Hệ thống pháp luật

Chương 6 Quyết định 1409/2004/QĐ-UBTDTT/TT1 về việc ban hành Luật Cờ Tướng do Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục thể thao ban hành

Chương 6.

CÁC HÌNH THỨC THI ĐẤU

Nhằm tạo thuận lợi cho các ban tổ chức giải cờ cũng như tạo cho các đấu thủ, rút kinh nghiệm qua nhiều cuộc thi đấu, người ta đã đề ra các hình thức thi đấu đa dạng và thích hợp cho từng giải cờ.

Điều 25. HỆ THỐNG ĐẤU LOẠI TRỰC TIẾP

Thi đấu theo hệ thống này, các đấu thủ (hoặc đội) gặp nhau một trận đấu đối kháng. Các đấu thủ thua bị loại ngay. Mỗi cặp đấu thủ phải gặp nhau trong một trận đấu đối kháng thông thường là hai ván để mỗi người để được đi trước một ván. Nếu hòa đấu thêm hai ván nữa để phân thắng bại. Trường hợp hòa nữa, trọng tài cho bốc thăm màu quân đấu thêm một ván nữa hoặc cho bốc thăm may rủi để chọn người thắng, thi đấu tiếp vòng sau. Thi đấu theo hệ thống này người ta không cho hoãn đấu vì sẽ ảnh hưởng đến tiến trình chung của giải. Các trận bán kết (còn lại 16 người), tứ kết (còn lại 8 người), bán kết (còn lại 4 người), và chung kết (còn lại 2 người) thì số đấu thủ phải là 32, 64 hoặc 128. Trường hợp không đúng số người trên thì nên chọn một số đấu thủ hạt giống từ những người tham dự cho miễn đấu 1 - 2 trận để khi họ vào đấu thì khớp với các con số trên.

Điều 26. HỆ THỐNG VÒNG TRÒN

Trong hệ thống này các đấu thủ (đội) gặp nhau lần lượt, màu quân của các đấu thủ (đội) được xác định theo bảng (xem phụ lục).

Điều 27. HỆ THỤY SĨ

Thi đấu theo hệ Thụy Sĩ áp dụng trong trường hợp có nhiều đấu thủ (theo quy định từ 20 trở lên) chơi với số vòng đấu hạn chế được thông báo từ trước (thông thường cứ 20-30 đấu thủ thì đấu 7-9 vòng, từ 30-50 đấu thủ thì đấu 9 hay 11 vòng, nếu số lượng lớn hơn thì đấu 11 hay 13 vòng).

Trong Điều 4 nói về một dạng đặc biệt của hệ thống này được áp dụng trong những cuộc đấu mà kết quả được Liên đoàn Cờ Tướng thế giới xác nhận (hệ thống Thụy Sĩ có điều chỉnh) những trường hợp khác có thể sử dụng những dạng khác ví dụ như “Hệ Thụy Sĩ theo bốc thăm”. Trong hệ Thụy Sĩ các đấu thủ không được gặp nhau hai lần và được ghép thành từng cặp có chung số điểm hoặc sao cho sự chênh lệch điểm là nhỏ nhất. Không được phép chơi ba ván liên tiếp cùng màu quân hoặc hơn đấu thủ khác tới ba ván cùng màu quân.

Quy tắc này có thể bị xóa bỏ ở vòng đấu cuối cùng nếu nó làm cản trở việc xếp cặp theo cùng số điểm. Nên xếp sao cho mỗi đấu thủ có số ván cầm quân Đen và quân Trắng như nhau và màu quân thay đổi lần lượt.

Điều 28. HỆ THỤY SĨ ĐIỀU CHỈNH

28.1. Các đấu thủ được sắp xếp thứ tự theo hệ số quốc tế (ELO) (bắt đầu từ cao nhất), trong trường hợp có cùng hệ số (hoặc không có) xếp theo danh hiệu quốc tế được phong, hệ số của quốc gia hoặc đẳng cấp theo thứ hạng quốc gia, cuối cùng là theo bốc thăm.

28.2. Những đấu thủ có cùng số điểm hợp thành nhóm. Nếu trong vòng đấu nào đó số lượng đấu thủ là lẻ thì người có số cuối cùng trong nhóm điểm thấp nhất mà trước đó chưa được điểm nào do thiếu đấu thủ, sẽ được một điểm không phải chơi như không có đấu thủ và không tính màu quân.

28.3. Xếp các cặp bắt đầu từ nhóm điểm cao nhất (từ trên xuống dưới) và tiếp tục cho đến nhóm giữa (nhóm những đấu thủ được 50% số điểm); sau đó xếp các cặp trong nhóm điểm thấp nhất trở lên (theo nguyên tắc như đối với nhóm điểm cao) cho đến hết nhóm giữa. Những đấu thủ cùng nhóm được xếp theo thứ tự tăng dần và người đầu tiên sẽ gặp người đứng đầu nửa sau...

28.4. Nếu đấu thủ không có đấu thủ cùng nhóm điểm thì xếp đấu thủ đó sang nhóm điểm lân cận, cũng áp dụng như vậy trong trường hợp trong nhóm có số đấu thủ lẻ. Đấu thủ bị chuyển dịch khi ghép đôi ở nhóm trên xuống sẽ ghép với nhóm điểm thấp hơn gần nhất. Khi ghép đôi từ dưới thì đấu thủ đó được xếp lên nhóm cao điểm hơn gần nhất. Nếu có khả năng lựa chọn đấu thủ lên hay xuống cần phải căn cứ theo những điểm sau:

28.4.1. Việc đấu thủ đánh lên hay xuống phải góp phần vào việc cân bằng số lượng đấu thủ cầm quân Trắng và quân Đen, nếu số lượng bằng nhau thì chọn đấu thủ số thứ tự lớn nhất nếu đánh xuống hay đấu thủ có số thứ tự nhỏ nhất nếu đánh lên.

28.4.2. Khi ghép đôi từ trên xuống dưới, thì đấu thủ đánh xuống không được có hệ số lớn hơn đấu thủ cùng nhóm có số thứ tự lớn nhất 100 đơn vị, trong trường hợp ngược lại đấu thủ có số thứ tự lớn nhất trong nhóm sẽ đánh xuống.

28.4.3. Khi ghép đôi đánh lên, thì đấu thủ đó không được có hệ số lớn hơn đấu thủ có số thứ tự nhỏ nhất trong nhóm 100 đơn vị, trong trường hợp ngược lại, người có số thứ tự nhỏ nhất sẽ đánh lên.

Chú ý: Những giới hạn này chỉ được áp dụng trong những giải mà số đấu thủ lớn hơn 2n (2 lũy thừa n) trong đó “n” là số vòng đấu.

- Đấu thủ đánh xuống hay đánh lên phải có đấu thủ trong nhóm mới có số điểm cao nhất (thấp nhất) hoặc trong trường hợp bằng điểm thì phải có số thứ tự nhỏ nhất (lớn nhất).

- Nếu không chọn được đối thủ cho đấu thủ đánh lên (hay xuống) thì phải chọn đấu thủ khác trong nhóm để đánh lên (hay xuống).

28.5. Trong trường hợp có nhiều đấu thủ đánh xuống thì trong nhóm đó đầu tiên chọn cặp có điểm cao nhất, trong trường hợp bằng điểm thì có thứ tự nhỏ nhất.

Trong trường hợp đánh lên thì chọn cặp có số điểm ít nhất, nếu bằng điểm thì chọn cặp có số thứ tự lớn nhất.

28.6. Đấu thủ đánh lên (hay xuống) được ghép đối với đấu thủ có số thứ tự lớn nhất (hay nhỏ nhất) và đấu thủ đó phải chơi màu quân ngược lại với màu quân mà đấu thủ đánh lên (hay xuống) phải chơi, nếu vì lý do này phải thay đấu thủ khác thì hệ số của đấu thủ mới này cũng không được chênh nhau quá 100 đơn vị. Sau đó kiểm tra lại những cặp đã chọn (kiểm tra lần thứ nhất). Khi ghép đôi từ trên xuống dưới thì kiểm tra bắt đầu từ đấu thủ có số thứ tự nhỏ nhất (nếu không dung hợp được thì thay thế đấu thủ có số thứ tự lớn hơn). Khi ghép đôi từ dưới lên trên - bắt đầu từ đấu thủ có số thứ tự lớn nhất (nếu không dung hợp được thì lấy đấu thủ có số thứ tự nhỏ hơn).

Khi không thể thực hiện được điều kiện trên thì đấu thủ số 1 giữ nguyên đối thủ, còn đấu thủ số 2 phải đánh lên hay xuống, trong đó:

28.6.1. Nếu trong nhóm ban đầu là lẻ và đấu thủ có số thứ tự lớn nhất phải đánh xuống, thì đấu thủ đó đổi chỗ cho đấu thủ số 2.

28.6.2. Nếu số đấu thủ trong nhóm ban đầu là chẵn thì đấu thủ có số thứ tự lớn nhất cùng với đấu thủ số 2 đều đánh xuống.

Trong lần kiểm tra thứ hai của các đấu thủ, theo khả năng có màu quân và các ván lần lượt và sau số vòng đấu chẵn có số ván đã chơi quân Đen bằng quân Trắng. Nếu cả hai đấu thủ trong một cặp có cùng màu quân ở trận đấu trước thì màu quân sẽ xác định trên cơ sở màu quân của những ván trước, còn nếu cũng giống nhau thì màu quân sẽ xếp lần lượt cho đấu thủ có số thứ tự nhỏ hơn.

Nếu cả hai đấu thủ cùng cầm một màu quân để cân bằng màu quân của các ván đã chơi, mà tiếp theo không thể thay thế được, thì màu quân của những ván trước đó sẽ quyết định, còn nếu chúng giống nhau thì phải cân bằng màu quân của đấu thủ có số thứ tự nhỏ hơn.

Những thay thế theo những nguyên nhân đã nêu chỉ được phép trong những trường hợp nếu hệ số của những đấu thủ trong cặp thay thế chênh nhau không quá 100 đơn vị.

Trong vòng đấu bốc thăm xác định màu quân cho những đấu thủ số lẻ và số chẵn trong nhóm nửa trên.

28.7. Nếu đấu thủ thông báo về việc bỏ (muộn) một hay hai vòng (và được trọng tài cho phép) thì trong những vòng không chơi, đấu thủ đó không được điểm và số thứ tự của nó được xếp sau khi đấu thủ đó có mặt (trước đó số thứ tự của các đấu thủ coi là tạm thời).

Điều 29. HỆ THỐNG THỤY SĨ THEO BỐC THĂM (Hệ thống Đại tuần hoàn)

Hệ thống Đại tuần hoàn là hệ thống thi đấu dựa theo kết quả bốc thăm sau mỗi trận đấu, rất thông dụng trong các cuộc thi đấu có tính chất quần chúng. Hệ thống này cho phép tổ chức thi đấu với bất kỳ số lượng vận động viên là bao nhiêu với số lượt đấu không lớn lắm. Ưu điểm chính của hệ thống này là bảo đảm cho số đông đấu thủ được tham gia, thời gian thi đấu có thể ấn định tùy ý, hơn nữa các đấu thủ lại được tham dự từ đầu cho đến cuối giải không bị loại như trong hệ đấu loại trực tiếp.

Trong hệ thống Đại tuần hoàn, tại mỗi lượt thi đấu các đấu thủ chỉ gặp các đấu thủ có cùng số điểm, hoặc có số điểm gần bằng nhau. Các cặp đấu thủ gặp nhau, đều được xác định qua bốc thăm.

Nhược điểm của hệ thi đấu này là số lần đi trước của đấu thủ có thể chênh lệch, nên tốt nhất cần quy định số lượt thi đấu là một số lẻ để cho sự chênh lệch trong quyền đi trước không quá một lần.

Phương thức tổ chức thi đấu bao gồm các điểm sau:

29.1. Thẻ theo dõi thi đấu.

Ban đầu cũng tổ chức xác định số thứ tự cho các đấu thủ. Số thứ tự này chỉ có nghĩa trong vòng đấu đầu số 1 gặp số 2, số 3 gặp số 4... và số nhỏ cầm quân Trắng. Trong những vòng sau, số thứ tự không có giá trị mà các cặp sẽ gặp nhau theo kết quả bốc thăm cho từng nhóm riêng có số điểm bằng nhau. Quyền cầm quân Trắng cũng sẽ được ấn định dựa vào việc bốc thăm lựa chọn các cặp đấu thủ (sau vòng 1 thường có ba nhóm: Nhóm 1 điểm, nhóm 1/2 điểm và nhóm 0 điểm. Sau vòng 2 có thể có năm nhóm điểm...).

Mỗi đấu thủ được ban tổ chức thi đấu chuẩn bị sẵn cho một thẻ thi đấu do trọng tài theo dõi ghi sau khi bốc thăm và kết thúc trận đấu. Mẫu thẻ như sau:

MẪU THẺ THEO DÕI THI ĐẤU

Tên đấu thủ: Nguyễn Văn A

Đẳng cấp: Kiện tướng Số: 1

Vòngđấu

Tên đối thủ

Đẳng cấp

Số

Màu quân

Kết quả

Nhóm

Tổng số điểm

Ghi chú

1

Trần Văn B

KT

4

T

1

I

1

 

2

Trịnh Văn C

 

7

Đ

0,5

IV

1,5

 

3

Lê Đình D

C.1

2

T

0

II

1,5

 

Ghi chú: KT=Kiện tướng, C.1=cấp 1, T=Trắng, Đ=Đen

29.2. Chia các nhóm để bốc thăm.

Sau mỗi vòng đấu, thẻ các đấu thủ có tổng số điểm ngang nhau được xếp vào cùng một nhóm.

Trước khi bốc thăm, để bảo đảm quyền cầm quân Trắng được công bằng, số thẻ trong mỗi nhóm lại được chia thành 4 phân nhóm.

29.2.1. Sau số vòng đấu lẻ (1 vòng, 3 vòng, 5 vòng...)

- Phân nhóm 1: Thẻ các đấu thủ cầm quân Đen liền hai ván cuối cùng.

- Phân nhóm 2: Thẻ các đấu thủ có số ván cầm quân Đen lớn hơn.

- Phân nhóm 3: Thẻ các đấu thủ có số ván cần quân Trắng lớn hơn.

- Phân nhóm 4: Thẻ các đấu thủ cầm quân Trắng liền hai ván cuối cùng.

29.2.2. Sau số vòng đấu chẵn (2 vòng, 4 vòng, 6 vòng...).

- Phân nhóm 1: Thẻ các đấu thủ hai ván cuối cùng cầm quân Đen hoặc số ván cầm quân Đen lớn hơn.

- Phân nhóm 2: Thẻ các đấu thủ có số ván cầm quân Trắng và quân Đen bằng nhau, nhưng ván cuối cùng cầm quân Đen.

- Phân nhóm 3: Thẻ các đấu thủ có số ván cầm quân Trắng và quân Đen bằng nhau, nhưng ván cuối cùng cầm quân Trắng.

- Phân nhóm 4: Thẻ các đấu thủ hai ván cuối cùng cầm quân Trắng hoặc số ván cầm quân Trắng lớn hơn.

29.3. Nguyên tắc bốc thăm

Dựa trên cơ sở là đấu thủ phân nhóm 1 trong trận sau dứt khoát được cầm quân Trắng và đấu thủ ở phân nhóm 4 sẽ phải cầm quân Đen, vì việc bốc thăm lại phải tiến hành rộng rãi (không riêng phân nhóm 1 gặp phân nhóm 4), cần tiến hành bốc thăm theo thứ tự sau, từ nhóm có điểm cao nhất xuống các nhóm dưới:

29.3.1. Chọn đấu thủ cho phân nhóm 1 ở trong số đấu thủ phân nhóm 3 và 4 gộp lại.

29.3.2. Số đấu thủ còn lại ở phân nhóm 4 sẽ chọn đối phương ở phân nhóm 2 (đấu thủ phân nhóm 2 cầm quân Trắng).

29.3.3. Số đấu thủ còn lại ở phân nhóm 2 sẽ chọn đối phương ở phân nhóm 3 (đấu thủ phân nhóm 2 cầm quân Trắng).

29.3.4. Số đấu thủ còn lại của phân nhóm 2 (hoặc phân nhóm 3) sẽ đấu với nhau. Màu quân sẽ định bằng bốc thăm.

Trong trường hợp số thẻ trong một nhóm đấu thủ bằng điểm nhau là số lẻ, thì một đấu thủ không có đối phương trong nhóm ấy và như vậy phải chọn cho đấu thủ đó một đối thủ trong nhóm dưới theo nguyên tắc sau:

29.3.5. Nếu đấu thủ thuộc phân nhóm 1 và 2 thì chọn đối phương ở phân nhóm 3 và 4 nhóm dưới và trong vòng sau đấu thủ cầm quân Trắng.

29.3.6. Nếu đấu thủ thuộc phân nhóm 3 và 4 thì chọn đối phương ở nhóm 1 và 2 nhóm dưới và trong vòng sau đối thủ cầm quân Đen.

Trong thẻ theo dõi, trọng tài sẽ ghi ký hiệu (đi xuống) trong một nhóm đối với đấu thủ đó và ký hiệu (đi lên) cho đối phương của anh ta. Nếu trong nhóm này số đấu thủ là chẵn, thì sau đó lại xảy ra trường hợp một đấu thủ không có cặp và do đó lại tìm đối phương cho đấu thủ này ở nhóm dưới nữa.

29.4. Những vấn đề cần lưu ý

29.4.1. Hai đấu thủ chỉ được quyền gặp nhau 1 lần trong suốt hệ thi đấu. Nếu khi bốc thăm xảy ra trường hợp hai đấu thủ gặp nhau lần nữa, thì kết quả này coi như không có giá trị và bốc thăm lại để chọn đối thủ khác, nếu cần có thể thay đổi cả kết quả bốc thăm ở các cặp trước, nhất thiết không được để hai đấu thủ gặp lại lần thứ hai.

29.4.2. Mỗi đấu thủ không được chơi quá hai ván với cùng một màu quân và tránh tình trạng số lần giữ quân Trắng và quân Đen của một đấu thủ quá chênh lệch (lớn quá 1 ván khi số vòng đấu lẻ, quá 2 ván khi số vòng đấu chẵn).

29.4.3. Có trường hợp một số đấu thủ không có đối phương ở cùng nhóm hoặc ở cả nhóm dưới (vì lý do màu quân).

Trường hợp này phải tìm cho đấu thủ một đối thủ ở nhóm trên và như vậy tức là phải thay đổi cả kết quả bốc thăm ở nhóm trên này.

29.4.4. Nếu có điều kiện tránh tình trạng một đấu thủ “đi lên” lại có lần “đi xuống” rồi thì có thể coi như đấu thủ đó chưa “đi lên” và “đi xuống”.

Dễ dàng nhận thấy rằng việc bốc thăm chọn cặp đấu thủ trong hệ đấu Đại tuần hoàn đòi hỏi trọng tài phải nhạy bên khéo léo, cân nhắc và suy nghĩ kỹ càng. Kết quả bốc thăm thường được tiến hành ngay sau một vòng đấu và được công bố cho đấu thủ biết trước để chuẩn bị cho vòng đấu sau. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm xử lý mọi khiếu nại về kết quả bốc thăm sau khi việc bốc thăm hoàn thành, mọi khiếu nại được giải quyết, kết quả bốc thăm có hiệu lực và các đấu thủ có trách nhiệm thi hành.

29.5. Phân bố kết quả

Số vòng thi đấu trong hệ Đại tuần hoàn thì ít nhất là 6 vòng và ít khi vượt quá 15 vòng. Nếu số vòng thi đấu lớn hơn tức là điều kiện về thời gian rộng rãi thì nên chia số đấu thủ thành nhiều bảng để thi đấu vòng tròn kết quả sẽ công bằng hơn.

Số đấu thủ trong hệ Đại tuần hoàn không được ít hơn 18 vận động viên, nhưng thông thường số đấu thủ phải từ 30 trở lên thì việc vận dụng hệ thi đấu này mới có kết quả tốt và đảm bảo được tính chất công bằng hợp lý trong kế hoạch bốc thăm.

Sau khi vòng đấu kết thúc, các đấu thủ được xếp hạng theo tổng số điểm thu được.

Trong trường hợp nhiều đấu thủ bằng điểm nhau (điều này rất dễ xảy ra), không chỉ phân định thứ tự bằng cách tính hệ Búcgôn như trong hệ đấu vòng tròn vì mỗi đấu thủ đã gặp các đấu thủ khác nhau. Để xác định thứ hạng cho các đấu thủ này, người ta quy ước tính hệ số Búcgôn cho các đấu thủ đó. Hệ số Búcgôn được tính bằng cách cộng số điểm thu được của tất cả các đối phương đã gặp của một đấu thủ. Giữa 2 hay nhiều đấu thủ bằng điểm nhau, ai có hệ số lớn hơn sẽ được xếp hạng trên.

Riêng trong trường hợp tính hệ số Búcgôn mà có một đấu thủ bỏ cuộc giữa chừng, thì điểm của đấu thủ này được xác định bằng cách lấy trung bình cộng của số điểm thu được của các đấu thủ cùng nhóm với đấu thủ trước khi bỏ cuộc. Trong hệ Thụy Sĩ nếu có đấu thủ lẻ, thì đấu thủ nào được nghỉ sẽ tính hệ số của ván đó bằng số điểm của người xếp cuối cùng giải.

Hệ thi đấu Đại tuần hoàn có nhược điểm là tổ chức các cặp đấu dựa vào kết quả bốc thăm nên không tránh khỏi một số ngẫu nhiên. Tuy nhiên, mặt tích cực của nó rất rõ ràng, trừ một số trường hợp phải xác định đấu thủ giỏi nhất một cách chính xác trong các cuộc thi đấu.

Một điểm cần lưu ý là khi vận dụng hệ thi đấu này các ván cờ phải được kết thúc trong một buổi, chứ không tổ chức hoãn đấu.

Điều 30. THI ĐẤU ĐỒNG ĐỘI

Các hình thức thi đấu đồng đội cũng tương tự như các hình thức thi đấu cá nhân và chỉ khác là mỗi đội thi đấu được coi là một đơn nguyên.

Theo quy định chung các cuộc thi đấu đồng đội chính thức mỗi đội chỉ có từ 3-6 đấu thủ chính thức và 1-3 đấu thủ dự bị. Các cuộc thi đấu hữu nghị cho phép các đội thi đấu với số vận động viên không giới hạn (thậm chí mỗi đội từ 20-30 đấu thủ hoặc hơn nữa) với mục đích tuyên truyền phát triển phong trào.

30.1. Nguyên tắc tổ chức chung.

30.1.1. Trong một cuộc thi đấu, các đấu thủ của một đội chỉ gặp các đấu thủ trong cùng một đội khác.

Như vậy tức là các đấu thủ 1, 2, 3, 4... của đội A chỉ gặp các đấu thủ 1, 2, 3, 4... của đội B, số 2 của đội A gặp số 2 của đội C, số 3 của đội A gặp số 3 của một đội khác nữa... trong một buổi.

30.1.2. Trong một đội mỗi đấu thủ sẽ được chia vào một bảng khác nhau. Trong một số trường hợp đặc biệt, có thể 2-3 đấu thủ cùng một đội được chia vào một bảng nhưng họ không đấu với nhau.

30.1.3. Các đội sẽ lập danh sách đấu thủ theo thứ tự trình độ chuyên môn. Đấu thủ khá nhất mang số 1, đấu thủ yếu nhất mang số cuối.

Để phân biệt các đấu thủ mang cùng số, các đội bốc thăm lấy số thứ tự A, B, C... các đấu thủ của đội A sẽ có số A1, A2, A3, của đội B là B1, B2, B3... Các đấu thủ cùng thứ tự sẽ vào cùng một bảng: Bảng 1 có các đấu thủ A1, B1, C1... bảng 4 có các đấu thủ A4, B4, C4... và chỉ thi đấu trong bảng đó không chuyển sang bảng khác.

Riêng trong các cuộc đấu hữu nghị giữa hai đội với số lượng đấu thủ rất đông (mỗi bên 30-40 đấu thủ trở lên) theo hình thức đối kháng đồng loạt, thì không bắt buộc phải ghi tên đấu thủ vào từng bảng và cho phép sau một ván cờ có thể sắp xếp lại thứ tự các đấu thủ.

30.1.4. Trong một thi đấu, nếu vì một lý do chính đáng, mà một đấu thủ chính thức không thể tham gia được thì đội được quyền thay đấu thủ dự bị vào đúng bảng có đấu thủ phải nghỉ thi đấu. Việc thay thế được ban tổ chức cho phép không được chậm quá giờ thi đấu là 15 phút và tuyệt đối không được tiến hành khi ván cờ đang dở dang. Nếu có trường hợp giữa ván cờ đấu thủ chính thức không thể tiếp tục được thì coi như đấu thủ thua ván cờ đó và đấu thủ dự bị chỉ được vào thay thế trong lượt thi đấu sau.

Riêng cuộc thi đấu đối kháng giữa hai đội với số lượng đông có tính chất hữu nghị, nếu trước giờ thi đấu, một đấu thủ chính thức không tham dự được thì chuyển đấu thủ dưới lên và đấu thủ dự bị thay vào bảng cuối cùng (khi mỗi đội có 30 đấu thủ trở lên).

30.1.5. Thành tích của một đội là tổng số các điểm mà các đấu thủ của đội đã giành được trong các cuộc đấu. Đội nào có tổng số điểm cao hơn sẽ được xếp hạng trên.

Nếu hai đội bằng điểm nhau, thì người ta xét thành tích của đấu thủ khá nhất (đấu thủ bảng 1), nếu hai đấu thủ này bằng điểm nhau, thì xét tiếp đến bảng 2 và tiếp tục như thế.

30.2. Hệ thống đối kháng

Hệ thống đối kháng là hình thức thi đấu đồng đội, khi chỉ có hai đội gặp nhau. Hệ thống đối kháng có thể tổ chức theo hai thể thức tùy theo số lượng đấu thủ, thời gian thi đấu và yêu cầu của tổ chức thi đấu.

30.2.1. Đối kháng đồng loạt

Theo thể thức này, hai đội lập danh sách đấu thủ (theo nguyên tắc 3) và các đấu thủ có cùng số thứ tự sẽ cùng gặp nhau trong một trận gồm từ 1-4 ván.

Số ván cờ thường được quy định là chẵn để đảm bảo quyền đi trước của hai đội bằng nhau. Trong trường hợp mỗi đội có từ 10 đấu thủ trở lên thì có thể chỉ cần đánh một ván và khi đó các số lẻ của đội A được cầm quân Trắng đi trước và số chẵn đội A giữ quân Đen đi sau (bốc thăm giữa hai đội lấy thứ tự A và B; số đấu thủ nên là số chẵn).

Thể thức thi đấu này có ưu điểm là đơn giản, tổ chức nhanh và gọn nên thường được vận dụng trong các cuộc thi đấu hữu nghị giữa các cơ sở với nhau.

Nhược điểm là chưa đánh giá một cách chính xác được thực lực của các đội và yếu tố ngẫu nhiên còn có nhiều tác dụng, nhất là trong trường hợp các trận đấu chỉ có một ván.

30.2.2. Đối kháng kiểu Anh

Thường được vận dụng khi số đấu thủ chính thức của mỗi đội ít (6 người trở xuống). Theo thể thức này, mỗi đấu thủ của đội sẽ lần lượt gặp tất cả các đấu thủ của đội kia và mỗi trận chỉ có một ván.

Hai đội bốc thăm và tiến hành thi đấu theo thứ tự quy định theo lịch thi đấu sau:

Đội 3 đấu thủ

Lượt đấu

Bàn 1

Bàn 2

Bàn 3

1

A1 - B3

A2 - B1

A3 - B2

2

A1 - B2

A2 - B3

A3 - B1

3

A1 - B1

A2 - B2

A3 - B3

Đội 4 đấu thủ

Lượt đấu

Bàn 1

Bàn 2

Bàn 3

Bàn 4

1

A1 - B4

A2 - B1

A3 - B2

A4 - B3

2

A1 - B3

A2 - B4

A3 - B1

A4 - B2

3

A1 - B2

A2 - B3

A3 - B4

A4 - B1

4

A1 - B1

A2 - B2

A3 - B3

A4 - B4

Đội 5 đấu thủ

Lượt đấu

Bàn 1

Bàn 2

Bàn 3

Bàn 4

Bàn 5

1

A1 - B5

A2 - B1

A3 - B2

A4 - B3

A5 - B4

2

A1 - B4

A2 - B5

A3 - B1

A4 - B2

A5 - B3

3

A1 - B3

A2 - B4

A3 - G5

A4 - B1

A5 - B2

4

A1 - B2

A2 - B3

A3 - B4

A4 - B5

A5 - B1

5

A1 - B1

A2 - B2

A3 - B3

A4 - B4

A5 - B5

Đội 6 đấu thủ

Lượt đấu

Bàn 1

Bàn 2

Bàn 3

Bàn 4

Bàn 5

Bàn 6

1

A1 - B6

A2- B1

A3 - B2

A4- 83

A5- B4

A6 - B5

2

A1 -B5

A2- B6

A3- B1

A4 - B2

A5 - B3

A6 -B4

3

A1 - B4

A2 - B5

A3- B6

A4 - 81

A5- B2

A6 - B3

4

A1 - B3

A2-B4

A3 -G5

A4 - B6

A5- B1

A6- B2

5

A1 -B2

A2- B3

A3- B4

A4 ' B5

A5 - B6

A6 - B1

6

A1 - B1

A2- B2

A3- B3

A4 - B4

A5- B5

A6 - B6

Quyền thi đấu được xác định theo nguyên tắc sau:

Các đấu thủ số lẻ đội A đi trước với các số lẻ đội B và đi sau với các số chẵn. Các đấu thủ số chẵn đội A đi trước với số chẵn đội B và đi sau với các số lẻ. Như vậy, trong các trận giữa các đấu thủ cùng thứ tự, bên A bao giờ cũng được đi trước và nếu số đấu thủ lẻ thì đội A được đi trước nhiều hơn một ván. Cũng vì vậy, nên trong nhiều trường hợp người ta thường bố trí trận đấu hai ván để cho công bằng.

Thể thức này có ưu điểm là xác định đội thắng một cách chính xác, nhưng đòi hỏi phải có thời gian thi đấu dài.

30.3. Hệ thống đấu loại trực tiếp

Hệ thống đấu loại trực tiếp được vận dụng khi số đội dự giải tương đối đông và khi ban tổ chức thi đấu không có điều kiện tập trung nhiều đấu thủ trong cùng một thời gian.

Hình thức tổ chức này được tiến hành đúng như khi tổ chức thi đấu loại trực tiếp cho cá nhân, chỉ khác là trong giải cá nhân thì cập đấu thủ gặp nhau, còn trong giải đồng đội thì các đội gặp nhau theo thể thức đối kháng, thường là đối kháng kiểu Anh.

Các cuộc thi đấu theo hình thức này thường kéo dài từ 3 tháng đến 1 năm, nhưng có ưu điểm là đơn giản cho công tác tổ chức thi đấu.

Thông thường ban tổ chức thi đấu chỉ cần lập bảng chung, công bố hạn định thời gian cho từng vòng. Các đội phải gặp nhau sẽ trao đổi và quyết định về địa điểm và ngày giờ thi đấu trong phạm vi hạn định trên và báo cáo ban tổ chức cử cán bộ và trọng tài xuống theo dõi và lập biên bản xác định kết quả.

30.4. Hệ thống đấu vòng tròn

Hình thức tổ chức này được vận dụng khi số đội tham dự giải dưới 16 đội và khi điều kiện tổ chức cho phép tập trung được số lượng lớn đấu thủ trong cùng một thời gian liên tục.

Phương thức tổ chức cũng giống bảng đấu vòng tròn cá nhân, nhưng thay vào số thứ tự của cá nhân là thứ tự của đội. Do đó, đối với cuộc thi 16 đội sẽ vận dụng bảng đấu vòng tròn cho 16 đấu thủ, cuộc thi 8 đội áp dụng bảng cho 8 đấu thủ...

Lịch thi đấu cho một giải 8 đội sẽ như sau (số 1 là đội A, số 2 là đội B (số 3 là độ C...):

Lượt đấu

 

 

 

 

1

A - H

B - G

C - F

D - E

2

H - E

F - D

G - C

A - B

3

B - H

C - A

D - G

E - F

4

H - F

G - E

A - D

B - C

5

C - H

D - B

E - A

F - G

6

H - G

A - F

B - E

C - D

7

D - H

E - C

F - B

G - A

Trận đội A gặp đội H thì đấu thủ A1 gặp H1, A2 gặp H2, trận đội C gặp đội F thì đấu thủ C1 gặp đấu thủ F1, C2 gặp F2... Hội trường thi đấu bố trí thành từng khu vực cho hai đội một và các đấu thủ của một đội đều ngồi cùng về một phía.

Quyền đi trước được xác định theo quy tắc sau: Dựa vào cách xác định quyền đi trước theo bảng cá nhân, xác định ưu tiên của đội (nếu số 3 được đi trước thì tức là đội C được ưu tiên đi trước, số 7 đi trước thì đội G được ưu tiên).

Trong các trận đấu giữa hai đội, các đấu thủ số lẻ đội ưu tiên được đi trước và số chẵn đi sau.

Qua cách tổ chức thi đấu này ta thấy là các đội gặp nhau theo quy tắc nhất định và chỉ các đấu thủ có cùng số thứ tự (cùng trong một bảng) mới gặp nhau mà thôi.

30.5. Hệ thống Đại tuần hoàn

Cách thức tiến hành cũng giống thi đấu cá nhân: Sau mỗi vòng đấu các đội thu được số điểm như nhau sẽ được xếp vào cùng nhóm và cũng chia theo phân nhóm để bốc thăm cho vòng sau.

Khi các đội gặp nhau, số 1 gặp số 1, số 2 gặp số 2..., quyền đi trước cũng được xác định giống như thi đấu hệ Đại tuần hoàn cá nhân, đội được quyền đi trước thì các số lẻ được đi trước và số chẵn đi sau. Mọi nguyên tắc tổ chức cho giải cá nhân đều được áp dụng đúng cho giải đồng đội.

 

PHỤ LỤC 1

BẢNG TRÌNH TỰ THI ĐẤU

Bảng thi đấu nhằm xác định thứ tự trận đấu trong các cuộc thi và để xác định đấu thủ nào cầm quân Trắng đi trước. Trước tiên các đấu thủ sẽ bốc thăm và mỗi người sẽ nhận được một số từ 01 đến số cuối cùng tương ứng với số lượng đấu thủ tham gia cuộc thi. Sau đó theo bảng thi đấu, đã chỉ rõ các cặp đấu thủ nào sẽ gặp nhau trong lượt thi đấu thứ mấy. Nếu số lượng đấu thủ là số lẻ thì đấu thủ nào gặp đấu thủ có số thứ tự đặt trong dấu ngoặc () sẽ được nghỉ trong lượt đấu ấy.

Dưới đây là bảng thi đấu lập mẫu cho các vòng đấu từ 3 đến 16 đấu thủ (đấu thủ ở số bên trái gạch ngang đều cầm quân Trắng):

Bảng cho 3 - 4 đấu thủ

Lượt đấu

Bàn 1

Bàn 2

1

1 - (4)

2 - 3

2

(4) - 3

1 - 2

3

2 - (4)

3 - 1

Nếu có 3 đấu thủ, thì đấu thủ nào gặp số 4 sẽ được nghỉ trong lượt đấu ấy.

Bảng cho 5 - 6 đấu thủ

Lượt đấu

Bàn 1

Bàn 2

Bàn 3

1

1 - (6)

2 - 5

3 - 4

2

(6) - 4

5 - 3

1 - 2

3

2 - (6)

3 - 1

4 - 5

4

(6) - 5

1 - 4

2 - 3

5

3 - (6)

4 - 2

5 - 1

Nếu có 5 đấu thủ, thì đấu thủ nào gặp số 6 sẽ được nghỉ trong lượt đấu ấy.

Bảng cho 7 - 8 đấu thủ

Lượt đấu

Bàn 1

Bàn 2

Bàn 3

Bàn 4

1

1 - (8)

2 - 7

3 - 6

4 - 5

2

(8) - 5

6 - 4

7 - 3

1 - 2

3

2 - (8)

3 - 1

4 - 7

5 - 6

4

(8) - 6

7 - 5

1 - 4

2 - 3

5

3 - (8)

4 - 2

5 - 1

6 - 7

6

(8) - 7

1 - 6

2 - 5

3 - 4

7

4 - (8)

5 - 3

6 - 2

7 - 1

Nếu có 7 đấu thủ, thì đấu thủ nào gặp số 8 sẽ được nghỉ trong lượt đấu ấy.

Bảng cho 9 - 10 đấu thủ

Lượt đấu

Bàn 1

Bàn 2

Bàn 3

Bàn 4

Bàn 5

1

1 - (10)

2 - 9

3 - 8

4 - 7

5 - 6

2

(10) - 6

7 - 5

8 - 4

9 - 3

1 - 2

3

2 - (10)

3 -1

4 - 9

5 - 8

6 - 7

4

(10) - 7

8 - 6

9 - 5

1 - 4

2 - 3

5

3 - (10)

4 - 2

5 - 1

6 - 9

7 - 8

6

(10) - 8

9 - 7

1 - 6

2 - 5

3 - 4

7

4 - (10)

5 - 3

6 - 2

7 - 1

8 - 9

8

(10) - 9

1 - 8

2 - 7

3 - 6

4 - 5

9

5 - (10)

6 - 4

7 - 3

8 - 2

9 - 1

Bảng cho 11-12 đấu thủ

Lượt đấu

Bàn 1

Bàn 2

Bàn 3

Bàn 4

Bàn 5

Bàn 6

1

1 - (12)

2 - 11

3 - 10

4 - 9

5 - 8

6 - 7

2

(12) - 7

8 - 6

9 - 5

10 - 4

11 - 3

1 - 2

3

2 - (12)

3 - 1

4 - 11

5 - 10

6 - 9

7 - 3

4

(12) - 8

9 - 7

10 - 6

11 - 5

1 - 4

2 - 3

5

3 - (12)

4 - 2

5 - 1

6 - 11

7 - 10

8 - 9

6

(12) - 9

10 - 8

11 - 7

1 - 6

2 - 15

3 - 4

7

4 - (12)

5 - 3

6 - 2

7 - 1

8 - 11

9 - 10

8

(12) - 10

11 - 9

1 - 8

2 - 7

3 - 6

4 - 5

9

5 - (12)

6 - 4

7 - 3

8 - 12

9 -1

10 - 11

10

(12) - 11

1 - 10

2 - 9

3 - 8

4 - 7

5 - 6

11

6 - (12)

7 - 5

8 - 4

9 - 3

10 - 2

11 - 1

Bảng cho 13 - 14 đấu thủ

Lượt đấu

Bàn 1

Bàn 2

Bàn 3

Bàn 4

Bàn 5

Bàn 6

Bàn 7

1

1 - (14)

2 - 13

3 - 12

4 - 11

5 - 10

6 - 9

7 - 8

2

(14) - 8

9 - 7

10 - 6

11 - 5

12 - 4

13 - 3

1 - 2

3

2 - (14)

3 - 1

4 - 13

5 - 12

6 - 11

7 - 10

8 - 9

4

(14) - 9

10 - 8

11 - 7

12 - 6

13 - 5

1 - 4

2 - 3

5

3 - (14)

4 - 2

5 - 1

6 - 13

7 - 12

8 - 11

9 - 10

6

(14) - 10

11 - 9

12 - 8

13 - 7

1 - 6

2 - 5

3 - 4

7

4 - (14)

5 - 3

6 - 2

7 - 1

8 - 13

9 - 12

10 - 11

8

(14) - 11

12 - 10

13 - 9

1 - 8

2 - 7

3 - 6

4 - 5

9

5 - (14)

6 - 4

7 - 3

8 - 2

9 - 1

10 - 13

11 - 12

10

(14) - 12

13 - 11

1 - 10

2 - 9

3 - 8

4 - 7

5 - 6

11

6 - (14)

7 - 5

8 - 4

9 - 3

10 - 2

11 - 1

12 - 13

12

(14) - 13

1 - 12

2 - 11

3 - 10

4 - 9

5 - 8

6 - 7

13

7 - (14)

8 - 6

9 - 5

10 - 4

11 -3

12 - 2

13 - 1

Bảng cho 15 - 16 đấu thủ

Lượt đấu

Bàn 1

Bàn 2

Bàn 3

Bàn 4

Bàn 5

Bàn 6

Bàn 7

Bàn 8

1

1 - (16)

2 - 15

3 - 14

4 - 13

5 - 12

6 - 11

7 - 10

8 - 9

2

(16) - 9

10 - 8

11 - 7

12 - 6

13 - 5

14 - 4

15 - 3

1 - 2

3

2 - (16)

3 - 1

4 - 15

5 - 14

6 - 13

7 - 12

8 - 11

9 - 10

4

(16) - 10

11 - 9

12 - 8

13 - 7

14 - 6

15 - 5

1 - 4

2 - 3

5

3 - (16)

4 - 2

5 - 1

6 - 15

7 - 14

8 - 13

9 - 12

10 - 11

6

(16) - 11

12 - 10

13 - 9

14 - 8

15 - 7

1 - 6

2 - 5

3 - 4

7

4 - (16)

5 - 3

6 - 2

7 - 1

8 - 15

9 - 14

10 - 13

11 - 12

8

(16) - 12

13 - 11

14 - 10

15 - 9

1 - 8

2 - 7

3 - 6

4 - 5

9

5 - (16)

6 - 4

7 - 3

8 - 2

9 - 1

10 - 15

11 - 14

12 - 13

10

(16) - 13

14 - 12

15 - 11

1 - 10

2 - 9

3 - 8

4 - 7

5 - 6

11

6 - (16)

7 - 5

8 - 4

9 - 3

10 - 2

11 - 1

12 - 15

13 - 14

12

(16) - 14

15 - 13

1 - 12

2 - 11

3 - 10

4 - 9

5 - 8

6 - 7

13

7 - (16)

8 - 6

9 - 5

10 - 4

11 - 3

12 - 2

13 - 1

14 - 15

14

(16) - 15

1 - 14

2 - 13

3 - 12

4 - 11

5 - 10

6 - 9

7 - 8

15

8 - (16)

9 - 7

10 - 6

11 - 5

12 - 4

13 - 3

14 - 2

15 - 1

Bảng cho 17 - 18 đấu thủ

Lượt đấu

Bàn 1

Bàn 2

Bàn 3

Bàn 4

Bàn 5

Bàn 6

Bàn 7

Bàn 8

Bàn 9

1

1 - (18)

2 - 17

3 - 16

4 - 15

5 - 14

6 - 13

7 - 12

8 - 11

9 - 10

2

(18) - 10

11 - 9

12 - 8

13 - 7

14 - 6

15 - 5

16 - 4

17 - 3

1 - 2

3

2 - (18)

3 - 1

4 - 17

5 - 16

6 - 15

7 - 14

8 - 13

9 - 12

10 - 11

4

(18) - 11

12 - 10

13 - 9

14 - 8

15 - 7

16 - 6

17 - 5

1 - 4

2 - 3

5

3 - (18)

4 - 2

5 - 1

6 - 17

7 - 16

8 - 15

9 - 14

10 - 13

11 - 12

6

(18) - 12

13 - 11

14 - 10

15 - 9

16 - 8

17 - 7

1 - 6

2 - 5

3 - 4

7

4 - (18)

5 - 3

6 - 2

7 - 1

8 - 17

9 - 16

10 - 15

11 - 14

12 - 13

8

(18) - 13

14 - 12

15 - 11

16 - 10

17 - 9

1 - 8

2 - 7

3 - 6

4 - 5

9

5 - (18)

6 - 4

7 - 3

8 - 2

9 - 1

10 - 17

11 - 16

12 - 15

13 - 14

10

(18) - 14

15 - 13

16 - 12

17 - 11

1 - 10

2 - 9

3 - 8

4 - 7

5 - 6

11

6 - (18)

7 - 5

8 - 4

9 - 3

10 - 2

11 - 1

12 - 17

13 - 16

14 - 15

12

(18) - 15

16 - 14

17 - 13

1 - 12

2 - 11

3 - 10

4 - 9

5 - 8

6 - 7

13

7 - (18)

8 - 6

9 - 5

10 - 4

11 - 3

12 - 2

13 - 1

14 - 17

15 - 16

14

(18) - 16

17 - 15

1 - 14

2 - 13

3 - 12

4 - 11

5 - 10

6 - 9

7 - 8

15

8 - (18)

9 - 7

10 - 6

11 - 5

12 - 4

13 - 3

14 - 2

15 - 1

16 - 17

16

(18) - 17

1 - 16

2 - 15

3 - 14

4 - 13

5 - 12

6 - 11

7 - 10

8 - 9

17

9 - (18)

10 - 8

11 - 17

12 - 6

13 - 5

14 - 4

15 - 3

16 - 2

17 - 1

Trong các cuộc thi đấu hệ vòng tròn theo bảng mẫu trên, trọng tài cần nắm chắc 2 quy tắc sau:

a) Nếu đấu thủ mang số chẵn gặp đấu thủ mang số lẻ thì đấu thủ có số thứ tự nhỏ hơn sẽ cầm quân Trắng. Nếu số thứ tự của 2 đấu thủ gặp nhau cùng là chẵn, hoặc lẻ thì đấu thủ cầm quân Trắng là đấu thủ có số thứ tự lớn.

Riêng đối với đấu thủ mang số chẵn cuối cùng thì quy tắc này không vận dụng được, đấu thủ này cầm quân Đen với tất cả các đấu thủ có số thứ tự nửa trên của số đấu thủ và cầm quân Trắng với số đấu thủ còn lại.

b) Muốn xác định được xem 2 đấu thủ sẽ gặp nhau ở lượt đấu nào thì chỉ cần cộng 2 số thứ tự lại và trừ đi 1. Nếu tổng số này lớn hơn số lượt đấu thủ thì trừ tiếp số lượng lượt đấu. Thí dụ: Trong vòng đấu 12 người, đấu thủ mang số 3 và số 5 sẽ gặp nhau ở lượt đấu thứ (3+5-1) = 7, đấu thủ số 9 và 11 gặp nhau lượt thứ (9+11-1) = 8.

Riêng đối với đấu thủ mang số chẵn cuối cùng thì quy tắc này không áp dụng được. Muốn xác định lượt đấu của đấu thủ này, ta phải thay tổng số trên cho đấu thủ cuối cùng bằng chính số của đấu thủ mà anh ta đã gặp. Thí dụ: Trong vòng đấu 12 người, đấu thủ số 12 sẽ gặp đấu thủ số 3 ở lượt đấu thứ (3+3-1) = 5 và gặp đấu thủ số 10 ở lượt thứ (10+10-1) = 8.

Cuối cùng nếu cả hai chỉ số trên đều bằng nhau thì người ta tính đến ván cờ giữa các đấu thủ bằng điểm, đấu thủ nào thắng trong ván đó sẽ được xếp hạng trên.

Hiếm có trường hợp các chỉ số trên của các đấu thủ bằng điểm nhau hoàn toàn ngang nhau, nhưng nếu điều này xảy ra thì phải dùng biện pháp bốc thăm để phân định thứ hạng.

Hội đồng trọng tài cho các cuộc thi đấu theo hệ vòng tròn phải lập biên bản cho từng lượt đấu, lên bảng điểm sau mỗi lượt đấu và công bố cho đấu thủ và khán giả được biết.

 

PHỤ LỤC 2

MỘT SỐ ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ THAM GIA XÂY DỰNG CÂU LẠC BỘ CỜ
(Thuộc Liên đoàn Cờ Việt Nam)

1. Liên đoàn Cờ Việt Nam:

- Thành lập theo Quyết định số 10/NV ngày 9 tháng 1 năm 1965 của Bộ Nội vụ với tên gọi “Hội Cờ Tướng Việt Nam”.

- Đổi tên là “Hội Cờ Việt Nam” theo quyết định số 65/BT ngày 25 tháng 1 năm 1981 của Bộ trưởng - Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng.

- Đổi tên là “Liên đoàn Cờ Việt Nam” theo Quyết định 514/TCCP ngày 15 tháng 8 năm 1992 của Bộ trưởng - Trưởng ban tổ chức cán bộ của Chính phủ.

2. Liên đoàn Cờ Việt Nam mong các vận động viên cờ, các nhà chơi cờ ủng hộ môn thể thao trí tuệ này sẽ gia nhập Liên đoàn và góp phần xây dựng nhiều Câu lạc bộ Cờ (Cờ Vua, Cờ Tướng...), đồng thời rèn luyện, thi đấu để nâng cao thành tích ở địa phương, trong nước và quốc tế.

3. Dưới đây Ban tổ chức thuộc Liên đoàn trích nguyên văn một số Điều trong bản điều lệ của Liên đoàn Cờ Việt Nam để các bạn tìm hiểu và thực hiện nếu muốn xin gia nhập làm hội viên của Liên đoàn tại cơ sở.

 

VỀ TÔN CHỈ, MỤC ĐÍCH CỦA LIÊN ĐOÀN CỜ VIỆT NAM

Điều 2. Liên đoàn Cờ Việt Nam là một tổ chức xã hội về thể thao có tính chất văn hóa, nghề nghiệp, tập hợp rộng rãi mọi người chơi và hoạt động về các loại Cờ Vua, Cờ Tướng..., tự nguyện hoạt động trong tổ chức của Liên đoàn.

Hoạt động của Liên đoàn là nhằm phát huy vai trò chủ động của quần chúng, thu hút ngày càng nhiều người Việt Nam thuộc mọi lứa tuổi, giới tính, dân tộc, nghề nghiệp tập luyện, thi đấu, tuyên truyền, ủng hộ, giúp đỡ phát triển và nâng cao chất lượng phong trào cờ trong cả nước góp phần rèn luyện trí não, bồi dưỡng phẩm chất tốt đẹp của con người XHCN Việt Nam, trao đổi văn hóa, thể thao với các nước và đưa bộ môn này nhanh chóng tiếp cận trình độ quốc tế.

Điều 3. Liên đoàn Cờ Việt Nam là một bộ phận của Phong trào Olympic Quốc gia Việt Nam và là thành viên chính thức của Liên đoàn Cờ Quốc tế.

Điều 4. Liên đoàn cờ Việt Nam có tư cách trước pháp luật về mọi hoạt động của mình...

Điều 8. Điều kiện và tiêu chuẩn gia nhập Liên đoàn.

8.1. Là công dân, có đạo đức, khả năng và nguyện vọng hoạt động cho phong trào cờ.

8.2. Tán thành Điều lệ Liên đoàn; tự nguyện làm đơn xin gia nhập Liên đoàn và hoạt động trong một tổ chức cơ sở (Câu lạc bộ Cờ) hoặc các tổ chức khác quy định trong Điều lệ của Liên đoàn.

8.3. Được sự giới thiệu của một hội viên của Liên đoàn và tổ chức của Liên đoàn công nhận, cấp thẻ hội viên.

Điều 9. Nghĩa vụ của hội viên

9.1. Chấp hành Điều lệ, Nghị quyết, Chỉ thị của Liên đoàn và mọi quy định của tổ chức cơ sở, câu lạc bộ.

9.2. Hoàn thành nhiệm vụ do tổ chức Liên đoàn ở cơ sở phân công.

9.3. Tham gia sinh hoạt đều đặn ở tổ chức cơ sở của Liên đoàn, rèn luyện môn cờ, phát triển hội viên mới, đóng hội phí...

Điều 10. Quyền lợi của hội viên

10.1. Thảo luận, biểu quyết các chủ trương, kế hoạch công tác của Liên đoàn và góp ý kiến lên các cấp của Liên đoàn.

10.2. Có quyền bầu cử, ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của Liên đoàn.

10.3. Có quyền tham gia một cách có tổ chức các hoạt động cờ trong nước và quốc tế.

10.4. Có quyền xin ra Liên đoàn và thôi giữ các cương vị công tác sau khi đã có đơn gửi Ban chấp hành Liên đoàn ở đơn vị cơ sở. Trước khi ra Liên đoàn phải bàn giao lại công việc, tiền, thiết bị... và trả lại thẻ hội viên.

Điều 12. Đơn vị cơ sở của Liên đoàn là “Câu lạc bộ Cờ”, tổ chức theo đơn vị dân cư, làm việc, học tập (của khu tập thể, hộ dân cư, cơ quan, xí nghiệp, trường học, đơn vị bộ đội...), câu lạc bộ Cờ trong nhà (cung) văn hóa, thể thao của các ngành, các giới, các địa phương. Mỗi Câu lạc bộ cờ có thể chia thành những “nhóm cờ”, những “điểm chơi cờ” hoạt động tại các điểm thuận lợi đối với hội viên.

Điều 14. Các cơ quan của Liên đoàn cờ ở cấp tỉnh

Đại hội đại biểu của Liên đoàn cấp tỉnh bầu ra Ban chấp hành Liên đoàn cấp tỉnh có nhiệm kỳ hoạt động là 3 năm.

Đại hội đại biểu của Liên đoàn cấp huyện bầu ra Ban chấp hành cấp huyện có nhiệm kỳ hoạt động là 2 năm.

Các Ban chấp hành nói trên cử ra Ban thường trực gồm Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch thường trực, Tổng thư ký, Phó tổng thư ký để điều hành công việc hàng ngày. Các quy định cụ thể về sự hoạt động của các cơ quan của Liên đoàn cấp tỉnh, cấp huyện sẽ do đại hội đề ra, phù hợp với điều lệ của Liên đoàn Cờ Việt Nam, được chính quyền địa phương phê chuẩn.

Điều 15.

15.1. Cấp cơ sở của Liên đoàn có tổ chức “Câu lạc bộ cờ” theo đơn vị dân cư, học tập, làm việc gồm hai hình thức chính:

Câu lạc bộ Cờ riêng của tập thể, phường xã, trường học, cơ quan, xí nghiệp công, nông, lâm trường...

Câu lạc bộ Cờ trong Câu lạc bộ (hoặc Cung) văn hóa, thể thao của địa phương hoặc ngành, giới.

15.2. Câu lạc bộ kết nạp cấp thẻ sinh hoạt hội viên, theo đơn xin gia nhập của từng người và hoạt động theo những điều lệ của Liên đoàn và luật pháp Nhà nước.

15.3. Câu lạc bộ họp hội nghị toàn thể hàng năm để bầu ra Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ (Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm) với số lượng tùy theo quyết định của hội nghị nói trên, bàn thực hiện chủ trương công tác hướng dẫn của cấp trên, thông qua nội quy và hoạt động của Câu lạc bộ và kiểm điểm, đánh giá, rút kinh nghiệm công tác, kiểm tra tài chính khen thưởng, kỷ luật hội viên...

15.4. Nguồn thu của Câu lạc bộ gồm hội phí, tiền quyên góp và các dịch vụ hợp pháp.

15.5. Hội viên không đóng hội phí 6 tháng hoặc không sinh hoạt liên tục 6 tháng sẽ bị khai trừ khỏi Liên đoàn. Hội viên không muốn tham gia Liên đoàn nữa phải làm đơn và trả lại thẻ sinh hoạt Câu lạc bộ.

Điều 16. Mỗi cấp của Liên đoàn Cờ tổ chức Ban bảo trợ của Liên đoàn Cờ cấp đó, gồm những người nhiệt tình giúp đỡ thiết thực cho Liên đoàn về tinh thần, vật chất, tài chính, nhằm góp phần phát triển phong trào và giúp đỡ phát triển tài năng cờ của đất nước.

 

PHỤ LỤC 3

CÁCH GHI CHÉP CỜ TƯỚNG MỚI

Để khắc phục sự khó khăn trong cách ghi chép thế cờ trong cách ghi truyền thông và giúp bạn chơi cờ làm quen với các chương trình Cờ Tướng trên máy vi tính, Tạp chí NGƯỜI CHƠI CỜ của Liên đoàn Cờ Việt Nam đã đề xuất một cách ghi chép mới, được trình bày dưới đây:

Các cột được ký hiệu cố định từ trái sang phải bằng các chữ cái a, b, c, d, e, f, g, h, i.

Các hàng được đánh số từ dưới lên từ 0 tới 9.

Ví dụ như 2 nước bên sẽ ghi:

1. Phe2      Mg7

Nước thứ hai:

2. Pb1        Bg5

(xem hình)

Các quân Cờ Tướng được ký hiệu:

Nếu có 2 quân cùng tên có thể tới một vị trí thì ghi thêm hàng hay cột xuất phát của quân đó.

Cách ghi này đơn giản: không cần ký hiệu tiến, bình, thoái. Không cần ghi cột xuất phát, chỉ cần ghi vị trí sẽ đến là đủ. Xếp thế cờ thuận tiện vì tọa độ ghi luôn cố định, giống như cách ghi của cờ Vua, không bị phụ thuộc vào hai bên. Ví dụ thế cớ sau đây sẽ được ghi lại như sau:

Tướng

= T

= S

Tượng

= V (voi)

Xe

= X

Pháo

= P

= M

Tốt

= B (binh)

Trắng: Te0 Sd0 Sf0 Ve2 Xf8

Đen: Te9 Sd9 Mb2 Ba4 Bb4

Việc ghi biên bản ván cờ theo cách này gọn nhẹ, đỡ nhầm lẫn. Ví dụ nước đi tiếp theo, nếu ghi theo cách cũ là:

1. X4-7    B2.1 thì với cách mới sẽ ghi:

1. Xc8     Bb3

 

PHỤ LỤC 4

SỬ DỤNG ĐỒNG HỒ CỜ VÀ MẪU BIÊN BẢN

Đồng hồ cờ là một đồng hồ kép, mỗi mặt đồng hồ chỉ thời gian đã dùng để suy nghĩ của mỗi bên. Khi đi xong một nước, đấu thủ A phải dùng chính tay đã di chuyển quân cờ bấm vào nút đồng hồ của bên mình. Khi đó đồng hồ của A ngừng chạy, còn đồng hồ của B sẽ chạy để đo thời gian suy nghĩ của B. Về phía B, sau khi đi xong một nước cũng sẽ bấm vào nút đồng hồ khiến đồng hồ của B ngừng chạy còn đồng hồ của A sẽ chạy và đo thời gian suy nghĩ của A (xem hình).

Khi thời gian quy định cho mỗi đấu thủ sắp hết thì kim đồng hồ sẽ đẩy vào một cái chốt màu đỏ ở vị trí số 12 (trong thuật ngữ thi đấu người ta gọi đó là lá cờ) khiến chốt này bị đẩy lên nằm ngang và sau đó khi hết thời gian thì rơi xuống (rụng cờ). Dù chưa bị chiếu hết, nhưng bên nào bị rụng cờ trước (tức là hết thời gian quy định trước) là bên đó thua.

Gần đây người ta còn sử dụng đồng hồ đánh cờ điện tử, về cơ chế tính giờ cũng giống như đồng hồ nói trên, chỉ khác là thì giờ suy nghĩ của mỗi đấu thủ được đếm ngược bằng số, khi hết giờ đồng hồ sẽ báo về số 0. Loại đồng hồ điện tử còn có thể định thời gian cho nhiều dạng thi đấu như cờ nhanh, cờ chớp (5 phút 1 ván)... rất tiện lợi.

Khi đi xong một nước, bên A bấm nút, đồng hồ bên A ngừng, đồng hồ bên B chạy để đo thời gian suy nghĩ của B. Sau khi đi xong, B bấm nút, đồng hồ của B dừng, đồng hồ A chạy, đo thời gian suy nghĩ của A.

 

BIÊN BẢN THI ĐẤU

Tên giải:

Vòng đấu: …………….. Ngày ………. tháng.... năm ………………

Trắng: ……………………………………………...Số: ……………….

Đen: ………………………………………………..Số: ……………….

Trọng tài: ……………………………………………………………….

TT

Trắng

Đen

TT

Trắng

Đen

1

P2-5

M8.7

31

 

 

2

M2.3

P2-4

32

 

 

3

 

 

33

 

 

4

 

 

34

 

 

5

 

 

35

 

 

6

 

 

36

 

 

7

 

 

37

 

 

 

 

 

 

 

 

28

 

 

58

 

 

 

29

 

 

59

 

 

 

30

 

 

60

 

 

 

 

Tỷ số ván đấu:

 

 

 

 

Trắng:

Đen:

 

 

Phán quyết của Trọng tài: ……………………………………….

Trắng ký                      Trọng tài ký:                   Đen ký:

 

Ghi chú: Phần tiêu đề “Trắng” “Đen” nghĩa là họ tên đấu thủ cầm quân Trắng và cầm quân Đen. Số là mã số của đấu thủ được xác định trước khi bắt thăm. Tiêu đề biên bản có thể thêm các mục: Đơn vị, Lứa tuổi, Địa điểm... nếu cần. Tỷ số do các đấu thủ ghi. Phán quyết của trọng tài gồm Trắng thắng, Đen thắng, hòa.

 

PHỤ LỤC 5

HƯỚNG DẪN SOẠN THẢO ĐIỀU LỆ TỔ CHỨC GIẢI CỜ TƯỚNG

Khi tổ chức một giải Cờ Tướng thì việc quan trọng trước tiên là soạn thảo và công bố điều lệ của giải. Điều lệ khác với luật ở chỗ: điều lệ chỉ có giá trị với từng giải một trong khi luật có giá trị với tất cả các giải.

Điều lệ cần chính xác, rõ ràng để các đấu thủ có cơ sở quyết định tham dự hay không. Điều lệ giải đã công bố thì không thay đổi, trừ khi có vấn đề đột xuất về tổ chức cần bổ sung. Điều lệ không những cần cho các đấu thủ mà còn cần cho ban tổ chức, trọng tài để chuẩn bị mọi mặt cho cuộc thi đấu: từ chuẩn bị kinh phí, cơ sở vật chất, tập huấn kỳ thủ, tập huấn trọng tài, các vấn đề nhân sự, chuyên môn v.v...

Thông thường một điều lệ giải phải có các nội dung chính sau:

1. Mục đích ý nghĩa và tên giải:

Cần nêu ngắn gọn, rõ ràng, chính xác. Thí dụ:

Giải Vô địch Cờ Tướng toàn quốc

Giải Vô địch Cờ Tướng thanh, thiếu niên, nhi đồng toàn quốc

Giải Cờ Tướng giao hữu...

2. Thời hạn tổ chức giải:

(Từ ngày nào tới ngày nào).

3. Đơn vị đăng cai và đơn vị, cá nhân tài trợ:

(Nêu rõ tên. Ví dụ: Sở Thể dục thể thao tỉnh...., Nhà tài trợ: Công ty....).

4. Đối tượng tham gia giải:

Cần xác định rõ:

- Về cá nhân: đấu thủ cần có điều kiện gì: nam, nữ, lứa tuổi, trình độ cờ...

- Về địa phương hay đơn vị:

Quy định cử số đấu thủ chính thức dự giải cá nhân, đồng đội.

- Tham gia đặc cách: các cá nhân được đặc cách, đơn vị đăng cai được cử thêm bao nhiêu đấu thủ v.v...

5. Địa điểm thi đấu:

Nêu rõ tên địa điểm, địa chỉ và có thể cả một số đặc điểm địa lý, khí hậu, điều kiện thuận lợi khó khăn đối với thi đấu.

6. Lịch thi đấu:

Ngày tập trung, thời điểm họp và bốc thăm, lịch thi đấu, ngày nghỉ giữa giải, ngày bế mạc...

7. Hình thức thi đấu:

Đấu loại trực tiếp, loại vòng tròn, theo hệ Thụy Sĩ, số ván v.v...

8. Luật lệ thi đấu:

Cần nói rõ áp dụng luật nào, chương mục nào của luật, quy định thời gian ván đấu, và thời gian một nước đi nếu cần, kiểm tra số nước đi, sử dụng đồng hồ chuyên dùng hay không v.v...

9. Nguyên tắc xếp hạng cá nhân đồng đội:

Quy định thứ tự lựa chọn xếp hạng, cách tính hệ số... (theo luật).

10. Giải thưởng cho cá nhân, đồng đội, toàn đoàn:

Số giải thưởng, hình thức thưởng: huy chương, tiền, hiện vật...

11. Tiêu chuẩn được phong cấp kiện tướng, vận động viên cấp I, quyền lợi được thi đấu trong các giải sau:

Các vấn đề này cần phải nêu chi tiết.

12. Quyền lợi và nghĩa vụ về vật chất:

Nơi ăn, nghỉ của các đấu thủ, cán bộ phụ trách và người cùng đi, giá tiền và trách nhiệm thanh toán.

13. Lệ phí: các đấu thủ phải nộp (quy định rõ số tiền, thời gian nộp...).

14. Mẫu đăng ký danh sách trưởng đoàn, huấn luyện viên và đấu thủ (nếu có tham gia đồng đội thì cần báo rõ danh sách đấu thủ tính điểm đồng đội trước khi đấu).

Danh sách đấu thủ có những chi tiết cần thiết để xem xét tư cách đấu thủ.

15. Thời hạn chậm nhất phải gửi danh sách đăng ký thi đấu đến ban tổ chức giải.

Ngoài những điều nói trên, điều lệ giải còn có thể nêu lên những chi tiết cần thiết khác.

Điều lệ giải tùy theo tính chất giải và điều kiện địa lý, phải tính toán cẩn thận trước để gửi điều lệ đến người nhận trước một thời gian cần thiết (nếu là các giải lớn thì phải gửi trước từ 2 tới 3 tháng) để đủ thời gian triển khai các công việc tham gia thi đấu, chuẩn bị tài chính và chuẩn bị cho công tác tổ chức giải. Trong quá trình đó nếu có vấn đề gì cần trao đổi, thắc mắc hay đề nghị thêm thì các đơn vị tham gia có đủ thời gian phản hồi tới cơ quan ban hành điều lệ.

 

PHỤ LỤC 6

TIÊU CHUẨN PHONG CẤP VẬN ĐỘNG VIÊN CỜ TƯỚNG CẤP QUỐC GIA

A. ĐỐI VỚI VẬN ĐỘNG VIÊN NAM:

1. Cấp kiện tướng quốc gia:

Đạt một trong các tiêu chuẩn sau đây tại các giải quốc gia:

a) Đạt 72% số điểm tại giải Vô địch đồng đội toàn quốc: Thi đấu 9 ván đạt 6,5 điểm, 11 ván đạt 8 điểm, 13 ván đạt 9,5 điểm.

b) Đạt thứ hạng từ 1 đến 6 tại giải Vô địch toàn quốc.

c) Đạt tiêu chuẩn kiện tướng dự bị hai lần trong năm.

d) Đạt kiện tướng của Liên đoàn Cờ Tướng Thế giới hoặc châu Á.

2. Cấp kiện tướng dự bị quốc gia:

a) Đạt số điểm kém điểm chuẩn của kiện tướng 0,5 điểm tại giải Vô địch đồng đội toàn quốc.

b) Đạt thứ hạng từ 7 tới 10 tại giải Vô địch toàn quốc.

c) Đạt thứ hạng nhất cá nhân tại giải trẻ toàn quốc hạng tuổi 18.

3. Cấp I quốc gia:

a) Đạt 55% số điểm tại giải Vô địch đồng đội toàn quốc: Thi đấu 9 ván đạt 5 điểm, 11 ván đạt 6 điểm, 13 ván và đạt 7 điểm.

b) Đạt thứ nhất cá nhân hạng tuổi 15 và nhì, ba hạng tuổi 18 tại giải trẻ toàn quốc.

B. ĐỐI VỚI VẬN ĐỘNG VIÊN NỮ:

1. Cấp kiện tướng quốc gia:

a) Đạt thứ nhất cá nhân giải Vô địch đồng đội toàn quốc.

b) Đạt thứ hạng từ 1 đến 3 tại giải Vô địch toàn quốc.

c) Đạt kiện tướng của Liên đoàn Cờ Tướng Thế giới hoặc châu Á.

d) Đạt tiêu chuẩn kiện tướng dự bị hai lần trong năm.

2. Cấp kiện tướng dự bị quốc gia:

a) Đạt thứ hạng cá nhân từ 2 đến 3 tại giải Vô địch đồng đội toàn quốc.

b) Đạt thứ hạng từ 4 tới 5 tại giải vô địch quốc gia (cá nhân).

c) Đạt thứ hạng nhất tại giải trẻ toàn quốc hạng tuổi 18.

3. Cấp I quốc gia:

Phải đạt một trong các tiêu chuẩn sau:

a) Đạt 55% số điểm tại giải Vô địch đồng đội toàn quốc: Thi đấu 9 ván đạt 5 điểm, 11 ván đạt 6 điểm, 13 ván đạt 7 điểm.

b) Đạt thứ nhất cá nhân hạng tuổi 15 và nhì, ba hạng tuổi 18 tại giải trẻ toàn quốc.

Ghi chú: Tiêu chuẩn phong cấp có thể được điều chỉnh cho phù hợp từng thời kỳ, được công bố trong Điều lệ của các giải toàn quốc.

 

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG QUYỂN LUẬT CỜ TƯỚNG

Quyển Luật Cờ Tướng tuy đã đề cập tới những vấn đề căn bản nhất của quá trình tổ chức và thi đấu, nhưng cũng như bất cứ luật nào, không thể đưa vào toàn bộ những vấn đề sẽ nảy sinh trong quá trình thi đấu.

Do Cờ Tướng ở nước ta có truyền thống hàng trăm năm, nên các quan niệm, tập quán, thể lệ, ngôn ngữ, thói quen,... ở các vùng địa phương cũng còn khác nhau. Các hình thức thi đấu cờ rất đa dạng, phong phú, nhất là đối với hình thức chơi cờ trong lễ hội, cờ người, cờ bỏi... có kết hợp với biểu diễn nghệ thuật, võ thuật.

Gần đây phong trào chơi cờ nhanh (từ 15 tới 30 phút mỗi ván), cờ chớp (5 phút một ván), chơi đồng loạt, chơi cờ tưởng (cờ mù), đấu cờ với máy vi tính... cũng phổ biến rộng rãi và phát triển mạnh.

Tất cả những vấn đề đó chưa thể đưa hết vào một quyển luật, mà luật chỉ định ra những vấn đề căn bản nhất, quan trọng nhất, làm nền tảng thống nhất cho môn Cờ Tướng trong cả nước.

Các điều luật của quyển Luật Cờ Tướng, dù đã được biên soạn kỹ càng, nhưng vẫn cần những chỉ dẫn. Vì vậy khi áp dụng quyển luật này đề nghị xem kỹ một số giải thích, hướng dẫn sau đây:

1. Từ ngữ: Trong Cờ Tướng, tuy trên bàn cờ cùng một thế cờ, cùng một nước đi nhưng mỗi miền, mỗi vùng có thể sử dụng các cách diễn đạt khác nhau, ngôn ngữ khác nhau. Trong quyển Luật này thống nhất chọn một. Là luật toàn quốc nên phải giảm bớt dùng ngôn ngữ của địa phương, chú trọng sử dụng các ngôn từ văn bản và chỉ sử dụng từ Hán - Việt khi nào không có ngôn từ Việt Nam thay thế.

2. Thời gian ván đấu: Vì sao Luật chưa quy định dứt khoát thời gian mà dùng câu “đưa ra một số cách tính thời gian để ban tổ chức từng giải lựa chọn”. Hiện nay ngoài các giải được đưa vào hệ thống thi đấu quốc gia, thời gian đấu được tính bằng đồng hồ đánh cờ một cách nghiêm ngặt thì còn nhiều giải đấu ở địa phương, làng xã... do nhiều yếu tố khách quan nên chưa thể quy chuẩn thời gian mỗi ván đấu, mà chỉ đưa ra một số mẫu để ban tổ chức lựa chọn. Đó là chưa nói phần lớn các giải ở địa phương chưa có đồng hồ đánh cờ và cũng chưa có thói quen ghi chép biên bản, nên việc quy định quá chặt chẽ là chưa thích hợp. Tùy quá trình phát triển cao hơn và có được trang thiết bị đầy đủ thì sẽ có những bổ sung chặt chẽ hơn.

3. Màu quân: Trong dân gian thường sử dụng hai màu là Đỏ (điều) và Đen. Trước đây, theo truyền thống, một số nơi quy ước Đen đi trước theo quan niệm “hắc giả tiên hành”. Nay dùng hai màu Trắng và Đen với quy định bên cầm quân Trắng đi trước nhằm đảm bảo sự tiện lợi, dễ xem, dễ in ấn và đúng theo luật cờ chung của châu Á và thế giới, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên của các tổ chức này.

4. Tổ chức thi đấu: Thành lập Ban kiểm tra tư cách đấu thủ, ban giải quyết khiếu nại, chủ yếu là ở các giải lớn, đông người tham dự. Ban kiểm tra tư cách đấu thủ ở các giải đánh theo hạng tuổi (các giải trẻ, Hội khỏe Phù Đổng, thi đấu trong học sinh...) để thu nhận và kiểm tra hồ sơ, phát hiện sự gian lận ngày tháng năm sinh, sửa chữa, trao đổi hồ sơ, lý lịch, học bạ.

Ở các giải khác, tuy không thành lập các ban trên nhưng công việc kiểm tra và giải quyết khiếu nại này sẽ do ban tổ chức đảm trách.

Ở các giải quốc gia, cấp tỉnh thành, các giải lớn... bắt buộc phải cử tổng trọng tài. Nhưng các giải địa phương, giải nhỏ, người tham dự không đông thì chỉ cần cử ban trọng tài, trong đó có một trưởng ban, tránh cử quá nhiều chức danh, quá đông người vào công việc tổ chức.

5. Phải hiểu thực chất tinh thần những điều luật cũng như mục đích cơ bản của nó chứ không phải chỉ theo hình thức. Ví dụ việc chạm quân, mục đích của điều luật này nhằm ngăn chặn việc đấu thủ cố tình hoãn nước đi, thay đổi ý định ban đầu của mình. Trước đây luật này được gọi nôm na là “hạ thủ bất hoàn”. Đây là một điều luật quan trọng nhằm dứt điểm từng nước đi một, cho nên việc xử phạt là đúng. Tuy nhiên không phải không có những kỳ thủ thiếu tư cách, khi bí cờ hay sắp thua, lợi dụng sự vô ý hay vô can của đối phương để “ăn vạ”, đổ lỗi cho đối phương chạm quân để cứu vãn tình thế của mình. Trọng tài phải tỉnh táo, phân biệt rõ, xem xét tình thế cụ thể, chứng lý rõ ràng để xử lý thật công minh trong những trường hợp như thế.

6. Trong luật lần này quy định: ngoài trọng tài và đấu thủ được quyền nêu ra và xử lý vụ việc trong quá trình tiến hành ván cờ, còn không ai khác được quyền đề đạt và khiếu nại. Quy định này xuất phát từ thực tế trong nhiều năm qua xảy ra tình trạng có quá nhiều ý kiến từ bên ngoài can thiệp vào ván đấu như lãnh đội, huấn luyện viên, thân nhân của đấu thủ, thậm chí các quan chức, đoàn thể... gợi ý hay yêu cầu phải xử lý theo cách của mình. Làm như vậy khiến luật cờ mất tác dụng và ảnh hưởng xấu tới tinh thần đấu thủ, làm mất uy tín và chất lượng của giải cờ.

7. Về quy định trọng tài chỉ được phán xét hòa ở trường hợp “nếu cờ của cả hai đấu thủ không còn Xe, Pháo, Mã, Tốt tức không còn quân sang trận địa đối phương tấn công thì trọng tài có quyền tuyên bố ván cờ hòa” cũng có thể làm nảy sinh thắc mắc cho rằng còn nhiều trường hợp hòa khác sao trọng tài không can thiệp. Thực ra thì trường hợp quy định trong luật nói trên là rõ ràng nhất mới được quy định, còn các trường hợp khác còn phụ thuộc vào trình độ đấu thủ. Có trường hợp đối với các cao thủ thì hòa là chắc chắn, nhưng do một bên trình độ cờ thấp nên vẫn để thua như thường. Quy định trên cũng nhằm hạn chế sự thiên vị hay trình độ yếu kém của trọng tài, khiến ván cờ còn chưa ngã ngũ thì trọng tài đã tự ý can thiệp. Nếu quả thật gặp trường hợp nhất định sẽ hòa thì sớm muộn cũng sẽ dẫn tới điều khoản hạn định “60 nước không bắt quân” lúc đó xử hòa cờ là tất yếu hay hai bên đều nhận thấy và tự nguyện thỏa thuận với nhau hòa cờ.

8. Luật lần này được sửa đổi, bổ sung và chi tiết hóa nên phải phổ biến đầy đủ từng điều cho người chơi cờ, huấn luyện viên, ban tổ chức... Riêng trọng tài phải được tập huấn luật, được giải đáp tất cả các thắc mắc trước khi vào giải. Nếu bản thân trọng tài còn chưa nắm vững luật thì rất khó điều hành giải cờ có kết quả.

Khi đấu thủ yêu cầu thì trọng tài phải dẫn luật (chương nào, điều nào...) cho đấu thủ để phán xét của mình được đấu thủ chấp nhận. Vì vậy trước hết phải cho kỳ thủ học luật kỹ càng.

Có ý kiến cho rằng nên cộng lỗi tác phong và lỗi kỹ thuật, đủ 3 lỗi là xử thua cờ. Ở đây cần hiểu rõ: lỗi tác phong là một tên chung chỉ tư cách đạo đức cũng như tác hại mà nó gây ra, mức độ nặng nhẹ rất khác nhau, ví dụ khi thi đấu xảy ra ẩu đả thì ban tổ chức có thể truất ngay quyền thi đấu toàn giải của thủ phạm chứ không chờ tới 3 lần ẩu đả mới xử thua ván cờ. Trong luật không thể liệt kê hết các lỗi tác phong. Lỗi tác phong đề cập trong luật là những lỗi không gây tác hại nghiêm trọng. Vì vậy luật không có chỉ dẫn cộng lỗi tác phong và lỗi kỹ thuật. Cốt lõi của đánh cờ là đấu trí. Những quy định về bắt lỗi, xử phạt nhằm giữ khuôn phép và sự an toàn cho cuộc đấu trí chứ không phải chỉ là công cụ để định đoạt thắng thua.

Ở cơ sở ngoài việc phổ biến luật, cũng nên giao cho một số người nghiên cứu sâu về luật để gặp khi cần, mọi người có thể được giải đáp nhưng thắc mắc của mình.

9. Về cơ bản quyển luật này thống nhất với Luật Cờ Tướng châu Á và Luật Cờ Tướng thế giới. Nhưng có những điểm nhỏ khác biệt. Vì thế trước khi tham dự các giải đấu quốc tế hay tham dự giải quốc tế tổ chức tại Việt Nam, các đấu thủ, lãnh đội, huấn luyện viên, ban tổ chức cần tìm hiểu kỹ càng điều lệ giải và các điểm khác biệt đó để thông báo cho các đấu thủ và những người có trách nhiệm. Nếu có những quy định mới ban hành lần đầu tiên hay bổ sung thì Liên đoàn Cờ cần thông báo kịp thời.

10. Tập ghi biên bản: chỉ có biên bản mới giúp cho người chơi nghiên cứu lại các ván cờ của mình cũng như của đối thủ để tự sửa chữa sai sót, học tập nước hay, nâng cao trình độ. Cố gắng tập đánh bằng đồng hồ để làm chủ thời gian và biết cách phân phối thời gian hợp lý, khi tham gia các giải lớn có đồng hồ thì không bị bỡ ngỡ.

Trong quá trình tiến hành giải cờ, nếu có những tình huống phát sinh mà không có điều luật nào quy định rõ ràng, thì có thể nghiên cứu những tình huống tương tự được đề cập trong luật để tìm ra một giải pháp chính xác theo tinh thần chung là không trái với những điều được quy định trong luật. Luật Cờ Tướng này được xây dựng trên quan điểm cho rằng các trọng tài đều có đủ trình độ cần thiết, khả năng xét đoán lành mạnh và tinh thần khách quan tuyệt đối.

Trong quá trình biên soạn quyển Luật Cờ Tướng lần này, Ban soạn thảo đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý báu. Đứng đầu Ban biên soạn Luật là các ông Lê Uy Vệ, Phó chủ tịch Liên đoàn, trưởng Ban chuyên môn Cờ Tướng, ông Quách Anh Tú, Phó chủ tịch Liên đoàn, phó Ban chuyên môn Cờ Tướng cùng các thành viên. Ông Đặng Tất Thắng, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Liên đoàn đã xem và có những góp ý quý báu, ông Võ Tấn đã tổng hợp, biên tập và làm minh họa.

Ban soạn thảo trân trọng cảm ơn các nhà nghiên cứu: Tiến sĩ Phan Hồng Minh và cụ Ngô Linh Ngọc với trình độ học thuật và chuyên môn cao đã đóng góp rất lớn trong soạn thảo, dịch thuật, chỉnh lý và phân định các chương.

Nếu có ý kiến đóng góp với quyển Luật Cờ Tướng này, xin mời các độc giả vui lòng liên hệ với: Ban chuyên môn Cờ Tướng - Liên đoàn Cờ Việt Nam, 36 Trần Phú - Hà Nội.

 

MỤC LỤC

Quyết định của Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban TDTT về việc ban hành Luật Cờ Tướng

Lời nói đầu

Quyết định 1409/2004/QĐ-UBTDTT/TT1 về việc ban hành Luật Cờ Tướng do Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục thể thao ban hành

  • Số hiệu: 1409/2004/QĐ-UBTDTT/TT1
  • Loại văn bản: Quyết định
  • Ngày ban hành: 23/09/2004
  • Nơi ban hành: Quốc hội
  • Người ký: Nguyễn Danh Thái
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 23/09/2004
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
MỤC LỤC VĂN BẢN
MỤC LỤC VĂN BẢN
HIỂN THỊ DANH SÁCH