loại khá khi thực hiện đầy đủ các nội dung tiêu chí quy định tại khoản 3 Điều 19 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP.
2. Phạm nhân chưa đạt hoặc chưa thường xuyên đạt tiêu chí vượt định mức hoặc tiến độ công việc được giao quy định tại điểm c khoản 3 Điều 19 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP, thì phạm nhân chưa được hoặc chưa thường xuyên được biểu dương trước tập thể phạm nhân; tiêu chí được miễn hoặc giảm nhẹ kết quả tham gia lao động, học tập quy định tại điểm c khoản 3 Điều 19 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP thì phải có văn bản đề nghị của Đội trưởng Đội y tế và bảo vệ môi trường hoặc cán bộ y tế (đối với trại giam chưa có Đội trưởng Đội y tế và bảo vệ môi trường); của Bệnh xá trưởng hoặc cán bộ y tế (đối với trại tạm giam, nhà tạm giữ chưa có Bệnh xá trưởng), của quản giáo (đối với nhà tạm giữ chưa có cán bộ y tế), được Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân xác nhận.
3. Đối với các trường hợp phạm nhân chưa khắc phục hoặc mới khắc phục được một phần trách nhiệm dân sự do hành vi phạm tội của mình gây ra quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 19 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP:
a) Phạm nhân không nơi nương tựa quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 19 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP là những phạm nhân không còn thân nhân, gồm: Ông, bà nội; ông, bà ngoại; bố, mẹ đẻ; bố, mẹ vợ (hoặc chồng); bố, mẹ nuôi hợp pháp; vợ hoặc chồng; con đẻ, con dâu, con rể, con nuôi hợp pháp; anh, chị, em ruột; anh, chị, em vợ (hoặc chồng); cô, dì, cậu, mợ, chú, bác, cháu ruột. Phạm nhân liên lạc có thể nhờ người có quan hệ họ hàng gần nhất viết đơn và được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phạm nhân cư trú xác nhận không còn thân nhân. Trường hợp trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày tiếp nhận vào cơ sở giam giữ phạm nhân mà không liên lạc được với ai là họ hàng, thì phạm nhân có đơn trình bày hoàn cảnh, cam kết tiếp tục thực hiện sau khi chấp hành xong án phạt tù, có xác nhận của Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân, thì được coi là tích cực khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra.
b) Trường hợp phạm nhân còn thân nhân nhưng không có nơi cư trú nhất định, không xác định được thân nhân hoặc phạm nhân là người dân tộc ít người, ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 19 Nghị định số 133/2020/NĐ-CP, thì trong thời hạn ba tháng kể từ ngày tiếp nhận vào cơ sở giam giữ phạm nhân mà không liên lạc được với thân nhân, phạm nhân có đơn trình bày hoàn cảnh, cam kết tiếp tục thực hiện sau khi chấp hành xong án phạt tù, có xác nhận của Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân. Trường hợp, sau đó liên lạc được với thân nhân, nếu họ có điều kiện giúp phạm nhân khắc phục hậu quả thì hướng dẫn thực hiện theo quy định pháp luật; nếu họ có hoàn cảnh kinh tế gia đình đặc biệt khó khăn, hộ nghèo, cận nghèo không giúp khắc phục hậu quả được, thì hướng dẫn họ làm đơn theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều này.
c) Trường hợp phạm nhân trong quá trình chấp hành án phạt tù mà bị rơi vào hoàn cảnh nêu tại các điểm a, b khoản 3 Điều này, thì có đơn trình bày hoàn cảnh, cam kết tiếp tục thực hiện sau khi chấp hành xong án phạt tù, có xác nhận của Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân. Các trường hợp phạm nhân quy định tại điểm a, b, c khoản 3 Điều này có tiền lưu ký, khen thưởng hoặc từ kết quả tham gia lao động, nếu tự nguyện nộp để khắc phục hậu quả thì được coi là tích cực khắc phục hậu quả, trừ những trường hợp phạm nhân bị ốm, đau đang điều trị, chăm sóc; là thương binh, bệnh binh; khuyết tật hoặc có nhược điểm về thể chất, tinh thần; phụ nữ có thai, nghỉ thai sản; có con nhỏ đang ở cùng trong trại giam; già yếu nam từ 70 tuổi, nữ từ 65 tuổi trở lên hoặc các phạm nhân thường xuyên bị ốm đau, bệnh tật.
d) Thân nhân phạm nhân có hoàn cảnh kinh tế gia đình đặc biệt khó khăn, hộ nghèo, cận nghèo chưa giúp phạm nhân khắc phục hoặc mới khắc phục được một phần trách nhiệm dân sự, thì phạm nhân phải có bản cam kết khắc phục sau khi chấp hành xong án phạt tù, có xác nhận của Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân; thân nhân phạm nhân hoặc người đại diện hợp pháp có đơn trình bày hoàn cảnh kinh tế gia đình đặc biệt khó khăn, hộ nghèo, cận nghèo được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc cơ quan, đơn vị nơi công tác, học tập hoặc cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc ký, đóng dấu xác nhận. Trường hợp phạm nhân có đơn trình bày hoàn cảnh kinh tế gia đình đặc biệt khó khăn, hộ nghèo, cận nghèo nhưng phạm nhân hoặc thân nhân phạm nhân có tiền, tài sản, có điều kiện khắc phục hậu quả, nếu không tự nguyện, tích cực thực hiện khắc phục thì không được coi là tích cực khắc phục hậu quả.
Phạm nhân có đơn trình bày hoàn cảnh kinh tế gia đình đặc biệt khó khăn, hộ nghèo, cận nghèo hoặc đã khắc phục được ít nhất một phần hai trách nhiệm dân sự trở lên nhưng có tổng số tiền gửi lưu ký trong ba tháng nhiều hơn ba lần định mức ăn một tháng Nhà nước cấp cho phạm nhân, thì phải tự nguyện trích số tiền dư ra để nộp thực hiện trách nhiệm dân sự, nếu không thực hiện thì không được coi là tích cực khắc phục hậu quả, trừ những trường hợp phạm nhân bị ốm, đau đang điều trị, chăm sóc; là thương binh, bệnh binh; khuyết tật hoặc có nhược điểm về thể chất, tinh thần; phụ nữ có thai, nghỉ thai sản; có con nhỏ đang ở cùng trong trại giam; già yếu nam từ 70 tuổi, nữ từ 65 tuổi trở lên hoặc các phạm nhân thường xuyên bị ốm đau, bệnh tật.
đ) Bản cam kết của phạm nhân; đơn trình bày hoàn cảnh kinh tế gia đình đặc biệt khó khăn, hộ nghèo, hộ cận nghèo nêu tại điểm a, b, c, d khoản 3 Điều này cứ ba năm viết một lần, tính từ ngày cơ sở giam giữ phạm nhân nhận được đơn hoặc theo dấu bưu điện nếu đơn gửi qua đường bưu điện.
e) Phạm nhân đã khắc phục được ít nhất một phần hai trách nhiệm dân sự trở lên, có hóa đơn, chứng từ, cơ quan thi hành án dân sự có văn bản xác nhận kết quả thi hành án, thì phạm nhân phải có bản cam kết khắc phục sau khi chấp hành xong án phạt tù, được Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân xác nhận thì được coi là tích cực khắc phục hậu quả. Trường hợp phát hiện phạm nhân có tiền, tài sản, có điều kiện thi hành án, nếu không tự nguyện nộp để thi hành thì không được coi là tích cực khắc phục hậu quả.
g) Trường hợp thân nhân hoặc người đại diện hợp pháp của phạm nhân có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, phải khắc phục hậu quả làm nhiều lần, thì các lần đó phải có hóa đơn, chứng từ hoặc xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận các lần thực hiện đó. Trường hợp đã nộp được ít nhất một phần hai trách nhiệm dân sự trở lên, thì thực hiện theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều này.
h) Phạm nhân có hoàn cảnh kinh tế khó khăn sử dụng tiền lưu ký hoặc nguồn tiền hợp pháp của mình tự nguyện nộp nhiều lần hoặc thân nhân, người đại diện hợp pháp của phạm nhân đề nghị nộp nhiều lần tại cơ sở giam giữ phạm nhân, thì phạm nhân phải viết cam kết, thân nhân phạm nhân làm đơn cam kết rõ số tiền mỗi lần nộp, thời hạn nộp, đồng thời phải đảm bảo tổng giá trị nộp trong mỗi năm ít nhất phải bằng tổng giá trị còn phải thực hiện chia cho số năm án phạt tù của phạm nhân (trường hợp án chung thân thì chia cho ba mươi năm), được Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân xác nhận. Khi nào nộp đủ tiền theo tỉ lệ phải nộp ít nhất trong một năm trở lên thì khi đó mới được tính là đã tích cực khắc phục hậu quả. Trường hợp thực hiện không đúng cam kết, thì không được coi là tích cực khắc phục hậu quả. Trường hợp phạm nhân hoặc thân nhân đã nộp được ít nhất một phần hai trách nhiệm dân sự trở lên, thì thực hiện theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều này.
i) Phạm nhân có quyết định của cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc xác định chưa có điều kiện thi hành án, thực hiện các trách nhiệm dân sự, thì phạm nhân viết bản cam kết khắc phục sau khi chấp hành xong án phạt tù, có xác nhận của Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân.
Dự thảo Thông tư quy định xếp loại chấp hành án phạt tù cho phạm nhân do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành
- Số hiệu: Đang cập nhật
- Loại văn bản: Thông tư
- Ngày ban hành: Đang cập nhật
- Nơi ban hành: Quốc hội
- Người ký: Đang cập nhật
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: Đang cập nhật
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
- Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
- Điều 2. Đối tượng áp dụng
- Điều 3. Nguyên tắc xếp loại cho phạm nhân
- Điều 4. Hành vi nghiêm cấm trong xếp loại cho phạm nhân
- Điều 5. Nội dung, tiêu chí nhận xét, đánh giá xếp loại cho phạm nhân
- Điều 6. Xếp loại tốt
- Điều 7. Định kỳ xếp loại tốt
- Điều 8. Xếp loại khá
- Điều 9. Định kỳ xếp loại khá
- Điều 10. Xếp loại trung bình
- Điều 11. Định kỳ xếp loại trung bình
- Điều 12. Xếp loại kém
- Điều 13. Xếp loại cho phạm nhân trích xuất; phạm nhân vi phạm nội quy nhà tạm giữ, trại tạm giam bị xử lý kỷ luật; phạm nhân phạm tội trước hoặc trong thời gian tạm giữ, tạm giam
- Điều 14. Xếp loại trong trường hợp lập công
- Điều 15. Trình tự, thủ tục xếp loại cho phạm nhân
- Điều 16. Hội đồng xếp loại chấp hành án phạt tù
- Điều 17. Thông báo kết quả xếp loại chấp hành án phạt tù
- Điều 18. Quản lý, lưu trữ kết quả xếp loại cho phạm nhân