Hệ thống pháp luật

Khoản 15 Điều 30 Quyết định 1409/2004/QĐ-UBTDTT/TT1 về việc ban hành Luật Cờ Tướng do Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục thể thao ban hành

15. Thời hạn chậm nhất phải gửi danh sách đăng ký thi đấu đến ban tổ chức giải.

Ngoài những điều nói trên, điều lệ giải còn có thể nêu lên những chi tiết cần thiết khác.

Điều lệ giải tùy theo tính chất giải và điều kiện địa lý, phải tính toán cẩn thận trước để gửi điều lệ đến người nhận trước một thời gian cần thiết (nếu là các giải lớn thì phải gửi trước từ 2 tới 3 tháng) để đủ thời gian triển khai các công việc tham gia thi đấu, chuẩn bị tài chính và chuẩn bị cho công tác tổ chức giải. Trong quá trình đó nếu có vấn đề gì cần trao đổi, thắc mắc hay đề nghị thêm thì các đơn vị tham gia có đủ thời gian phản hồi tới cơ quan ban hành điều lệ.

 

PHỤ LỤC 6

TIÊU CHUẨN PHONG CẤP VẬN ĐỘNG VIÊN CỜ TƯỚNG CẤP QUỐC GIA

A. ĐỐI VỚI VẬN ĐỘNG VIÊN NAM:

1. Cấp kiện tướng quốc gia:

Đạt một trong các tiêu chuẩn sau đây tại các giải quốc gia:

a) Đạt 72% số điểm tại giải Vô địch đồng đội toàn quốc: Thi đấu 9 ván đạt 6,5 điểm, 11 ván đạt 8 điểm, 13 ván đạt 9,5 điểm.

b) Đạt thứ hạng từ 1 đến 6 tại giải Vô địch toàn quốc.

c) Đạt tiêu chuẩn kiện tướng dự bị hai lần trong năm.

d) Đạt kiện tướng của Liên đoàn Cờ Tướng Thế giới hoặc châu Á.

2. Cấp kiện tướng dự bị quốc gia:

a) Đạt số điểm kém điểm chuẩn của kiện tướng 0,5 điểm tại giải Vô địch đồng đội toàn quốc.

b) Đạt thứ hạng từ 7 tới 10 tại giải Vô địch toàn quốc.

c) Đạt thứ hạng nhất cá nhân tại giải trẻ toàn quốc hạng tuổi 18.

3. Cấp I quốc gia:

a) Đạt 55% số điểm tại giải Vô địch đồng đội toàn quốc: Thi đấu 9 ván đạt 5 điểm, 11 ván đạt 6 điểm, 13 ván và đạt 7 điểm.

b) Đạt thứ nhất cá nhân hạng tuổi 15 và nhì, ba hạng tuổi 18 tại giải trẻ toàn quốc.

B. ĐỐI VỚI VẬN ĐỘNG VIÊN NỮ:

1. Cấp kiện tướng quốc gia:

a) Đạt thứ nhất cá nhân giải Vô địch đồng đội toàn quốc.

b) Đạt thứ hạng từ 1 đến 3 tại giải Vô địch toàn quốc.

c) Đạt kiện tướng của Liên đoàn Cờ Tướng Thế giới hoặc châu Á.

d) Đạt tiêu chuẩn kiện tướng dự bị hai lần trong năm.

2. Cấp kiện tướng dự bị quốc gia:

a) Đạt thứ hạng cá nhân từ 2 đến 3 tại giải Vô địch đồng đội toàn quốc.

b) Đạt thứ hạng từ 4 tới 5 tại giải vô địch quốc gia (cá nhân).

c) Đạt thứ hạng nhất tại giải trẻ toàn quốc hạng tuổi 18.

3. Cấp I quốc gia:

Phải đạt một trong các tiêu chuẩn sau:

a) Đạt 55% số điểm tại giải Vô địch đồng đội toàn quốc: Thi đấu 9 ván đạt 5 điểm, 11 ván đạt 6 điểm, 13 ván đạt 7 điểm.

b) Đạt thứ nhất cá nhân hạng tuổi 15 và nhì, ba hạng tuổi 18 tại giải trẻ toàn quốc.

Ghi chú: Tiêu chuẩn phong cấp có thể được điều chỉnh cho phù hợp từng thời kỳ, được công bố trong Điều lệ của các giải toàn quốc.

 

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG QUYỂN LUẬT CỜ TƯỚNG

Quyển Luật Cờ Tướng tuy đã đề cập tới những vấn đề căn bản nhất của quá trình tổ chức và thi đấu, nhưng cũng như bất cứ luật nào, không thể đưa vào toàn bộ những vấn đề sẽ nảy sinh trong quá trình thi đấu.

Do Cờ Tướng ở nước ta có truyền thống hàng trăm năm, nên các quan niệm, tập quán, thể lệ, ngôn ngữ, thói quen,... ở các vùng địa phương cũng còn khác nhau. Các hình thức thi đấu cờ rất đa dạng, phong phú, nhất là đối với hình thức chơi cờ trong lễ hội, cờ người, cờ bỏi... có kết hợp với biểu diễn nghệ thuật, võ thuật.

Gần đây phong trào chơi cờ nhanh (từ 15 tới 30 phút mỗi ván), cờ chớp (5 phút một ván), chơi đồng loạt, chơi cờ tưởng (cờ mù), đấu cờ với máy vi tính... cũng phổ biến rộng rãi và phát triển mạnh.

Tất cả những vấn đề đó chưa thể đưa hết vào một quyển luật, mà luật chỉ định ra những vấn đề căn bản nhất, quan trọng nhất, làm nền tảng thống nhất cho môn Cờ Tướng trong cả nước.

Các điều luật của quyển Luật Cờ Tướng, dù đã được biên soạn kỹ càng, nhưng vẫn cần những chỉ dẫn. Vì vậy khi áp dụng quyển luật này đề nghị xem kỹ một số giải thích, hướng dẫn sau đây:

1. Từ ngữ: Trong Cờ Tướng, tuy trên bàn cờ cùng một thế cờ, cùng một nước đi nhưng mỗi miền, mỗi vùng có thể sử dụng các cách diễn đạt khác nhau, ngôn ngữ khác nhau. Trong quyển Luật này thống nhất chọn một. Là luật toàn quốc nên phải giảm bớt dùng ngôn ngữ của địa phương, chú trọng sử dụng các ngôn từ văn bản và chỉ sử dụng từ Hán - Việt khi nào không có ngôn từ Việt Nam thay thế.

2. Thời gian ván đấu: Vì sao Luật chưa quy định dứt khoát thời gian mà dùng câu “đưa ra một số cách tính thời gian để ban tổ chức từng giải lựa chọn”. Hiện nay ngoài các giải được đưa vào hệ thống thi đấu quốc gia, thời gian đấu được tính bằng đồng hồ đánh cờ một cách nghiêm ngặt thì còn nhiều giải đấu ở địa phương, làng xã... do nhiều yếu tố khách quan nên chưa thể quy chuẩn thời gian mỗi ván đấu, mà chỉ đưa ra một số mẫu để ban tổ chức lựa chọn. Đó là chưa nói phần lớn các giải ở địa phương chưa có đồng hồ đánh cờ và cũng chưa có thói quen ghi chép biên bản, nên việc quy định quá chặt chẽ là chưa thích hợp. Tùy quá trình phát triển cao hơn và có được trang thiết bị đầy đủ thì sẽ có những bổ sung chặt chẽ hơn.

3. Màu quân: Trong dân gian thường sử dụng hai màu là Đỏ (điều) và Đen. Trước đây, theo truyền thống, một số nơi quy ước Đen đi trước theo quan niệm “hắc giả tiên hành”. Nay dùng hai màu Trắng và Đen với quy định bên cầm quân Trắng đi trước nhằm đảm bảo sự tiện lợi, dễ xem, dễ in ấn và đúng theo luật cờ chung của châu Á và thế giới, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên của các tổ chức này.

4. Tổ chức thi đấu: Thành lập Ban kiểm tra tư cách đấu thủ, ban giải quyết khiếu nại, chủ yếu là ở các giải lớn, đông người tham dự. Ban kiểm tra tư cách đấu thủ ở các giải đánh theo hạng tuổi (các giải trẻ, Hội khỏe Phù Đổng, thi đấu trong học sinh...) để thu nhận và kiểm tra hồ sơ, phát hiện sự gian lận ngày tháng năm sinh, sửa chữa, trao đổi hồ sơ, lý lịch, học bạ.

Ở các giải khác, tuy không thành lập các ban trên nhưng công việc kiểm tra và giải quyết khiếu nại này sẽ do ban tổ chức đảm trách.

Ở các giải quốc gia, cấp tỉnh thành, các giải lớn... bắt buộc phải cử tổng trọng tài. Nhưng các giải địa phương, giải nhỏ, người tham dự không đông thì chỉ cần cử ban trọng tài, trong đó có một trưởng ban, tránh cử quá nhiều chức danh, quá đông người vào công việc tổ chức.

5. Phải hiểu thực chất tinh thần những điều luật cũng như mục đích cơ bản của nó chứ không phải chỉ theo hình thức. Ví dụ việc chạm quân, mục đích của điều luật này nhằm ngăn chặn việc đấu thủ cố tình hoãn nước đi, thay đổi ý định ban đầu của mình. Trước đây luật này được gọi nôm na là “hạ thủ bất hoàn”. Đây là một điều luật quan trọng nhằm dứt điểm từng nước đi một, cho nên việc xử phạt là đúng. Tuy nhiên không phải không có những kỳ thủ thiếu tư cách, khi bí cờ hay sắp thua, lợi dụng sự vô ý hay vô can của đối phương để “ăn vạ”, đổ lỗi cho đối phương chạm quân để cứu vãn tình thế của mình. Trọng tài phải tỉnh táo, phân biệt rõ, xem xét tình thế cụ thể, chứng lý rõ ràng để xử lý thật công minh trong những trường hợp như thế.

6. Trong luật lần này quy định: ngoài trọng tài và đấu thủ được quyền nêu ra và xử lý vụ việc trong quá trình tiến hành ván cờ, còn không ai khác được quyền đề đạt và khiếu nại. Quy định này xuất phát từ thực tế trong nhiều năm qua xảy ra tình trạng có quá nhiều ý kiến từ bên ngoài can thiệp vào ván đấu như lãnh đội, huấn luyện viên, thân nhân của đấu thủ, thậm chí các quan chức, đoàn thể... gợi ý hay yêu cầu phải xử lý theo cách của mình. Làm như vậy khiến luật cờ mất tác dụng và ảnh hưởng xấu tới tinh thần đấu thủ, làm mất uy tín và chất lượng của giải cờ.

7. Về quy định trọng tài chỉ được phán xét hòa ở trường hợp “nếu cờ của cả hai đấu thủ không còn Xe, Pháo, Mã, Tốt tức không còn quân sang trận địa đối phương tấn công thì trọng tài có quyền tuyên bố ván cờ hòa” cũng có thể làm nảy sinh thắc mắc cho rằng còn nhiều trường hợp hòa khác sao trọng tài không can thiệp. Thực ra thì trường hợp quy định trong luật nói trên là rõ ràng nhất mới được quy định, còn các trường hợp khác còn phụ thuộc vào trình độ đấu thủ. Có trường hợp đối với các cao thủ thì hòa là chắc chắn, nhưng do một bên trình độ cờ thấp nên vẫn để thua như thường. Quy định trên cũng nhằm hạn chế sự thiên vị hay trình độ yếu kém của trọng tài, khiến ván cờ còn chưa ngã ngũ thì trọng tài đã tự ý can thiệp. Nếu quả thật gặp trường hợp nhất định sẽ hòa thì sớm muộn cũng sẽ dẫn tới điều khoản hạn định “60 nước không bắt quân” lúc đó xử hòa cờ là tất yếu hay hai bên đều nhận thấy và tự nguyện thỏa thuận với nhau hòa cờ.

8. Luật lần này được sửa đổi, bổ sung và chi tiết hóa nên phải phổ biến đầy đủ từng điều cho người chơi cờ, huấn luyện viên, ban tổ chức... Riêng trọng tài phải được tập huấn luật, được giải đáp tất cả các thắc mắc trước khi vào giải. Nếu bản thân trọng tài còn chưa nắm vững luật thì rất khó điều hành giải cờ có kết quả.

Khi đấu thủ yêu cầu thì trọng tài phải dẫn luật (chương nào, điều nào...) cho đấu thủ để phán xét của mình được đấu thủ chấp nhận. Vì vậy trước hết phải cho kỳ thủ học luật kỹ càng.

Có ý kiến cho rằng nên cộng lỗi tác phong và lỗi kỹ thuật, đủ 3 lỗi là xử thua cờ. Ở đây cần hiểu rõ: lỗi tác phong là một tên chung chỉ tư cách đạo đức cũng như tác hại mà nó gây ra, mức độ nặng nhẹ rất khác nhau, ví dụ khi thi đấu xảy ra ẩu đả thì ban tổ chức có thể truất ngay quyền thi đấu toàn giải của thủ phạm chứ không chờ tới 3 lần ẩu đả mới xử thua ván cờ. Trong luật không thể liệt kê hết các lỗi tác phong. Lỗi tác phong đề cập trong luật là những lỗi không gây tác hại nghiêm trọng. Vì vậy luật không có chỉ dẫn cộng lỗi tác phong và lỗi kỹ thuật. Cốt lõi của đánh cờ là đấu trí. Những quy định về bắt lỗi, xử phạt nhằm giữ khuôn phép và sự an toàn cho cuộc đấu trí chứ không phải chỉ là công cụ để định đoạt thắng thua.

Ở cơ sở ngoài việc phổ biến luật, cũng nên giao cho một số người nghiên cứu sâu về luật để gặp khi cần, mọi người có thể được giải đáp nhưng thắc mắc của mình.

9. Về cơ bản quyển luật này thống nhất với Luật Cờ Tướng châu Á và Luật Cờ Tướng thế giới. Nhưng có những điểm nhỏ khác biệt. Vì thế trước khi tham dự các giải đấu quốc tế hay tham dự giải quốc tế tổ chức tại Việt Nam, các đấu thủ, lãnh đội, huấn luyện viên, ban tổ chức cần tìm hiểu kỹ càng điều lệ giải và các điểm khác biệt đó để thông báo cho các đấu thủ và những người có trách nhiệm. Nếu có những quy định mới ban hành lần đầu tiên hay bổ sung thì Liên đoàn Cờ cần thông báo kịp thời.

10. Tập ghi biên bản: chỉ có biên bản mới giúp cho người chơi nghiên cứu lại các ván cờ của mình cũng như của đối thủ để tự sửa chữa sai sót, học tập nước hay, nâng cao trình độ. Cố gắng tập đánh bằng đồng hồ để làm chủ thời gian và biết cách phân phối thời gian hợp lý, khi tham gia các giải lớn có đồng hồ thì không bị bỡ ngỡ.

Trong quá trình tiến hành giải cờ, nếu có những tình huống phát sinh mà không có điều luật nào quy định rõ ràng, thì có thể nghiên cứu những tình huống tương tự được đề cập trong luật để tìm ra một giải pháp chính xác theo tinh thần chung là không trái với những điều được quy định trong luật. Luật Cờ Tướng này được xây dựng trên quan điểm cho rằng các trọng tài đều có đủ trình độ cần thiết, khả năng xét đoán lành mạnh và tinh thần khách quan tuyệt đối.

Trong quá trình biên soạn quyển Luật Cờ Tướng lần này, Ban soạn thảo đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý báu. Đứng đầu Ban biên soạn Luật là các ông Lê Uy Vệ, Phó chủ tịch Liên đoàn, trưởng Ban chuyên môn Cờ Tướng, ông Quách Anh Tú, Phó chủ tịch Liên đoàn, phó Ban chuyên môn Cờ Tướng cùng các thành viên. Ông Đặng Tất Thắng, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Liên đoàn đã xem và có những góp ý quý báu, ông Võ Tấn đã tổng hợp, biên tập và làm minh họa.

Ban soạn thảo trân trọng cảm ơn các nhà nghiên cứu: Tiến sĩ Phan Hồng Minh và cụ Ngô Linh Ngọc với trình độ học thuật và chuyên môn cao đã đóng góp rất lớn trong soạn thảo, dịch thuật, chỉnh lý và phân định các chương.

Nếu có ý kiến đóng góp với quyển Luật Cờ Tướng này, xin mời các độc giả vui lòng liên hệ với: Ban chuyên môn Cờ Tướng - Liên đoàn Cờ Việt Nam, 36 Trần Phú - Hà Nội.

 

MỤC LỤC

Quyết định của Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban TDTT về việc ban hành Luật Cờ Tướng

Lời nói đầu

Quyết định 1409/2004/QĐ-UBTDTT/TT1 về việc ban hành Luật Cờ Tướng do Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục thể thao ban hành

  • Số hiệu: 1409/2004/QĐ-UBTDTT/TT1
  • Loại văn bản: Quyết định
  • Ngày ban hành: 23/09/2004
  • Nơi ban hành: Quốc hội
  • Người ký: Nguyễn Danh Thái
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 23/09/2004
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
MỤC LỤC VĂN BẢN
MỤC LỤC VĂN BẢN
HIỂN THỊ DANH SÁCH