Hệ thống pháp luật

Chương 3 Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa Việt Nam và Liên bang Xô Viết

Chương III

TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ HÌNH SỰ DẪN ĐỘ

Điều 53. Trách nhiệm dẫn độ

1. Chiếu theo yêu cầu của nhau, các nước ký kết có trách nhiệm căn cứ vào các điều kiện đã được Hiệp định này quy định, dẫn độ những can phạm đang có mặt trên lãnh thổ của mình cho nước ký kết kia để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc sẽ thi hành án.

2. Chỉ dẫn độ những ngươi đã có những hành vi mà theo pháp luật của cả hai nước ký kết là tội phạm bị phạt tù trên một năm hoặc bị hình phạt nặng hơn. Việc dẫn độ để thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật được áp dụng đối với những người phạm tội trên bị phạt không dưới sáu tháng tù hoặc bị hình phạt nặng hơn.

Điều 54. Từ chối dẫn độ

1. Sẽ không có dẫn độ, nếu:

1) Người bị dẫn độ là công dân của nước được yêu cầu dẫn độ.

2) Vào lúc nhận được yêu cầu dẫn độ, căn cứ vào pháp luật của nước được yêu cầu, việc khởi tố cụ án hoặc thi hành bản án không thể thực hiện được vì lý do thời hiệu hoặc vì lý do khác đã được pháp luật của nước này quy định.

3) Người bị yêu cầu dẫn độ đã bị kết án trên lãnh thổ của nước được yêu cầu về cùng một tội phạm và bản án đã có hiệu lực pháp luật hoặc tố tụng đã bị đình chỉ.

4) Theo pháp luật của hai nước ký kết, người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo thủ tục tư tố.

2. Việc dẫn độ có thể bị từ chối, nếu tội phạm dẫn đến việc yêu cần dẫn độ đã hoàn thành trên lãnh thổ của nước được yêu cầu.

3. Trường hợp từ chối dẫn độ, nước ký kết được yêu cầu sẽ thông báo cho nước ký kết yêu cầu biết các lý do không dẫn độ.

Điều 55. Đơn yêu cần dẫn dộ

1. Đơn yêu cầu dẫn độ cần nêu đủ các điểm sau đây:

1) Tên cơ quan yêu cầu.

2) Điều luật của nước ký kết yêu cầu, theo đó hành vi bị coi là tội phạm.

3) Họ tên, quốc tịch, nơi cư trú hoặc nơi tạm trú và nếu có thể được thì tả nhận dạng và cung cấp những tài liệu khác về nhân thân người bị yêu cầu dẫn độ.

4) Nếu tội phạm đã gây thiệt hại thì nêu cả mức độ thiệt hại.

2. Đơn yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự phải kèm theo một bản sao lệnh bắt giữ người phạm tội có thị thực và bản miêu tả việc phạm tội.

3. Đơn yêu cầu dẫn độ để thi hành án phải kèm theo bản sao có thị thực của bản án và xác nhận bản án đã có hiệu lực pháp luật và các điều luật hình sự làm căn cứ để kết án người bị yêu cầu dẫn độ. Nếu người này đã chấp hành một phần hình phạt, thì cũng phải thông báo điều đó.

Điều 56. Bắt giữ để dẫn độ

Nhận được đơn yêu cầu dẫn độ, nước ký kết được yêu cầu cần nhanh chóng tiến hành các biện pháp cần thiết để bắt người bị yêu cầu dẫn độ, trừ những trường hợp mà Hiệp định này không cho phép dẫn độ.

Điều 57. Bổ sung tài liệu

1. Nếu đơn yêu cầu dẫn độ chưa có đủ các tài liệu cần thiết, thì nước ký kết được yêu cầu có thể đòi nước ký kết kia bổ sung. Thời gian ấn định cho việc cung cấp thêm tài liệu không qua hai tháng. Nếu có lý do chính đáng thì thể theo đề nghị của nước yêu cầu dẫn độ, có thể gia hạn, nhưng cũng không quá hai tháng nữa.

2. Cơ quan có thẩm quyền của nước ký kết được yêu cầu có thể chấm dứt thủ tục dẫn độ và trả lại tự do cho người bị bắt giữ nếu sau thời hạn quy định hoặc sau thời gian gia hạn, không ngânh được những tài liệu bổ sung cần thiết.

Điều 58. Bắt giữ trước khi nhận được yêu cầu dẫn độ

1. Trong trường hợp không thể trì hoãn, thể theo yêu cầu của nước ký kết này, nước ký kết kia vẫn có thể bắt giữ người phạm tội mặc dù chưa nhận được đơn yêu cầu dẫn độ nói ở Điều 55. Đơn yêu cầu bắt giữ trước cần viện dẫn lệnh bắt giữ hoặc bản án đã có hiệu lực pháp luật và nêu rõ đơn yêu cầu dẫn độ sẽ được chuyển đến nước được yêu cầu trong thời gian ngắn nhất. Đơn yêu cầu bắt giữ trước có thể chuyển bằng bưu chính, điện thoại, điện tín và các phương tiện khác.

2. Cơ quan có thẩm quyền của mỗi nước ký kết có thể bắt giữ tạm thời những người đang ở trên lãnh thổ của nước mình, mặc dù không có yêu cầu như quy định ở khoản 1 Điều này, nếu có cơ sở để nghi ngờ người đó đã phạm tội trên lãnh thổ của nước ký kết kia và do đó phải dẫn độ.

3. Việc bắt giữ theo quy định của khoản 1 và 2 cần được thông báo ngay cho bên ký kết kia biết.

Điều 59. Trả lại tự do cho người tạm bị bắt giữ

Người bị bắt giữ theo quy định của Điều 58 sẽ được trả lại tự do nếu nước bắt giữ không nhận được yêu cầu dẫn độ trong vòng 30 ngày, kể từ ngày nước ký kết kia được thông báo về việc bắt giữ. Việc trả lại tự do cho người bị bắt giữ cần được thông báo cho nước ký kết kia biết.

Điều 60. Hoãn dẫn độ

Nếu người bị dẫn độ đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải thi hành hình phạt vì một tội phạm khác trên lãnh thổ của nước ký kết được yêu cầu dẫn độ, thì có thể hoãn việc dẫn độ đến khi kết thúc tố tụng hình sự, thi hành xong hình phạt, hoặc tha trước thời hạn.

Điều 61. Dẫn độ tạm thời

1. Nếu việc hoãn dẫn độ nói ở Điều 60 có thể làm cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị thời hiệu hoặc việc tiến hành tố tụng hình sự sẽ gặp khó khăn thì có thể cho dẫn độ tạm thời thể theo yêu cầu có căn cứ của nước ký kết kia.

2. Khi tiến hành xong các hành vi tố tụng hình sự phải trả ngay người bị dẫn độ tạm thời cho nước ký kết đã cho dẫn độ.

Điều 62. Xung đột giữa các yêu cầu dẫn độ

Nếu nhiều nước yêu cầu dẫn độ cùng một người thì nước ký kết được yêu cầu sẽ xem xét yêu cầu của từng nước để quyết định nên thỏa mãn nước nào.

Điều 63. Giới hạn của việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người bị dẫn độ

1. Nếu không có sự thỏa thuận của nước ký kết đã cho dẫn độ thì không được truy cứu trách nhiệm hình sự, không được bắt chịu hình phạt về một tội mà người bị dẫn độ đã phạm trước khi bị dẫn độ và không phải là căn cứ để bị dẫn độ.

2. Nếu không được sự đồng ý của nước ký kết đã dẫn độ thì không được dẫn độ người đó cho một nước thứ ba.

3. Trong những trường hợp sau đây thì không cần sự thỏa thuận của nước ký kết đã cho dẫn độ:

a) Người bị dẫn độ mặc dù có điều kiện đã không rời khỏi lãnh thổ của nước ký kết đã yêu cầu dẫn độ trong thời hạn một tháng, kể từ ngày kết thúc tố tụng hình sự, kết thúc việc thi hành hình phạt hay từ ngày được tha trước thời hạn. Sẽ không tính vào thời hạn này thời gian mà người bị dẫn độ không thể rời khỏi nước trên dây vì lý do không phụ thuộc vào người đó.

b) Người bị dẫn độ sau khi rời khỏi lãnh thổ của mình đã yêu cầu dẫn độ, lại tự ý quay lại nước đó.

Điều 64. Thực hiện dẫn độ

1. Nước ký kết được yêu cầu dẫn độ có trách nhiệm thông báo cho nước ký kết kia biết thời gian và địa điểm dẫn độ.

2. Người bị dẫn độ sẽ được trả lại tự do nếu nước yêu cầu dẫn độ không tiếp nhận người đó trong vòng 15 ngày, kể từ ngày ấn định cho việc giao nhận. Nếu có sự thỏa thuận của hai bên thì có thể gia hạn, nhưng không được quá 15 ngày nữa.

Điều 65. Dẫn độ lại

Nếu người bị dẫn độ trốn tránh việc truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc việc thi hành hình phạt và quay trở lại nước ký kết đã cho dẫn độ thì thể theo yêu cầu mới của nước ký kết kia, người đó sẽ bị dẫn độ lại mà không cần phải làm lại các thủ tục nói ở Điều 55 Hiệp định này.

Điều 66. Thông báo kết quả tố tụng hình sự

Nước ký kết sau khi nhận được người bị dẫn độ sẽ thông báo cho nước ký kết kia biết kết quả của tố tụng hình sự. Nếu có yêu cầu thì sẽ gửi cho người kia một bản sao quyết định cuối cùng.

Điều 67. Quá cảnh

1. Mỗi nước ký kết Hiệp định, thể theo yêu cầu của nhau, cho phép vận chuyển qua lãnh thổ của nhau những người mà nước thứ ba chuyển giao cho nước ký kết bên kia.

Các nước ký kết không nhất thiết phải cho phép vận chuyển qua lãnh thổ mình những người mà Hiệp định này không cho dẫn độ.

2. Đơn yêu cầu dẫn độ quá cảnh nói trên phải làm và gửi theo đúng thể thức đã quy định cho đơn yêu cầu dẫn độ.

Điều 68. Chi phí cho dẫn độ và cho quá cảnh

Chi phí cho dẫn độ thực hiện trên lãnh thổ của nước ký kết nào do nước ấy chịu. Chi phí cho quá cảnh do nước yêu cần quá cảnh chịu.

TIẾN HÀNH TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

Điều 69. Nghĩa vụ truy cứu trách nhiệm hình sự

1. Các nước ký kết cam kết, thể theo yêu cầu của nhau, sẽ tiến hành việc truy cứu trách nhiệm hình sự, phù hợp với pháp luật hiện hành của nước mình những công dân của mình bị tình nghi đã phạm tội trên lãnh thổ của nước ký kết kia.

2. Nghĩa vụ truy cứu trách nhiệm hình sự, được áp dụng cả đối với những hành vi mà theo pháp luật của nước ký kết yêu cầu thì là tội phạm, còn theo pháp luật của nước được yêu cầu thì chỉ là những vi phạm hành chính.

3. Đơn yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự mà người bị hại gửi cho cơ quan có thẩm quyền theo đúng pháp luật của nước ký kết này trong thời hạn quy định cũng có giá trị trên lãnh thổ của nước ký kết kia.

4. Người bị thiệt hại do một hành vi phạm tôi của một người bị nước ký kết này yêu cầu nước ký kết kia truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ được tham gia tố tụng nếu họ nộp đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Điều 70. Ủy thác truy cứu trách nhiệm hình sự

1. Văn bản ủy thác truy cứu trách nhiệm hình sự cần nêu đủ các điểm sau đây:

a) Tên cơ quan yêu cầu.

b) Miên tả những hành vi đã dẫn đến việc ủy thác truy cứu trách nhiệm hình sự.

c) Nêu càng rõ càng tốt thời gian và địa điểm xảy ra hành vi phạm tội.

d) Điều luật của nước ủy thác quy định những hành vi đã xảy ra là tội phạm, kể cả những điều luật khác có ý nghĩa thiết thực đối với việc truy cứu trách nhiệm hình sự.

đ) Họ tên, quốc tịch, nơi cư trú hoặc nơi tạm trú của người bị tình nghi và cả những tài liệu cần thiết về nhân thân người đó.

g) Đơn của người bị hại nếu vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của họ, và đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.

h) Mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra nếu có.

Văn bản ủy thác phải kèm theo hồ sơ điều tra và những chứng cứ mà nước ký kết yêu cầu đã thu thập được.

2. Nếu khi gửi giấy ủy thác truy cứu trách nhiệm hình sự mà bị can đang bị giam giữ ở nước ủy thác thì bị can sẽ bị dẫn giải trở lại nước được ủy thác.

3. Nước ký kết được ủy thác có trách nhiệm thông báo quyết định cuối cùng cho nước ký kết ủy thác biết. Nếu nước ký kết này đề nghị thì một bản sao quyết định cuối cùng sẽ được gửi cho nước đó.

Điều 71. Hậu quả của việc truy cứu trách nhiệm hình sự

Nếu các cơ quan của nước ký kết được yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 69 đã ra một bản án có hiệu lực pháp luật hoặc một quyết định cuối cùng khác, thì cơ quan của nước ký kết yêu cầu không thể khởi tố vụ án hình sự nữa, còn nếu đã khởi tố thì phải đình chỉ.

NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁC THUỘC TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ HÌNH SỰ

Điều 72. Chuyển giao đồ vật liên quan đến vụ án

1. Các nước ký kết cam kết, thể theo yêu cầu của nhau, chuyển giao cho nhau những đồ vật sau đây:

a) Những đồ vật hoặc trị giá của những đồ vật do phạm tội mà có.

b) Những đồ vật có thể có ý nghĩa chứng của trong tố tụng hình sự: nếu việc dẫn độ không thực hiện được vì người phạm tội chết, chạy trốn hoặc vì nguyên nhân khác, thì những đồ vật đó vẫn phải được chuyển giao.

2. Nếu những đồ vật phải chuyển giao lại cần thiết làm chứng cứ cho tố tụng hình sự ở nước được yêu cầu, thì nước này có thể tạm giữ những đồ vật đó cho đến khi tiến hành xong tố tụng.

3. Quyền của người thứ ba đối với các đồ vật đã được chuyển giao cho nước yêu cầu được bảo đảm hoàn toàn. Sau khi kết thúc tố tụng hình sự, những đồ vật trên sẽ được trả lại vô điều kiện cho nước ký kết đã chuyển giao. Nếu không có hại gì cho tố tụng thì, trước khi xét xử xong, có thể trả những đồ vật đó cho chủ của nó. Nếu người có quyền đối với những đồ vật ấy đang ở nước ký kết yêu cầu, thì nước này, sau khi được sự thỏa thuận của nước ký kết kia, sẽ trả trực tiếp những đồ vật kể trên cho người đó.

Điều 73. Thông báo các bản án và án tích

1. Các nước ký kết cam kết, hàng năm sẽ thông báo cho nhau những bản án đã có hiệu lực pháp luật mà Tòa án nước mình đã tuyên xử đối với công dân của nước ký kết kia.

2. Các nước ký kết thể theo yêu cầu của nhau, thông báo cho nhau án tích của những người trước đây đã bị Tòa án nước mình xét xử, nếu những người đó đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở nước ký kết yêu cầu.

Điều 74. Cách thức liên hệ

Về các vấn đề dẫn độ và truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc các vấn đề khác nằm trong phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự, các nước ký kết sẽ liên hệ với nhau qua các cơ quan sau đây của mình: phía Liên Xô là Viện kiểm sát hoặc Bộ Tư pháp của Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, phía Việt Nam là Viện kiểm sát hoặc Bộ Tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa Việt Nam và Liên bang Xô Viết

  • Số hiệu: Khongso
  • Loại văn bản: Điều ước quốc tế
  • Ngày ban hành: 10/12/1981
  • Nơi ban hành: Quốc hội
  • Người ký: Phan Hiền, Terebilov V.I
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Dữ liệu đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 10/10/1982
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
MỤC LỤC VĂN BẢN
MỤC LỤC VĂN BẢN
HIỂN THỊ DANH SÁCH