Hệ thống pháp luật

BỘ TƯ PHÁP
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------

Số: 3425/QĐ-BTP

Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2009

 

QUYẾT ĐỊNH

PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN “KIỆN TOÀN TỔ CHỨC BỘ MÁY, CÁN BỘ, CƠ SỞ VẬT CHẤT VÀ TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC CỦA CỤC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ (GIAI ĐOẠN 2010 - 2015, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN 2020 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030)”

BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP

Căn cứ Luật Trợ giúp pháp lý ngày 29 tháng 6 năm 2006;
Căn cứ Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý;
Căn cứ Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp;
Căn cứ Chỉ thị số 35/2006/CT-TTg ngày 13 tháng 10 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý;
Xét đề nghị của Cục trưởng Cục Trợ giúp pháp lý và Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt Đề án “Kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, cơ sở vật chất và tăng cường năng lực của Cục Trợ giúp pháp lý - Bộ Tư pháp (Giai đoạn 2010 - 2015, định hướng đến 2020 và tầm nhìn đến năm 2030)” với các nội dung chính sau đây:

I. MỤC TIÊU

1. Củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, cơ sở vật chất và nâng cao năng lực của Cục Trợ giúp pháp lý (sau đây gọi tắt là Cục), bảo đảm về nguồn lực để thực hiện có hiệu quả chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý trong phạm vi toàn quốc.

2. Tăng cường năng lực của Cục trong quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo hệ thống trợ giúp pháp lý; đổi mới phương pháp, lề lối làm việc, mối quan hệ công tác, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, bảo đảm chất lượng, đáp ứng nhu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý, góp phần giảm nghèo trong lĩnh vực pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật, thực hiện công bằng xã hội, từng bước đưa pháp luật vào cuộc sống, phục vụ yêu cầu hội nhập quốc tế liên quan đến giúp đỡ pháp luật cho nhân dân.

3. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ trưởng, Ban Cán sự Đảng, Đảng uỷ Cơ quan Bộ Tư pháp; sự phối hợp của các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, tổ chức khác để Cục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

II. CÁC NHIỆM VỤ CHỦ YẾU

1. Củng cố, kiện toàn, xác định hợp lý về tổ chức bộ máy của Cục, bảo đảm chuyên môn hoá, khoa học, gọn nhẹ và hợp lý; xây dựng cơ chế quản lý, điều hành hiệu quả, tạo bước chuyển biến căn bản về chất trong tổ chức bộ máy, cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của công tác trợ giúp pháp lý từ nay đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

2. Xác định hợp lý về cơ cấu, số lượng công chức, viên chức, người lao động và nhiệm vụ của từng chức danh theo hướng chuyên sâu, chuẩn hoá, bảo đảm nguồn lực nhân lực có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng cao năng lực của từng chức danh; cơ cấu cán bộ quản lý và chuyên môn nghiệp vụ được xác định theo quy hoạch mở, linh hoạt, có kế thừa, liên thông và phát triển bền vững.

3. Chuẩn hoá các quy trình hoạt động theo Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam ISO 9001: 2008, xác định rõ trách nhiệm của từng khâu, bộ phận, vị trí công tác; xây dựng phương pháp làm việc khoa học, tiết kiệm, hiệu quả; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành và thực hiện trợ giúp pháp lý; từng bước hiện đại hoá trang thiết bị, phương tiện làm việc, bảo đảm đủ cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động cho Cục phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

1. Nhận thức đúng đắn về chính sách trợ giúp pháp lý và vị trí, vai trò của Cục trong chỉ đạo, điều hành để đổi mới và phát triển trợ giúp pháp lý bảo đảm chất lượng, hiệu quả; kịp thời dự báo xu hướng phát triển của trợ giúp pháp lý để đề xuất điều chỉnh chính sách cho phù hợp

a) Chú trọng công tác nghiên cứu lý luận để nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của chính sách trợ giúp pháp lý trong đời sống pháp luật phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Xác định rõ vị trí, vai trò của Cục trong việc giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành;

b) Làm rõ vai trò của Cục trong nghiên cứu, tham mưu giúp Bộ trưởng đề xuất Đảng, Nhà nước ban hành chính sách, pháp luật, chiến lược phát triển về trợ giúp pháp lý; xác định hệ quan điểm, các giải pháp phù hợp với yêu cầu của công tác bảo vệ pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao vai trò, vị thế của pháp luật trong quản lý xã hội, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;

c) Tổng kết thực tiễn, phân tích, dự báo chính xác xu hướng phát triển của trợ giúp pháp lý, sự điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cục trong từng giai đoạn phù hợp với sự phát triển của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế để đề xuất các giải pháp kịp thời sửa đổi, bổ sung chính sách, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và nhu cầu trợ giúp pháp lý phong phú, đa dạng của nhân dân.

2. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực cán bộ, tăng cường năng lực quản lý, chỉ đạo, điều hành của Cục

a) Kiện toàn lãnh đạo Cục

- Kiện toàn bộ máy lãnh đạo Cục hiện có và dự kiến nguồn cán bộ kế cận để có giải pháp bồi dưỡng nguồn cán bộ lãnh đạo đủ năng lực quản lý, điều hành cho những năm tiếp theo; xây dựng cơ cấu hợp lý có xen kẽ giữa các thế hệ, thực hiện quy hoạch nguồn cán bộ lãnh đạo, xác định cơ cấu độ tuổi, cân đối giới tính, chú trọng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, bảo đảm tính liên tục và sự kế thừa giữa các thế hệ để lớp kế cận được bồi dưỡng năng lực quản lý, điều hành, có đủ số lượng theo định mức với cơ cấu khoa học và hợp lý;

- Nâng cao năng lực cán bộ lãnh đạo Cục, bảo đảm về tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, khả năng sử dụng ngoại ngữ, ứng dụng công nghệ thông tin, có năng lực quản lý, điều hành bao quát công việc; có năng lực thực tiễn đáp ứng yêu cầu hướng dẫn, chỉ đạo địa phương và giải quyết công việc mang tầm vĩ mô, tham gia hoạch định chủ trương, chính sách cho Bộ, ngành.

b) Kiện toàn các đơn vị trực thuộc Cục

- Về tổ chức: rà soát lại tổ chức và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng đơn vị; cơ cấu, sắp xếp lại một cách khoa học, hợp lý, khả thi, bảo đảm tính chuyên môn hóa, tách bạch giữa hoạt động quản lý hành chính với hoạt động sự nghiệp;

- Về cán bộ lãnh đạo: tuyển chọn đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, khả năng quản lý, điều hành, năng lực thực tiễn và hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức để quy hoạch, bổ nhiệm, bố trí quản lý các đơn vị; xác định cơ cấu một cách hợp lý, có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý, điều hành, trình độ chính trị, ngoại ngữ; đưa cán bộ quy hoạch chức danh lãnh đạo đi cơ sở để nắm bắt thực tiễn, đáp ứng yêu cầu công việc;

- Về đội ngũ công chức, viên chức: xây dựng, quy hoạch công chức, viên chức hợp lý, xác định cơ cấu các chức danh chuyên môn nghiệp vụ một cách hợp lý (về số lượng, ngạch, bậc, độ tuổi, giới tính...) theo hướng tiêu chuẩn hóa; nghiên cứu đề xuất bổ sung biên chế, bố trí đủ các chức danh cần thiết, phấn đấu đến hết năm 2015, công chức, viên chức chuyên môn nghiệp vụ đều được bồi dưỡng kiến thức quản lý ở ngạch chuyên viên chính; có chính sách thu hút, thực hiện luân chuyển cán bộ trưởng thành từ thực tiễn về làm việc tại Cục.

c) Nâng cao năng lực cán bộ

- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Cục trong sạch, vững mạnh bảo đảm chất lượng, có đủ tiêu chuẩn, có trách nhiệm, tận tụy với công việc, coi trọng tài năng, đạo đức và phẩm chất chính trị;

- Bố trí cán bộ, công chức, viên chức hợp lý, khoa học, phù hợp với trình độ chuyên môn, sở trường, năng lực và khả năng thực tiễn; chú trọng bồi dưỡng kiến thức thực tiễn, nhân sinh quan, ý thức, thái độ làm việc gần dân, thân dân, vì nhân dân phục vụ, tạo bước đột phá trong bố trí và sử dụng cán bộ;

- Quy hoạch từng vị trí công tác để bố trí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước và các kỹ năng nghiệp vụ phù hợp với từng chức danh; kết hợp giữa đào tạo, bồi dưỡng dưới nhiều hình thức (dài hạn, ngắn hạn, trao đổi chuyên gia, tập trung, tại chức...) ở trong nước và nước ngoài. Ưu tiên cử công chức, viên chức trẻ đi đào tạo, bồi dưỡng ở các nước có hệ thống trợ giúp pháp lý phát triển; có chính sách khuyến khích, hỗ trợ công chức của Cục đi học và tự học, thực hiện việc khen thưởng đối với công chức, viên chức ứng dụng có hiệu quả kết quả học tập vào thực tiễn công tác.

d) Tăng cường năng lực quản lý, chỉ đạo, điều hành của Cục

Đổi mới phương thức quản lý, chỉ đạo điều hành để xây dựng Cục vững mạnh về tổ chức, chính trị, tư tưởng, tăng cường các hoạt động nghiệp vụ, nâng cao chất lượng công tác phối hợp; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng tính công khai, minh bạch trong quản lý, điều hành; xây dựng môi trường làm việc thân thiện, trong sạch, vững mạnh, sáng tạo, cởi mở, đoàn kết, phát huy trí tuệ tập thể, đề cao trách nhiệm cá nhân, hỗ trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và trưởng thành.

3. Đổi mới hoạt động của Cục để thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao

a) Tăng cường công tác theo dõi việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý; chú trọng công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng vụ việc, bồi dưỡng nghiệp vụ và kiểm tra tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý; khuyến khích các sáng kiến, giải pháp thu hút sự tham gia trợ giúp pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật, các tổ chức xã hội và các sáng kiến tăng cường năng lực cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý, bảo đảm cung ứng dịch vụ pháp lý có chất lượng và hiệu quả. Xây dựng được cơ chế tổng hợp kiến nghị thi hành pháp luật về trợ giúp pháp lý để kịp thời đề xuất chính sách, kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật, khắc phục những vi phạm trong hoạt động công vụ;

b) Tăng cường năng lực của Cục trong hướng dẫn, điều phối các hoạt động để thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình giảm nghèo, tăng trưởng và phát triển; chú trọng các giải pháp lồng ghép và phối hợp với các ngành, chính quyền các cấp phát huy nội lực để giúp người được trợ giúp pháp lý yên tâm lao động, sản xuất, tự vươn lên thoát nghèo, góp phần từng bước xoá bỏ sự chênh lệch về điều kiện kinh tế, trình độ dân trí giữa các vùng, miền;

c) Tiêu chuẩn hoá và công khai các hoạt động, quy trình xử lý công việc của Cục theo hướng ứng dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam ISO 9001:2008; tích cực tham gia các hoạt động chung của Bộ, ngành và hỗ trợ các đơn vị thuộc Bộ, các cơ quan, tổ chức có liên quan;

d) Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các đơn vị trực thuộc Cục; xác định rõ mối quan hệ giữa Cục trưởng với chi uỷ, các tổ chức chính trị - xã hội trong Cục; nâng cao vai trò, sự chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội trong vận động, tập hợp đảng viên, đoàn viên, hội viên tích cực tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị; tham gia giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý và nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị;

đ) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý, kịp thời tham mưu để ký kết, gia nhập các Điều ước quốc tế có liên quan đến trợ giúp pháp lý; thiết lập, củng cố các mối quan hệ về trợ giúp pháp lý với các nước, các tổ chức quốc tế, tăng cường giao lưu, học hỏi, tranh thủ sự ủng hộ, hỗ trợ, giúp đỡ của quốc tế để hỗ trợ phát triển hoạt động trợ giúp pháp lý; tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý.

4. Tăng cường cơ sở vật chất và các điều kiện để bảo đảm hoạt động

a) Đẩy nhanh kế hoạch và thủ tục triển khai Đề án xây dựng trụ sở làm việc của Cục tại thành phố Hà Nội; triển khai các hoạt động chuẩn bị Đề án đầy đủ các luận chứng về kinh tế, kỹ thuật, tài chính xây dựng trụ sở làm việc của Cục sau khi được cấp đất xây dựng;

b) Hiện đại hóa công sở, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo, điều hành và trong thực hiện các hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý, bảo đảm việc giải quyết và xử lý công việc được nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm và hiệu quả; tiếp tục nâng cấp Trang thông tin điện tử Trợ giúp pháp lý Việt Nam (bao gồm bản tiếng Việt và tiếng Anh) đáp ứng yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin nghiệp vụ, chia sẻ kinh nghiệm trợ giúp pháp lý và liên kết trực tuyến với các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý có liên quan; bảo đảm và nâng cao vai trò của kênh thông tin về trợ giúp pháp lý đến với người dân, tạo thuận lợi để người dân dễ dàng tiếp cận với hoạt động trợ giúp pháp lý;

c) Bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất và trang thiết bị làm việc cho Cục theo đúng định mức, tiêu chuẩn và sử dụng có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

5. Tăng cường sự lãnh đạo của Bộ trưởng, Ban Cán sự Đảng, lãnh đạo Bộ Tư pháp, Đảng uỷ cơ quan Bộ Tư pháp đối với Cục và sự phối hợp của các đơn vị thuộc Bộ, các Sở Tư pháp trong công tác trợ giúp pháp lý

a) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Bộ trưởng, Ban Cán sự Đảng, lãnh đạo Bộ, Đảng ủy cơ quan Bộ Tư pháp đối với tổ chức và hoạt động của Cục; đặc biệt chú trọng đối với công tác tổ chức cán bộ, công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật, công tác chỉ đạo, điều hành, thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình giảm nghèo, công tác đối ngoại, thi đua và các hoạt động khác của Cục;

b) Tăng cường mối quan hệ giữa Cục và các đơn vị thuộc Bộ, các đơn vị thuộc các Bộ, ngành có liên quan và với các Sở Tư pháp, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao;

c) Tăng cường sự lãnh đạo của Chi bộ đối với hoạt động của Cục, của các đơn vị trực thuộc Cục và các tổ chức chính trị - xã hội thuộc Cục nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội thuộc Cục trong việc chủ động tham gia tích cực, có hiệu quả các hoạt động của Cục, của Bộ và ngành tư pháp.

IV. CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

1. Giai đoạn 2010 - 2015

a) Mục tiêu: Hoàn thành việc củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, từng bước đổi mới hoạt động để nâng cao năng lực của Cục để thực hiện có hiệu quả Quyết định số 1989/QĐ-BTP ngày 17 tháng 8 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Trợ giúp pháp lý, phấn đấu đến hết năm 2015, đạt được các chỉ tiêu sau:

- Lãnh đạo Cục được bổ sung bảo đảm các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, năng lực quản lý điều hành, độ tuổi kế cận, có sự tích luỹ kinh nghiệm về trợ giúp pháp lý;

- Tất cả các đơn vị trực thuộc Cục được củng cố, kiện toàn, bảo đảm 100% đơn vị đều có Trưởng phòng và tương đương, từ 01 đến 03 Phó Trưởng phòng và tương đương; có đủ số lượng công chức, viên chức và người lao động để thực hiện các nhiệm vụ được giao;

- Xác định số lượng công chức, viên chức và người lao động một cách hợp lý, tương xứng với nhiệm vụ; phân định rõ số lượng biên chế quản lý hành chính với số lượng biên chế hoạt động sự nghiệp và người lao động của Cục;

- Xây dựng cơ cấu ngạch, bậc, chức danh hợp lý, phấn đấu ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương chiếm tỷ lệ từ 5% đến 10%, ngạch chuyên viên chính và tương đương chiếm tỷ lệ 20% đến 25%, ngạch chuyên viên và tương đương chiếm tỷ lệ 40% đến 50%, ngạch khác chiếm tỷ lệ 15% đến 20%;

- Về trình độ chuyên môn: phấn đấu có khoảng 5% công chức, viên chức có trình độ Tiến sĩ; 30% đến 40% công chức, viên chức có trình độ Thạc sĩ, trong đó tối thiểu có 75% công chức, viên chức có trình độ Cử nhân luật;

- Có cơ cấu cân đối về giới tính, bảo đảm sự phát triển đồng bộ giữa các giới;

- Có cơ cấu độ tuổi hợp lý, bảo đảm tính kế thừa, liên tục giữa các thế hệ, độ tuổi dưới 35 chiếm 30%; từ 35 đến 45 tuổi chiếm 45% và từ 45 tuổi trở lên chiếm 25%;

- Đổi mới một bước việc triển khai thực hiện các hoạt động, từng bước nâng cao năng lực làm việc và bảo đảm đủ nguồn kinh phí, cơ sở vật chất, trụ sở và phương tiện làm việc, trang thiết bị cho Cục tương xứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy, cán bộ.

b) Nhiệm vụ và giải pháp:

b.1) Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ của Cục theo Quyết định số 1989/QĐ-BTP ngày 17 tháng 8 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp như sau:

- Về tổ chức bộ máy

+ Đối với lãnh đạo Cục: đủ về số lượng (Cục trưởng, 03 (ba) Phó Cục trưởng) trong điều kiện từ năm 2010 đến 2012, dự kiến sẽ có 03 công chức lãnh đạo Cục hiện nay được nghỉ chế độ (Cục trưởng và 02 Phó Cục trưởng). Vì vậy, cần rà soát lại quy hoạch để đào tạo, bồi dưỡng nguồn, tạo cơ sở cho việc củng cố bộ máy lãnh đạo Cục, lựa chọn người có đủ phẩm chất, tiêu chuẩn, kinh nghiệm thực tiễn trợ giúp pháp lý và năng lực để bổ nhiệm, bố trí vào các chức danh còn khuyết.

+ Đối với các đơn vị trực thuộc Cục: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng đơn vị một cách hợp lý; thực hiện sắp xếp lại tổ chức bộ máy, cán bộ một cách hợp lý; thực hiện quy hoạch đội ngũ lãnh đạo cấp Phòng để bồi dưỡng, bổ nhiệm Trưởng phòng, các Phó Trưởng phòng và tương đương, cụ thể như sau:

Văn phòng Cục có chức năng tham mưu, giúp Cục trưởng trong công tác kế hoạch, hành chính - tổng hợp, thông tin, truyền thông, hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý, thống kê, thi đua, khen thưởng, quản lý thư viện Cục, bảo đảm các điều kiện cho các hoạt động chung của Cục và công tác quản trị trong nội bộ Cục. Văn phòng Cục có Chánh Văn phòng, 03 Phó Chánh Văn phòng, 06 chuyên viên, 06 người lao động theo hợp đồng lao động.

Phòng Quản lý nghiệp vụ có chức năng tham mưu, giúp Cục trưởng trong công tác nghiên cứu, xây dựng, thẩm định, góp ý, rà soát, hệ thống hóa các văn bản pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án về trợ giúp pháp lý; thực hiện chức năng quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý; hướng dẫn, tổ chức thực hiện và theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các văn bản pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án về trợ giúp pháp lý, chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình giảm nghèo và các chương trình phối hợp liên ngành; là đầu mối thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật chung theo yêu cầu và phân cấp của Bộ. Phòng có Trưởng phòng, 03 Phó Trưởng phòng và 10 chuyên viên.

Phòng Quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý có chức năng tham mưu, giúp Cục trưởng trong công tác quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; hướng dẫn, tổ chức thực hiện, đánh giá chất lượng vụ việc; theo dõi, kiểm tra công tác đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý trong toàn quốc và tổ chức đánh giá chất lượng vụ việc theo quy định. Phòng có Trưởng phòng, 02 Phó Trưởng phòng và 08 chuyên viên.

Phòng Tài chính - Kế toán có chức năng tham mưu, giúp Cục trưởng trong công tác quản lý và thực hiện công tác tài chính, kế toán đối với các hoạt động của Cục, là đơn vị tài chính cấp II đối với các đơn vị sự nghiệp thuộc Cục và theo dõi các công việc khác có liên quan. Phòng có Trưởng phòng - Kế toán trưởng, 03 kế toán viên và 01 thủ quỹ.

Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý có chức năng tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ và hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý ở địa phương, giúp Cục trưởng quản lý chương trình, tổ chức thực hiện Quy chế bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-BTP ngày 05 tháng 12 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Trung tâm có Giám đốc, 02 Phó Giám đốc, 08 viên chức và 01 hợp đồng lao động.

Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 08/2008/QĐ-BTP ngày 08 tháng 12 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Dự kiến nhân sự của Quỹ gồm Giám đốc, 01 Phó Giám đốc, 01 kế toán viên, 02 viên chức phát triển Quỹ và 01 thủ quỹ.

- Về cơ cấu nhân sự

Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục, dự kiến đến hết năm 2015 trình Bộ để đề nghị Bộ Nội vụ phân bổ đủ chỉ tiêu, biên chế cho Cục bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tổng biên chế của Cục đến năm 2015 dự kiến khoảng 68 người (bao gồm: 49 công chức hành chính; 12 viên chức sự nghiệp và 07 người lao động theo Hợp đồng lao động). Riêng nhân sự để bảo đảm thực hiện các cam kết của Dự án hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý được thực hiện theo quy định của Dự án (tiếp tục duy trì hoạt động Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý cho người chưa thành niên, 06 Văn phòng Trợ giúp pháp lý cho phụ nữ với số người lao động thực hiện Dự án do Cục trưởng ký hợp đồng lao động theo cam kết của Dự án).

b.2) Đổi mới lề lối làm việc, tăng cường phân cấp, xác định rõ trách nhiệm, phạm vi giải quyết công việc của từng chức danh và quan hệ phối hợp công tác

- Phân công rõ trách nhiệm của Cục trưởng, các Phó Cục trưởng, Trưởng phòng và tương đương của các đơn vị trực thuộc Cục; tăng cường tính chủ động và độc lập giải quyết công việc của từng lãnh đạo Cục, mối quan hệ giữa lãnh đạo Cục với các đơn vị trực thuộc Cục và với tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội trong Cục; đẩy mạnh sự phối hợp giữa các phòng và tương đương trong Cục; thường xuyên tổ chức giao ban định kỳ trao đổi công việc giữa Cục trưởng với các Phó Cục trưởng và Trưởng các đơn vị trực thuộc Cục.

- Tuân thủ Quy chế làm việc của Bộ, của Cục, thực hiện nghiêm chế độ báo cáo tiến độ triển khai công việc. Các Phó Cục trưởng và Trưởng các đơn vị thuộc Cục chủ động, sát sao với công việc, khắc phục tình trạng việc đã được giao phụ trách nhưng không quán xuyến, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn kịp thời.

- Tăng cường phân cấp, uỷ quyền cho Trưởng các đơn vị thuộc Cục nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, sự chủ động trong quản lý, điều hành công việc của từng đơn vị; thực hiện triệt để tinh thần chịu trách nhiệm đến cùng đối với công việc được giao của từng chức danh.

- Chủ động thiết lập và tăng cường mối quan hệ công tác thường xuyên và chặt chẽ giữa Cục với các cơ quan, tổ chức trong và ngoài Bộ để giải quyết công việc có kết quả và chất lượng.

- Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở, bảo đảm công khai, minh bạch trong quản lý, điều hành, tạo môi trường làm việc sáng tạo, cởi mở và đoàn kết; xây dựng định mức cụ thể để đánh giá mức độ hoàn thành công việc của từng chức danh, có chính sách động viên, khuyến khích và khen thưởng kịp thời.

- Phát huy tối đa vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tham gia quản lý, giám sát hoạt động, đánh giá cán bộ, thi đua khen thưởng, xử lý vi phạm để kịp thời phát hiện và khắc phục những vướng mắc, bất cập nảy sinh.

b.3) Tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức

- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ công chức, viên chức và người lao động làm việc tại Cục; khảo sát kinh nghiệm trong nước và nước ngoài để có giải pháp và hình thức bồi dưỡng, trao đổi chuyên gia phù hợp, chú trọng nâng cao năng lực thực tiễn;

- Đa dạng hoá nguồn tuyển dụng để phù hợp với đặc thù quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành; thực hiện sơ tuyển và đề nghị lãnh đạo Bộ phân cấp cho Cục tuyển dụng viên chức cho các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Cục; tuyển dụng ngay những người có khả năng, có kinh nghiệm thực tiễn làm công tác xây dựng, theo dõi việc thực hiện pháp luật, tài chính, kế toán và quản lý, phát triển Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam và bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý.

- Xây dựng cơ chế thu hút, thực hiện việc điều động, luân chuyển cán bộ trưởng thành từ thực tiễn, có năng lực, kinh nghiệm, trình độ chuyên môn cao cho các đơn vị làm công tác xây dựng, theo dõi việc thực hiện pháp luật, quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý và hướng dẫn nghiệp vụ trợ giúp pháp lý.

- Tăng cường kỷ cương hành chính, kỷ luật lao động; phát huy tinh thần trách nhiệm của Trưởng các đơn vị trực thuộc Cục trong việc duy trì kỷ cương, kỷ luật, bảo đảm chất lượng và tiến độ công việc.

- Tăng cường quan hệ giao lưu, hợp tác, trao đổi kinh nghiệm, khảo sát công việc giữa Cục với các đơn vị khác trong Bộ, ngành và với các Bộ, ngành khác để nắm bắt tình hình, góp phần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Cục.

2. Định hướng đến năm 2020

a) Mục tiêu: Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ của Cục tương xứng với các nhiệm vụ, quyền hạn được điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung; đổi mới một cách căn bản phương thức hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao, đáp ứng yêu cầu và xu hướng phát triển của trợ giúp pháp lý trong điều kiện nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại.

b) Nhiệm vụ và giải pháp:

- Dự báo đúng đắn nhu cầu trợ giúp pháp lý; nghiên cứu xác định sự biến đổi và phát triển của mô hình trợ giúp pháp lý ở Việt Nam và yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý.

- Xác định rõ vị trí, vai trò và sự điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Cục từ năm 2015 đến năm 2020, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để nghiên cứu, đề xuất cơ quan có thẩm quyền nâng cấp Cục thành Cục loại I.

- Nghiên cứu, xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn được giao bổ sung cho Cục đến năm 2020; tiếp tục nghiên cứu, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý, bổ sung chức năng của Cục về thực hiện trợ giúp pháp lý đối với các vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của Toà Thượng thẩm Toà án nhân dân tối cao trong điều kiện cải cách tư pháp và sự phát triển của mạng lưới tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật, các tổ chức đoàn thể xã hội, khi các tổ chức này tham gia ngày càng tích cực vào hoạt động trợ giúp pháp lý.

- Xác định cơ cấu tổ chức bộ máy, cán bộ của Cục một cách hợp lý, khoa học trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn được điều chỉnh, bổ sung; kịp thời tổng kết thực tiễn mô hình tổ chức bộ máy, cán bộ giai đoạn 2010 - 2015; nghiên cứu và khi đủ điều kiện thì đề xuất thành lập một số đơn vị mới để thực hiện các chức năng hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý; nghiên cứu, thông tin, truyền thông về trợ giúp pháp lý, Tạp chí Trợ giúp pháp lý và các Trung tâm hoặc Văn phòng trợ giúp pháp lý cho các đối tượng đặc thù để tham gia tranh tụng tại Toà Thượng thẩm.

- Xác định hợp lý cơ cấu, số lượng biên chế cần điều chỉnh, bổ sung hàng năm và cả giai đoạn 2015 - 2020 cho Cục để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; mỗi năm đề xuất cơ quan có thẩm quyền giao bổ sung cho Cục và các đơn vị sự nghiệp thuộc Cục từ 05 đến 06 biên chế để có điều kiện bồi dưỡng kèm cặp nghiệp vụ; đến hết năm 2020, tổng biên chế hành chính và sự nghiệp của Cục khoảng 100 người (khoảng 70 công chức và 30 viên chức).

- Quy hoạch, bồi dưỡng nguồn cán bộ lãnh đạo, công chức, viên chức chuyên môn nghiệp vụ kế cận có tính đến yêu cầu cần điều động, luân chuyển, biệt phái giữa các đơn vị trong Cục, trong Bộ, giữa Trung ương và địa phương; sắp xếp cán bộ, công chức một cách hợp lý, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; từng bước hình thành đội ngũ chuyên gia đầu ngành về trợ giúp pháp lý, có chuyên môn nghiệp vụ bậc cao, có đủ năng lực độc lập giải quyết các vấn đề thực tiễn.

- Đổi mới một cách căn bản phương pháp quản lý theo hướng xác định nhiệm vụ cụ thể theo chức danh để tăng cường năng lực quản lý chỉ đạo, điều hành thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, công tác nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung pháp luật, chỉ đạo kiểm tra thực tiễn, đánh giá chất lượng để đáp ứng yêu cầu tình hình mới trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- Có kế hoạch phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan để xác định hợp lý nguồn ngân sách bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị, trụ sở làm việc cho Cục trong điều kiện mới, tương ứng với cơ cấu tổ chức bộ máy, số lượng biên chế, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn;

- Dự kiến các biện pháp hỗ trợ về kinh phí, trang thiết bị làm việc cho các Hội, các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức xã hội khác tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý hỗ trợ tăng cường năng lực công tác trợ giúp pháp lý.

3. Tầm nhìn đến năm 2030

- Đổi mới căn bản về tổ chức bộ máy, cán bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động của Cục; tổng kết thực tiễn, nghiên cứu để nếu đủ điều kiện cần thiết thì đề xuất cơ quan có thẩm quyền nâng cấp Cục thành Tổng Cục Trợ giúp pháp lý theo Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý; định hướng phát triển tổ chức trợ giúp pháp lý phù hợp với Chiến lược phát triển ngành Tư pháp và lộ trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp của đất nước;

- Nâng cao năng lực hoạt động của Cục theo hướng tiêu chuẩn hoá; tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, tiến dần đến các tiêu chuẩn quốc tế và quản lý theo Hệ thống quản lý chất lượng tiêu chuẩn Việt Nam ISO 9001:2008. Nghiên cứu, bổ sung các chức năng mới như: quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề của luật sư nhà nước làm trợ giúp pháp lý, liên kết xây dựng Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam với các ngành nghề cần trợ giúp pháp lý; quản lý Hội chuyên ngành, hướng dẫn hoạt động đối với các Hội, tổ chức phi Chính phủ; hướng dẫn các tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật tham gia thực hiện, hỗ trợ công tác trợ giúp pháp lý; trực tiếp cung ứng dịch vụ pháp lý cho các cá nhân, tổ chức tại Toà Thượng thẩm, đối tượng thuộc diện án chỉ định người bào chữa và các đối tượng đặc biệt khác theo quy định của pháp luật và các cam kết quốc tế (người nghèo, phụ nữ bị buôn bán, bị bạo lực gia đình, người bị nhiễm HIV/AIDS, người dân tộc thiểu số, người tiêu dùng, người Việt Nam lao động ở nước ngoài; người nước ngoài thuộc diện được trợ giúp pháp lý tại Việt Nam, phụ nữ Việt Nam kết hôn ở nước ngoài, trẻ em Việt Nam là con nuôi...); công tác quản lý và phát triển đội ngũ bào chữa viên nhân dân, hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng hoà giải các vụ tranh chấp nhỏ và Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý ở cơ sở.

- Xác định cơ cấu cán bộ hợp lý, tăng cường biên chế hành chính và sự nghiệp cho Cục bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, tương xứng với vị trí, vai trò của Tổng Cục; xây dựng đội ngũ công chức, viên chức chuyên nghiệp, hiện đại tương xứng với nhiệm vụ được giao trong tình hình mới.

V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

1. Phân công trách nhiệm

a) Cục Trợ giúp pháp lý chủ trì, phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án; đôn đốc, đánh giá kết quả thực hiện và định kỳ báo cáo kết quả với Bộ trưởng Bộ Tư pháp;

b) Cục Trợ giúp pháp lý chủ trì, phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ xây dựng cơ cấu, tổ chức bộ máy, nhân sự của Cục, đề xuất thực hiện luân chuyển, điều động cán bộ có năng lực và kinh nghiệm và xây dựng cơ chế, chính sách thu hút nhân tài về làm việc tại Cục; xây dựng và triển khai các kế hoạch, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của Cục;

c) Cục Trợ giúp pháp lý chủ trì, phối hợp với Cục Công nghệ thông tin nghiên cứu, xây dựng các phần mềm ứng dụng trong công tác quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý, ứng dụng công nghệ thông tin, tin học trong quản lý và hoạt động trợ giúp pháp lý; liên kết trợ giúp pháp lý trong khu vực và các quốc gia, các tổ chức quốc tế và trong nước có liên quan;

d) Vụ Hợp tác quốc tế chủ trì, phối hợp với Cục trong quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế trong trợ giúp pháp lý, tìm kiếm dự án hỗ trợ cho trợ giúp pháp lý ở Việt Nam và tăng cường năng lực thực hiện dự án hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý;

đ) Vụ Kế hoạch - Tài chính chủ trì, phối hợp với Cục tổ chức kiểm tra, theo dõi, đôn đốc và sơ kết, tổng kết việc thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 05 năm và hàng năm về trợ giúp pháp lý; phối hợp thực hiện thống kê về trợ giúp pháp lý, quản lý các nguồn kinh phí nhà nước và Dự án giao cho Cục theo quy định của pháp luật; phối hợp với Cục xây dựng kế hoạch tài chính triển khai thực hiện Đề án và bảo đảm cho hoạt động của Cục; phát triển Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam; thẩm định, trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định về việc giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp thuộc Cục;

e) Các đơn vị thuộc Bộ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Cục trong việc triển khai các công việc có liên quan, đóng góp xây dựng Cục đạt các mục tiêu nêu tại Đề án, trong trường hợp cần thiết, luân chuyển cán bộ, công chức, viên chức của đơn vị thuộc Bộ với Cục nhằm đào tạo nguồn quy hoạch cán bộ cho đơn vị và cơ quan Bộ.

2. Lộ trình thực hiện

- Trong Quý IV năm 2009 và chậm nhất là Quý I năm 2010:

+ Hoàn thiện các văn bản triển khai thực hiện tạo thể chế pháp lý cho việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ và nâng cao hiệu quả hoạt động của Cục.

+ Sắp xếp lại tổ chức bộ máy của Cục, rà soát, điều chuyển vị trí công tác của đội ngũ công chức, viên chức, người lao động; kiện toàn thêm một số lãnh đạo chủ chốt của các phòng và tương đương; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để kiện toàn một bước lãnh đạo Cục và tổ chức Cục.

+ Xây dựng luận chứng kinh tế - kỹ thuật và dự toán kinh phí xây dựng trụ sở làm việc của Cục Trợ giúp pháp lý khi được Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội phê duyệt cấp đất xây dựng trụ sở cho Cục.

- Từ Quý II năm 2010 đến Quý III năm 2010:

+ Kiện toàn một bước đội ngũ công chức, viên chức, người lao động, tổ chức tuyển dụng để bổ sung đủ số lượng biên chế đã giao cho Cục trong năm 2009 và năm 2010; kịp thời luân chuyển, điều động công chức, viên chức có năng lực trong nội bộ các đơn vị trực thuộc Cục cần ưu tiên kiện toàn;

+ Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và thực hiện giải pháp tổ chức công việc trong lãnh đạo, các đơn vị thuộc Cục; thực hiện trao đổi chuyên gia với một số quốc gia và thực tập tại một số tổ chức quốc tế về trợ giúp pháp lý;

+ Tăng cường năng lực hoạt động của Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam; đề xuất và cấp trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác của Cục; tiếp tục thực hiện giải pháp về tăng cường năng lực tổ chức công việc hiệu quả và khoa học trong lãnh đạo Cục và các đơn vị trực thuộc Cục;

+ Lập dự án xây dựng trụ sở làm việc của Cục theo quy định của pháp luật.

Trong các năm tiếp theo, căn cứ vào yêu cầu công việc và nhiệm vụ được giao bổ sung cho Cục, tiếp tục thực hiện việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ theo lộ trình đã đề ra, bảo đảm để Cục có đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ.

3. Kinh phí thực hiện

a) Vụ Kế hoạch - Tài chính bảo đảm kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước phục vụ cho việc đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức; lập dự toán kinh phí xây dựng trụ sở làm việc của Cục sau khi được cấp đất xây dựng, kinh phí mua sắm tài sản, ứng dụng công nghệ thông tin và các khoản kinh phí khác theo quy định của pháp luật phục vụ cho việc thực hiện Đề án.

b) Vụ Hợp tác quốc tế chủ trì, phối hợp với Cục trong vận động, điều phối các nguồn tài trợ quốc tế để hỗ trợ kỹ thuật cho hoạt động của Cục; tổ chức các đoàn khảo sát đến một số nước để học hỏi kinh nghiệm về công tác quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý.

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.

Điều 3. Cục trưởng Cục Trợ giúp pháp lý, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Chánh Văn phòng Bộ và Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.

 

 

Nơi nhận:
- Như Điều 3;
- Các Thứ trưởng (để biết);
- Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp;
- Lưu: VT, Cục TGPL (15b).

BỘ TRƯỞNG




Hà Hùng Cường

 

ĐỀ ÁN

KIỆN TOÀN TỔ CHỨC BỘ MÁY, CÁN BỘ, CƠ SỞ VẬT CHẤT VÀ TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC CỦA CỤC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ (GIAI ĐOẠN 2010 - 2015, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN 2020 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030)

Phần I

SỰ CẦN THIẾT VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐỂ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

1. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Cục Trợ giúp pháp lý

Cục Trợ giúp pháp lý (sau đây gọi tắt là Cục) là đơn vị trực thuộc Bộ Tư pháp được thành lập theo Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách. Cục có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác trợ giúp pháp lý trong phạm vi cả nước; thực hiện quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật. Nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục được quy định tại Quyết định số 1989/QĐ-BTP ngày 17/8/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Trợ giúp pháp lý.

a) Thực trạng tổ chức bộ máy, biên chế của Cục

+ Về tổ chức bộ máy

Khi mới thành lập, theo Quy chế tổ chức và hoạt động của Cục Trợ giúp pháp lý (ban hành kèm theo Quyết định số 458/1998/QĐ-BTP ngày 03/6/1998 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp), Cục có 01 Phó Cục trưởng phụ trách và 04 đơn vị: Phòng Quản lý và Bồi dưỡng nghiệp vụ, Phòng Hành chính - Tổng hợp, Phòng Kế toán, Phòng Trợ giúp pháp lý. Do có sự điều chỉnh, bổ sung về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn từ khi thành lập đến nay nên trong cơ cấu tổ chức của Cục có những điều chỉnh cơ bản, ngoài các đơn vị đã được thành lập, Cục được thành lập các đơn vị mới như: Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam (Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ); 02 Chi nhánh (tại Thái Nguyên và thành phố Hồ Chí Minh); Đặc san Trợ giúp pháp lý (đã đề nghị nâng cấp thành Tạp chí Trợ giúp pháp lý năm 2006). Trong khuôn khổ các hoạt động hợp tác quốc tế, đặc biệt là Dự án hỗ trợ hệ thống trợ giúp pháp lý ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2009, được sự cho phép của Bộ trưởng và căn cứ vào phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, Cục đã thành lập và đưa vào hoạt động Trang thông tin điện tử Trợ giúp pháp lý Việt Nam và 06 Văn phòng Trợ giúp pháp lý cho phụ nữ, trong đó Cục trực tiếp quản lý 03 Văn phòng tại Hà Nội, Khánh Hoà, thành phố Hồ Chí Minh; 03 Văn phòng giao cho Hội Liên hiệp phụ nữ các tỉnh quản lý trực tiếp (Hà Tây cũ, Thái Bình, Bắc Giang) (Xem Phụ lục 1).

Quán triệt chủ trương tinh gọn đầu mối để tập trung nguồn lực và phù hợp với định hướng kiện toàn chung các đơn vị thuộc Bộ có tính đến khả năng đáp ứng nguồn lực cán bộ và cân đối chung với các đơn vị thuộc Bộ, ngày 17/8/2009 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 1989/QĐ-BTP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục. Theo đó Cục có 01 Cục trưởng, 03 Phó Cục trưởng và 06 đơn vị trực thuộc là Văn phòng Cục; Phòng Quản lý nghiệp vụ; Phòng Quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; Phòng Tài chính - Kế toán; Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam; Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý. Nhiệm vụ của Đặc san Trợ giúp pháp lý được chuyển về Phòng Quản lý nghiệp vụ (mỗi năm phát hành 02 số chuyên đề và 01 số cho dự án); Trang thông tin điện tử Trợ giúp pháp lý Việt Nam được đưa về Văn phòng Cục để quản lý, khai thác và sử dụng; Chi nhánh tại tỉnh Thái Nguyên và thành phố Hồ Chí Minh được giải thể, nhiệm vụ của Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh do Cơ quan đại diện của Bộ đảm trách. Đối với các Văn phòng Trợ giúp pháp lý cho phụ nữ và các đơn vị khác hiện do Cục quản lý và hoạt động trong khuôn khổ các dự án hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý sẽ tiếp tục hoạt động trong khuôn khổ các hoạt động và cam kết của các dự án đó.

+ Về biên chế:

Khi mới thành lập, Cục được giao 06 biên chế. Từ năm 2007 đến nay, Cục được Bộ trưởng giao chỉ tiêu 37 biên chế. Do Bộ thực hiện luân chuyển cán bộ và một số công chức xin chuyển công tác nên hiện Cục còn 29 công chức (02 biên chế của Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh nằm trong biên chế của cơ quan đại diện Bộ Tư pháp). Về công chức lãnh đạo, Cục có 12 người (04 lãnh đạo Cục; 03 Trưởng phòng, 05 Phó Trưởng phòng); về giới tính Cục có 13 nam, 16 nữ; về độ tuổi có 3 công chức trên 50 tuổi; 3 công chức ở độ tuổi từ 40 đến 50; 19 công chức trong độ tuổi 30 đến 40 và 4 công chức có độ tuổi dưới 30. Về thời gian làm công tác pháp luật, Cục có 4 người có trên 20 năm; 10 người có từ 10 năm đến 20 năm; 11 người có từ 5 đến 10 năm và 4 người có 5 năm.

Về ngạch công chức Cục có: 01 chuyên viên cao cấp, 04 chuyên viên chính, 17 chuyên viên, 02 kế toán viên, 01 thủ quỹ, 02 lái xe, 01 văn thư và 01 cán bộ khác. Về trình độ chuyên môn, Cục có 02 tiến sỹ luật, 04 thạc sỹ luật, 23 Cử nhân luật, 02 Cử nhân kế toán, 04 trình độ khác (có 05 công chức có 02 bằng đại học; 01 công chức đang làm nghiên cứu sinh, 10 công chức đang học cao học luật, 01 công chức học cao học quản trị kinh doanh, 01 người đang học cử nhân luật, 02 người đang học cử nhân khác). Về trình độ chính trị, Cục có 03 cử nhân, 04 cao cấp, 18 trung cấp chính trị và 06 sơ cấp.

Để thực hiện các nhiệm vụ mới được giao theo Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành, bảo đảm thực hiện có chất lượng, hiệu quả các công việc được Bộ trưởng giao trong điều kiện mới, khắc phục tình trạng thiếu biên chế do việc tuyển dụng của Bộ để bổ sung cho các đơn vị còn nhiều khó khăn nên Cục đã ký hợp đồng lao động với 23 người (gồm 7 nam, 16 nữ, trong đó có 19 Cử nhân luật, 02 cử nhân kế toán và 02 cán bộ có trình độ khác và phần lớn có dưới 5 năm làm công tác pháp luật) để bổ sung cho các đơn vị thuộc Cục.

Ngoài ra, trong khuôn khổ một số dự án hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (Công văn số 1850/TTg-QHQT ngày 17/01/2005), Cục được phép ký hợp đồng lao động với 05 cán bộ thực hiện các hoạt động của dự án và được giao quản lý 06 Văn phòng trợ giúp pháp lý cho phụ nữ theo dự án hỗ trợ hệ thống trợ giúp pháp lý (02 Văn phòng ở Hà Nội và Hà Tây cũ, 04 ở: Bắc Giang, Thái Bình, Khánh Hoà và thành phố Hồ Chí Minh), với tổng số 33 cán bộ có trình độ Cử nhân luật và 06 cán bộ tài chính, kế toán (Xem phụ lục 2).

b) Về hoạt động:

Từ khi thành lập đến nay, Cục đã làm tốt chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý trong phạm vi cả nước và trực tiếp thực hiện trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng chính sách (nhiệm vụ này Cục không còn thực hiện sau khi Luật Trợ giúp pháp lý có hiệu lực pháp luật trừ các Văn phòng Trợ giúp pháp lý cho phụ nữ trực thuộc Cục tiếp tục thực hiện theo cam kết của dự án).

- Trong công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp lý, Cục đã tham mưu, giúp Bộ trưởng ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành gần 50 văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm: 01 Luật, 02 Nghị định, 03 Quyết định, 02 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; 08 Thông tư liên tịch và gần 30 Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng. Cục còn tham gia xây dựng nhiều dự án luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định do các đơn vị trong Bộ chủ trì soạn thảo và các văn bản khác do các Bộ, ngành xây dựng hoặc có liên quan đến trợ giúp pháp lý và gần 10 văn bản nội bộ (Xem Phụ lục 3).

- Trong công tác xây dựng mạng lưới, phát triển nguồn nhân lực làm công tác trợ giúp pháp lý trong toàn quốc, Cục đã làm tốt công tác hướng dẫn, kiện toàn tổ chức bộ máy, phát triển mạng lưới tổ chức và đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý. Từ chỗ chỉ có 02 Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước trực thuộc Sở Tư pháp (sau đây gọi là Trung tâm) thành lập thí điểm tại Cần Thơ và Hà Tây (năm 1996), đến nay, toàn quốc đã có 63 Trung tâm và trên 120 Chi nhánh với 729 viên chức (201 Trợ giúp viên pháp lý trên 286 người đã được cấp chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ, đã tổ chức bồi dưỡng khoá IV/2009 với 92 người chuẩn bị chấm bài và cấp chứng chỉ); 7.988 cộng tác viên (trong đó có 875 luật sư; 1.661 ở cấp tỉnh, 2.942 ở cấp huyện và 2.655 ở cấp xã). Các Trung tâm đã thành lập được 151 Tổ Cộng tác viên, 3.451 Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý và 715 Điểm trợ giúp pháp lý và huy động được 141/1500 tổ chức hành nghề luật sư, 47/76 Trung tâm tư vấn pháp luật đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý.

- Trong thực hiện trợ giúp pháp lý, tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về trợ giúp pháp lý: qua Trung tâm trợ giúp pháp lý, các Chi nhánh của Cục và Văn phòng trợ giúp pháp lý cho phụ nữ, Cục đã thực hiện được trên 20.000 vụ việc trợ giúp pháp lý phức tạp do các Trung tâm ở địa phương chuyển lên do có khó khăn, vướng mắc không thực hiện được hoặc do cơ quan thông tin đại chúng hoặc người được trợ giúp pháp lý trực tiếp yêu cầu và thực hiện nhiều kiến nghị đề xuất việc sửa đổi, bổ sung thay thế các văn bản pháp luật.

Cục đã tích cực tham gia phổ biến, truyền thông về trợ giúp pháp lý và các quy định pháp luật có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân qua việc in ấn và phát hành miễn phí Đặc san trợ giúp pháp lý, trên 6 triệu tờ gấp, cẩm nang, tài liệu khác; chủ động xây dựng phim tài liệu, phóng sự về trợ giúp pháp lý nhân tổng kết 05 năm và 10 năm để đánh giá theo giai đoạn về các mô hình hoạt động có hiệu quả. Vào dịp tổng kết 10 năm công tác trợ giúp pháp lý ở Việt Nam, Cục đã khai trương Trang thông tin điện tử (Website Trợ giúp pháp lý Việt Nam) bằng tiếng Việt và tiếng Anh, duy trì cơ chế thông tin cập nhật liên tục trong ngày đến người làm công tác trợ giúp pháp lý và độc giả trong cả nước, tổ chức biên soạn nhiều sách, tài liệu pháp luật về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý trong phạm vi toàn quốc và phát hành 02 cuốn bằng Tiếng Anh.

- Trong công tác nghiên cứu khoa học, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ trợ giúp pháp lý: Cục đã chủ trì, phối hợp với Viện Khoa học pháp lý nghiên cứu, bảo vệ thành công 02 đề tài khoa học cấp Bộ và hàng trăm chuyên đề, đề tài cấp Cục để phục vụ công tác chuyên môn của đơn vị. Cán bộ, công chức của Cục còn tham gia nhiều đề tài khoa học cấp nhà nước và cấp Bộ do Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và các đơn vị trong Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện, tích cực viết bài trên Tạp chí khoa học chuyên ngành luật (Nghiên cứu lập pháp, Dân chủ pháp luật, Nhà nước và Pháp luật…). Hàng năm, Cục đều tổ chức các lớp tập huấn toàn quốc, nhiều tập huấn chuyên đề (kỹ năng trợ giúp pháp lý cho trẻ em, cho người bị nhiễm HIV, nạn nhân của tội phạm buôn bán phụ nữ, bạo lực gia đình...) và hàng chục đợt hội thảo, tọa đàm về trợ giúp pháp lý, nhất là các lĩnh vực liên quan đến người được trợ giúp pháp lý. Sau khi Luật Trợ giúp pháp lý có hiệu lực, Cục đã tổ chức triển khai thực hiện chức năng, nhiệm vụ mới được giao là bồi dưỡng nghiệp vụ và cấp Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ cho nguồn bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý với 05 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ được mở và trên 300 người được cấp chứng chỉ (trong năm 2009, Cục đã mở 01 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho 92 học viên) (Phụ lục 4).

- Trong việc xây dựng chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo: Cục đã chú trọng việc xác định chính sách trợ giúp pháp lý là một biện pháp của các chính sách xã hội và làm kiến nghị để Chính phủ ban hành chính sách trợ giúp pháp lý vào Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo. Chính sách trợ giúp pháp lý cũng được Cục đề xuất tiếp tục là một trong 11 chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước về việc nâng cao dân trí pháp lý, giúp người nghèo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, vươn lên thoát nghèo. Đặc biệt, chính sách trợ giúp pháp lý đã được ghi nhận nhiều hình thức trợ giúp pháp lý tại cơ sở: tổ chức và sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, trợ giúp pháp lý lưu động, truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và tập huấn tăng cường năng lực Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo (Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007), Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 – 2010 (Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày 10/01/2006); Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo (Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 28/12/2008), trong đó trợ giúp pháp lý được ghi vốn là 196 tỷ đồng;

- Trong hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý, Cục đã thiết lập và duy trì mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với 08 tổ chức quốc tế thông qua các Dự án ở các mức độ khác nhau trong việc hỗ trợ phát triển hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam như: Tổ chức về hợp tác và phát triển quốc tế Hà Lan (Novib), Tổ chức phát triển quốc tế Thụy Điển (Sida), Tổ chức hợp tác và phát triển Thụy Sỹ (SDC), Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển (SCS), Viện Nhân quyền Đan Mạch (DIHR), Quỹ Châu Á (The Asia Foundation), Tổ chức phát triển quốc tế Canada - Newzeland (Cida - NZAID) và UNDP. Hiện nay, Cục đang phối hợp, tiếp tục hoàn thiện dự án giai đoạn mới để trình ký khi kết thúc dự án cũ. Cục còn cử nhiều đoàn công tác đi học tập kinh nghiệm về trợ giúp pháp lý ở các nước có hệ thống trợ giúp pháp lý phát triển trên thế giới và trong khu vực, tổ chức đón tiếp nhiều đoàn khách quốc tế đến học tập, tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng và phát triển mô hình trợ giúp pháp lý ở Việt Nam (phái đoàn của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Đan Mạch, Thuỵ Điển; Thượng nghị sĩ Thuỵ sỹ, gần 30 đại sứ Châu Âu năm 2006, 2007 và nhiều đoàn chuyên gia cao cấp khác); tổ chức thành công tại Việt Nam 06 Hội thảo quốc tế về trợ giúp pháp lý và quyền con người và tham dự nhiều hội thảo quốc tế về trợ giúp pháp lý (Xem Phụ lục 5).

c) Về cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc:

Khi mới thành lập, cơ sở vật chất của Cục còn thiếu trang thiết bị, phương tiện và nơi làm việc, kinh phí được cấp thấp, nhất là kinh phí dành cho các hoạt động nghiệp vụ. Đến nay, Cục đã hoạt động độc lập và làm việc ổn định tại trụ sở Bộ Tư pháp (với 10 phòng làm việc). Về phương tiện làm việc, Cục được Dự án hỗ trợ 02 xe ô tô, 03 xe máy và nhiều phương tiện khác (máy chủ, máy vi tính, máy phôtô...). Cục cũng đã xây dựng một Thư viện sách pháp luật với trên 6.000 đầu sách, báo, tạp chí khoa học để công chức, viên chức trong Cục tiện nghiên cứu, làm việc, giải đáp vướng mắc nghiệp vụ cho địa phương. Cục đã làm việc và đề nghị Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp đất xây dựng trụ sở làm việc riêng cho Cục và tạo điều kiện để công chức của Cục được ưu tiên mua nhà chung cư. Đến nay, Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội đã có Công văn thống nhất về chủ trương đồng ý cấp đất xây dựng trụ sở cho Cục và đề nghị Cục sớm hoàn tất các thủ tục để đầu tư xây dựng trụ sở, đồng thời cho phép 08 công chức được mua nhà chung cư theo chính sách nhà ở của thành phố.

Từ những kết quả đã đạt được trên đây, có thể khẳng định, trong công tác, Cục đã tập trung trí tuệ tập thể, đề cao trách nhiệm cá nhân để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Ban Cán sự Đảng và lãnh đạo Bộ Tư pháp giao, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đầu thực hiện công tác trợ giúp pháp lý. Công tác trợ giúp pháp lý đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp lý, phát triển mạng lưới, nâng cao chất lượng, hiệu quả vận dụng pháp luật trong giải quyết công việc của dân ở Việt Nam, nâng cao vị thế và đưa pháp luật vào cuộc sống, thu hút sự tham gia, hỗ trợ của nhiều tổ chức quốc tế, thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa và chính sách dân tộc của Đảng, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội.

Ghi nhận thành tích đã đạt được, nhiều năm liền, tập thể Cục và nhiều đơn vị thuộc Cục đã đạt danh hiệu tập thể lao động xuất sắc, nhiều cá nhân đạt danh hiệu chiến sỹ thi đua cơ sở và được Bộ trưởng tặng Bằng khen. Trong 03 năm (1999, 2000 và 2003) Cục được Bộ trưởng Bộ Tư pháp tặng Cờ thi đua ngành và 08 năm được tặng Bằng khen. Năm 2001 Cục và Cục trưởng được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen; nhiều cá nhân trong Cục được tặng Huy chương vì sự nghiệp tư pháp (05); Huy chương vì sự nghiệp nông dân (02); Huy chương vì sự nghiệp công đoàn (02) và nhiều danh hiệu thi đua khác của Công đoàn viên chức Việt Nam và Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Nhân dịp tổng kết 10 năm công tác trợ giúp pháp lý, tập thể Cục được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì, Cục trưởng được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng Ba, năm 2008, tập thể của Cục được Chính phủ tặng Cờ thi đua của Chính phủ (Xem Phụ lục 06).

2. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

a) Một số tồn tại, hạn chế:

Về tổ chức bộ máy:

- Tổ chức bộ máy của Cục chậm được củng cố, kiện toàn, thiếu quy hoạch tổng thể trong dài hạn và từng năm; lãnh đạo Cục phần lớn cao tuổi, chậm được củng cố và bổ sung nhân tố mới. Các đơn vị trực thuộc Cục được giao quá nhiều nhiệm vụ, nhiều mảng công tác nhưng lại chưa được xác định rõ về cơ cấu và bố trí đủ nhân sự tương xứng với nhiệm vụ được giao; chưa đủ cán bộ để bảo đảm chuyên môn hóa trong khi nhiều nhiệm vụ của Cục đã tương đối ổn định không thể kiêm nhiệm như: quản lý hoạt động trợ giúp pháp lý của tổ chức xã hội, hợp tác quốc tế, nghiên cứu, thông tin, thống kê..v..v..

- Trong giai đoạn từ 2002 - 2005 và từ năm 2006 đến nay, nhiều nhiệm vụ mới được giao cho Cục theo Luật Trợ giúp pháp lý, Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã vùng đặc biệt khó khăn và miền núi, Đề án quy hoạch mạng lưới Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm, Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam, cơ quan thường trực của Hội đồng phối hợp liên ngành về Trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng ở Trung ương, Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo (theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 28/12/2008); xây dựng Đề án tăng cường công tác trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc... nhưng bộ máy của Cục về cơ bản vẫn không có sự thay đổi, thậm chí còn bị thu hẹp đầu mối, chậm được bổ sung cán bộ, trong khi Cục phải chia sẻ cán bộ cho các đơn vị thuộc Bộ mới được thành lập cũng như tăng cường cán bộ cho địa phương có khó khăn. Theo Luật Trợ giúp pháp lý, Cục tuy không còn chức năng trực tiếp thực hiện trợ giúp pháp lý nhưng lại bổ sung chức năng đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý của các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý (Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý). Đây là một nhiệm vụ đòi hỏi cần có chuyên gia giỏi và chuyên sâu, am hiểu sâu sắc các lĩnh vực pháp luật (Xem Phụ lục 07).

- Do tổ chức bộ máy của các đơn vị trực thuộc Cục chậm được bổ sung cán bộ để củng cố, kiện toàn, thiếu đội ngũ lãnh đạo cấp Phòng, thiếu biên chế, lại thường xuyên có sự điều chuyển công việc để bảo đảm yêu cầu quản lý, điều hành và thực hiện các nhiệm vụ được giao theo kế hoạch nên đã không bảo đảm ổn định trong công tác (Luật Trợ giúp pháp lý đã có hiệu lực pháp luật, nhưng Phòng Quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, Trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý chưa được phê duyệt nhân sự và biên chế. Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam vẫn chưa có bộ máy làm việc và mới có tài khoản riêng). Vì vậy, Cục thường xuyên phải ký hợp đồng lao động với nhiều cử nhân luật (trung bình từ 15 - 25 người) để làm việc (do Bộ chậm thực hiện việc tuyển dụng nên nhiều hợp đồng lao động đã thi đỗ và chuyển công tác sang Bộ, ngành khác hoặc không yên tâm công tác). Vì vậy, Cục luôn ở tình trạng thường xuyên phải bổ sung hợp đồng lao động, đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn cho cán bộ mới. Từ đó dẫn đến hoạt động của một số đơn vị chưa đạt hiệu quả cao, chậm triển khai định hướng phát triển dài hạn.

Về đội ngũ cán bộ, công chức:

- Đội ngũ cán bộ, công chức của Cục hiện còn khá mỏng, ít chuyên gia đầu ngành, lãnh đạo phần lớn cao tuổi (gần như cách 1, 2 năm và đồng loạt nghỉ hưu theo tuổi quy định trong vòng 2 - 3 năm tới) nên ảnh hưởng đến quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kế cận, thiếu một số chức danh (kỹ sư tin học, cán bộ làm công tác thống kê, nghiên cứu viên). Thực trạng cán bộ đang chưa hợp lý về cơ cấu các chức danh chuyên môn, về độ tuổi, giới tính và thiếu nguồn bổ sung. Chất lượng nguồn nhân lực tuy đã được kèm cặp, tăng cường năng lực, cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, công chức do chế độ lương thấp, đời sống khó khăn (phải thuê chỗ ở) nên chưa ổn định về tư tưởng để yên tâm công tác, cống hiến nên đã phải chuyển công tác hoặc phải làm thêm không chuyên tâm nghiên cứu chuyên sâu.

- Công tác quy hoạch cán bộ tuy đã được chú trọng nhưng tính dự báo còn hạn chế, chưa theo kịp với yêu cầu của thực tiễn (có tình trạng hụt hẫng cán bộ lãnh đạo, chưa dự báo được sự biến động về tổ chức cán bộ để bổ sung kịp thời). Do quy định về độ tuổi, mức lương khống chế nên thiếu chuyên viên chính, vì vậy, khi một số cán bộ, công chức đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn hoặc có sự biến động về nhân sự (do luân chuyển hoặc xin chuyển công tác) hoặc do cán bộ nữ quá lớn (chiếm gần 2/3 tổng số cán bộ) lại đang trong độ tuổi sinh nở, nghỉ chế độ thai sản đã gây ra lúng túng nhất định trong triển khai hoạt động, làm ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết công việc cũng như tâm lý, thái độ làm việc của cán bộ, công chức khác.

Về hoạt động:

- Sự phân công công việc có lúc, có nơi còn chưa rõ ràng, chưa phân định rõ phạm vi và trách nhiệm giải quyết công việc của từng chức danh, từng vị trí công tác; lề lối làm việc còn chậm được đổi mới, chưa minh bạch về quy trình, cơ chế duyệt hoặc chỉ đạo của lãnh đạo Bộ đôi khi còn quá chậm; cơ chế phối hợp còn chưa thông thoáng giữa Cục với các đơn vị thuộc Bộ; công tác phối hợp công tác trong nội bộ Cục còn hạn chế.

- Công tác kiểm tra, theo dõi việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý và quản lý, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ mới được giao nên chưa có nhiều kinh nghiệm; công tác hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ tuy đã được quan tâm hơn nhưng mới chỉ là bước đầu, chưa thường xuyên, liên tục, thiếu tiêu chí cụ thể, thiếu chế tài xử lý vi phạm và thiếu nguồn nhân lực giỏi có khả năng đáp ứng yêu cầu triển khai thực hiện Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành trong điều kiện hiện nay.

- Công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tuy đã được chú trọng và tăng cường nhưng so với yêu cầu của nhiệm vụ vẫn chưa đáp ứng do lực lượng mỏng; một số hoạt động vẫn còn mang tính thời vụ, tập trung vào những công việc trước mắt, cần thiết nên nhiều hoạt động triển khai chưa đều, chưa đồng bộ.

- Công tác nghiên cứu khoa học và thông tin, truyền thông về trợ giúp pháp lý còn chậm được đổi mới. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động còn hạn chế, chưa theo kịp với sự phát triển của khoa học công nghệ. Công tác tổng kết thực tiễn và dự báo còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

- Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ và kỹ năng trợ giúp pháp lý còn chưa được chú trọng đúng mức, chưa có chính sách đầu tư phù hợp, chậm có kế hoạch xác định tầm nhìn trung và dài hạn nên chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

- Do thiếu cán bộ có đủ năng lực phát triển Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam nên đến nay, công tác vận động, thu hút, huy động các nguồn lực xã hội tham gia hỗ trợ nguồn kinh phí cho Quỹ còn hạn chế, thiếu thường xuyên, liên tục, việc triển khai huy động còn gặp nhiều khó khăn, thậm chí chưa huy động được.

- Công tác hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý tuy đã có sự tập trung nhưng do thiếu cán bộ nên phải từ chối một số đối tác hoặc rút hoạt động. Nhiều hội thảo quốc tế về trợ giúp pháp lý mời Cục tham dự nhưng do không có thời gian, thiếu cán bộ có trình độ ngoại ngữ nên phải từ chối. Việc hoạch định chính sách và phối hợp với các tổ chức trợ giúp pháp lý trong khu vực cho các đối tượng mới làm được rất ít so với yêu cầu (năm 2009 làm được 02 trường hợp người lao động ở Malaixia và hỗ trợ 02 trường hợp bị buôn bán làm thủ tục về nước).

Về môi trường làm việc và cơ sở vật chất, kinh phí bảo đảm hoạt động:

- Môi trường làm việc của Cục tuy đã được cải thiện về cơ chế tự chủ, tự giác đã phát huy dân chủ, giải phóng mọi tiềm năng, sức sáng tạo của con người, khen thưởng, sáng kiến, tăng cường tính đoàn kết, hỗ trợ, học tập, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Tuy vậy, có lúc, có nơi vẫn chưa phát huy hết vai trò, năng lực của các chức danh, vị trí; cơ chế phối hợp, thông tin chưa được chú trọng đúng mức.

- Cục vẫn chưa có trụ sở riêng, phòng làm việc còn chật hẹp, ảnh hưởng tới sức khỏe cán bộ, chưa theo đúng định mức tiêu chuẩn, bảo đảm lưu trữ tài liệu cũng như triển khai các công việc chung của đơn vị. Một số trang thiết bị làm việc còn lạc hậu, chưa theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ. Tình trạng thiếu máy móc, phương tiện làm việc vẫn chưa được khắc phục triệt để vì không có nơi đặt trang thiết bị. Kinh phí bảo đảm cho hoạt động của Cục vẫn chưa đáp ứng được so với yêu cầu và tính chất công việc ngày càng cao của Cục (hiện Cục có 10 phòng làm việc tại Bộ cho 51 cán bộ, có phòng phải ngồi 9 người).

b) Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế:

Nguyên nhân chủ quan:

- Nhận thức về vị trí, vai trò của công tác trợ giúp pháp lý, đặc biệt là công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý nói chung và việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ của Cục nói riêng chưa được chú trọng, thiếu kịp thời, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ. Do thiếu cán bộ có trình độ chuyên môn cao nên năng lực tham mưu giúp Bộ trưởng trong việc hoạch định các quan điểm lý luận, chủ trương, định hướng phát triển ngành và trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa bảo đảm tính bền vững; cơ chế, chính sách bảo đảm cho hoạt động của Cục còn thiếu đồng bộ, thiếu tính đột phá.

- Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Cán sự Đảng, lãnh đạo Bộ Tư pháp trong 10 năm qua có lúc, có thời điểm còn thiếu sát sao và chưa thật kịp thời, chưa được quan tâm đúng mức, nhất là trong quá trình Cục triển khai các hoạt động cũng như trong công tác tổ chức cán bộ. Việc kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo Cục, lãnh đạo Phòng chậm được thực hiện. Việc phân cấp giữa lãnh đạo Bộ với Thủ trưởng đơn vị còn chậm, chưa xác định rõ cơ chế đơn vị cấp Cục có tư cách pháp nhân về chuyên ngành nên chưa tạo điều kiện thuận lợi và sự chủ động cho Cục trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.

- Công tác quản lý, điều hành của lãnh đạo Cục chưa đồng đều, có đồng chí lãnh đạo chưa tập trung trong giải quyết công việc chung, còn thụ động, ỷ lại vào Cục trưởng, chậm trễ và không quyết đoán khi có các vấn đề phát sinh. Việc kiểm tra đôn đốc giám sát, quản lý kỷ luật lao động và thực hiện quy chế tổ chức và hoạt động của Cục còn thiếu thường xuyên và chưa kiên quyết, một số chính sách, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ còn mang tính bình quân, chưa có tính đột phá vì bị mâu thuẫn giữa vị trí công tác và kết quả làm việc.

- Công tác tham mưu, đề xuất của một số đơn vị, cán bộ, công chức còn chậm được đổi mới, chưa chủ động, sáng tạo, thiếu linh hoạt.

Nguyên nhân khách quan:

- Trong một thời gian dài, công tác tổ chức, cán bộ của Cục chậm được đổi mới củng cố, kiện toàn, nhất là trong điều kiện triển khai thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành. Do áp lực công việc và môi trường làm việc hạn chế nên có tình trạng một số cán bộ, công chức bị áp lực quá lớn đã xin chuyển công tác (từ năm 2005 đến nay đã có 06 công chức và 15 cán bộ hợp đồng xin chuyển công tác).

- Mặc dù Cục đã cố gắng tăng thu nhập, mua bảo hiểm lao động cho cán bộ hợp đồng nhưng vẫn thiếu nguồn cán bộ để tuyển dụng về làm việc cho Cục. Cục không thể chủ động trong việc tuyển dụng cán bộ, công chức trong khi đó công tác tuyển dụng công chức của Bộ lại không thường xuyên.

- Chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức và người lao động còn chưa thật hợp lý nên chưa tạo được động lực phấn đấu, cống hiến. Điều kiện kinh tế của một bộ phận cán bộ còn khó khăn (nhất là cán bộ trẻ phải thuê nơi ở, chưa có phương tiện đi lại) cũng tác động lớn đến quá trình làm việc, công tác.

- Sự không ổn định về trụ sở làm việc của Cục không chỉ tốn kém về kinh phí mà còn thiếu ổn định trong công tác tổ chức và triển khai các hoạt động.

Để kiện toàn, củng cố một bước về tổ chức bộ máy, cán bộ của Cục, triển khai thực hiện Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, ngày 17/8/2009 của Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 1989/QĐ-BTP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục. Tuy nhiên, đến nay Cục vẫn chưa được bổ sung chính thức về biên chế. Việc chậm triển khai thi tuyển gây khó khăn trong hoạch định và quy hoạch cán bộ ở tầm nhìn trung và dài hạn cho các giai đoạn từ 2010 đến 2015, định hướng đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

Thực tiễn đòi hỏi phải sớm có những giải pháp toàn diện, có tính hệ thống, đồng bộ và triệt để, vừa có tính cấp bách, vừa lâu dài bảo đảm sự phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong giai đoạn trước mắt và lâu dài để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác để Cục có đủ năng lực và điều kiện thực hiện tốt những nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

3. Dự báo sự điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cục giai đoạn 2010 - 2015, định hướng đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030

Trước yêu cầu tăng tính phục vụ của Nhà nước đối với công dân, tăng cường vai trò của pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, theo định hướng xây dựng và phát triển ngành tư pháp giai đoạn 2010 – 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đặt ra yêu cầu sau đây đối với công tác trợ giúp pháp lý:

Một là, công tác trợ giúp pháp lý phải đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng, bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của người nghèo, người có công với cách mạng và người có hoàn cảnh đặc biệt, chú trọng nâng cao chất lượng để trợ giúp pháp lý thật sự là địa chỉ tin cậy cho người dân tiếp cận, hạn chế bồi thường do trợ giúp pháp lý sai, gây thiệt hại cho người được trợ giúp pháp lý.

Hai là, yêu cầu triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành, gắn việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trợ giúp pháp lý với quá trình tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống. Tăng cường hoạt động tham gia tố tụng để bảo đảm tranh tụng cho 95% đến 98% người được trợ giúp pháp lý có nhu cầu tại Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng.

Ba là, yêu cầu thực hiện có hiệu quả chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện an sinh xã hội (Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày 10/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010; Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010; Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 28/12/2008 về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo); bảo đảm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ mà Thủ tướng Chính phủ giao theo Chỉ thị số 35/2006/CT-TTg ngày 13/10/2006 về việc triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý và Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày 23/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án quy hoạch mạng lưới Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước và Chi nhánh giai đoạn 2008 - 2010, định hướng đến năm 2015.

Bốn là, yêu cầu tăng cường công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý trong điều kiện hoạt động trợ giúp pháp lý ngày càng phát triển, tính xã hội hóa về trợ giúp pháp lý ngày càng cao và tinh thần phân cấp mạnh cho địa phương, với việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của bộ máy nhà nước, hiện đại hóa công sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc.

Năm là, yêu cầu tăng cường hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý với việc thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế liên quan đến trợ giúp pháp lý và gia tăng sự hợp tác, giao lưu học tập, chia sẻ kinh nghiệm, phối hợp giải quyết vụ việc trợ giúp pháp lý giữa các nước, các tổ chức quốc tế.

Với các yêu cầu trên, dự báo từ nay đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, công tác trợ giúp pháp lý ở Việt Nam sẽ phát triển theo xu hướng cơ bản như sau:

+ Công tác trợ giúp pháp lý tiếp tục được xác định là bộ phận quan trọng trong tổng thể các chính sách xoá đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, chính sách dân tộc, chính sách bảo đảm quyền con người, quyền công dân của Đảng và Nhà nước để góp phần thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo của Liên hiệp quốc, gắn với bảo đảm quyền con người và chế độ bảo hộ pháp luật đối với công dân.

+ Công tác trợ giúp pháp lý phải được củng cố, kiện toàn và phát triển về chất, thể hiện trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện, hướng dẫn việc thực hiện và quản lý chất lượng dịch vụ và hỗ trợ, tạo điều kiện để các tổ chức đoàn thể xã hội tham gia.

+ Nhu cầu trợ giúp pháp lý sẽ ngày càng tăng, liên quan đến hầu hết các lĩnh vực pháp luật của đời sống xã hội (mặc dù số lượng người được trợ giúp pháp lý giảm do số lượng người nghèo giảm, người có công với cách mạng không còn nhiều và không tăng thêm trong thời gian tới). Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đề cao vai trò của pháp luật, người dân ngày càng biết nhiều đến công tác trợ giúp pháp lý và đã hình thành thói quen sử dụng trợ giúp pháp lý mỗi khi có vướng mắc nên dự kiến số lượng vụ việc, người được trợ giúp pháp lý sẽ ngày càng tăng, công tác khiếu nại, tố cáo về trợ giúp pháp lý dự báo cũng sẽ gia tăng và phức tạp khi mà trình độ dân trí pháp lý của người dân được nâng lên.

+ Mạng lưới tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý sẽ ngày càng phát triển, cả về quy mô tổ chức và phạm vi hoạt động; không chỉ có các Trung tâm đặt tại cấp tỉnh (trong Trung tâm có các phòng chuyên môn nghiệp vụ, với số lượng viên chức lớn hơn rất nhiều so với trước đây) và các Chi nhánh đặt tại cấp huyện mà còn có cả sự tham gia ngày càng đông đảo của các Văn phòng luật sư, Công ty luật, Trung tâm tư vấn pháp luật, thậm chí cả các tổ chức đoàn thể xã hội và các cá nhân theo xu hướng xã hội hoá. Dự báo sẽ ngày càng có nhiều các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia trợ giúp pháp lý hoặc có đóng góp, hỗ trợ công tác trợ giúp pháp lý và ngày càng nhiều tổ chức mang tính xã hội của những người làm công tác trợ giúp pháp lý sẽ ra đời trong điều kiện mở rộng phạm vi hoạt động của xã hội dân sự.

+ Đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý sẽ ngày càng đông đảo, trong điều kiện mở rộng phạm vi các hoạt động trợ giúp pháp lý, các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý không chỉ tư vấn pháp luật mà còn tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng và thực hiện các hình thức trợ giúp pháp lý khác với yêu cầu về chất lượng ngày càng cao, tính chất ngày càng phức tạp.

+ Dự kiến trong thời gian tới, công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan dân cử, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức đoàn thể và nhân dân đối với công tác trợ giúp pháp lý sẽ ngày càng được chú trọng, tăng cường với yêu cầu cao hơn. Công tác phối hợp giữa các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý với các cơ quan, tổ chức, cá nhân sẽ ngày càng phát triển (nhất là với các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan thông tin, truyền thông).

+ Sau năm 2010, với cam kết của Chính phủ, dự báo chính sách hỗ trợ, tài trợ (nguồn vốn ODA) của các nước phát triển và các tổ chức quốc tế cho Việt Nam sẽ bị cắt giảm trên tất cả các lĩnh vực (trong đó có trợ giúp pháp lý), đòi hỏi phải chú trọng đẩy mạnh xã hội hoá, tiếp tục huy động, khuyến khích và tranh thủ các nguồn lực hỗ trợ từ các doanh nghiệp, các nhà tài trợ, hảo tâm cả trong và ngoài nước cho Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam, đồng thời ngân sách nhà nước cũng phải tăng nguồn kinh phí cho hoạt động này để có đủ các nguồn lực tài chính bảo đảm tính bền vững cho công tác trợ giúp pháp lý.

+ Trong điều kiện hội nhập, sự giao lưu, học hỏi kinh nghiệm và thiết lập các mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế về trợ giúp pháp lý, sẽ đặt ra và giải quyết các vấn đề về trợ giúp pháp lý cho công dân Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam. Ngoài ra, cần phải tiếp tục mở rộng giao lưu, học tập, chia sẻ kinh nghiệm của các nước có hệ thống trợ giúp pháp lý phát triển và đưa trợ giúp pháp lý ở Việt Nam tiến dần với chuẩn mực quốc tế, trong điều kiện thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Với định hướng phát triển chủ yếu nêu trên, đặt ra yêu cầu sau đây đối với sự điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục:

Một là, tiếp tục củng cố, tăng cường chức năng quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý nhằm định hướng phát triển công tác trợ giúp pháp lý theo đúng chủ trương, định hướng của Đảng và pháp luật của nhà nước.

Hai là, tiếp tục tăng cường năng lực quản lý, điều hành của Cục để có đủ khả năng tham mưu, kịp thời thể chế hoá định hướng, quan điểm của Đảng để hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp lý để củng cố, kiện toàn và phát triển mạng lưới tổ chức, xây dựng đội ngũ người thực hiện, dự liệu đủ các nguồn lực để thực hiện tốt chính sách trợ giúp pháp lý trong toàn quốc và ở từng địa phương.

Ba là, nâng cao vai trò, trách nhiệm của Cục trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng trợ giúp pháp lý cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý trong toàn quốc, bảo đảm đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp, nhất là việc phát triển đội ngũ trợ giúp viên pháp lý tại các Trung tâm và Chi nhánh.

Bốn là, tăng cường và nâng cao vai trò của Cục trong việc bảo đảm chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý; tổng kết lý luận và thực tiễn để có định hướng phát triển mạng lưới trợ giúp pháp lý đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, bảo đảm chất lượng vụ việc để tránh lợi dụng hoạt động trợ giúp pháp lý để trục lợi, làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội.

Năm là, trong điều kiện Nhà nước khuyến khích phát triển các loại hình tổ chức Hội nghề nghiệp và thực hiện các giải pháp thu hút các nguồn lực xã hội, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong nước và ngoài nước, đòi hỏi cần tăng cường năng lực của Cục trong việc tham mưu, giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý đối với các tổ chức này theo hướng hỗ trợ, tạo khuôn khổ pháp lý thông thoáng, giải phóng mọi tiềm năng, thu hút mọi nguồn lực hiện có để họ được tham gia đóng góp, hỗ trợ công tác trợ giúp pháp lý.

Sáu là, tiếp tục tăng cường năng lực, đổi mới hoạt động của Cục để xác định đúng đắn vai trò, trách nhiệm của Cục trong việc tìm kiếm, huy động các nguồn hỗ trợ, tài trợ cho hoạt động trợ giúp pháp lý cũng như sử dụng đúng đắn, có hiệu quả các nguồn hỗ trợ để tận dụng tối đa nguồn lực.

Xu hướng phát triển và các yêu cầu nêu trên đặt ra những thách thức rất lớn đối với Cục đòi hỏi phải có những chuyển biến tích cực, đột phá, thay đổi một cách căn bản về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức để phục vụ tốt hơn cho sự phát triển của công tác trợ giúp pháp lý. Yêu cầu đó đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới, tăng cường cả về tổ chức bộ máy đến triển khai các hoạt động của Cục để hoàn thành các nhiệm vụ được giao.

Vì vậy, việc xây dựng Đề án kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, cơ sở vật chất và tăng cường năng lực của Cục Trợ giúp pháp lý giai đoạn 2010 – 2015, định hướng đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 để trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành là một đòi hỏi mang tính khách quan, cấp bách và cần phải sớm được tổ chức triển khai thực hiện.

II. CƠ SỞ PHÁP LÝ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

1. Cơ sở pháp lý để xây dựng Đề án

Điều 46 Luật Trợ giúp pháp lý quy định "nội dung quản lý nhà nước về Trợ giúp pháp lý", tại Điều 47 của Luật quy định về cơ quan quản lý nhà nước về Trợ giúp pháp lý "Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về Trợ giúp pháp lý; Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về Trợ giúp pháp lý...”.

- Tại khoản 14 Điều 2 Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp quy định nhiệm vụ của Bộ Tư pháp trong công tác quản lý nhà nước về Trợ giúp pháp lý và tại khoản 15 Điều 3 quy định Cục Trợ giúp pháp lý là đơn vị giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý: "a) Hướng dẫn, kiểm tra về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý; quy định các biểu mẫu, giấy tờ về trợ giúp pháp lý; b) Xây dựng và tổ chức thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển hoạt động trợ giúp pháp lý; c) Xây dựng và quản lý đối với hoạt động của Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam”.

- Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý quy định trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong quản lý nhà nước về Trợ giúp pháp lý, tại khoản 2 Điều 44 quy định “Cục Trợ giúp pháp lý thuộc Bộ Tư pháp là cơ quan quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về Trợ giúp pháp lý, có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên”.

- Tại điểm a khoản 1 Mục II Chỉ thị số 35/2006/CT-TTg ngày 13/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý (Mục kiện toàn tổ chức, bộ máy trực tiếp làm công tác Trợ giúp pháp lý) quy định về trách nhiệm của Bộ Tư pháp: "Kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, cơ sở vật chất, tăng cường năng lực của Cục Trợ giúp pháp lý để Cục làm tốt chức năng tham mưu, hướng dẫn, thông tin, bồi dưỡng nghiệp vụ chỉ đạo phát triển Trợ giúp viên pháp lý và Cộng tác viên Trợ giúp pháp lý trong toàn quốc; kiểm tra chất lượng vụ việc Trợ giúp pháp lý và giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về Trợ giúp pháp lý”.

- Tại điểm 1.2 khoản 1 Mục II Kế hoạch của ngành Tư pháp triển khai thực hiện Chỉ thị số 35/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ (ban hành kèm theo Quyết định số 08/2006/QĐ-Bộ Tư pháp ngày 15/11/2006 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp) quy định "Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ chủ trì, phối hợp với Cục trưởng Cục Trợ giúp pháp lý trong Quý IV năm 2006, chậm nhất là Quý I năm 2007 trình Bộ trưởng về việc xác định cơ cấu tổ chức của Cục Trợ giúp pháp lý và các đơn vị thuộc Cục; xác định số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức của Cục và phương hướng cụ thể về việc quy hoạch, bổ sung biên chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chc nhằm tăng cường năng lực của Cục, bảo đảm phù hợp với yêu cầu mới về chuyên môn và khối lượng công việc của Cục và các đơn vị thuộc Cục để thực hiện hiệu quả Luật Trợ giúp pháp lý".

Với các quy định trên đây đã đủ cơ sở pháp lý để tiến hành xây dựng Đề án kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, cơ sở vật chất và tăng cường năng lực của Cục Trợ giúp pháp lý giai đoạn 2010 – 2015, định hướng đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

2. Các nhiệm vụ, quyền hạn mới được bổ sung cho Cục làm cơ sở cho việc xác định tổ chức bộ máy của Cục Trợ giúp pháp lý

- Tại khoản 1 Mục V, Đề án “Quy hoạch mạng lưới Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008 - 2010, định hướng đến năm 2015” (ban hành kèm theo Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày 23/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ) quy định nhiệm vụ của Bộ Tư pháp (Cục chịu trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn này):

a) Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Uỷ ban dân tộc, Văn phòng Chính phủ thành lập Tổ chuyên gia liên ngành xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Đề án; hướng dẫn, đôn đốc kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện Đề án ở các địa phương và định kỳ hàng năm tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ;

b) Khảo sát nhu cầu bồi dưỡng nghiệp vụ dài hạn và thường xuyên, xây dựng chương trình, giáo trình, tài liệu và đội ngũ làm công tác bồi dưỡng nghiệp vụ Trợ giúp pháp lý; xây dựng kế hoạch và tổ chức các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ Trợ giúp pháp lý theo lộ trình đề ra; có kế hoạch bồi dưỡng lại hàng năm và thường xuyên cho đội ngũ người thực hiện Trợ giúp pháp lý;

c) Chủ trì, phối hợp với các Bộ có liên quan kiểm tra việc triển khai thực hiện Đề án ở các địa phương; xác lập cơ chế kiểm tra, đánh giá chất lượng vụ việc Trợ giúp pháp lý; kiểm tra nguồn lực bố trí cho hoạt động Trợ giúp pháp lý; thực hiện việc khen thưởng, xử lý vi phạm và kiến nghị các giải pháp cụ thể.

- Theo văn kiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010; Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 28/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo và các Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày 10/01/2006 phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 – 2010; Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010; Quyết định số 112/2007/QĐ-TTg ngày 20/7/2007 về chính sách hỗ trợ các dịch vụ cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật thuộc Chương trình 135 giai đoạn II, Chỉ thị số 04/2008/CT-TTg ngày 25/01/2008 về việc tăng cường chỉ đạo thực hiện các Chương trình giảm nghèo thì Bộ Tư pháp là cơ quan quản lý, chịu trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo trong các chương trình giảm nghèo. Hiện nay, Cục đang được giao là đầu mối trong việc giúp Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ này.

Theo khoản 1 Điều 2 Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam, Bộ Tư pháp thực hiện quản lý đối với hoạt động của Quỹ. Cục giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước đối với Quỹ (Điều 1 Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 08/2008/QĐ-Bộ Tư pháp ngày 08/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp). Tại khoản 1 Điều 2 của Quyết định trên quy định Quỹ là tổ chức tài chính nhà nước, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, được miễn thuế theo quy định của pháp luật hiện hành, là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Cục Trợ giúp pháp lý.

- Tại khoản 2 Mục IV Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-Bộ Tư pháp-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC của Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài chính - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Toà án nhân dân tối cao ngày 28/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng. Bộ Tư pháp là cơ quan thường trực của Hội đồng phối hợp liên ngành về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng ở Trung ương. Hiện Cục được giao là đơn vị thường trực trong việc giúp Bộ trưởng duy trì hoạt động của Hội đồng Trung ương và Tổ giúp việc cho Hội đồng, là đầu mối trong việc phối hợp với các đơn vị có liên quan thuộc các Bộ, ngành có đại diện là thành viên Hội đồng.

- Tại điểm a khoản 3 Mục III Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-BTP-TWHCCBVN ngày 09/6/2008 của liên tịch Bộ Tư pháp, Trung ương Hội cựu chiến binh Việt Nam hướng dẫn phối hợp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý đối với Cựu chiến binh quy định trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc chỉ đạo, theo dõi việc thực hiện các văn bản pháp luật về trợ giúp pháp lý liên quan đến Cựu Chiến binh và hướng dẫn việc thực hiện trợ giúp pháp lý cho Cựu Chiến binh. Cục được giao giúp Bộ trưởng thực hiện các nhiệm vụ này.

- Tại khoản 1 Mục V Thông tư số 07/2008/TT-BTP ngày 21/10/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý trong Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 "Cục Trợ giúp pháp lý giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý và hướng dẫn việc thực hiện chính sách Trợ giúp pháp lý trong các Chương trình giảm nghèo, có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Xây dựng Kế hoạch tổng thể, Kế hoạch hàng năm và tổng hợp dự toán kinh phí triển khai thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình giảm nghèo trình các cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định;

b) Chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan thuộc Bộ Tư pháp nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình giảm nghèo để trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản đó;

c) Hướng dẫn và trực tiếp theo dõi việc triển khai thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình giảm nghèo trong toàn quốc;

d) Chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan thuộc các Bộ, ngành liên quan trong việc thực hiện, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý, bảo đảm hoàn thành mục tiêu của các Chương trình giảm nghèo;

đ) Tổng hợp tình hình thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình giảm nghèo ở các địa phương báo cáo Bộ trưởng xem xét quyết định và báo cáo các cơ quan có thẩm quyền theo quy định”.

- Theo điểm a khoản 7 Mục III và khoản 6 Mục IV của Đề án bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý giai đoạn 2008 - 2010, định hướng đến năm 2015 (ban hành kèm theo Quyết định số 10/2008/QĐ-BTP ngày 10/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp) thì Cục Trợ giúp pháp lý là cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện chức năng bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý thường xuyên và bồi dưỡng nghiệp vụ tạo nguồn bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý. Tại điểm d khoản 1 Mục VI của Đề án trên cũng đặt ra yêu cầu “cần củng cố, tăng cường năng lực cán bộ cho bộ phận bồi dưỡng nghiệp vụ thuộc Cục Trợ giúp pháp lý để nâng cấp thành Trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ thuộc Cục có đủ nguồn lực về con người, cơ sở vật chất, kinh phí để giúp Cục trưởng thực hiện quản lý, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý trong toàn quốc”.

- Tại khoản 1 Điều 7 Quy chế bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý (ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-BTP ngày 05/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp):Trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý thuộc Cục Trợ giúp pháp lý tổ chức các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý thường xuyên và bồi dưỡng nguồn bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý theo kế hoạch". Tại khoản 1 Điều 19 Quy chế bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý quy định "Hàng năm, Cục Trợ giúp pháp lý tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý cho người thuộc diện nguồn bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý thống nhất trong phạm vi toàn quốc; việc kiểm tra nghiệp vụ và cấp Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý phải thực hiện nghiêm túc theo quy định của Quy chế này. Cục trưởng Cục Trợ giúp pháp lý tổ chức biên soạn tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và ban hành Nội quy kiểm tra nghiệp vụ trợ giúp pháp lý".

Trong công tác quản lý, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, tại Điều 33 Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý (ban hành kèm theo Quyết định số 11/2008/QĐ-BTP ngày 29/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định: Cục trưởng Cục Trợ giúp pháp lý trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:

1. Kiện toàn tổ chức, cán bộ của Phòng Quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; quản lý và tổ chức thực hiện việc đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định tại Bộ tiêu chuẩn này;

2. Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, nghiệp vụ và đánh giá mức độ chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý;

3. Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý trong phạm vi toàn quốc;

4. Kiến nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, yêu cầu Sở Tư pháp giải quyết các vấn đề liên quan đến người thực hiện trợ giúp pháp lý.

5. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế các quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý".

Đặc biệt, ngày 17/8/2009 Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1989/QĐ-BTP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Trợ giúp pháp lý, trong đó đã xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục, giao cho Cục 20 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn với cơ cấu tổ chức gồm Cục trưởng, 03 Phó Cục trưởng và 06 đơn vị trực thuộc Cục (trong đó có 04 đơn vị giúp Cục trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước và 02 đơn vị sự nghiệp), đòi hỏi phải sớm cụ thể hoá để tổ chức thực hiện có hiệu quả quyết định này cũng như dự báo sự điều chỉnh các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức trong điều kiện mới, nhất là trong tầm nhìn trung hạn và dài hạn.

Ngoài ra, trong một số quy định của các văn bản khác về Chương trình Cải cách Hành chính đến năm 2020, Cải cách Tư pháp, bảo vệ quyền trẻ em, hỗ trợ người bị nhiễm HIV, người tàn tật... cũng có liên quan và xác định rõ hơn về phạm vi quy mô phát triển của mạng lưới tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý. Đặc biệt về tương lai cần có tổ chức để theo dõi, hỗ trợ sự tham gia vào công tác trợ giúp pháp lý của các tổ chức phi Chính phủ, các doanh nghiệp tham gia, hỗ trợ hoạt động trợ giúp pháp lý. Những yêu cầu của công tác trợ giúp pháp lý trong tình hình hiện nay cũng có tác động và ảnh hưởng đến việc xác định các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn làm căn cứ cho việc xác định cơ cấu tổ chức bộ máy, cán bộ của Cục Trợ giúp pháp lý đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ trong tình hình mới.

Phần II

NỘI DUNG KIỆN TOÀN TỔ CHỨC BỘ MÁY, CÁN BỘ, CƠ SỞ VẬT CHẤT VÀ TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC CỦA CỤC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ (GIAI ĐOẠN 2010 - 2015, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030)

I. MỤC TIÊU, YÊU CẦU VÀ NHIỆM VỤ

1. Mục tiêu

a) Củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, cơ sở vật chất và nâng cao năng lực của Cục Trợ giúp pháp lý (sau đây gọi tắt là Cục), bảo đảm về nguồn lực để thực hiện có hiệu quả chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý trong phạm vi toàn quốc;

b) Tăng cường năng lực của Cục trong quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo hệ thống trợ giúp pháp lý; đổi mới phương pháp, lề lối làm việc, mối quan hệ công tác, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, bảo đảm chất lượng, đáp ứng nhu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý, góp phần giảm nghèo trong lĩnh vực pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật, thực hiện công bằng xã hội, từng bước đưa pháp luật vào cuộc sống, phục vụ yêu cầu hội nhập quốc tế liên quan đến giúp đỡ pháp luật cho nhân dân;

c) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ trưởng, Ban Cán sự Đảng, Đảng uỷ Cơ quan Bộ Tư pháp; sự phối hợp của các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, tổ chức khác để Cục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

2. Yêu cầu

a) Thể chế hóa và bảo đảm hướng dẫn, theo dõi việc thực hiện đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về trợ giúp pháp lý trong tăng cường hoạt động đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý theo tinh thần và nội dung được nêu tại các Nghị quyết của Bộ Chính trị: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020;

b) Quán triệt đầy đủ nội dung, tinh thần và bảo đảm thực hiện có hiệu quả Luật Trợ giúp pháp lý, Nghị định số 07/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Trợ giúp pháp lý, Chỉ thị số 35/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ; chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình giảm nghèo quốc gia và Đề án quy hoạch mạng lưới Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008 đến năm 2010, định hướng đến năm 2015 và các chương trình, đề án có liên quan;

c) Kế thừa và phát huy thành tựu đã đạt được, khắc phục những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động của Cục thời gian qua để kiện toàn Cục theo tinh thần của Luật Trợ giúp pháp lý và Nghị định số 07/2007/NĐ-CP để Cục đủ năng lực thực hiện các chức năng mới mà Luật đã quy định, đặc biệt tăng cường năng lực thực hiện chức năng quản lý, điều hành và hướng dẫn nghiệp vụ, chất lượng dịch vụ trong phạm vi toàn quốc, đưa trợ giúp pháp lý Việt Nam vươn lên ngang tầm phát triển chung của khu vực và quốc tế.

3. Nhiệm vụ

a) Củng cố, kiện toàn, xác định hợp lý về tổ chức bộ máy của Cục, bảo đảm chuyên môn hoá, khoa học, gọn nhẹ và hợp lý; xây dựng cơ chế quản lý, điều hành hiệu quả, tạo bước chuyển biến căn bản về chất trong tổ chức bộ máy, cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của công tác trợ giúp pháp lý từ nay đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030;

b) Xác định hợp lý về cơ cấu, số lượng công chức, viên chức, người lao động và nhiệm vụ của từng chức danh theo hướng chuyên sâu, chuẩn hoá, bảo đảm nguồn lực nhân lực có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng cao năng lực của từng chức danh; cơ cấu cán bộ quản lý và chuyên môn nghiệp vụ được xác định theo quy hoạch mở, linh hoạt, có kế thừa, liên thông và phát triển bền vững;

c) Chuẩn hoá các quy trình hoạt động theo Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam ISO 9001: 2008, xác định rõ trách nhiệm của từng khâu, bộ phận, vị trí công tác; xây dựng phương pháp làm việc khoa học, tiết kiệm, hiệu quả; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành và thực hiện trợ giúp pháp lý; từng bước hiện đại hoá trang thiết bị, phương tiện làm việc, bảo đảm đủ cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động cho Cục phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

II. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

1. Nhận thức đúng đắn về chính sách trợ giúp pháp lý và vị trí, vai trò của Cục trong chỉ đạo, điều hành để đổi mới và phát triển trợ giúp pháp lý bảo đảm chất lượng, hiệu quả; kịp thời dự báo xu hướng phát triển của trợ giúp pháp lý để đề xuất điều chỉnh chính sách cho phù hợp

a) Chú trọng công tác nghiên cứu lý luận để nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của chính sách trợ giúp pháp lý trong đời sống pháp luật phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Xác định rõ vị trí, vai trò của Cục trong việc giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành;

b) Làm rõ vai trò của Cục trong nghiên cứu, tham mưu giúp Bộ trưởng đề xuất Đảng, Nhà nước ban hành chính sách, pháp luật, chiến lược phát triển về trợ giúp pháp lý; xác định hệ quan điểm, các giải pháp phù hợp với yêu cầu của công tác bảo vệ pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao vai trò, vị thế của pháp luật trong quản lý xã hội, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;

c) Tổng kết thực tiễn, phân tích, dự báo chính xác xu hướng phát triển của trợ giúp pháp lý, sự điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cục trong từng giai đoạn phù hợp với sự phát triển của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế để đề xuất các giải pháp kịp thời sửa đổi, bổ sung chính sách, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và nhu cầu trợ giúp pháp lý phong phú, đa dạng của nhân dân.

2. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực cán bộ, tăng cường năng lực quản lý, chỉ đạo, điều hành của Cục

a) Kiện toàn lãnh đạo Cục

- Kiện toàn bộ máy lãnh đạo Cục hiện có và dự kiến nguồn cán bộ kế cận để có giải pháp bồi dưỡng nguồn cán bộ lãnh đạo đủ năng lực quản lý, điều hành cho những năm tiếp theo; xây dựng cơ cấu hợp lý có xen kẽ giữa các thế hệ, thực hiện quy hoạch nguồn cán bộ lãnh đạo, xác định cơ cấu độ tuổi, cân đối giới tính, chú trọng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, bảo đảm tính liên tục và sự kế thừa giữa các thế hệ để lớp kế cận được bồi dưỡng năng lực quản lý, điều hành, có đủ số lượng theo định mức với cơ cấu khoa học và hợp lý;

- Nâng cao năng lực cán bộ lãnh đạo Cục, bảo đảm về tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, khả năng sử dụng ngoại ngữ, ứng dụng công nghệ thông tin, có năng lực quản lý, điều hành bao quát công việc; có năng lực thực tiễn đáp ứng yêu cầu hướng dẫn, chỉ đạo địa phương và giải quyết công việc mang tầm vĩ mô, tham gia hoạch định chủ trương, chính sách cho Bộ, ngành.

b) Kiện toàn các đơn vị trực thuộc Cục

- Về tổ chức: rà soát lại tổ chức và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng đơn vị; cơ cấu, sắp xếp lại một cách khoa học, hợp lý, khả thi, bảo đảm tính chuyên môn hóa, tách bạch giữa hoạt động quản lý hành chính với hoạt động sự nghiệp;

- Về cán bộ lãnh đạo: tuyển chọn đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, khả năng quản lý, điều hành, năng lực thực tiễn và hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức để quy hoạch, bổ nhiệm, bố trí quản lý các đơn vị; xác định cơ cấu một cách hợp lý, có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý, điều hành, trình độ chính trị, ngoại ngữ; đưa cán bộ quy hoạch chức danh lãnh đạo đi cơ sở để nắm bắt thực tiễn, đáp ứng yêu cầu công việc;

- Về đội ngũ công chức, viên chức: xây dựng, quy hoạch công chức, viên chức hợp lý, xác định cơ cấu các chức danh chuyên môn nghiệp vụ một cách hợp lý (về số lượng, ngạch, bậc, độ tuổi, giới tính...) theo hướng tiêu chuẩn hóa; nghiên cứu đề xuất bổ sung biên chế, bố trí đủ các chức danh cần thiết, phấn đấu đến hết năm 2015, công chức, viên chức chuyên môn nghiệp vụ đều được bồi dưỡng kiến thức quản lý ở ngạch chuyên viên chính; có chính sách thu hút, thực hiện luân chuyển cán bộ trưởng thành từ thực tiễn về làm việc tại Cục.

c) Nâng cao năng lực cán bộ

- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Cục trong sạch, vững mạnh bảo đảm chất lượng, có đủ tiêu chuẩn, có trách nhiệm, tận tụy với công việc, coi trọng tài năng, đạo đức và phẩm chất chính trị;

- Bố trí cán bộ, công chức, viên chức hợp lý, khoa học, phù hợp với trình độ chuyên môn, sở trường, năng lực và khả năng thực tiễn; chú trọng bồi dưỡng kiến thức thực tiễn, nhân sinh quan, ý thức, thái độ làm việc gần dân, thân dân, vì nhân dân phục vụ, tạo bước đột phá trong bố trí và sử dụng cán bộ;

- Quy hoạch từng vị trí công tác để bố trí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước và các kỹ năng nghiệp vụ phù hợp với từng chức danh; kết hợp giữa đào tạo, bồi dưỡng dưới nhiều hình thức (dài hạn, ngắn hạn, trao đổi chuyên gia, tập trung, tại chức...) ở trong nước và nước ngoài. Ưu tiên cử công chức, viên chức trẻ đi đào tạo, bồi dưỡng ở các nước có hệ thống trợ giúp pháp lý phát triển; có chính sách khuyến khích, hỗ trợ công chức của Cục đi học và tự học, thực hiện việc khen thưởng đối với công chức, viên chức ứng dụng có hiệu quả kết quả học tập vào thực tiễn công tác.

d) Tăng cường năng lực quản lý, chỉ đạo, điều hành của Cục

Đổi mới phương thức quản lý, chỉ đạo điều hành để xây dựng Cục vững mạnh về tổ chức, chính trị, tư tưởng, tăng cường các hoạt động nghiệp vụ, nâng cao chất lượng công tác phối hợp; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng tính công khai, minh bạch trong quản lý, điều hành; xây dựng môi trường làm việc thân thiện, trong sạch, vững mạnh, sáng tạo, cởi mở, đoàn kết, phát huy trí tuệ tập thể, đề cao trách nhiệm cá nhân, hỗ trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và trưởng thành.

3. Đổi mới hoạt động của Cục để thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao

a) Tăng cường công tác theo dõi việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý; chú trọng công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng vụ việc, bồi dưỡng nghiệp vụ và kiểm tra tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý; khuyến khích các sáng kiến, giải pháp thu hút sự tham gia trợ giúp pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật, các tổ chức xã hội và các sáng kiến tăng cường năng lực cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý, bảo đảm cung ứng dịch vụ pháp lý có chất lượng và hiệu quả. Xây dựng được cơ chế tổng hợp kiến nghị thi hành pháp luật về trợ giúp pháp lý để kịp thời đề xuất chính sách, kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật, khắc phục những vi phạm trong hoạt động công vụ;

b) Tăng cường năng lực của Cục trong hướng dẫn, điều phối các hoạt động để thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình giảm nghèo, tăng trưởng và phát triển; chú trọng các giải pháp lồng ghép và phối hợp với các ngành, chính quyền các cấp phát huy nội lực để giúp người được trợ giúp pháp lý yên tâm lao động, sản xuất, tự vươn lên thoát nghèo, góp phần từng bước xoá bỏ sự chênh lệch về điều kiện kinh tế, trình độ dân trí giữa các vùng, miền;

c) Tiêu chuẩn hoá và công khai các hoạt động, quy trình xử lý công việc của Cục theo hướng ứng dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam ISO 9001:2008; tích cực tham gia các hoạt động chung của Bộ, ngành và hỗ trợ các đơn vị thuộc Bộ, các cơ quan, tổ chức có liên quan;

d) Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các đơn vị trực thuộc Cục; xác định rõ mối quan hệ giữa Cục trưởng với chi uỷ, các tổ chức chính trị - xã hội trong Cục; nâng cao vai trò, sự chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội trong vận động, tập hợp đảng viên, đoàn viên, hội viên tích cực tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị; tham gia giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý và nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị;

đ) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý, kịp thời tham mưu để ký kết, gia nhập các Điều ước quốc tế có liên quan đến trợ giúp pháp lý; thiết lập, củng cố các mối quan hệ về trợ giúp pháp lý với các nước, các tổ chức quốc tế, tăng cường giao lưu, học hỏi, tranh thủ sự ủng hộ, hỗ trợ, giúp đỡ của quốc tế để hỗ trợ phát triển hoạt động trợ giúp pháp lý; tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý.

4. Tăng cường cơ sở vật chất và các điều kiện để bảo đảm hoạt động

a) Đẩy nhanh kế hoạch và thủ tục triển khai Đề án xây dựng trụ sở làm việc của Cục tại thành phố Hà Nội; triển khai các hoạt động chuẩn bị Đề án đầy đủ các luận chứng về kinh tế, kỹ thuật, tài chính xây dựng trụ sở làm việc của Cục sau khi được cấp đất xây dựng;

b) Hiện đại hóa công sở, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo, điều hành và trong thực hiện các hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý, bảo đảm việc giải quyết và xử lý công việc được nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm và hiệu quả; tiếp tục nâng cấp Trang thông tin điện tử Trợ giúp pháp lý Việt Nam (bao gồm bản tiếng Việt và tiếng Anh) đáp ứng yêu cầu trao đổi, cung cấp thông tin nghiệp vụ, chia sẻ kinh nghiệm trợ giúp pháp lý và liên kết trực tuyến với các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý có liên quan; bảo đảm và nâng cao vai trò của kênh thông tin về trợ giúp pháp lý đến với người dân, tạo thuận lợi để người dân dễ dàng tiếp cận với hoạt động trợ giúp pháp lý;

c) Bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất và trang thiết bị làm việc cho Cục theo đúng định mức, tiêu chuẩn và sử dụng có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

5. Tăng cường sự lãnh đạo của Bộ trưởng, Ban Cán sự Đảng, lãnh đạo Bộ Tư pháp, Đảng uỷ cơ quan Bộ Tư pháp đối với Cục và sự phối hợp của các đơn vị thuộc Bộ, các Sở Tư pháp trong công tác trợ giúp pháp lý

a) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Bộ trưởng, Ban Cán sự Đảng, lãnh đạo Bộ, Đảng ủy cơ quan Bộ Tư pháp đối với tổ chức và hoạt động của Cục; đặc biệt chú trọng đối với công tác tổ chức cán bộ, công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật, công tác chỉ đạo, điều hành, thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình giảm nghèo, công tác đối ngoại, thi đua và các hoạt động khác của Cục;

b) Tăng cường mối quan hệ giữa Cục và các đơn vị thuộc Bộ, các đơn vị thuộc các Bộ, ngành có liên quan và với các Sở Tư pháp, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao;

c) Tăng cường sự lãnh đạo của Chi bộ đối với hoạt động của Cục, của các đơn vị trực thuộc Cục và các tổ chức chính trị - xã hội thuộc Cục nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội thuộc Cục trong việc chủ động tham gia tích cực, có hiệu quả các hoạt động của Cục, của Bộ và ngành tư pháp.

III. CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

1. Giai đoạn 2010 - 2015

a) Mục tiêu: Hoàn thành việc củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, từng bước đổi mới hoạt động để nâng cao năng lực của Cục để thực hiện có hiệu quả Quyết định số 1989/QĐ-BTP ngày 17 tháng 8 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Trợ giúp pháp lý, phấn đấu đến hết năm 2015, đạt được các chỉ tiêu sau:

- Lãnh đạo Cục được bổ sung bảo đảm các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, năng lực quản lý điều hành, độ tuổi kế cận, có sự tích luỹ kinh nghiệm về trợ giúp pháp lý;

- Tất cả các đơn vị trực thuộc Cục được củng cố, kiện toàn, bảo đảm 100% đơn vị đều có Trưởng phòng và tương đương, từ 01 đến 03 Phó Trưởng phòng và tương đương; có đủ số lượng công chức, viên chức và người lao động để thực hiện các nhiệm vụ được giao;

- Xác định số lượng công chức, viên chức và người lao động một cách hợp lý, tương xứng với nhiệm vụ; phân định rõ số lượng biên chế quản lý hành chính với số lượng biên chế hoạt động sự nghiệp và người lao động của Cục;

- Xây dựng cơ cấu ngạch, bậc, chức danh hợp lý, phấn đấu ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương chiếm tỷ lệ từ 5% đến 10%, ngạch chuyên viên chính và tương đương chiếm tỷ lệ 20% đến 25%, ngạch chuyên viên và tương đương chiếm tỷ lệ 40% đến 50%, ngạch khác chiếm tỷ lệ 15% đến 20%;

- Về trình độ chuyên môn: phấn đấu có khoảng 5% công chức, viên chức có trình độ Tiến sĩ; 30% đến 40% công chức, viên chức có trình độ Thạc sĩ, trong đó tối thiểu có 75% công chức, viên chức có trình độ Cử nhân luật;

- Có cơ cấu cân đối về giới tính, bảo đảm sự phát triển đồng bộ giữa các giới;

- Có cơ cấu độ tuổi hợp lý, bảo đảm tính kế thừa, liên tục giữa các thế hệ, độ tuổi dưới 35 chiếm 30%; từ 35 đến 45 tuổi chiếm 45% và từ 45 tuổi trở lên chiếm 25%;

- Đổi mới một bước việc triển khai thực hiện các hoạt động, từng bước nâng cao năng lực làm việc và bảo đảm đủ nguồn kinh phí, cơ sở vật chất, trụ sở và phương tiện làm việc, trang thiết bị cho Cục tương xứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy, cán bộ.

b) Nhiệm vụ và giải pháp:

b.1) Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ của Cục theo Quyết định số 1989/QĐ-BTP ngày 17 tháng 8 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp như sau:

- Về tổ chức bộ máy

+ Đối với lãnh đạo Cục: đủ về số lượng (Cục trưởng, 03 (ba) Phó Cục trưởng) trong điều kiện từ năm 2010 đến 2012, dự kiến sẽ có 03 công chức lãnh đạo Cục hiện nay được nghỉ chế độ (Cục trưởng và 02 Phó Cục trưởng). Vì vậy, cần rà soát lại quy hoạch để đào tạo, bồi dưỡng nguồn, tạo cơ sở cho việc củng cố bộ máy lãnh đạo Cục, lựa chọn người có đủ phẩm chất, tiêu chuẩn, kinh nghiệm thực tiễn trợ giúp pháp lý và năng lực để bổ nhiệm, bố trí vào các chức danh còn khuyết.

+ Đối với các đơn vị trực thuộc Cục: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng đơn vị một cách hợp lý; thực hiện sắp xếp lại tổ chức bộ máy, cán bộ một cách hợp lý; thực hiện quy hoạch đội ngũ lãnh đạo cấp Phòng để bồi dưỡng, bổ nhiệm Trưởng phòng, các Phó Trưởng phòng và tương đương, cụ thể như sau:

Văn phòng Cục có chức năng tham mưu, giúp Cục trưởng trong công tác kế hoạch, hành chính - tổng hợp, thông tin, truyền thông, hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý, thống kê, thi đua, khen thưởng, quản lý thư viện Cục, bảo đảm các điều kiện cho các hoạt động chung của Cục và công tác quản trị trong nội bộ Cục. Văn phòng Cục có Chánh Văn phòng, 03 Phó Chánh Văn phòng, 06 chuyên viên, 06 người lao động theo hợp đồng lao động.

Phòng Quản lý nghiệp vụ có chức năng tham mưu, giúp Cục trưởng trong công tác nghiên cứu, xây dựng, thẩm định, góp ý, rà soát, hệ thống hóa các văn bản pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án về trợ giúp pháp lý; thực hiện chức năng quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý; hướng dẫn, tổ chức thực hiện và theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các văn bản pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án về trợ giúp pháp lý, chính sách trợ giúp pháp lý trong các Chương trình giảm nghèo và các chương trình phối hợp liên ngành; là đầu mối thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật chung theo yêu cầu và phân cấp của Bộ. Phòng có Trưởng phòng, 03 Phó Trưởng phòng và 10 chuyên viên.

Phòng Quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý có chức năng tham mưu, giúp Cục trưởng trong công tác quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; hướng dẫn, tổ chức thực hiện, đánh giá chất lượng vụ việc; theo dõi, kiểm tra công tác đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý trong toàn quốc và tổ chức đánh giá chất lượng vụ việc theo quy định. Phòng có Trưởng phòng, 02 Phó Trưởng phòng và 08 chuyên viên.

Phòng Tài chính - Kế toán có chức năng tham mưu, giúp Cục trưởng trong công tác quản lý và thực hiện công tác tài chính, kế toán đối với các hoạt động của Cục, là đơn vị tài chính cấp II đối với các đơn vị sự nghiệp thuộc Cục và theo dõi các công việc khác có liên quan. Phòng có Trưởng phòng - Kế toán trưởng, 03 kế toán viên và 01 thủ quỹ.

Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý có chức năng tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ và hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý ở địa phương, giúp Cục trưởng quản lý chương trình, tổ chức thực hiện Quy chế bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-BTP ngày 05 tháng 12 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Trung tâm có Giám đốc, 02 Phó Giám đốc, 08 viên chức và 01 hợp đồng lao động.

Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 08/2008/QĐ-BTP ngày 08 tháng 12 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Dự kiến nhân sự của Quỹ gồm Giám đốc, 01 Phó Giám đốc, 01 kế toán viên, 02 viên chức phát triển Quỹ và 01 thủ quỹ.

- Về cơ cấu nhân sự

Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục, dự kiến đến hết năm 2015 trình Bộ để đề nghị Bộ Nội vụ phân bổ đủ chỉ tiêu, biên chế cho Cục bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tổng biên chế của Cục đến năm 2015 dự kiến khoảng 68 người (bao gồm: 49 công chức hành chính; 12 viên chức sự nghiệp và 07 người lao động theo Hợp đồng lao động). Riêng nhân sự để bảo đảm thực hiện các cam kết của Dự án hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý được thực hiện theo quy định của Dự án (tiếp tục duy trì hoạt động Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý cho người chưa thành niên, 06 Văn phòng Trợ giúp pháp lý cho phụ nữ với số người lao động thực hiện Dự án do Cục trưởng ký hợp đồng lao động theo cam kết của Dự án).

b.2) Đổi mới lề lối làm việc, tăng cường phân cấp, xác định rõ trách nhiệm, phạm vi giải quyết công việc của từng chức danh và quan hệ phối hợp công tác

- Phân công rõ trách nhiệm của Cục trưởng, các Phó Cục trưởng, Trưởng phòng và tương đương của các đơn vị trực thuộc Cục; tăng cường tính chủ động và độc lập giải quyết công việc của từng lãnh đạo Cục, mối quan hệ giữa lãnh đạo Cục với các đơn vị trực thuộc Cục và với tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội trong Cục; đẩy mạnh sự phối hợp giữa các phòng và tương đương trong Cục; thường xuyên tổ chức giao ban định kỳ trao đổi công việc giữa Cục trưởng với các Phó Cục trưởng và Trưởng các đơn vị trực thuộc Cục.

- Tuân thủ Quy chế làm việc của Bộ, của Cục, thực hiện nghiêm chế độ báo cáo tiến độ triển khai công việc. Các Phó Cục trưởng và Trưởng các đơn vị thuộc Cục chủ động, sát sao với công việc, khắc phục tình trạng việc đã được giao phụ trách nhưng không quán xuyến, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn kịp thời.

- Tăng cường phân cấp, uỷ quyền cho Trưởng các đơn vị thuộc Cục nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, sự chủ động trong quản lý, điều hành công việc của từng đơn vị; thực hiện triệt để tinh thần chịu trách nhiệm đến cùng đối với công việc được giao của từng chức danh.

- Chủ động thiết lập và tăng cường mối quan hệ công tác thường xuyên và chặt chẽ giữa Cục với các cơ quan, tổ chức trong và ngoài Bộ để giải quyết công việc có kết quả và chất lượng.

- Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở, bảo đảm công khai, minh bạch trong quản lý, điều hành, tạo môi trường làm việc sáng tạo, cởi mở và đoàn kết; xây dựng định mức cụ thể để đánh giá mức độ hoàn thành công việc của từng chức danh, có chính sách động viên, khuyến khích và khen thưởng kịp thời.

- Phát huy tối đa vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tham gia quản lý, giám sát hoạt động, đánh giá cán bộ, thi đua khen thưởng, xử lý vi phạm để kịp thời phát hiện và khắc phục những vướng mắc, bất cập nảy sinh.

b.3) Tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức

- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ công chức, viên chức và người lao động làm việc tại Cục; khảo sát kinh nghiệm trong nước và nước ngoài để có giải pháp và hình thức bồi dưỡng, trao đổi chuyên gia phù hợp, chú trọng nâng cao năng lực thực tiễn;

- Đa dạng hoá nguồn tuyển dụng để phù hợp với đặc thù quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành; thực hiện sơ tuyển và đề nghị lãnh đạo Bộ phân cấp cho Cục tuyển dụng viên chức cho các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Cục; tuyển dụng ngay những người có khả năng, có kinh nghiệm thực tiễn làm công tác xây dựng, theo dõi việc thực hiện pháp luật, tài chính, kế toán và quản lý, phát triển Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam và bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý.

- Xây dựng cơ chế thu hút, thực hiện việc điều động, luân chuyển cán bộ trưởng thành từ thực tiễn, có năng lực, kinh nghiệm, trình độ chuyên môn cao cho các đơn vị làm công tác xây dựng, theo dõi việc thực hiện pháp luật, quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý và hướng dẫn nghiệp vụ trợ giúp pháp lý.

- Tăng cường kỷ cương hành chính, kỷ luật lao động; phát huy tinh thần trách nhiệm của Trưởng các đơn vị trực thuộc Cục trong việc duy trì kỷ cương, kỷ luật, bảo đảm chất lượng và tiến độ công việc.

- Tăng cường quan hệ giao lưu, hợp tác, trao đổi kinh nghiệm, khảo sát công việc giữa Cục với các đơn vị khác trong Bộ, ngành và với các Bộ, ngành khác để nắm bắt tình hình, góp phần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Cục.

2. Định hướng đến năm 2020

a) Mục tiêu: Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ của Cục tương xứng với các nhiệm vụ, quyền hạn được điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung; đổi mới một cách căn bản phương thức hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao, đáp ứng yêu cầu và xu hướng phát triển của trợ giúp pháp lý trong điều kiện nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại.

b) Nhiệm vụ và giải pháp:

- Dự báo đúng đắn nhu cầu trợ giúp pháp lý; nghiên cứu xác định sự biến đổi và phát triển của mô hình trợ giúp pháp lý ở Việt Nam và yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý.

- Xác định rõ vị trí, vai trò và sự điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Cục từ năm 2015 đến năm 2020, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để nghiên cứu, đề xuất cơ quan có thẩm quyền nâng cấp Cục thành Cục loại I.

- Nghiên cứu, xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn được giao bổ sung cho Cục đến năm 2020; tiếp tục nghiên cứu, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý, bổ sung chức năng của Cục về thực hiện trợ giúp pháp lý đối với các vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của Toà Thượng thẩm Toà án nhân dân tối cao trong điều kiện cải cách tư pháp và sự phát triển của mạng lưới tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật, các tổ chức đoàn thể xã hội, khi các tổ chức này tham gia ngày càng tích cực vào hoạt động trợ giúp pháp lý.

- Xác định cơ cấu tổ chức bộ máy, cán bộ của Cục một cách hợp lý, khoa học trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn được điều chỉnh, bổ sung; kịp thời tổng kết thực tiễn mô hình tổ chức bộ máy, cán bộ giai đoạn 2010 - 2015; nghiên cứu và khi đủ điều kiện thì đề xuất thành lập một số đơn vị mới để thực hiện các chức năng hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý; nghiên cứu, thông tin, truyền thông về trợ giúp pháp lý, Tạp chí Trợ giúp pháp lý và các Trung tâm hoặc Văn phòng trợ giúp pháp lý cho các đối tượng đặc thù để tham gia tranh tụng tại Toà Thượng thẩm.

- Xác định hợp lý cơ cấu, số lượng biên chế cần điều chỉnh, bổ sung hàng năm và cả giai đoạn 2015 - 2020 cho Cục để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; mỗi năm đề xuất cơ quan có thẩm quyền giao bổ sung cho Cục và các đơn vị sự nghiệp thuộc Cục từ 05 đến 06 biên chế để có điều kiện bồi dưỡng kèm cặp nghiệp vụ; đến hết năm 2020, tổng biên chế hành chính và sự nghiệp của Cục khoảng 100 người (khoảng 70 công chức và 30 viên chức).

- Quy hoạch, bồi dưỡng nguồn cán bộ lãnh đạo, công chức, viên chức chuyên môn nghiệp vụ kế cận có tính đến yêu cầu cần điều động, luân chuyển, biệt phái giữa các đơn vị trong Cục, trong Bộ, giữa Trung ương và địa phương; sắp xếp cán bộ, công chức một cách hợp lý, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; từng bước hình thành đội ngũ chuyên gia đầu ngành về trợ giúp pháp lý, có chuyên môn nghiệp vụ bậc cao, có đủ năng lực độc lập giải quyết các vấn đề thực tiễn.

- Đổi mới một cách căn bản phương pháp quản lý theo hướng xác định nhiệm vụ cụ thể theo chức danh để tăng cường năng lực quản lý chỉ đạo, điều hành thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, công tác nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung pháp luật, chỉ đạo kiểm tra thực tiễn, đánh giá chất lượng để đáp ứng yêu cầu tình hình mới trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- Có kế hoạch phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan để xác định hợp lý nguồn ngân sách bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị, trụ sở làm việc cho Cục trong điều kiện mới, tương ứng với cơ cấu tổ chức bộ máy, số lượng biên chế, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn;

- Dự kiến các biện pháp hỗ trợ về kinh phí, trang thiết bị làm việc cho các Hội, các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức xã hội khác tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý hỗ trợ tăng cường năng lực công tác trợ giúp pháp lý.

3. Tầm nhìn đến năm 2030

- Đổi mới căn bản về tổ chức bộ máy, cán bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động của Cục; tổng kết thực tiễn, nghiên cứu để nếu đủ điều kiện cần thiết thì đề xuất cơ quan có thẩm quyền nâng cấp Cục thành Tổng Cục Trợ giúp pháp lý theo Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý; định hướng phát triển tổ chức trợ giúp pháp lý phù hợp với Chiến lược phát triển ngành Tư pháp và lộ trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp của đất nước;

- Nâng cao năng lực hoạt động của Cục theo hướng tiêu chuẩn hoá; tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, tiến dần đến các tiêu chuẩn quốc tế và quản lý theo Hệ thống quản lý chất lượng tiêu chuẩn Việt Nam ISO 9001:2008. Nghiên cứu, bổ sung các chức năng mới như: quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề của luật sư nhà nước làm trợ giúp pháp lý, liên kết xây dựng Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam với các ngành nghề cần trợ giúp pháp lý; quản lý Hội chuyên ngành, hướng dẫn hoạt động đối với các Hội, tổ chức phi Chính phủ; hướng dẫn các tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật tham gia thực hiện, hỗ trợ công tác trợ giúp pháp lý; trực tiếp cung ứng dịch vụ pháp lý cho các cá nhân, tổ chức tại Toà Thượng thẩm, đối tượng thuộc diện án chỉ định người bào chữa và các đối tượng đặc biệt khác (người nghèo, phụ nữ bị buôn bán, bị bạo lực gia đình, người bị nhiễm HIV/AIDS, người dân tộc thiểu số, người tiêu dùng, người Việt Nam lao động ở nước ngoài; người nước ngoài thuộc diện được trợ giúp pháp lý tại Việt Nam, phụ nữ Việt Nam kết hôn ở nước ngoài, trẻ em Việt Nam là con nuôi...); công tác quản lý và phát triển đội ngũ bào chữa viên nhân dân, hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng hoà giải các vụ tranh chấp nhỏ và Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý ở cơ sở.

- Xác định cơ cấu cán bộ hợp lý, tăng cường biên chế hành chính và sự nghiệp cho Cục bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, tương xứng với vị trí, vai trò của Tổng Cục; xây dựng đội ngũ công chức, viên chức chuyên nghiệp, hiện đại tương xứng với nhiệm vụ được giao trong tình hình mới.

Phần III

TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

1. Phân công trách nhiệm

a) Cục Trợ giúp pháp lý chủ trì, phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án; đôn đốc, đánh giá kết quả thực hiện và định kỳ báo cáo kết quả với Bộ trưởng Bộ Tư pháp;

b) Cục Trợ giúp pháp lý chủ trì, phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ xây dựng cơ cấu, tổ chức bộ máy, nhân sự của Cục, đề xuất thực hiện luân chuyển, điều động cán bộ có năng lực và kinh nghiệm và xây dựng cơ chế, chính sách thu hút nhân tài về làm việc tại Cục; xây dựng và triển khai các kế hoạch, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của Cục;

c) Cục Trợ giúp pháp lý chủ trì, phối hợp với Cục Công nghệ thông tin nghiên cứu, xây dựng các phần mềm ứng dụng trong công tác quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý, ứng dụng công nghệ thông tin, tin học trong quản lý và hoạt động trợ giúp pháp lý; liên kết trợ giúp pháp lý trong khu vực và các quốc gia, các tổ chức quốc tế và trong nước có liên quan;

d) Vụ Hợp tác quốc tế chủ trì, phối hợp với Cục trong quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế trong trợ giúp pháp lý, tìm kiếm dự án hỗ trợ cho trợ giúp pháp lý ở Việt Nam và tăng cường năng lực thực hiện dự án hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý;

đ) Vụ Kế hoạch - Tài chính chủ trì, phối hợp với Cục tổ chức kiểm tra, theo dõi, đôn đốc và sơ kết, tổng kết việc thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 05 năm và hàng năm về trợ giúp pháp lý; phối hợp thực hiện thống kê về trợ giúp pháp lý, quản lý các nguồn kinh phí nhà nước và Dự án giao cho Cục theo quy định của pháp luật; phối hợp với Cục xây dựng kế hoạch tài chính triển khai thực hiện Đề án và bảo đảm cho hoạt động của Cục; phát triển Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam; thẩm định, trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định về việc giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp thuộc Cục;

e) Các đơn vị thuộc Bộ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Cục trong việc triển khai các công việc có liên quan, đóng góp xây dựng Cục đạt các mục tiêu nêu tại Đề án, trong trường hợp cần thiết, luân chuyển cán bộ, công chức, viên chức của đơn vị thuộc Bộ với Cục nhằm đào tạo nguồn quy hoạch cán bộ cho đơn vị và cơ quan Bộ.

2. Lộ trình thực hiện

- Trong Quý IV năm 2009 và chậm nhất là Quý I năm 2010:

+ Hoàn thiện các văn bản triển khai thực hiện tạo thể chế pháp lý cho việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ và nâng cao hiệu quả hoạt động của Cục.

+ Sắp xếp lại tổ chức bộ máy của Cục, rà soát, điều chuyển vị trí công tác của đội ngũ công chức, viên chức, người lao động; kiện toàn thêm một số lãnh đạo chủ chốt của các phòng và tương đương; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để kiện toàn một bước lãnh đạo Cục và tổ chức Cục.

+ Xây dựng luận chứng kinh tế - kỹ thuật và dự toán kinh phí xây dựng trụ sở làm việc của Cục Trợ giúp pháp lý khi được Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội phê duyệt cấp đất xây dựng trụ sở cho Cục.

- Từ Quý II năm 2010 đến Quý III năm 2010:

+ Kiện toàn một bước đội ngũ công chức, viên chức, người lao động, tổ chức tuyển dụng để bổ sung đủ số lượng biên chế đã giao cho Cục trong năm 2009 và năm 2010; kịp thời luân chuyển, điều động công chức, viên chức có năng lực trong nội bộ các đơn vị trực thuộc Cục cần ưu tiên kiện toàn;

+ Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và thực hiện giải pháp tổ chức công việc trong lãnh đạo, các đơn vị thuộc Cục; thực hiện trao đổi chuyên gia với một số quốc gia và thực tập tại một số tổ chức quốc tế về trợ giúp pháp lý;

+ Tăng cường năng lực hoạt động của Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam; đề xuất và cấp trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác của Cục; tiếp tục thực hiện giải pháp về tăng cường năng lực tổ chức công việc hiệu quả và khoa học trong lãnh đạo Cục và các đơn vị trực thuộc Cục;

+ Lập dự án xây dựng trụ sở làm việc của Cục theo quy định của pháp luật.

Trong các năm tiếp theo, căn cứ vào yêu cầu công việc và nhiệm vụ được giao bổ sung cho Cục, tiếp tục thực hiện việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ theo lộ trình đã đề ra, bảo đảm để Cục có đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ.

3. Kinh phí thực hiện

a) Vụ Kế hoạch - Tài chính bảo đảm kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước phục vụ cho việc đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức; lập dự toán kinh phí xây dựng trụ sở làm việc của Cục sau khi được cấp đất xây dựng, kinh phí mua sắm tài sản, ứng dụng công nghệ thông tin và các khoản kinh phí khác theo quy định của pháp luật phục vụ cho việc thực hiện Đề án.

b) Vụ Hợp tác quốc tế chủ trì, phối hợp với Cục trong vận động, điều phối các nguồn tài trợ quốc tế để hỗ trợ kỹ thuật cho hoạt động của Cục; tổ chức các đoàn khảo sát đến một số nước để học hỏi kinh nghiệm về công tác quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý.

 

CÁC PHỤ LỤC KÈM THEO ĐỀ ÁN

Phụ lục 1: Những nhiệm vụ, quyền hạn mới được bổ sung cho Cục Trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý.

Phụ lục 2: Thực trạng nguồn nhân lực của Cục Trợ giúp pháp lý (tính đến 30/9/2009).

Phụ lục 3: Các văn bản pháp luật do Cục Trợ giúp pháp lý chủ trì soạn thảo và tham gia soạn thảo từ khi thành lập đến nay.

Phụ lục 4: Các khóa bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ trợ giúp pháp lý, Hội thảo, Tọa đàm đã được Cục Trợ giúp pháp lý tổ chức từ khi thành lập đến nay.

Phụ lục 5: Danh sách các tổ chức quốc tế và các Dự án tài trợ cho trợ giúp pháp lý ở Việt Nam từ khi thành lập đến nay.

Phụ lục 6: Danh hiệu khen thưởng cho Cục Trợ giúp pháp lý từ khi thành lập đến nay.

Phụ lục 7: Dự kiến kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế của Cục Trợ giúp pháp lý giai đoạn 2011- 2015.

Phụ lục 8: Dự kiến kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế của Cục Trợ giúp pháp lý đến năm 2020.

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Quyết định 3425/QĐ-BTP năm 2009 về việc phê duyệt đề án kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, cơ sở vật chất và tăng cường năng lực của cục trợ giúp pháp lý (giai đoạn 2010 - 2015, định hướng đến 2020 và tầm nhìn đến năm 2030) do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành

  • Số hiệu: 3425/QĐ-BTP
  • Loại văn bản: Quyết định
  • Ngày ban hành: 25/11/2009
  • Nơi ban hành: Bộ Tư pháp
  • Người ký: Hà Hùng Cường
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: Kiểm tra
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
Tải văn bản