Hệ thống pháp luật

BỘ LAO ĐỘNG
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 02-LĐ/TT

Hà Nội, ngày 25 tháng 3 năm 1981

THÔNG TƯ

CỦA BỘ LAO ĐỘNG SỐ 2-LĐ/TT NGÀY 25 THÁNG 3 NĂM 1981 HƯỚNG DẪN VIỆC NÂNG BẬC LƯƠNG TRONG NĂM 1981 ĐỐI VỚI CÔNG NHÂN, CÁN BỘ, NHÂN VIÊN NHÀ NƯỚC

Qua hai năm thi hành Quyết định số 274-CP ngày 25-7-1979 của Hội đồng Chính phủ và Chỉ thị số 27-TTg ngày 16-1-1980 của Thủ tướng Chính phủ về việc nâng bậc lương hàng năm, các ngành, các địa phương đã đạt kết quả tương đối tốt trên các mặt khuyến khích công nhân, cán bộ, nhân viên Nhà nước cố gắng học tập, công tác, khắc phục một phần quan hệ về xếp lương bất hợp lý trước đây, giúp cho việc thực hiện chính sách cán bộ được tốt hơn. Một số nơi có khuyết điểm thi hành không đúng quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Lao động.
Các ngành, các địa phương cần uốn nắn những lệch lạc trong việc nâng bậc lương, sửa ngay những trường hợp nâng bậc sai trước khi tiến hành nâng bậc trong năm 1981.
Căn cứ vào Chỉ thị số 21-TTg ngày 23-1- 1981 của Thủ tướng Chính phủ, việc nâng bậc lương trong năm 1981 cho công nhân, cán bộ, nhân viên Nhà nước về cơ bản vẫn thực hiện theo Thông tư số 3-LĐ/TT ngày 22-1-1980 của Bộ lao động. Nay Bộ Lao động hướng dẫn thêm một số điểm như sau:

I. ĐỐI VỚI CÔNG NHÂN TRỰC TIẾP SẢN XUẤT, KINH DOANH

1. Bồi dưỡng và nâng bậc công nhân là việc làm thường xuyên để bảo đảm sự cân đối giữa yêu cầu của sản xuất và trình độ tiến bộ về nghề nghiệp. Kế hoạch bồi dưỡng nâng bậc, chỉ tiêu nâng bậc cho công nhân phải dựa trên cơ sở kế hoạch sản xuất của từng đơn vị và chỉ được nâng bậc cho công nhân đã qua kiểm tra trình độ, được hội đồng kiểm tra công nhận đạt yêu cầu theo tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật nghề nghiệp.

2. Hàng năm đã tổ chức bồi dưỡng nâng bậc công nhân, nên không nâng hai bậc trong một lần hoặc nâng hai lần trong một năm. Những công nhân đạt danh hiệu thợ giỏi toàn ngành, nếu bậc dự thi thợ giỏi trùng với bậc thợ xét nâng bậc thì được coi như đã kiểm tra kiến thức và tay nghề để xét nâng bậc.

3. Căn cứ vào Chỉ thị số 21-TTg, từ năm 1981 quy định về nâng bậc lương cho những công nhân đã xếp bậc cao nhất của thang lương, bảng lương, khung lương có đủ thời hạn 5 năm trở lên vẫn phát huy tốt trong sản xuất, sau khi kiểm tra trình độ bậc đang xếp nếu đạt yêu cầu thì:

- Những người đã xếp bậc cao nhất của thang lương, bảng lương sẽ được nâng lên mức lương mới bằng mức lương cao nhất cộng với số tiền chênh lệch giữa bậc cao nhất với bậc liền kề dưới của thang lương, bảng lương ấy;

- Những người đã xếp bậc cao nhất của khung lương trong thang lương thì được nâng lên bậc liền kề cuả thang lương ngành nghề ấy.

4. Các đơn vị sản xuất, kinh doanh cần có kế hoạch, tiến độ thực hiện bồi dưỡng trình độ và nâng bậc công nhân ngay từ đầu năm, không nên để dồn vào cuối năm mới thực hiện vội vã, không chu đáo.

5. Bãi bỏ điểm 3 và điểm 4, phần I trong thông tư số 3-LĐ/TT ngày 22-1-1980 của Bộ Lao động.

II. ĐỐI VỚI CÁN BỘ, NHÂN VIÊN CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH, ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP, BỘ MÁY QUẢN LÝ SẢN XUẤT- KINH DOANH

1. Nhất thiết không được nâng từ hai bậc trở lên trong một lần hoặc trong một năm (điểm 2, Chỉ thị số 27-TTg ngày 16-1-1980 của Thủ tướng Chính phủ về việc nâng bậc lương).

2. Chỉ tiêu số cán bộ, nhân viên được nâng bậc sớm từ 1 đến 2 năm không vượt quá 5% như đã quy định tại điểm 1 trong Chỉ thị số 27-TTg ngày 16-1-1980 và nhắc lại ở điểm 1 trong Chỉ thị số 21-TTg ngày 23-1-1981 của Thủ tướng Chính phủ.

3. Nâng bậc cho những người đã xếp bậc cao nhất của bảng lương hoặc khung lương.

a. Từ nay cho đến khi cải tiến chế độ tiền lương, những cán bộ, nhân viên đã xếp bậc cao nhất của bảng lương hoặc khung lương chức vụ hiện giữ từ 5 năm trở lên, nếu đạt các tiêu chuẩn nâng bậc thì được xét nâng bậc vượt khung.

Trường hợp đã xếp bậc lương cao nhất của chức vụ hiện giữ chưa đủ 5 năm, nhưng nếu trong thời hạn 5 năm tính đến khi xếp bậc lương cao nhất ấy, tổng số tiền tăng do những lần xếp lại lương chưa đủ 70% số tiền chênh lệch giữa hai bậc lương của bảng lương chức vụ hiện giữ và nếu đạt các tiêu chuẩn nâng bậc thì cũng được xét nâng bậc vượt khung.

Ví dụ: Một kỹ sư xếp 63 đồng từ tháng 1 năm 1976, đề bạt trưởng ban huyện tháng 9 nặm 1979, xếp 65 đồng (bậc cao nhất) thì nay đủ điều kiện thời hạn xét nâng bậc vượt khung.

b. Cách xếp sang bậc lương vượt khung:

Được vận dụng bảng lương cán sự hoặc bảng lương chuyên viên để xếp sang bậc lương phù hợp (tương đương với một bậc lương của bảng lương đang hưởng).

Nếu vận dụng bảng lương cán sự hoặc bảng lương chuyên viên không có mức lương phù hợp thì xếp lên một mức lương bằng bậc cao nhất của chức vụ hiện giữ cộng với số tiền chênh lệch giữa bậc cao nhất với bậc liền kề dưới của bảng lương chức vụ hiện giữ.

Đối với cán bộ, nhân viên là giáo viên phổ thông cấpI, II, y sĩ, y tá, hộ lý, cô nuôi dạy trẻ, công nhân lái xe ô tô con, công nhân cơ quan cần thống nhất vận dụng xếp sang mức lương vượt khung theo cách thứ hai nói trên đây, không xếp sang bảng lương cán sự hoặc bảng lương chuyên viên.

Ví dụ: Một y tá, năm 1976 xếp 72 đồng đến nay đạt tiêu chuẩn nâng bậc thì xếp lên mức lương: 72đ + (72đ - 62đ) = 82đồng.

c. Những cán bộ đã xếp mức lương từ 160 đồng trở lên, nếu xét cần nâng bậc lương hoặc cần xếp lương vượt khung thì cơ quan quản lý cán bộ đề nghị lên Ban tổ chức Trung ương hoặc ban tổ chức Chính phủ và do Ban bí thư Trung ương Đảng hoặc Thường vụ Hội đồng Chính phủ xét quyết định.

4. Cán bộ, nhân viên nào đủ điều kiện thời hạn 5 năm và đạt các tiêu chuẩn nâng bậc thì được hưởng lương mới từ tháng ký quyết định.

Cán bộ, nhân viên hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc được nâng bậc lương trước một hoặc hai năm thì quyết định nâng bậc tháng nào hưởng lương mới từ tháng ấy.

5. Bãi bỏ điểm1, phần III trong Thông tư số 3-LĐ/TT ngày 22-1-1980 của Bộ Lao động.

Để việc thực hiện chính sách, chế độ tiền lương được thống nhất và đạt kết quả tốt, Bộ Lao động đề nghị các ngành, các địa phương chỉ đạo chặt chẽ việc nâng bậc lương trong năm 1981. Trong quá trình thực hiện nếu có khó khăn vướng mắc thì phản ánh cho Bộ Lao động để nghiên cứu cùng bàn bạc giải quyết, nhất thiết không hướng dẫn và thực hiện trái với chủ trương nâng bậc lương hoặc các chế độ tiền lương quy định hiện hành. Các ngành, các địa phương có văn bản hướng dẫn cụ thể về nâng bậc lương trong năm 1981 thì yêu cầu gửi cho Bộ Lao động.

Sau khi thực hiện nâng bậc lương trong năm 1981 cho công nhân, cán bộ, nhân viên, yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, các hội quần chúng trung ương và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo kết quả cho Bộ Lao động, biểu mẫu thống kê theo biểu mẫu số 1 (cột 2, tổng số có mặt tính đến ngày 1-1-1981) tại Công văn số 1403-LĐTL ngày 8-11-1980 của Bộ Lao động.

Đào Thiện Thi

(Đã ký)

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Thông tư 02-LĐ/TT-1981 về việc nâng bậc lương trong năm 1981 đối với công nhân, cán bộ, nhân viên Nhà nước do Bộ Lao động ban hành

  • Số hiệu: 02-LĐ/TT
  • Loại văn bản: Thông tư
  • Ngày ban hành: 25/03/1981
  • Nơi ban hành: Bộ Lao động
  • Người ký: Đào Thiện Thi
  • Ngày công báo: 15/04/1981
  • Số công báo: Số 6
  • Ngày hiệu lực: 09/04/1981
  • Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định
Tải văn bản