Hệ thống pháp luật
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...

BỘ TƯ PHÁP
CỤC HỘ TỊCH, QUỐC TỊCH, CHỨNG THỰC
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 2655/HTQTCT-HT
V/v hướng dẫn nghiệp vụ hộ tịch

Hà Nội, ngày 26 tháng 05 năm 2014

 

Kính gửi: Sở Tư pháp tỉnh Bến Tre

Trả lời Công văn số 569/STP-HCTP ngày 15/04/2014 của Sở Tư pháp tỉnh Bến Tre xin ý kiến hướng dẫn nghiệp vụ hộ tịch, Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực có ý kiến như sau:

1. Về việc xác nhận tình trạng hôn nhân cho trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng

Về quan hệ nam, nữ chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn đã được hướng dẫn cụ thể tại Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình; Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp ngày 03/01/2000 hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội; Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Theo đó, tùy từng trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà được pháp luật công nhận là vợ chồng (hôn nhân thực tế) hoặc không công nhận là vợ chồng. Do đó, đối với những trường hợp được pháp luật công nhận là vợ chồng (hôn nhân thực tế) thì khi cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho đương sự, UBND cấp xã ghi rõ thời điểm chung sống như vợ chồng của đương sự (Ví dụ: ông Nguyễn Văn A và bà Hoàng Thị B chưa đăng ký kết hôn, nhưng chung sống với nhau như vợ chồng từ năm…, được pháp luật công nhận là vợ chồng), trong trường hợp này, Sở Tư pháp chỉ đạo UBND cấp xã lưu ý xác minh rõ về thời điểm bắt đầu chung sống như vợ chồng của đương sự để làm căn cứ ghi vào Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau mà không thuộc trường hợp được pháp luật công nhận là vợ chồng, thì được coi là còn độc thân, việc xác nhận tình trạng hôn nhân thực hiện theo quy định hiện hành.

2. Về việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân Việt Nam cư trú trong nước để kết hôn với người nước ngoài tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài

Trường hợp sau khi Sở Tư pháp phỏng vấn, kết quả phỏng vấn cho thấy hai bên chưa có sự hiểu biết về hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh cá nhân của nhau; không có sự hiểu biết về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hóa, pháp luật về hôn nhân và gia đình của mỗi nước thì có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã từ chối cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho đương sự theo quy định tại khoản 3 Điều 11 Thông tư số 22/2013/TT-BTP ngày 31/12/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ và gia đình có yếu tố nước ngoài.

Đối với những trường hợp này, pháp luật không quy định việc phỏng vấn lại, do đó cũng không có quy định hẹn ngày phỏng vấn tiếp theo. Đồng thời, quyền yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là quyền của công dân không bị hạn chế về số lần và thời gian xin cấp, vì vậy, sau khi từ chối cấp mà đương sự tiếp tục có yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, thì công chức Tư pháp – hộ tịch cần giải thích để thấy rõ mục đích của quy định pháp luật yêu cầu, nhằm bảo đảm quyền lợi của công dân Việt Nam trong mối quan hệ hôn nhân với người nước ngoài, tránh việc đương sự tiếp tục có thể bị từ chối, gây tốn kém chi phí, thời gian cho đương sự và cả cơ quan đăng ký hộ tịch. Nếu đương sự vẫn yêu cầu thì tiếp nhận và giải quyết theo trình tự, thủ tục bình thường.

Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực trả lời để Sở Tư pháp biết, thực hiện./.

 

 

Nơi nhận:
- Như trên;
- Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (để đăng tải);
- Lưu: VT, Phòng Hộ tịch (Lý).

CỤC TRƯỞNG




Nguyễn Công Khanh