Để sử dụng toàn bộ tiện ích nâng cao của Hệ Thống Pháp Luật vui lòng lựa chọn và đăng ký gói cước.
Nếu bạn là thành viên. Vui lòng ĐĂNG NHẬP để tiếp tục.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 265-CP | Hà Nội, ngày 19 tháng 10 năm 1978 |
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC ĐẨY MẠNH CUỘC VẬN ĐỘNG SINH ĐẺ CÓ KẾ HOẠCH TRONG CẢ NƯỚC
Từ năm 1961, Chính phủ đã đề ra chủ trương tiến hành cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Các cấp ủy Đảng và chính quyền, các tổ chức công đoàn, phụ nữ và các ngành đã tích cực vận động nhân dân tham gia, triển khai việc thực hiện với những biện pháp cụ thể và đã đạt được một số kết quả.
Đến nay miền Bắc, tỷ lệ phát triển dân số đã từ 3,4% năm 1962 hạ xuống 2,56% năm 1977; trong nữ công nhân, viên chức Nhà nước, tỷ lệ sinh đẻ từ 22,6% hạ xuống 16,5% trong cùng thời gian trên. Nhiều tỉnh, thành số nữ đặt vòng tránh thai đã đạt tỷ lệ 5% trở lên so với dân trong địa phương, như Hải Hưng, Hải Phòng, Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Nam Ninh, Hà Nội, Nghệ Tĩnh, Hà Sơn Bình…
Ở miền
Tuy nhiên, phong trào quần chúng thực hiện sinh đẻ có kế hoạch trong cả nước vẫn chưa mạnh, chưa đều; tốc độ phát triển dân số còn quá nhanh, không cân đối với tốc độ phát triển kinh tế và văn hóa. Ở miền Bắc, tuy cuộc vận động đã được tiến hành nhiều năm nhưng tỷ lệ phát triển dân số vẫn còn cao. Ở các tỉnh, thành miền
Nguyên nhân chính là do các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương, các cơ quan, đoàn thể ở nhiều nơi chưa quán triệt đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, nên chưa làm hết trách nhiệm của mình; công tác tuyên truyền vận động còn yếu; về đối tượng vận động thì chưa chú trọng vận động trong nam giới, trong lực lượng vũ trang, trong nam nữ thanh niên mới xây dựng gia đình…
Để tiếp tục quán triệt nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng đã đề ra: “Cần làm tốt công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ em; đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, ra sức phòng và chữa bệnh phụ khoa và các bệnh nghề nghiệp của phụ nữ…”. Thường vụ Hội đồng Chính phủ trong phiên họp ngày 15 tháng 9 năm 1977 đã quyết định đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch trong cả nước, nhằm đạt mục tiêu hạ tỷ lệ phát triển dân số trong cả nước từ nay đến năm 1980 còn 2% hoặc trên 2% một ít, trong đó miền Bắc khoảng 1,5%, miền Nam khoảng 2,5%.
Phải hết sức đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng, cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch vừa có tính chất khoa học, vừa có tính chất cách mạng. Đây là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa. Phải kiên trì, nhẫn nại thuyết phục, phân tích có lý có tình trên cơ sở khoa học, đả phá những tư tưởng phong kiến lạc hậu, xây dựng tư tưởng mới, nếp sống mới trong nhân dân, làm cho mọi người hiểu rõ lợi ích to lớn trước mắt và lâu dài của vấn đề sinh đẻ có kế hoạch, trước hết là lợi ích đối với người phụ nữ, đối với gia đình và con cái họ.
Tuyên truyền về sinh đẻ có kế hoạch, đồng thời phải tuyên truyền về vệ sinh phụ nữ, vệ sinh thai sản, phòng và chữa bệnh phụ khoa.
Phải nói rõ tác hại do sinh đẻ quá nhiều, sinh đẻ dày, và sinh đẻ sớm. Đồng thời nêu rõ lợi ích và yêu cầu sinh đẻ có kế hoạch là phụ nữ sinh đẻ vừa phải (2,3 co), sinh đẻ thưa (cách nhau 4-5 năm) và sinh đẻ khi người phụ nữ đã có cơ thể được phát triển hoàn thiện (20 tuổi trở lên).
Trước hết, người lãnh đạo, cán bộ, đảng viên, và cán bộ nhân viên ngành y tế phải thông suốt chủ trương, gương mẫu thực hiện và tuyên truyền vận động quần chúng thực hiện.
- Đối tượng vận động là những phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ; đồng thời phải coi trọng tuyên truyền vận động trong nam giới, trong quân đội và công an. Phải giải thích cho các bậc phụ lão hiểu rõ để ủng hộ chủ trương này.
Đối với đồng bào vùng tôn giáo và vùng dân tộc ít người, cần có phương thức tuyên truyền thích hợp. Đối với các dân tộc ít người mà dân số không phát triển thì khuyến khích phát triển dân số, hướng dẫn vệ sinh, khám chữa bệnh phụ khoa, nuôi con theo khoa học, xóa bỏ những tập quán lạc hậu có hại đến sức khỏe người mẹ và trẻ em.
Phải dùng nhiều hình thức tuyên truyền thích hợp với từng vùng, từng đối tượng. Hình thức chủ yếu là nói chuyện và triển lãm. Chú ý đi sâu giải đáp thắc mắc và giúp đỡ giải quyết các khó khăn cho từng người.
- Trọng điểm của cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch là các thành phố, thị xã, vùng đồng bằng đông dân, các cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường, đơn vị bộ đội, công an. Phải chỉ đạo điểm để rút kinh nghiệm trước khi mở rộng diện, làm từng bước vững chắc, liên tục; làm dứt điểm từng thời gian cho từng xã, huyện, cơ quan đơn vị.
Về mục tiêu dứt điểm, qua nhiều năm thực hiện cho thấy:
- Ở địa phương, nếu muốn hạ tỷ lệ tăng dân số 1% thì phải vận động đặt vòng tránh thai được 5% trở lên số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ so với số dân trong địa phương đó.
- Ở cơ quan, xí nghiệp, nếu muốn hạ tỷ lệ phụ nữ sinh đẻ trong một năm còn 10% so với tổng số nữ công nhân, viên chức, thì phải vận động 70% trở lên số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ áp dụng các biện pháp tránh thai và 30% trở lên số nữ trong diện sinh đẻ thực hiện đặt vòng tránh thai.
- Phải kết hợp cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch với cuộc vận động nếp sống mới, gia đình văn hóa mới và cuộc vận động sản xuất và tiết kiệm.
- Phải tổng kết kinh nghiệm của những điển hình tiên tiến và phát động thi đua làm theo và vượt điển hình tiên tiến về cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch.
Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Y tế có trách nhiệm cùng với các ngành và các địa phương nghiên cứu việc xây dựng và từng bước giao chỉ tiêu phát triển dân số hàng năm cho mỗi địa phương để trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Ủy ban nhân dân các cấp, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm chỉ đạo toàn bộ cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch trong địa phương, cơ quan, đơn vị mình.
Để giúp cho sự chỉ đạo, cần thành lập ban chỉ đạo cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch ở các cấp chính quyền, các cơ quan, xí nghiệp, đơn vị, thành phần gồm có:
Ở các cấp chính quyền: Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân làm trưởng ban, đại biểu y tế làm phó ban thường trực, đại biểu phụ nữ làm phó ban; đại biểu văn hóa – thông tin, đại biểu các đoàn thể công đoàn, thanh niên, nông hội (ở miền Nam) làm ủy viên. Ở xã có thêm đại biểu hợp tác xã nông nghiệp.
Ở cơ quan, xí nghiệp, đơn vị: thủ trưởng hoặc phó thủ trưởng làm trưởng ban, đại biểu y tế và phụ nữ làm phó ban, các đại biểu khác làm ủy viên.
Các đoàn thể phụ nữ, công đoàn, thanh niên, nông hội (ở miền Nam) phải là những thành viên tích cực trong công tác tuyên truyền vận động quần chúng.
Bộ Y tế cùng với Tổng công đoàn, Bộ Lao động, Bộ Nông nghiệp, Ban quản lý hợp tác xã thủ công nghiệp trung ương nghiên cứu ban hành hoặc trình Chính phủ ban hành các chế độ nghỉ ngơi, bồi dưỡng vật chất cho những chị em cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước, xã viên hợp tác xã khi đặt vòng tránh thai, nạo thai, hoặc khi có biến chứng do thực hiện biện pháp tránh thai. Đồng thời nghiên cứu đề nghị sửa đổi một số chế độ đã gây trở ngại cho việc vận động sinh đẻ có kế hoạch.
Bộ Y tế chịu trách nhiệm toàn bộ về mặt chuyên môn kỹ thuật, cung cấp dụng cụ, thuốc men và đào tạo, cung cấp các cán bộ chuyên môn cho các địa phương.
Đối với các tỉnh, thành ở miền Nam, Bộ Y tế và các đoàn thể công đoàn, phụ nữ, thanh niên cần cử các đoàn cán bộ có kinh nghiệm đến tận nơi hướng dẫn giúp đỡ, phổ biến kinh nghiệm, tổ chức thực hiện; đồng thời cần điều động một số cán bộ chuyên môn của các tỉnh, thành phố ở miền Bắc vào giúp cho các tỉnh, thành phố ở miền Nam đào tạo cán bộ tại chổ.
Bộ Y tế có trách nhiệm hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện và cùng với các đoàn thể quần chúng, các cơ quan có liên quan tổ chức thực hiện tốt chỉ thị này, từng thời gian báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ.
Vận động sinh đẻ có kế hoạch là một công tác lớn và khẩn thiết. Hội đồng Chính phủ yêu cầu các cơ quan chính quyền và đoàn thể các cấp nhận rõ ý nghĩa, mục đích và yêu cầu của công tác này, có kế hoạch và biện pháp cụ thể để thực hiện tốt chỉ thị này trong cơ quan, đơn vị và địa phương mình.
| TM. HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ |
Chỉ thị 265-CP năm 1978 về đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch trong cả nước do Hội đồng Chính phủ ban hành
- Số hiệu: 265-CP
- Loại văn bản: Chỉ thị
- Ngày ban hành: 19/10/1978
- Nơi ban hành: Hội đồng Chính phủ
- Người ký: Lê Thanh Nghị
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 7
- Ngày hiệu lực: Kiểm tra
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra