- 1Thông tư liên bộ 05-TT/LB năm 1968 quy định những công việc có nhiều yếu tố độc hại, những công việc quá nặng nhọc không sử dụng lao động nữ, và hướng dẫn thêm chế độ bảo vệ sức khỏe nữ công nhân, viên chức do Bộ Lao động - Bộ Y tế ban hành
- 2Thông tư liên bộ 13-TT/LB năm 1968 hướng dẫn chế độ tự kiểm tra về kỹ thuật an toàn và vệ sinh lao động tại xí nghiệp do Bộ Lao động - Bộ Y tế ban hành
- 3Thông tư liên bộ 01-TT/LB năm 1966 hướng dẫn nhiệm vụ bảo hộ lao động và tổ chức bộ máy bảo hộ lao động của công đoàn cơ sở do Bộ Lao động - Tổng công đoàn ban hành
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số : 181-CP | Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 1964 |
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công tác bảo hộ lao động, phục vụ sản xuất;
Theo đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ Lao động và Ban Chấp hành Tổng công đoàn Việt-nam;
Căn cứ nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp thường vụ của Hội đồng Chính phủ ngày 01 tháng 10 năm 1963;
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1. – Nay ban hành kèm theo nghị định này “Điều lệ tạm thời về bảo hộ lao động ”.
Điều 2. – Các quy định trước đây về bảo hộ lao động trái với điều lệ này điều bãi bỏ.
| T.M HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ |
VỀ BẢO HỘ LAO ĐỘNG
(Ban hành kèm theo Nghị định số 181-CP ngày 18-12-1964)
Từ khi thành lập nước Việt-nam dân chủ cộng hòa, đi đôi với việc chăm lo cải thiện đời sống của công nhân, viên chức, Chính phủ đã quan tâm đến công tác bảo hộ lao động. Bộ Lao động và các Bộ quản lý sản xuất đã ban hành nhiều chế độ, thể lệ bảo hộ lao động và hướng dẫn các cơ sở sản xuất thực hiện các biện pháp bảo hộ lao động. Công tác bảo hộ lao động đã thu được những kết quả bước đầu trong việc phòng ngừa tai nạn lao động, bảo vệ và giữ gìn sức khỏe của công nhân, viên chức.
Tuy nhiên, nhìn chung công tác bảo hộ lao động chưa theo kịp đà phát triển sản xuất. Nhận thức về công tác bảo hộ lao động của một số ngành, địa phương và cơ sỏư chưa đầy đủ. Các chế độ, thể lệ bảo hộ lao động đã ban hành còn thiếu chặt chẽ, thiếu toàn diện; chế độ trách nhiệm về bảo hộ lao động của các ngành, các cấp chưa được xác định rõ; tổ chức bảo đảm thực hiện và kiểm tra công tác bảo hộ lao động chưa được kiện toàn.
Trong giai đoạn công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, để bảo đảm không ngừng nâng cao năng suất lao động và phát triển sản xuất, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước, Hội đồng Chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về bảo hộ lao động nhằm đưa công tác bảo hộ lao động vào nền nếp, có lãnh đạo và kiểm tra chặt chẽ và có tính chất quần chúng rộng rãi.
Các cơ quan khác của Nhà nước có liên quan đến bảo hộ lao động có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan quản lý sản xuất, lao động và y tế nghiên cứu các biện pháp bảo hộ lao động và bảo đảm việc thực hiện tốt các kế hoạch và chính sách, chế độ bảo hộ lao động.
Đối với các hợp tác xã tiểu công nghiệp và hợp tác xã thủ công nghiệp, các hợp tác xã nông nghiệp có sử dụng máy móc, hóa chất, Ủy ban hành chính địa phương sẽ căn cứ vào tinh thần và điều lệ này mà hướng dẫn việc áp dụng.
Khi thiết kế chế tạo máy móc, cơ quan thiết kế hay nhà máy chế tạo phải đồng thời nghiên cứu thiết kế, chế tạo các thiết bị cần thiết về an toàn lao động. Trước khi đưa vào sản xuất, các thiết bị máy móc phải được kiểm tra, nghiệm thử để bảo đảm kỹ thuật an toàn.
Khi thay đổi phương pháp sản xuất, thay đổi thiết bị máy móc, phải đồng thời sửa đổi quy trình kỹ thuật an toàn cho thích hợp.
Giám đốc xí nghiệp phối hợp với Công đoàn cơ sở thường xuyên tuyên truyền sâu rộng về công tác bảo hộ lao động trong công nhân, kiểm tra đôn đốc công nhân chấp hành đầy đủ các quy trình về kỹ thuật an toàn trong khi làm việc.
Cán bộ quản lý sản xuất, các bộ kỹ thuật; công nhân kỹ thuật đều phải được huấn luyện về bảo hộ lao động tại các trường, lớp đào tạo hoặc bổ túc nghiệp vụ. Việc tổ chức giảng dạy về bảo hộ lao động do các Bộ chủ quản và Ủy ban hành chính địa phương quy định, theo sự hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Bộ Lao động.
Nguyên tắc và tiêu chuẩn cấp phát dụng cụ phòng hộ và áo quần làm việc cho công nhân do Bộ Lao động quy định. Các Bộ chủ quản, Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sẽ căn cứ vào quy định chi tiết để áp dụng trong ngành hoặc địa phương mình, sau khi đã được Bộ Lao động thỏa thuận.
Đối với những ngành, nghề mới phát triển, nếu chưa có quy định về trang bị bảo hộ lao động thì Bộ hoặc ngành chủ quản, sau khi bàn bạc với Bộ Lao động, được quy định chế độ tạm thời về trang bị bảo hộ lao động cho các ngành, nghề đó.
Công nhân làm những công việc đặc biệt có hại đến sức khỏe được bồi dưỡng bằng hiện vật theo chế độ quy định.
Công nhân làm những công việc có hại nhiều đến sức khỏe có thề được bớt làm. Danh sách những nghề và mức bớt giờ làm do Bộ chủ quản, Ủy ban hành chính địa phương cùng với Bộ Lao động đề nghị lên Chính phủ quyết định.
- Lãnh đạo và tổ chức thực hiện trong ngành và địa phương mình các chế độ, thể lệ và biện pháp bảo hộ lao động của Nhà nước;
- Căn cứ vào những quyết định chung của Hội đồng Chính phủ và Bộ Lao động, ban hành các chế độ, quy phạm, quy trình về kỹ thuật an toàn áp dụng trong ngành hoặc địa phương mình sau khi đã được Bộ Lao động thỏa thuận;
- Đặt chủ trương công tác bảo hộ lao động hàng năm hoặc lâu dài của ngành, của địa phương;
- Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các xí nghiệp thuộc quyền thi hành các chế độ, thể lệ bảo hộ lao động, lập và xét duyệt kịp thời các kế hoạch bảo hộ lao động, giúp đỡ về mặt kỹ thuật an toàn và bảo đảm cung cấp cho các xí nghiệp đó các phương tiện cần thiết để thực hiện các biện pháp bảo hộ lao động như tiền; vật tư kỹ thuật…
- Tổ chức việc nghiên cứu cải tiến máy móc, thiết bị, thực hiện các biện pháp cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân;
- Hàng 6 tháng và một năm báo cáo cho Bộ Lao động tình hình bảo hộ lao động của ngành hoặc địa phương mình để giúp cho việc tổng hợp chỉ đạo chung và báo cáo lên trên.
- Lập kế hoạch bảo hộ lao động và bảo đảm thực hiện đầy đủ, kịp thời kế hoạch đó;
- Chấp hành đúng đắn các chế độ, thể lệ bảo hộ lao động, các quy phạm, quy trình về kỹ thuật an toàn;
- Lập các quy trình về kỹ thuật an toàn cho từng nghề, từng máy và tổ chức huấn luyện cho công nhân nắm vững các phương pháp làm việc an toàn;
- Tổ chức tốt nơi làm việc và thực hiện các biện pháp cải thiện điều kiện làm việc; giảm nhẹ sức lao động cho công nhân;
- Hàng quý tổ chức kiểm tra kỹ thuật an toàn và vệ sinh công nghiệp trong xí nghiệp mình;
- Báo cáo, thống kê các tai nạn lao động và nghiên cứu thực hiện các biện pháp ngăn ngừa cần thiết;
- Hàng quý báo cáo tình hình công tác bảo hộ lao động cho cấp trên và cơ quan lao động địa phương.
Bộ Lao động hướng dẫn cụ thể về tổ chức và lề lối làm việc của bộ phận chuyên trách kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động ở các xí nghiệp, và cùng với Bộ Nội vụ hướng dẫn cụ thể về tổ chức và lề lối làm việc của tổ chức này ở các Bộ và các ngành.
Điều 21. - Bộ Lao động có nhiệm vụ và quyền hạn:
- Nghiên cứu và trình Hội đồng Chính phủ ban hành các chế độ, thể lệ bảo hộ lao động và hướng dẫn, đôn đốc việc thực hiện;
- Nghiên cứu và ban hành các quy phạm về kỹ thuật an toàn áp dụng chung cho nhiều ngành, nghề; đôn đốc và giúp đỡ các ngành xây dựng các quy phạm, quy trình về kỹ thuật an toàn riêng cho từng ngành, nghề;
- Thanh tra và chỉ đạo công tác thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ bảo hộ lao động, các quy phạm, quy trình về kỹ thuật an toàn tại các xí nghiệp;
- Kiến nghị với các Bộ chủ quản, các xí nghiệp về việc thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn lao động và cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân hoặc đề xuất với các cơ quan nghiên cứu khoa học kỹ thuật những vấn đề về bảo hộ lao động cần nghiên cứu giải quyết.
- Có quyền yêu cầu các ngành quản lý sản xuất và các Ủy ban hành chính địa phương cung cấp những tài liệu về tình hình thực hiện công tác bảo hộ lao động tại các ngành, các địa phương, các xí nghiệp.
Điều 22. – Đối với công tác bảo hộ lao động, Bộ y tế có nhiệm vụ và quyền hạn:
- Nghiên cứu và trình Hội đồng Chính phủ ban hành các chế độ bảo vệ và bồi dưỡng sức khỏe cho công nhân, các tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp, hướng dẫn, đôn đốc kiểm tra các ngành, các cấp thực hiện các chế độ, tiêu chuẩn ấy:
- Nghiên cứu và hướng dẫn các biện pháp đề phòng bệnh nghề nghiệp cho các ngành, các cấp, các xí nghiệp.
Điều 27. – Ban Thanh tra kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động thuộc Bộ Lao động có nhiệm vụ:
- Giúp Bộ Lao động theo dõi và chỉ đạo chung công tác bảo hộ lao động;
- Nghiên cứu các chế độ thể lệ bảo hộ lao động, các quy phạm về kỹ thuật an toàn áp dụng chung cho nhiều ngành, nghề để Bộ trưởng Bộ Lao động ban hành hoặc trình Hội đồng Chính phủ ban hành;
- Thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ bảo hộ lao động, các quy phạm, quy trình về kỹ thuật an toàn tại tất cả các cơ sở sản xuất; riêng về kỹ thuật an toàn, chủ yếu là thanh tra các ngành, nghề kỹ thuật an toàn phức tạp.
- Giúp Sở, Ty Lao động theo dõi và chỉ đạo công tác bảo hộ lao động ở địa phương.
- Thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ bảo hộ lao động tại tất cả các cơ sở sản xuất ở địa phương (kể cả các xí nghiệp của trung ương hoạt động ở địa phương), và thanh tra về kỹ thuật an toàn tại các cơ sở sản xuất do địa phương quản lý, các cơ sở của trung ương đặt tại địa phương theo sự phân cấp cụ thể của Bộ Lao động.
Cán bộ thanh tra kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động thuộc Ban Thanh tra do Bộ trưởng Bộ Lao động bổ nhiệm.
Cán bộ thanh tra kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động ở địa phương được bổ nhiệm theo chế độ áp dụng đối với các cán bộ lãnh đạo các cơ quan lao động địa phương.
Tổ chức và biên chế của Ban Thanh tra kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động ở địa phương do Bộ Lao động quy định, sau khi đã được Bộ Nội thỏa thuận
Tổ chức và biên chế bộ máy thanh tra kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động ở địa phương do Bộ Lao động và Bộ Nội vụ hướng dẫn cho các Ủy ban hành chính địa phương.
- Vào các xí nghiệp thuộc diện thanh tra của mình, bất cứ lúc nào, sau khi đã xuất trình giấy tờ hợp lê;
- Lập biên bản thanh tra và kiến nghị với xí nghiệp hay cơ quan các biện pháp khắc phục những hiện tượng vi phạm các chế độ, thể lệ bảo hộ lao động, các quy phạm, quy trình về kỹ thuật an toàn.
- Yêu cầu Giám đốc xí nghiệp tạm thời đình chỉ hoạt động của một số bộ phận máy móc, hoặc bộ phận công tác nếu thấy có nguy cơ xảy ra tai nạn lao động để xí nghiệp tiến hành ngay các biện pháp phòng ngừa cần thiết. Trường hợp yêu cầu của cán bộ thanh tra lao động không được thực hiện, do đó để xảy ra tai nạn lao động thì Giám đốc xí nghiệp phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Nếu thấy việc đình chỉ trên phải kéo dài hoặc có ảnh hưởng trực tiếp lớn đến hoạt động chung của cả xí nghiệp thì cán bộ thanh tra lao động cùng với Giám đốc xí nghiệp đề ra những biện pháp phòng ngừa tạm thời để thực hiện ngay đồng thời báo cáo ngay lên Bộ trưởng Bộ Lao động và Bộ chủ quản xí nghiệp hoặc Ủy ban hành chính địa phương (đối với những xí nghiệp của địa phương) để quyết định.
Chế độ công tác của cán bộ thanh tra kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động do Bộ trưởng Bộ Lao độgn quy định sua khi đựơc Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.
V. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN VỀ BẢO HỘ LAO ĐỘNG.
Điều 33. - Nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn các cấp về bảo hộ lao động như sau:
- Tham gia việc xây dựng các chế độ, thể lệ, kế hoạch bảo hộ lao động, các quy phạm và quy trình về an toàn lao động và các tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp. Khi nghiên cứu xây dựng hoặc bổ sung các thể lệ, chế độ đó, các cơ quan Nhà nước cần thảo luận với Công đoàn cùng cấp trước khi quyết định. Trường hợp có những vấn đề chưa nhất trí thì phải tôn trọng ý kiến của các cơ quan Nhà nước, đồng thời cả hai bên phải xin ý kiến cấp trên.
- Phối hợp với ngành chủ quản, xí nghiệp cùng cấp tổ chức việc tuyên truyền phổ biến các chế độ, thể lệ bảo hộ lao động trong công nhân, viên chức, động viên tổ chức công nhân, viên chức tham gia giám sát việc thực hiện kế hoạch và chấp hành các chế độ, thể lệ bảo hộ lao động.
Cán bộ kiểm tra của công đoàn có quyền kiến nghị với Giám đốc xí nghiệp thi hành những biện pháp cần thiết để tăng cường công tác bảo hộ lao động, khắc phục những hiện tượng vi phạm chế độ, thể lệ bảo hộ lao động và thông báo kết quả kiểm tra và những kiến nghị của mình cho cơ quan thanh tra kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động cùng cấp biết.
Giám đốc xí nghiệp có nhiệm vụ giúp đỡ cán bộ kiểm tra bảo hộ lao động của Công đoàn tiến hành tốt công tác kiểm tra, cung cấp những tài liệu cần thiết, nghiên cứu thực hiện những kiến nghị của cán bộ kiểm tra, báo cho tổ chức Công đoàn sở quan và cơ quan thanh tra kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động biết cách giải quyết của mình và giải thích rõ lý do không thực hiện những kiến nghị nhất định của cán bộ kiểm tra bảo hộ lao động của Công đoàn.
Khi xét khen thưởng xí nghiệp hay cá nhân có thành tích lao động, sản xuất, cơ quan có thẩm quyền phải đồng thời xét cả về mặt thành tích công tác bảo hộ lao động.
- 1Thông tư 13-LĐ/TT-1977 hướng dẫn biện pháp kỹ thuật an toàn các máy lạnh NH3 cố định có máy nén do Bộ Lao động ban hành
- 2Thông tư 02-LĐ/TT-1965 quy định việc khai báo điều tra và thống kê tai nạn lao động do Bộ Lao động ban hành
- 3Thông tư 284-LĐ/BH-1967 về kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động ở các xí nghiệp địa phương do Bộ Lao động ban hành
- 4Thông tư 07-LĐ/TT-1969 về việc tăng cường công tác bảo đảm an toàn lao động và bảo vệ sức khoẻ công nhân trong tình hình sửa chữa, phục hồi, mở rộng và xây dựng mới xí nghiệp do Bộ Lao động ban hành
- 5Quyết định 283-LĐ/QĐ năm 1969 về việc ủy quyền cho Ban thanh tra kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động trong việc ký một số văn bản do Bộ trưởng Bộ Lao động ban hành
- 6Chỉ thị 4-LĐ/BH năm 1974 về tăng cường công tác thanh tra kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động do Bộ Lao động ban hành
- 7Thông tư 5-LĐ/TT-1974 hướng dẫn việc đề phòng tai nạn cuốn tóc lao động nữ do Bộ Lao động ban hành
- 8Chỉ thị 359-CT năm 1991 thực hiện Pháp lệnh Bảo hộ lao động Chủ tịch Hội dồng Bộ trưởng ban hành
- 9Bộ luật Lao động 1994
- 10Chỉ thị 28/BYT-CT năm 1991 thực hiện Pháp lệnh bảo hộ lao động do Bộ Y tế ban hành
- 11Thông Tư 21-LĐ/TT-1976 Quy định việc chế tạo, và sử dụng an toàn nồi đun nước nóng và nồi hơi có áp suất thấp (đến 0,7at) do Bộ Lao Động ban hành
- 12Thông tư 14-NN/KT-1969 quy định chế độ trang bị phòng hộ lao động cho công nhân viên ngành Nông nghiệp do Bộ Nông nghiệp ban hành
- 1Thông tư 13-LĐ/TT-1977 hướng dẫn biện pháp kỹ thuật an toàn các máy lạnh NH3 cố định có máy nén do Bộ Lao động ban hành
- 2Thông tư 02-LĐ/TT-1965 quy định việc khai báo điều tra và thống kê tai nạn lao động do Bộ Lao động ban hành
- 3Thông tư 284-LĐ/BH-1967 về kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động ở các xí nghiệp địa phương do Bộ Lao động ban hành
- 4Thông tư liên bộ 05-TT/LB năm 1968 quy định những công việc có nhiều yếu tố độc hại, những công việc quá nặng nhọc không sử dụng lao động nữ, và hướng dẫn thêm chế độ bảo vệ sức khỏe nữ công nhân, viên chức do Bộ Lao động - Bộ Y tế ban hành
- 5Thông tư liên bộ 13-TT/LB năm 1968 hướng dẫn chế độ tự kiểm tra về kỹ thuật an toàn và vệ sinh lao động tại xí nghiệp do Bộ Lao động - Bộ Y tế ban hành
- 6Thông tư 07-LĐ/TT-1969 về việc tăng cường công tác bảo đảm an toàn lao động và bảo vệ sức khoẻ công nhân trong tình hình sửa chữa, phục hồi, mở rộng và xây dựng mới xí nghiệp do Bộ Lao động ban hành
- 7Quyết định 283-LĐ/QĐ năm 1969 về việc ủy quyền cho Ban thanh tra kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động trong việc ký một số văn bản do Bộ trưởng Bộ Lao động ban hành
- 8Thông tư liên bộ 01-TT/LB năm 1966 hướng dẫn nhiệm vụ bảo hộ lao động và tổ chức bộ máy bảo hộ lao động của công đoàn cơ sở do Bộ Lao động - Tổng công đoàn ban hành
- 9Chỉ thị 4-LĐ/BH năm 1974 về tăng cường công tác thanh tra kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động do Bộ Lao động ban hành
- 10Thông tư 5-LĐ/TT-1974 hướng dẫn việc đề phòng tai nạn cuốn tóc lao động nữ do Bộ Lao động ban hành
- 11Chỉ thị 359-CT năm 1991 thực hiện Pháp lệnh Bảo hộ lao động Chủ tịch Hội dồng Bộ trưởng ban hành
- 12Bộ luật Lao động 1994
- 13Chỉ thị 28/BYT-CT năm 1991 thực hiện Pháp lệnh bảo hộ lao động do Bộ Y tế ban hành
- 14Thông Tư 21-LĐ/TT-1976 Quy định việc chế tạo, và sử dụng an toàn nồi đun nước nóng và nồi hơi có áp suất thấp (đến 0,7at) do Bộ Lao Động ban hành
- 15Thông tư 14-NN/KT-1969 quy định chế độ trang bị phòng hộ lao động cho công nhân viên ngành Nông nghiệp do Bộ Nông nghiệp ban hành
Nghị định 181-CP năm 1964 ban hành điều lệ tạm thời về bảo hộ lao động do Hội đồng Chính phủ ban hành
- Số hiệu: 181-CP
- Loại văn bản: Nghị định
- Ngày ban hành: 18/12/1964
- Nơi ban hành: Hội đồng Chính phủ
- Người ký: Lê Thanh Nghị
- Ngày công báo: 31/12/1964
- Số công báo: Số 46
- Ngày hiệu lực: 02/01/1965
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định