Hệ thống pháp luật

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH TUYÊN QUANG
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 77/QĐ-UBND

 Tuyên Quang, ngày 19 tháng 3 năm 2020

 

QUYẾT ĐỊNH

BAN HÀNH NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TUYÊN QUANG

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015;

Căn cứ Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng;

Căn cứ Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT ngày 20/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ;

Căn cứ Văn bản số 1175-TB/TU ngày 11/02/2020 của Thường trực Tỉnh ủy;

Xét đề nghị của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Cơ quan Thường trực của Hội đồng tư vấn tỉnh về đặt tên, đổi tên, đường phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh tại Tờ trình số 27/TTr-SVHTTDL ngày 02/3/2020,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang (có Ngân hàng kèm theo).

Điều 2. Tổ chức thực hiện

1. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng:

Tổ chức tuyên truyền, phổ biến về giá trị, ý nghĩa của việc ban hành Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh.

Định kỳ 02 năm một lần (kể từ năm 2020) tổ chức sưu tầm, lựa chọn tên để bổ sung vào Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng.

2. Các Sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh; các tổ chức, đơn vị và Ủy ban nhân dân huyện, thành phố được giao nhiệm vụ quản lý các tuyến đường, phố, công trình công cộng có trách nhiệm nghiên cứu, lựa chọn dữ liệu trong Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng đã được phê duyệt để tiến hành đặt tên, đổi tên theo trình tự, thủ tục quy định.

Điều 3. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.

Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh; Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh; Thành viên Hội đồng tư vấn tỉnh về đặt tên, đổi tên đường phố và công trình công cộng tỉnh; Thủ trưởng các Sở, ban, ngành tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, thành phố; thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

 

 

Nơi nhận:
- Bộ VHTT&DL; (Báo cáo)
- Thường trực Tỉnh ủy; (Báo cáo)
- Thường trực HĐND tỉnh;
- Đoàn ĐBQH tỉnh;
- Chủ tịch UBND tỉnh;
- Ban VHXH HĐND tỉnh;
- Các PCT UBND tỉnh;
- Như Điều 3; (thực hiện)
- Phó CVP UBND tỉnh;
- CV: KGVX; QHĐT&XD;KT;
- Lưu VT, KGVX (Tùng).

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
KT.
CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Trần Ngọc Thực

 

NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TUYÊN QUANG

(Ban hành kèm theo Quyết định số: 77/QĐ-UBND ngày 19/3/2020 của UBND tỉnh)

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Sự cần thiết xây dựng Ngân hàng tên đường và công trình công cộng

Trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa, đặc biệt là từ năm 2011 trở lại đây, tỉnh Tuyên Quang đã có những bước phát triển mạnh mẽ với tốc độ nhanh. Quá trình xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, đô thị nhanh, nhiều tuyến đường, tuyến phố mới được hình thành, mở rộng và kéo dài, nhiều công trình công cộng được xây dựng. Do đó, việc xây dựng Ngân hàng tên đường, phố, công trình công cộng dùng để đặt tên cho các đường mới và những tuyến đường đã được kéo dài là việc làm cần được triển khai kịp thời.

Việc xây dựng Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng tỉnh Tuyên Quang nhằm mục đích đưa ra một hệ thống danh mục tên như: Các danh từ có ý nghĩa tiêu biểu; tên các phong trào cách mạng, sự kiện lịch sử, chiến thắng tiêu biểu trong phạm vi cả nước và trong phạm vi tỉnh Tuyên Quang. Đặc biệt trong Ngân hàng tên đường sử dụng tên các danh nhân đất nước như: Vua Việt, các quan qua các triều đại, trạng nguyên, danh tướng, anh hùng lực lượng vũ trang phân theo thời kỳ lịch sử, nhà thơ, nhạc sỹ, họa sỹ. Ưu tiên các anh hùng liệt sỹ, những nhà hoạt động cách mạng gắn liền cuộc đời chiến đấu, công tác và hoạt động tại Tuyên Quang qua các thời kỳ.

Xây dựng Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng (danh mục tên được lựa chọn, lưu trữ) tỉnh Tuyên Quang nhằm góp phần thực hiện tốt công tác quản lý đô thị, quản lý hành chính; tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong các hoạt động giao dịch kinh tế, văn hóa - xã hội; đồng thời góp phần giáo dục truyền thống lịch sử - văn hóa dân tộc, nâng cao tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc, tình hữu nghị đoàn kết quốc tế.

2. Căn cứ pháp lý

Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19/6/2015.

Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng.

Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.

Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT ngày 20/3/2006 của Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) về việc hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ.

Quyết định số 98/QĐ-UBND ngày 28/02/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc phê duyệt Chương trình phát triển đô thị tỉnh Tuyên Quang đến năm 2020.

Quyết định số 20/2017/QĐ-UBND ngày 13/12/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc ban hành Quy định về quản lý và bảo trì đường bộ thực hiện trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.

3. Nguyên tắc, tiêu chí quy định cụ thể đối việc đưa tên các danh nhân, địa danh của tỉnh vào Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng

Việc lựa chọn tên để đưa vào Ngân hàng tên đường tỉnh Tuyên Quang cần đạt được các tiêu chí như: Tính dân tộc, tính truyền thống; tính chính trị, tính đạo đức; tính lịch sử, tính địa phương; tính tiện dụng, tính đại chúng, tính thẩm mỹ; tính phù hợp và tính kịp thời. Đảm bảo tên di tích lịch sử, tên danh nhân được đặt phù hợp tương xứng với quy mô của đường, công trình công cộng và tên phải được dự kiến đặt ngay khi lập dự án, chuẩn bị đầu tư xây dựng công trình; tránh trường hợp công trình hoàn thiện xong nhưng chưa có tên hoặc đã gọi quen theo tên của hồ sơ lập dự án. Cụ thể:

3.1. Đối với danh nhân

a) Là người có những đóng góp lớn, tiêu biểu trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, xã hội qua các thời kỳ lịch sử Việt Nam để lại cho thế hệ sau những tác phẩm, những công trình khảo cứu, những tư tưởng có giá trị khoa học và thực tiễn góp phần hình thành truyền thống tốt đẹp của Tuyên Quang và đất nước.

b) Là những người được nhân dân truyền tụng, tôn vinh, thờ phụng từ đời này đời sang đời khác với nhiều hình thức khác nhau.

c) Tôn vinh những người con ưu tú của vùng đất Tuyên Quang nói riêng và dân tộc nói chung được lịch sử, dân tộc, nhân dân ghi nhận và lưu danh.

3.2. Đối với địa danh

Là những địa danh lịch sử, những tên gọi đã trở thành truyền thống trong tiềm thức của nhân dân.

3.3. Đối với sự kiện

Các sự kiện tiêu biểu nổi bật của tỉnh Tuyên Quang và của cả nước.

4. Nguồn tư liệu

- Lịch sử Việt Nam, tập I, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971;

- Những sự kiện lịch sử Đảng tập 1, 2, 3, Nhà Xuất bản Sự thật năm 1976;

- Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nhà Xuất bản Từ điển bách khoa, năm 2005;

- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940-1975), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2000;

- Từ điển Văn hóa Việt Nam, Nhà Xuất bản Văn hóa - Thông tin, 1993;

- Địa chí Tuyên Quang, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2014.

- Trí thức Việt Nam xưa và nay, Nhà Xuất bản Văn hóa - Thông tin, năm 2006.

B. DỮ LIỆU NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TỈNH TUYÊN QUANG

I. Danh từ có ý nghĩa tiêu biểu và một số địa danh tiêu biểu của đất nước: 13 tên

1. Độc lập: Là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia bởi chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩa là có chủ quyền tối cao. Khái niệm “Độc lập” có ý nghĩa tương phản với “Nô dịch” (sự khuất phục).

2. Đồng tâm: thể hiện sự đoàn kết cùng hướng về một hướng.

3. Giải phóng: Là làm cho được tự do, thoát khỏi địa vị nô lệ hoặc tình trạng bị áp bức, kiềm chế, ràng buộc; là thoát khỏi tình trạng bị nước ngoài nô dịch, chiếm đóng.

4. Hòa bình: Là trạng thái xã hội không có chiến tranh, không dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, các nhóm chính trị xã hội. Hòa bình đối lập với chiến tranh.

5. Thanh niên: Là lực lượng to lớn, là nguồn lực dồi dào, mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội hiện tại và là người chủ tương lai của đất nước.

6. Thành công: Sự thắng lợi, thành quả đạt được sau quá trình nỗ lực, cố gắng.

7. Thống nhất: Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đất nước và dân tộc ta, đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giang sơn thu về một mối, cả nước cùng đi lên xây dựng CNXH theo con đường cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn cho toàn dân tộc.

8. Tự do: Là trạng thái một dân tộc, một xã hội và các thành viên không bị cấm đoán, hạn chế vô lý trong các hoạt động chính trị, xã hội.

9. Hà Nội: Trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và thủ đô của đất nước, là thành phố đã kết nghĩa với tỉnh Tuyên Quang.

10. Thái Bình: Là trạng thái một dân tộc, một xã hội, không có loạn lạc, chiến tranh, đất nước yên ổn, nhân dân được sống trong hòa bình.

11. Hoàng Sa: (có nghĩa là cát vàng hay bãi cát vàng): Là một đơn vị hành chính thuộc thành phố Đà Nẵng.

12. Trường Sa: Là hệ thống các đảo thuộc địa phận tỉnh Khánh Hòa.

13. Ninh Bình: Là tỉnh kết nghĩa với tỉnh Tuyên Quang.

II. Các sự kiện lịch sử, cách mạng tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam: 24 tên

TT

Tên sự kiện

Thời gian, địa điểm diễn ra sự kiện

Tóm tắt nội dung sự kiện

Tên dự kiến đặt

1

Âu Lạc - Cổ Loa

Khoảng nửa sau thế kỷ III trước CN 

Do sự suy yếu của triều đại Hùng Vương, vào nửa sau thế kỷ III trước công nguyên, Thục Phán - thủ lĩnh người Âu Lạc đã lãnh đạo nhiều đội quân đánh đổ triều đại Hùng Vương, lập nên nước Âu Lạc. Thục Phán xưng là An Dương Vương, rời đô xuống Cổ Loa. Như vậy sự ra đời của nhà nước Âu Lạc không chỉ hợp nhất các thành phần dân tộc mà lãnh thổ của người Lạc Việt và Âu Việt cũng được thống nhất và phát triển cao hơn về mọi mặt so với quốc gia Văn Lang.

- Âu Lạc

- Cổ Loa

2

Hội nghị Bình Than

- Năm 1282

- Địa bàn: Trên sông Đuống đổ vào sông Lục Đầu (nay là xã Đại Than, Gia Lương, Bắc Ninh)

Đứng trước nguy cơ xâm lược lần thứ 2 của quân Nguyên Mông, nhà Trần đã gấp rút chuẩn bị kháng chiến. Tháng 11 năm 1282, vua Trần ra Bình Than mở hội nghị các vương hầu quan lại. Đây là hội nghị quân sự vô cùng quan trọng để bàn kế sách đánh giặc, trong đó có sự kiện Hoài Văn Hầu - Trần Quốc Toản bóp nát quả cam vì uất ức không được tham dự vì tuổi còn nhỏ.

Bình Than

3

Chiến thắng trận Chương Dương (trong cuộc kháng chiến lần thứ 2 chống quân xâm lược Nguyên Mông)

- Năm 1285

- Địa bàn: Tại bến Chương Dương (nay thuộc Thường Tín, Hà Nội)

Thắng trận Hàm Tử - Tây Kết, Trần Quốc Tuấn mang toàn quân ra Bắc đánh Thoát Hoan để lấy lại Thăng Long. Bằng kế sách ngăn chặn không cho Toa Đô hợp binh với Thoát Hoan, trong khi đó đại quân của Thoát Hoan ở Thăng Long cũng đang trong tình trạng thiếu thốn mọi mặt, các chiến thuyền đều đóng ở Chương Dương. Trần Quang Khải cùng Phạm Ngũ Lão và Trần Quốc Toản tấn công quân Nguyên ở Chương Dương; quân giặc bị bất ngờ nên đã tan tác bỏ chạy. Trên đà chiến thắng đó quân ta tiến vào Thăng Long, quân của Thoát Hoan không chống cự được buộc phải rút khỏi kinh thành Thăng Long.

Chương Dương

4

Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn

- Năm 1940

- Địa bàn: Tại Lạng Sơn

Khi quân Nhật đánh vào Lạng Sơn, ngày 22/9/1940, quân đội Pháp trên đường thua chạy đã rút lui qua châu Bắc Sơn. Ngày 27/9/1940, Đảng bộ châu Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy tước khí giới của quân Pháp, giải tán chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng. Ngày 3/10/1940 tại rừng Tân Hương chính quyền của ta đã quyết định thành lập đơn vị du kích Bắc Sơn.

Bắc Sơn

5

Sự kiện Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng

Năm 938

Tháng 10 năm 938, Ngô Quyền tiến quân ra Bắc. Kiều Công Tiễn hoảng sợ cầu cứu vua Nam Hán. Cuối tháng 11 năm 938, đoàn thuyền Nam Hán vượt biển Quảng Châu, tiến dần tới cửa sông Bạch Đằng. Theo lệnh Ngô Quyền, quân dân ta đã đóng cọc gỗ đầu bịt sắt nhọn ngang sông Bạch Đằng, nơi hiểm yếu gần cửa biển thành một trận địa ngầm. Quân thủy, bộ của ta mai phục ở phía trong. Khi nước triều xuống, bãi cọc nhô lên, quân ta được lệnh cũng nhất tề xông ra đánh địch. Đội hình địch tan tác, nhiều thuyền bị vỡ, bị đắm, tướng sĩ hoảng loạn, phần bị giết, phần chết đuối, phần lớn quân Nam Hán bị tiêu diệt trong đó có cả chủ tướng Hoằng Thao.

Trận chiến Bạch Đằng (938) là một trận quyết chiến chiến lược lớn trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, một bước phát triển rực rỡ của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Kết thúc hơn 1000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc, mở ra thời kỳ phát triển quốc gia phong kiến độc lập.

Bạch Đằng

6

Phong trào Cần Vương do Vua Hàm Nghi phát động

Từ tháng 7/1885 đến năm 1896

Tháng 7/1885, vua Hàm Nghi khởi nghĩa ở kinh thành Huế và sau đó ban chiếu Cần Vương. Phong trào thu hút được một số quan lại trong triều đình và văn thân, tầng lớp sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi kéo dài từ tháng 7/1885 đến năm 1896.

Cần Vương

 

7

Chi Lăng - Xương Giang

- Năm 1427

- Địa bàn: Tại Lạng Sơn

Sau một loạt thất bại nặng nề của địch, nhà Minh cử viện binh chia làm 2 đạo quân, một đạo quân do Liễu Thăng và một đạo quân do Mộc Thạch chỉ huy tiến sang Đại Việt. Sau khi Liễu Thăng cầm đầu 10 vạn quân vượt biên giới tiến vào vùng Lạng Sơn, quân ta vừa đánh vừa rút lui để nhử địch vào trận địa mai phục ở Ải Chi Lăng (Lạng Sơn); tại đây toàn bộ đội quân tiên phong của địch bị tiêu diệt gọn; Liễu Thăng bị chém chết bên sườn núi Mã Yên; tàn quân rút về thành Xương Giang nhưng căn cứ này cũng đã bị quân ta chiếm giữ từ 10 ngày trước. Cuối cùng chúng phải đóng quân tại cánh đồng Xương Giang, tại đây, ngày 3/11/1427 quân địch đã bị quân ta bao vây tiêu diệt gọn.

- Chi Lăng

- Xương Giang

8

Chiến thắng 30/4

- Từ ngày 26/4 đến ngày 30/4/1975

- Địa bàn: Tại Sài Gòn

Ngày 26/4/1975, với 5 cánh quân, ta đã bao vây và nổ súng tấn công Sài Gòn. Ngày 29/4/1975, quân ta tổng công kích trên các mặt trận. 10h 45 phút ngày 30/4/1975, các đơn vị của Quân đoàn II tiến thẳng vào Dinh Độc Lập bắt sống toàn bộ chính quyền Trung ương Sài Gòn. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc phủ Tổng thống chính quyền Sài Gòn, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.

- Chiến Thắng

- Đường 30/4

 

9

Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh) đặt tên nước là Đại Cồ Việt

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, dựng đô ở Hoa Lư

Đinh Bộ Lĩnh sau khi thống nhất đất nước, lên ngôi Hoàng đế, năm 968 ông đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Hai năm sau ông bỏ niên hiệu của các hoàng đế phong kiến phương Bắc, tự đặt niên hiệu riêng là Thái Bình. Đó là những biểu hiện mới của tinh thần tự chủ, quyết tâm giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc và cũng là sự phủ định quyền bá chủ của các hoàng đế phương Bắc.

Đại Cồ Việt

 

10

Đại La - Thăng Long

Năm 1010 

Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp (Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh) làm Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ dưới triều Tiền Lê. Làm vua lập ra triều Lý - triều đại phong kiến độc lập tự chủ đầu tiên của nước ta, năm 1010 Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) quyết định rời đô từ Hoa Lư về Đại La và đổi tên là Thăng Long. Mục đích, ý nghĩa của việc này được thể hiện rõ ràng, đầy đủ trong chiếu rời đô của Lý Thái Tổ. Việc Lý Thái Tổ rời đô ra Thăng Long đã phản ánh yêu cầu phát triển mới của quốc gia phong kiến tập quyền, đồng thời chứng tỏ lòng tin, quyết tâm của cả dân tộc giữ vững nền độc lập.

- Đại La

- Thăng Long

11

Đổi tên nước là Đại Việt

Năm 1054 

Sau khi rời đô, củng cố và xây dựng bộ máy chính quyền, năm 1054 nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt. Nước Đại Việt lúc đó tuy đất hẹp, dân thưa nhưng là một nước độc lập hoàn toàn. Tên nước cũng thể hiện một niềm tự tôn và ý thức bình đẳng của cả dân tộc Việt Nam với các dân tộc xung quanh.

Đại Việt

12

Điện Biên Phủ - 7/5

- Từ ngày 13/3 đến ngày 7/5/1954

- Địa bàn: Tại thung lũng Mường Thanh, huyện Điện Biên

Ngày 13/3/1954, quân ta được lệnh nổ súng tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau 3 đợt chiến đấu, ngày 7/5/1954, lá cờ Quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam đã tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Caxtơri. Trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đã toàn thắng buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán ký kết Hiệp định Giơnevơ, trao trả độc lập cho đất nước ta.

- Điện Biên Phủ

- Đường 7/5

13

Hội nghị Diên Hồng

- Năm 1288

- Địa bàn: Tại điện Diên Hồng Thăng Long (Hà Nội)

Đất nước đứng trước nguy cơ một cuộc xâm lược của đế quốc Nguyên Mông. Trong không khí khẩn trương chuẩn bị kháng chiến, hội nghị Diên Hồng được tổ chức. Đây là hội nghị thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng lòng, quyết tâm “Đánh” của triều đình và quân dân nhà Trần quyết tâm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.

Diên Hồng

14

2/9 - Ba Đình

- Ngày 2/9/1945

- Địa bàn: Tại Thủ đô Hà Nội

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- Đường 2/9

- Ba Đình

15

Chiến thắng Ngọc Hồi, Khương Thượng

- Năm 1789

- Địa bàn: Thăng Long - Hà Nội

Tháng 11/1788, quân Thanh ồ ạt tiến vào nước ta, chiếm được Thăng Long, ngày 22/12/1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, sau khi lên ngôi Quang trung đã chỉ huy binh sĩ đánh chiếm các đồn tiêu biểu của địch như Gián Khẩu, Thanh Quyết, Nhật Tảo, Hà Hồi; sau khi thất thủ các đồn trên, địch đã lập tức tăng viện, củng cố đồn Ngọc Hồi - một vị trí then chốt ở mặt Nam Thăng Long. Ngày mùng 5 tết Kỷ Dậu (30/1/1789), đội tượng binh của Quang Trung bất gờ tiến công và hạ đồn; phối hợp với cánh quân của Quang Trung đô đốc Đặng Tiến Đông tấn công như vũ bão vào đồn Khương Thượng - Đống Đa bị bất ngờ quân giặc đã thua trận.

Đống Đa

16

Phong trào “Đồng Khởi” Bến Tre

- Năm 1960

- Địa bàn: Tại Bến Tre

Ngày 17/1/1960, cuộc “đồng khởi” nổ ra ở ba xã “điểm” là Định Thủy, Bình Khánh và Phước Hiệp, rồi nhanh chóng lan tỏa ra toàn tỉnh Bến Tre. Hàng vạn nhân dân đã ào ạt xuống đường, vũ trang giáo mác, truy lùng bọn tề độc ác, đập tan bộ máy cai trị, giải phóng các ấp. Sau đó, phong trào “đồng khởi” lan rộng ra khắp một vùng rộng lớn ở Nam Bộ; thắng lợi của phòng trào đồng khởi dẫn đến sự thành lập của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 20/12/1960.

Đồng Khởi

17 

Hàm Tử - Tây Kết

- Năm 1285

- Địa bàn: Tại Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên ngày nay

Cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của triều đại nhà Trần đã toàn thắng, thể hiện "Hào khí Đông A" của Đại Việt, Nhà Trần lần thứ hai đánh đuổi được quân Nguyên Mông, cuộc kháng chiến dành thắng lợi gắn liền với hai địa danh Hàm Tử, Tây Kết.

- Hàm Tử

- Tây Kết

18

Khởi nghĩa Lam Sơn

- Năm 1418- 1427

- Địa bàn: Từ Lam Sơn, Thanh Hóa mở rộng vào Nghệ An rồi tiến ra Bắc

Năm 1.416 tại núi rừng Lam Sơn (Thọ Xuân - Thanh Hoá) Lê Lợi cùng với 18 người thân tín làm lễ tuyên thệ đuổi giặc cứu nước. Đó là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, sau những năm tháng hoạt động, xây dựng căn cứ, tập hợp lực lượng phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng quy mô cả nước, tổ chức nhiều trận đánh vang dội, đến ngày 3/1/1428 quân xâm lược Minh bị quét sạch ra khỏi bờ cõi. Đất nước giành lại được độc lập.

Lam Sơn

19 

Dựng Văn Miếu, Quốc Tử Giám và mở khoa thi đầu tiên

- Năm 1070 và 1075

- Địa bàn: Tại Thăng Long

Nhà Lý chăm lo củng cố, xây dựng chính quyền và phát triển đất nước trên tất cả các phương diện. Cũng từ đây nhà Lý bắt đầu chăm lo mở mang học tập và thi cử để đào tạo và tuyển chọn nhân tài cho quốc gia. Năm 1070 triều đình dựng Văn Miếu và mở Quốc Tử Giám. Có thể nói đây là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam; làm nơi học tập cho con em tầng lớp quý tộc quan lại. Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên để chọn nhân tài, từ đây Lý đã tạo ra nền tảng cho sự phát triển chế độ giáo dục và thi cử trong suốt thời kỳ phong kiến Việt Nam về sau.

Quốc Tử Giám

20 

Phong trào Tây Sơn

- Năm 1771 - 1802

- Địa bàn: Từ đất Tây Sơn (Bình Định, Gia Lai, Kon Tum) phát triển khắp cả nước

Tây Sơn là phong trào khởi nghĩa chống chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào cuối thế kỷ XVIII và cũng là một triều đại phong kiến Việt Nam từ năm 1771 đến năm 1802. Thủ lĩnh phong trào là 3 anh em nhà Nguyễn Huệ (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ), quê ở ấp Tây Sơn, huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn), tỉnh Bình Định. Do đó phong trào còn được gọi là phong trào Tây Sơn, Nguyễn Huệ là trụ cột của nghĩa quân Tây Sơn; với danh nghĩa là phù Lê diệt Trịnh, thống nhất đất nước, đánh thắng quân Xiêm xâm lược với các trận Rạch Gầm - Xoài Mút, đại phá quân Thanh mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1789 giữ yên bờ cõi.

Tây Sơn

21 

Thành lập Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng

Khoảng thế kỷ VII - VI tr CN

Thời kỳ kim khí phát triển, đỉnh cao là văn hoá Đông Sơn, hình thành nhà nước Văn Lang. Do nhu cầu trong cuộc sống (trị thuỷ, chống xâm lấn, trao đổi kinh tế, văn hoá, huyết thống…) giữa các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt nên Thủ lĩnh của Bộ lạc Văn Lang đã đứng lên thống nhất tất cả các Bộ lạc, dựng lên nước Văn Lang. Nước Văn Lang của các vua Hùng (Hùng Vương) là Nhà nước đầu tiên trong lịch sử của dân tộc.

Văn Lang

22

Khởi nghĩa Lý Bí, dựng nước Vạn Xuân

Năm 542 khởi nghĩa, năm 544 dựng nước

Lý Bí, một thời gian làm quan cho nhà Lương. Trước sự tàn bạo của bọn thống trị, ông bỏ về quê xây dựng lực lượng, liên kết với nhiều thủ lĩnh các vùng miền đứng lên khởi nghĩa và đánh thắng quân Lương, kiểm soát toàn bộ lãnh thổ châu Giao và châu Đức (tương đương toàn bộ miền Bắc cho đến đèo Ngang hiện nay). Đầu năm 544 Lý Bí dựng nước, lên ngôi hoàng đế đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Việc dựng nước Vạn Xuân khẳng định dân tộc Việt Nam sau gần năm thế kỷ bị đô hộ là một dân tộc độc lập, là chủ nhân của đất nước và vận mệnh của mình.

Vạn Xuân

23

Chiến dịch Việt Bắc- Thu Đông năm 1947

Năm 1947

Chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông là một chiến dịch quân sự do quân đội Pháp thực hiện nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt quân chủ lực của ta. Ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Sau 75 ngày đêm chiến đấu, quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc. Việt Bắc trở thành thủ đô kháng chiến.

Việt Bắc

24

Phong trào Xô Viết- Nghệ Tĩnh

- Năm 1930 - 1931

- Địa bàn: Tại Nghệ Tĩnh

Đây là phong trào đấu tranh của lực lượng công nhân và nông dân ở Nghệ An và Hà Tĩnh trong năm 1930 - 1931 chống lại thực dân Pháp. Phong trào được mở đầu bằng cuộc biểu tình ngày 1/5/1930 của công nhân khu công nghiệp Bến Thủy và nông dân thuộc 5 xã ven thành phố Vinh, làm cho bộ máy chính quyền thực dân Pháp và bộ máy chính quyền địa phương của nhà Nguyễn lâm vào tình trạng rối gien.

Xô Viết - Nghệ Tĩnh

III. Sự kiện, địa danh trong thời kỳ Tiền khởi nghĩa và kháng chiến chống thực dân Pháp: 18 tên

TT

Tên sự kiện, địa danh

Tóm tắt nội dung sự kiện, địa danh

Tên dự kiến đặt

1

Bình Yên

Xã Bình Yên thuộc huyện Sơn Dương, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Văn phòng Chủ tịch phủ - Thủ tướng phủ đã ở, làm việc thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, giai đoạn 1948-1953. Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo nhiều cuộc họp quan trọng của Hội đồng Chính phủ về tình hình trong nước và quốc tế; đồng chí Tôn Đức Thắng Quyền - Trưởng Ban Thường trực Quốc hội chủ trì kỳ họp thứ III, Quốc hội khóa I... Ngoài ra, tại Bình Yên có một số cơ quan bộ, ban, ngành ở và làm việc trong kháng chiến chống thực dân Pháp, như: Bộ Công an; Bộ Tư pháp, Ngoại thương Cục, Sở Mậu dịch quốc doanh…

Bình Yên

2

Công Đa

Xã Công Đa thuộc huyện Yên Sơn, nơi một số cơ quan Bộ, ngành ở và làm việc trong kháng chiến chống thực dân pháp, như: Đài tiếng nói Vệt Nam (1949 -1953; Nhà in Tô Hiệu (1951-1952); Nha Lâm chính (1947-1950); Bộ Tư pháp (1953-1954); Cục Kỹ thuật nghiệp vụ I (tháng 6-8/1954).

Công Đa

3

Đạo Viện

Xã Đạo Viện thuộc huyện Yên Sơn, nằm ở của ngõ vùng ATK. Tại đây, có hai Trạm liên lạc của Trung ương ở, làm việc thời kỳ 1947-1953, với nhiệm vụ chuyển phát công văn, tài liệu, sách báo đến các cơ quan Trung ương, Chính phủ; tiếp nhận hàng hoá, lương thực, nhiên liệu, máy móc chuyển từ Bình Ca vào để cung cấp cho các cơ quan vùng ATK.

Đạo Viện

4

Đèo Chắn

Di tích Đèo Chắn thuộc thôn Lê, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương. Tại đây, ngày 27/5/1945 Trung đội giải phóng quân do đồng chí Trần Thế Môn chỉ huy đã bố trí trận địa mai phục, đánh tan cuộc tấn công của phát xít Nhật, tiêu diệt và làm bị thương nhiều tên địch, thu nhiều vũ khí, buộc chúng phải rút quân từ bỏ ý đồ càn quyét vào Tân Trào, bảo vệ an toàn cán bộ cách mạng và cơ quan đầu não cách mạng Việt Nam.

Đèo Chắn

5

Kiên Đài

Kiên Đài là một xã vùng sâu của huyện Chiêm Hóa, có địa thế hiểm trở, nhưng tiện đường đi lại, là vùng giáp ranh giữa tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Bắc Kạn. Với vị trí đảm bảo an toàn, bí mật, thuận lợi giao thông và liên lạc, Kiên Đài đã được Trung ương Đảng, Bác Hồ và nhiều cơ quan Trung ương chọn làm nơi ở và làm việc trong thời gian từ 1948 đến 1952.

Kiên Đài

6

Đồng Man - Lũng Tẩu

Đồng Man - Lũng Tẩu, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, Tuyên Quang là nơi gắn liền với nhiều sự kiện trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở, làm việc từ ngày 12/9/1948 đến ngày 16/12/1948 và từ ngày 10/01/1949 đến ngày 06/4/1949; nơi Tổng Bí thư Trường Chinh, đồng chí Tôn Đức Thắng ở, làm việc từ cuối năm 1948 đến đầu năm 1949.

- Đồng Man

- Lũng Tẩu

7

Hợp Thành

Xã Hợp Thành thuộc huyện Sơn Dương. Tại đây, từ tháng 4 đến tháng 5 năm 1945, lực lượng tự vệ vũ trang thôn Đèo Khế đã phối hợp với quân giải phóng chặn đánh các cuộc tấn công của quân Nhật vào khu căn cứ địa Tân trào.

Hợp Thành là nơi Bác Hồ, Trung ương Đảng, Chính phủ ở, làm việc trong những ngày đầu trở về chiến khu Việt Bắc (1947). Tại đây, Bác Hồ, Trung ương Đảng và Chính phủ đã có những quyết định hết sức quan trọng, đưa cách mạng Việt Nam ngày càng lớn mạnh góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngoài ra, tại xã Hợp Thành có một số cơ quan Trung ương ở, làm việc: Bộ Giao thông Công chính; Nhà in báo Cứu quốc; Tòa soạn và Trị sự báo Cứu quốc; Trạm Giao thông 35; Phòng 28 thuộc Ty Bưu điện đặc biệt Trung ương; Văn phòng Quốc phòng tối cao...

Hợp Thành

8

Hùng Lợi

Xã Hùng Lợi thuộc huyện Yên Sơn, là xã có phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, nơi các đồng chí lãnh đạo Phân khu Nguyễn Huệ ở, hoạt động từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945. Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh ở, làm việc từ ngày 4 đến ngày 28/12/1947; Tổng Bí Thư Trường Chinh ở, làm việc cuối năm 1947; đồng chí Tôn Đức Thắng ở, làm việc tháng 10 năm 1949; đồng chí Hoàng Quốc Việt ở, lamg việc từ cuối năm 1947 đến đầu năm 1948 và các cơ quan: Văn phòng Chính phủ ở, làm việc năm 1947; Nha Thông tin ở, lamg việc từ cuối năm 1947 đến cuối năm 1948; Ủy ban hành chính kháng chiến Bắc bộ ở, làm việc từ năm 1948 đến năm 1949.

Hùng Lợi

9

Khánh Thiện

Địa danh cũ của Tuyên Quang bao gồm toàn bộ huyện Chiêm Hóa, một phần huyện Hàm Yên và huyện Yên Sơn.

Khánh Thiện

10

Kháng Địch

Địa danh cũ của Tuyên Quang bao gồm các xã trung, hạ huyện Sơn Dương.

Kháng Địch

11

Khuổi Kịch

Khuổi Kịch thuộc xã Tân Trào, huyện Sơn Dương. Tại đây, đồng chí Hoàng Quốc Việt, Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập, tổ chức Hội nghị cán bộ Chiến khu Hoàng Hoa Thám (đầu năm 1944), quyết định chia Chiến khu Hoàng Hoa Thám thành hai phân khu: Quang Trung và Nguyễn Huệ; thành lập Trung đội Cứu quốc quân III (ngày 25/2/1944).

Ngày 25/6/1945, Trường Quân chính kháng Nhật (tiền thân của Trường sĩ quan Lục quân I ngày nay) được thành lập. Nhiệm vụ của trường là đào tạo đội ngũ cán bộ quân sự đầu tiên cho các lực lượng vũ trang Việt Nam làm nòng cốt cho toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền.

Khuổi Kịch

12

Lán Nà Nưa

Di tích Lán Nà Nưa thuộc thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, nơi Bác Hồ ở, làm việc từ tháng 5 đến cuối tháng 8 năm 1945. Tại đây, Bác Hồ đã triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc ngày 04/6/1945, quyết định thống nhất chiến khu thành Khu giải phóng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Quân giải phóng; mở Trường Quân chính kháng Nhật; xây dựng sân bay dã chiến tại xã Minh Thanh; đón tiếp và làm việc với quân Đồng Minh...

Từ ngày 13-15/8/1945, Bác Hồ triệu tập và chủ trì Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng. Hội nghị đã quyết định Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc.

Nà Nưa

13

Làng Tân Lập

Làng Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương. Năm 1945, làng Tân Lập là nơi được Bác Hồ chọn làm trung tâm Thủ đô lâm thời Khu giải phóng, là nơi Trung ương Đảng, Bác Hồ ở, làm việc để lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Tại đây, đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng: Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng, Quốc dân Đại hội Tân Trào; lễ xuất quân của quân giải phóng Việt Nam... Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, làng Tân Lập là nơi ở, làm việc của một số cơ quan Trung ương: Ban Tổ chức Trung ương; Cơ quan Nông vận, Phụ vận; Ban Văn - Sử - Địa; Nhà Xuất bản Sự thật; Bệnh xá Trung ương...

Tân Lập

14

Lương Thiện

Xã Lương Thiện thuộc huyện Sơn Dương, nơi các đồng chí cán bộ cách mạng gây dựng cơ sở, hoạt động cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa (1941-1945). Tại xã Lương Thiện, trào cách mạng phát triển mạnh, nối liền với phong trào ở các địa phương khác như: Trúc Khê, Bình Dân, Lũng Tẩu, Ngòi Nho, Ao Búc... tạo thành một dải cánh cung cách mạng vững chắc. Đây là tiền đề cho những bước đi tiếp theo của phong trào cách mạng trong toàn vùng.

Lương Thiện

15

Toàn Thắng

Địa danh cũ của Tuyên Quang bao gồm phần lớn huyện Hàm Yên, một phần huyện Yên Bình và huyện Yên Sơn

Toàn Thắng

16

Trung Minh

Xã Trung Minh thuộc huyện Yên Sơn, là xã có phong trào cách mạng phát triển, nhân dân các dân tộc có lòng yêu nước, đoàn kết và căm thù giặc sâu sắc, luôn che chở giúp đỡ cán bộ cách mạng, bảo vệ Đảng. Nơi các đồng chí cán bộ cách mạng hoạt động gây dựng cơ sở; cất dấu các loại vũ khí thời kỳ 1939-1945. Nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh nghỉ lại trên đuờng từ Pắc Bó về Tân Trào tháng 5/1945.

Trung Minh

17

Trung Sơn

Xã Trung Sơn thuộc huyện Yên Sơn, nơi thành lập Ủy Ban nhân dân cách mạng lâm thời châu Hồng Thái ngày 12/5/1945. Tại đây, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Võ Nguyên Giáp đã dừng chân nghỉ trên đường đi công tác; nơi một số cơ quan Trung ương ở, làm việc, như: Đài Tiếng nói Việt Nam (1949- 1950); Cơ quan chuyên gia Trung Quốc (1953-1954).

Trung Sơn

18

Trung Yên

Xã Trung Yên thuộc huyện Sơn Dương, nơi Chủ tịch Quốc hội Tôn Đức Thắng đã ở, làm việc giai đoạn 1952-1954. Tại đây, Ban Thường trực Quốc hội cùng Chính phủ Việt Nam xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân, tổ chức các hoạt động kêu gọi toàn dân tộc đoàn kết một lòng chiến đấu đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi vẻ vang. Tại Trung Yên trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp còn có một số cơ quan Trung ương ở, làm việc: Việt Nam Thông tấn xã; Ban Tuyên huấn Trung ương; Bộ Nội vụ; Ban Thanh tra Bộ Lao động...

Trung Yên

IV. Các danh nhân, tướng lĩnh tiêu biểu: 148 tên

TT

Họ và tên

Tóm tắt thân thế, sự nghiệp

Tên dự kiến đặt

1

Đào Duy Anh

Đào Duy Anh (1904-1988), quê quán Khúc Thuỷ, Hà Đông, Hà Nội. Năm 1926, tham gia Đảng Tân Việt. Ông cùng với cụ Huỳnh Thúc Kháng ra báo “Tiếng dân”, thành lập “Quan Hải tùng thư”. Sau Cách mạng tháng 8, ông là Uỷ viên Ban chấp hành Hội văn hoá cứu quốc Trung bộ, Giáo sư Đại học Văn khoa tại Hà Nội năm 1946. Ông là một trong số ít nhân vật Việt Nam được ghi tên vào Bộ từ điển Larousse với tư cách là một Nhà bách khoa toàn thư của thời hiện đại. Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000.

Đào Duy Anh

2

Nguyễn Bính

Nguyễn Bính (1918-1966) là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Thơ ông phần lớn là thơ tình, nhưng mang một sắc thái quê mùa, dân dã riêng biệt. Cùng với Xuân Diệu, ông được mệnh danh là “Vua thơ tình”. Ông là một trong các nhà thơ xuất sắc nhất của thi ca Việt Nam hiện đại và được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.

Nguyễn Bính

3

Phan Kế Bính

Phan Kế Bính (1875-1921) quê ở làng Thụy Khê, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội). Năm Bính Ngọ (1906), Phan Kế Bính dự thi Nho học và đỗ cử nhân, nhưng không ra làm quan, mà ở nhà dạy học. Trong thời gian này, ông công khai hưởng ứng phong trào Duy Tân, nhưng không trực tiếp chỉ đạo. Từ 1907, ông bắt đầu viết báo cho nhiều tờ báo trong nước. Sau đó ông lần lượt cộng tác với các tờ báo: Đông Dương tạp chí, Lục tỉnh tân văn, Trung Bắc tân văn. Đặc biệt là với tờ Đông Dương tạp chí, ông có thời gian làm trong ban biên tập Đông Dương tạp chí, và tác phẩm của ông phần lớn đều từng đăng trên tạp chí này.

Phan Kế Bính

4

Tạ Quang Bửu

Tạ Quang Bửu (1910-1986), quê quán thôn Hoành Sơn, xã Nam Hoành (nay là xã Khánh Sơn), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Tháng 8/1945, ông cùng luật sư Phan Anh ra Hà Nội tham gia cách mạng. Từ tháng 9/1945 đến tháng 1/1946, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử làm Tham nghị trưởng Bộ Ngoại giao trong chính phủ lâm thời, phụ trách giao thiệp với Mỹ và Anh. Từ 3/1946, ông được Quốc hội cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Từ 8/1947 đến 8/1948, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ủy viên Hội đồng Quốc phòng tối cao. Tháng 12/1947, ông là Ủy viên Quân sự ủy viên hội. Từ 9/1948 đến 1961, ông là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và kiêm nhiệm nhiều cương vị khác. Năm 1954, ông tham gia đoàn đàm phán của chính phủ ở Genève và thay mặt Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Hiệp định Genève. Từ 1956 đến 1961, ông làm Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. Từ 1959 đến 1976, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Ông còn là đại biểu Quốc hội liên tục từ khoá I đến khoá VI, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt - Xô.

Với công lao cống hiến của mình, ông được Đảng, Quốc hội, Nhà nước ta tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba, Huy chương Quân kì quyết thắng.

Tạ Quang Bửu

5

Lương Văn Can

Lương Văn Can (1854-1927), người làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội, đỗ cử nhân không ra làm quan, là một trong nhóm sáng lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục, hoạt động được chín tháng thì bị đóng cửa. Năm 1914, Pháp viện cớ kết án ông 10 năm biệt xứ sang Phnôm Pênh, đến 1921 đã phải thả.

Lương Văn Can

6

Đội Cấn

Trịnh Văn Cấn (1881-1918), quê xã Vũ Di, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc) làm đội lính khố xanh ở Thái Nguyên, được Lương Ngọc Quyến (bị giam ở đó) giác ngộ, phát động khởi nghĩa Thái Nguyên đêm 30/8/1917; bị Pháp đàn áp rút quân vào rừng Vĩnh Yên, thế cùng lực tận, ông tự sát, không chịu để giặc bắt.

Đội Cấn

7

Trần Văn Cẩn

Trần Văn Cẩn (1910-1994), quê Từ Sơn, Bắc Ninh, tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tham gia tích cực các hoạt động hội họa phục vụ kháng chiến và giảng dạy; từng là Hiệu trưởng trường Mỹ thuật Việt Nam, Viện sĩ Nước ngoài Viện Hàn lâm Mỹ thuật Đức; để lại nhiều tác phẩm tiêu biểu: Em Thúy, Gội đầu, Xuống đồng …; Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Trần Văn Cẩn

8

Huy Cận

Huy Cận (1919-2005), quê ở Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào thơ mới. Sau cách mạng tháng 8, ông là Uỷ viên Ban thanh tra đặc biệt của Chính phủ, đại biểu Quốc hội khoá I, II, III. Năm 2001, ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm thơ thế giới. Ngoài ra, ông còn là thứ trưởng Bộ Văn hoá, Bộ trưởng đặc trách Văn hoá thông tin. Ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về Văn học nghệ thuật và Huân chương Sao Vàng (2005)

Huy Cận

9

Nguyễn Đức Cảnh

Nguyễn Đức Cảnh (1908-1932), quê ở Thái Bình, năm 1928 gia nhập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Ngày 28/7/1929, thành lập Tổng công hội đỏ Bắc kỳ. Ngày 03/02/1930 là đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối 1930 được bầu vào Ban Thường vụ Xứ ủy Trung kỳ. Năm 1932 bị thực dân Pháp bắt xử chém. Nguyễn Đức Cảnh thuộc lớp những người cộng sản đầu tiên có nhiều cống hiến đối với sự ra đời của tổ chức công đoàn và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nguyễn Đức Cảnh

10

Âu Cơ

Âu Cơ (khoảng thế kỷ 8-7 TCN), là nhân vật truyền thuyết Việt Nam. Cùng với Lạc Long Quân, Âu Cơ được xem là Thủy Tổ sinh ra dân tộc Việt Nam theo truyền thuyết "Bọc trăm trứng".

Âu Cơ

11

Lê Chân

Lê Chân quê xã An Biên, huyện Đông Triều (Quảng Ninh). Bà đã tới An Dương (Hải Phòng) khai phá miền bờ biển trở thành một trại ấp lớn là An Biên (nay là khu phố Lê Chân). Bà đã mang quân theo Hai Bà Trưng để hợp sức đánh Tô Định. Khởi nghĩa thành công, bà được phong là Thánh Chân Công chúa.

Lê Chân

12

Phó Đức Chính

Phó Đức Chính (1908-1930), quê ở làng Đa Ngưu, huyện Vân Giang, tỉnh Hưng Yên; một trong những người cùng Nguyễn Thái Học lập Việt Nam Quốc dân đảng. Trong cuộc khởi nghĩa tháng 2/1930, ông trực tiếp chỉ huy đánh đồn Thông (Sơn Tây), nhưng không thành. Sau đó bị Pháp đưa ra tòa Đề hình, kết án tử hình. Ông bị xử chém cùng với thủ lĩnh Nguyễn Thái Học và 11 đồng chí tại Yên Bái ngày 17/6/1930.

Phó Đức Chính

13

Phan Huy Chú

Phan Huy Chú (1782-1840), quê gốc Hà Tĩnh, chỉ đỗ sinh đồ, nhưng có thực tài, hay chữ, mở trường dạy học và soạn sách. Năm 1821 Minh Mạng bổ ông làm Biên tu Quốc sử giám; đi sứ nhà Thanh hai lần (1825-1831), Phủ thừa Phủ Thừa Thiên, Hiệp trấn Quảng Nam rồi bị cách chức bắt đi phục vụ đoàn thuyền sang Nam Dương quần đảo. Tác giả nhiều sách giá trị: Lịch triều hiến chương loạn chí, Hoàng Việt dư địa chí, Hoa thiều ngâm lục.

Phan Huy Chú

14

Nguyễn Thị Chiên

Nguyễn Thị Chiên (1930-2016) quê ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Bà là Trung tá quân đội nhân dân Việt Nam và Nữ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Nguyễn Thị Chiên

15

Võ Chí Công

Võ Chí Công (1912-2000), quê ở xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1935. Năm 1943, ông giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam. Từ 1945 - 1976 ông tham gia hoạt động cách mạng và giữ nhiều chức vụ quan trọng: Phó Ban tổ chức cán bộ và thanh tra Quân khu 5, Bí thư Khu uỷ khu 5, Phó bí thư Trung ương cục, Phó chủ tịch Uỷ ban Trung ương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Từ 1987 - 1991, ông được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Năm 1992, ông được Nhà nước phong tặng Huân chương Sao Vàng.

Võ Chí Công

16

Lương Định Của

Lương Định Của (1920-1975), quê ở Sóc Trăng, tốt nghiệp trường Đại học Tổng hợp Kyoto và Kiusiu, trở thành tiến sĩ thứ 96 của Nhật Bản. Năm 1954, ông về Sài Gòn, làm ở Viện Nghiên cứu canh nông, rồi ra chiến khu tập kết ra Bắc. Cả cuộc đời ông cống hiến cho sự nghiệp lai tạo các loại giống cây trồng, đặt nền móng cho nền khoa học nông nghiệp Việt Nam, làm Viện trưởng Viện cây lương thực và thực phẩm, được phong Anh hùng lao động.

Lương Định Của

17

Hồ Đắc Di

Hồ Đắc Di (1900-1984), là bác sĩ, trí thức yêu nước người Huế. Trước cách mạng tháng Tám, ông làm hiệu trưởng trường Y kiêm Giám đốc Bệnh viện Đồn Thủy. Kháng chiến, ông theo Chính phủ Cụ Hồ, cùng giáo sư Tôn Thất Tùng lập trường Đại học Y của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ở chiến khu, đào tạo cho toàn quốc nhiều cán bộ y tế giỏi. Ông là đại biểu Quốc hội nhiều khóa và 38 năm làm Hiệu trưởng trường Đại học Y khoa. Truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.

Hồ Đắc Di

18

Đoàn Thị Điểm

Đoàn Thị Điểm (1705-1748), hiệu “Hồng Hà nữ sĩ”, quê ở xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên. Từ nhỏ đã hay chữ, từng lên Thăng Long dạy cung nữ trong phủ Chúa. Bà lấy ông Nguyễn Kiều, tiến sĩ người làng Phú Xá (nay thuộc phường Phú Thượng, quận Tây Hồ). Bà là tác giả Truyền kỳ tân phả và dịch giả Chinh phụ ngâm.

Đoàn Thị Điểm

19

Xuân Diệu

Tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu (1916-1985), quê huyện Can Lộc, Hà Tĩnh; tham gia phong trào Việt Minh, Hội Văn hóa Cứu quốc; từng giữ các chức vụ: Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Dân gian; năm 1983 được bầu là Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm Nghệ thuật Cộng hòa Dân chủ Đức; là nhà thơ, nhà văn hóa, nhà lý luận, phê bình văn học Việt Nam nổi tiếng. Xuân Diệu được xem là cây bút tiêu biểu cho thơ ca hiện đại Việt Nam, nhà bình luận văn học xuất sắc. Ông đã xuất bản hàng chục tác phẩm thơ, thơ dịch, nghiên cứu, phê bình văn học; trong đó có những công trình nghiên cứu có giá trị đặc biệt về các nhà thơ cổ điển Việt Nam như: Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương… Ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật và nhiều giải thưởng cao quý khác.

Xuân Diệu

20

Hoàng Diệu

Hoàng Diệu (1832-1882), quê ở Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đỗ Phó bảng, giữ chức Tổng đốc Hà - Ninh (Hà Nội - Ninh Bình). Pháp đánh thành Hà Nội (25/4/1882), Hoàng Diệu chỉ huy cuộc chiến đấu tới cùng. Thấy không đủ sức chiến đấu, ông thắt cổ tuẫn tiết. Tượng đồng của ông và Nguyễn Tri Phương được đặt tại Cửa Bắc thành phố Hà Nội để ghi nhớ hai ông đã hy sinh chống thực dân Pháp.

Hoàng Diệu

21

Tản Đà

Tản Đà (1889-1939), ông tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Bút danh Tản Đà của ông là tên ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông. Trong văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20, ông đã để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí. Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường thành thơ lục bát và được biết đến như một người dịch thơ Đường ra ngôn ngữ Việt hay nhất.

Tản Đà

22

Trần Nguyên Đán

Trần Nguyên Đán (1325-1390) là tôn thất nhà Trần, đời vua Trần Dụ Tông, ông được bổ nhiệm chức Đại phu Ngự sử đài, chuyên việc can gián. Tháng 10 âm lịch năm 1370, ông cùng Cung Định vương Trần Phủ (tức Trần Nghệ Tông sau này), Cung Tuyên vương Trần Kính (tức Trần Duệ Tông sau này), Thiên Ninh công chúa Ngọc Tha hội ở sông Đại Lại, phủ Thanh Hóa để dấy quân chống Dương Nhật Lễ. Tháng 2 âm lịch năm 1371, sau khi lật đổ Dương Nhật Lễ, ông được Trần Nghệ Tông phong làm tư đồ. Tháng 10 âm lịch năm 1375, vua Trần Duệ Tông sai ông coi việc quân trấn Quảng Oai. Tháng 7 âm lịch năm 1385 thời Trần Phế Đế, tư đồ Chương Túc Quốc thượng hầu Nguyên Đán trí sĩ lui về Côn Sơn (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) ở ẩn.

Trần Nguyên Đán

23

Nguyễn Thị Định

Nguyễn Thị Định (1920-1992), quê ở xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà được Tỉnh ủy chọn làm thuyền trưởng chuyến ra Bắc báo cáo và xin vũ khí chi viện. Bà từng làm việc ở Bộ Tư lệnh miền Nam (1961-1964), giữ chức Phó Tổng Tư lệnh quân giải phóng miền Nam (1965-1975). Năm 1974, Bà được phong quân hàm Thiếu tướng. Bà được Nhà nước truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Nguyễn Thị Định

24

Trương Định

Trương Định (1820-1864) quê ở Gò Công, Tiền Giang, là võ quan nhà Nguyễn và là thủ lĩnh chống Pháp giai đoạn 1859-1864 ở Nam Bộ. Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, ông đánh thắng Pháp nhiều trận như chiến thắng Cây Mai, Thị Nghè... Đầu năm 1861, Pháp tấn công Gia Định lần thứ hai, Trương Định đem quân phối hợp với quân của tướng Nguyễn Tri Phương phòng giữ chiến tuyến Chí Hòa. Khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, ông lui về Gò Công, trấn giữ vùng Gia Định - Định Tường. Ở đây, Trương Định tổ chức lại lực lượng, bố phòng trấn giữ các vùng Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Sài Gòn, Đồng Tháp Mười và kéo dài đến tận biên giới Campuchia.

Trương Định

25

Bùi Bằng Đoàn

Bùi Bằng Đoàn (1889-1955) có tên gọi là Mộ Trần, quê quán tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội). Năm 1945, ông tham gia Ban Cố vấn Chủ tịch nước, thành viên Ủy ban Nghiên cứu Kế hoạch kiến thiết đất nước; Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ (1946). Từ năm 1946-1948, ông làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội, ở và làm việc tại xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

Bùi Bằng Đoàn

26

Trần Thủ Độ

Trần Thủ Độ (1194-1264), quê huyện Hưng Hà, Thái Bình; lập nên triều Trần bằng cách buộc Lí Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, trở thành nhân vật trụ cột của triều đình, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất với câu nói “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”; được truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung vũ Đại vương.

Trần Thủ Độ

27

Kim Đồng

Anh hùng Nông Văn Dền (tức Kim Đồng, 1929 - 1943) quê ở Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng là người dân tộc Nùng. Sinh trưởng trong chiếc nôi cách mạng, khi còn nhỏ Kim Đồng đã sớm giác ngộ và vận động các bạn cùng lứa tuổi trong bản làm nhiệm vụ liên lạc, chuyển công văn, tài liệu, đưa đón cán bộ, trinh sát nắm tình hình địch để cung cấp cho cán bộ. Rạng sáng ngày 15/2/1943, Kim Đồng được giao nhiệm vụ canh gác, bảo vệ cuộc họp bí mật của Trung ương Đảng. Địch phát hiện và cho một lực lượng lớn bao vây hòng bắt sống các đồng chí lãnh đạo của Đảng. Trước tình thế nguy hiểm, Kim Đồng đã mưu trí đánh lạc hướng, lừa địch tập trung lực lượng và hỏa lực về phía mình, đồng thời phát tín hiệu báo cho các đồng chí cán bộ rút lui an toàn. Kim Đồng đã anh dũng hy sinh khi ở tuổi 14 và trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ thanh, thiếu niên noi theo. Tháng 5/1941, Trung ương Đảng quyết định thành lập Đội thiếu niên cứu quốc Kim Đồng là một trong số năm đội viên đầu tiên và được bầu làm đội trưởng Đội thiếu niên cứu quốc. Anh luôn thể hiện trí thông minh, lòng dũng cảm, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.

Kim Đồng

28

Khúc Thừa Dụ

Khúc Thừa Dụ (830-907), quê ở Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, năm 905 nhân cơ hội chính quyền đô hộ nhà Đường ở nước ta suy yếu, ông tự xưng là Tiết độ xứ, cùng với nhân dân đứng lên giành chính quyền. Khúc Thừa Dụ đã kết thúc cơ bản ách thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc. Lịch sử ghi nhận công lao của ông như là một trong những người đầu tiên đặt cơ sở cho nền độc lập dân tộc.

Khúc Thừa Dụ

29

Trịnh Hoài Đức

Trịnh Hoài Đức (1765-1825), còn có tên là Hoài An, tự là Chí Sơn, hiệu Cấn Trai, quê tỉnh Biên Hòa (nay thuộc Đồng Nai), đỗ khoa thi hương đầu tiên của triều Nguyễn, làm quan tới chức Thượng thư Bộ hộ, Hiệp Tống trấn thành Gia Định, từng đi sứ sang triều Thanh; là nhà văn, nhà địa lí, tác giả của Gia Định thành thông chí. Về sáng tác, Trịnh Hoài Đức là một đại biểu xuất sắc trong nhóm “Gia Định Tam gia thi” hay “Bình Dương thi xã” (cùng với Lê Quang Định và Ngô Nhân Tĩnh), có tác dụng kích thích phát triển cho một vùng văn hóa. Ông còn để lại hai tập thơ chữ Hán là Cấn Trai thi tập (1783-1819) và tập thơ đi sứ Trung Quốc Bắc sứ thi tập.

Trịnh Hoài Đức

30

Văn Tiến Dũng

Văn Tiến Dũng (1917-2002), quê ở xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội năm 1937, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ 1942 - 1943, ông đảm nhiệm các chức vụ: Bí thư Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ, Uỷ viên Thường vụ Uỷ ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ; Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Tư lệnh chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định; Bí thư Quân uỷ Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1978 - 1986). Ông được phong hàm Đại tướng năm 1974, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng (1992), Huân chương Hồ Chí Minh.

Văn Tiến Dũng

31

Hoàng Minh Giám

Giáo sư Hoàng Minh Giám (1904-1995) quê ở xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, nay là quận Bắc Từ Liêm Thành phố Hà Nội. Năm 1926, ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng Đông Dương khoá III. Sau đó đi dạy học ở Phnôm Pênh (Campuchia), Sài Gòn, rồi viết báo chống chế độ thực dân Pháp. Ngày 30/8/1945 ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh được cử làm Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 3/1946 ông giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Từ tháng 11/1946 ông giữ chức Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam. Từ tháng 3/1947 đến 07/1954 ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam. Từ tháng 7/1954 đến năm 1976 là Bộ trưởng Bộ Văn hóa. Từ năm 1976 đến năm 1981 là Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Việt Nam khóa VI. Từ năm 1981 đến cuối đời, ông tham gia các hoạt động của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ông còn giữ các vị trí: Chủ tịch Đoàn chủ tịch Uỷ ban Việt Nam đoàn kết hữu nghị với nhân dân các nước; Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam - Indonesia; Chủ tịch Ủy ban Việt Nam Đoàn kết với Nhân dân Mỹ; Ủy viên danh dự Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Hoàng Minh Giám

32

Võ Nguyên Giáp

Võ Nguyên Giáp (1911- 2013), quê ở Lộc Thuỷ, Lệ Thuỷ, Quảng Bình, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Bí thư Quân uỷ Trung ương, nguyên Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh QĐND Việt Nam, Đại biểu Quốc hội từ khoá I - khoá VII; Đại tướng đầu tiên của QĐND Việt Nam. Với tài năng quân sự kiệt xuất và những đóng góp vĩ đại cho quân sự Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được báo chí thế giới ca ngợi là “vị tướng huyền thoại”, sánh cùng các vĩ nhân trong suốt 2.000 năm qua.

Võ Nguyên Giáp

33

Trần Văn Giàu

Trần Văn Giàu (1911-2010), quê ở An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Long An ông là nhà hoạt động cách mạng, khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử triết học. Ông được bầu làm Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ, Tổng giám đốc Nha thông tin Bộ nội vụ, là người sáng lập ra giải thưởng Trần Văn Giàu năm 2002. Ông đã được Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh, Danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I (1996).

Trần Văn Giàu

34

Hoàng Hanh

Hoàng Hanh (1888-1963) quê ở xã Xuân Lạc, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông có thành tích xuất sắc trong tăng gia sản xuất, đóng góp nhiều lương thực, thực phẩm cho kháng chiến chống thực dân Pháp nên được bình chọn đi dự Đại hội chiến sĩ thi đua cấp tỉnh và sau đó là Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc ở Tuyên Quang vào năm 1952. Tại Đại hội này, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động, được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao huân chương, giấy chứng nhận và là một trong ba Anh hùng lao động đầu tiên của Việt Nam.

Hoàng Hanh

35

Trần Nguyên Hãn

Trần Nguyên Hãn (1420-1429): người làng Sơn Động, huyện Lập Thạch (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc), dòng dõi nhà Trần. Ông vào Lam Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa chống quân Minh, làm tướng lập nhiều công lớn, thu phục vùng Tân Bình, Thuận Hóa; bao vây thành Đông Quan tham gia đánh thắng trận Xương Giang, bắt sống tướng giặc Hoàng Thúc, Thôi Tụ. Bình công được phong Tả tướng quốc (1428). Sau bị vua Lê nghi ngờ, ông nhảy xuống sông tự vẫn, 26 năm sau mới được Lê Nhân Tông minh oan.

Trần Nguyên Hãn

36

Tô Hiệu

Tô Hiệu (1912-1944), quê làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng yên; tham gia các phong trào yêu nước từ năm 1925. Năm 1930, bị bắt và bị đày ra Côn Đảo; tại đây, ông trở thành đảng viên Cộng sản. Năm 1934 ra tù, hoạt động Mặt trận Dân chủ ở Hà Nội, rồi ra vùng mỏ Cẩm Phả chỉ đạo phong trào công nhân; được cử làm Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, phụ trách Bí thư Thành ủy Hải Phòng. Tháng 12/1939, ông lại bị Pháp bắt, giam lại nhà tù Sơn La. Do bị tra tấn, tù đày gian khổ, ông lâm bệnh nặng, qua đời ngày 7/3/1944 tại nhà tù Sơn La, nêu cao khí tiết của người Cộng sản.

Tô Hiệu

37

Nguyễn Công Hoan

Nguyễn Công Hoan (1903-1977) quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi. Tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ chín năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), Ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là Ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ). Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.

Nguyễn Công Hoan

38

Lê Hoàn

Lê Hoàn (941-1005), quê ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá. Ông không chỉ là một vị vua có những đóng góp lớn trong chống quân Tống phương Bắc, quân Chiêm phương Nam, giữ gìn và củng cố nền độc lập dân tộc mà còn có nhiều công lao trong sự nghiệp ngoại giao, xây dựng và kiến tạo đất nước đại Cồ Việt. Lê Hoàn cũng là người tạo tiền đề, điều kiện để thời gian sau đó Lý Công Uẩn có đủ khả năng dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long năm 1010, mở ra một kỷ nguyên phát triển lâu dài của văn hóa Thăng Long - Hà Nội.

Lê Hoàn

39

Trần Hoàn

Trần Hoàn (1928-2003), tên thật là Nguyễn Tăng Hích, còn có bút danh Hồ Thuận An. Ông nguyên là Bộ trưởng Văn hóa - Thông tin, phó ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương. Ông tham gia hoạt động âm nhạc trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong sự nghiệp sáng tác, ông để lại những tác phẩm nổi tiếng như: Một mùa xuân nho nhỏ, Chào mùa xuân, Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm, Khúc hát người Hà Nội, Đêm Hồ Gươm, Lời Bác dặn trước lúc đi xa... Ghi nhận những đóng góp to lớn của ông, Đảng và Nhà nước đã trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhì, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật và nhiều Huân, Huy chương, giải thưởng cao quý.

Trần Hoàn

40

Nguyễn Thái Học

Nguyễn Thái Học (1902-1930), quê ở Thổ Tang, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc năm 1927 tại Nam Đồng Thư xã (Hà Nội), ông đã thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng. Việt Nam Quốc dân Đảng theo chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên. Tức là phấn đấu: Dân tộc độc lập - Dân quyền tự do - Dân sinh hạnh phúc. Đường lối chiến lược của Đảng là: Trước làm cách mạng Quốc gia, sau làm cách mạng Thế giới. Chỉ trong một thời gian ngắn Việt Nam Quốc dân Đảng đã phát triển mạnh mẽ lan rộng khắp các tỉnh ở Bắc kỳ, do tổ chức thiếu chặt chẽ nên cuộc vận động quần chúng của Việt Nam Quốc dân Đảng gặp nhiều trở ngại. Trước tình hình đó Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí của mình chủ trương bạo động cách mạng với phương châm: “Không thành công thì thành nhân”. Dưới sự lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân Đảng đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Thái Học, phong trào bạo động chống Pháp ở các tỉnh đã nổ ra mà đỉnh cao là khởi nghĩa Yên Bái vào đêm 9, rạng ngày 10/2/1930. Việt Nam Quốc dân Đảng và khởi nghĩa Yên Bái bị dìm trong bể máu. Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí bị giặc Pháp bắt và hành hình. Phong trào bị dập tắt. Lãnh tụ Nguyễn Thái Học đã được Chính phủ truy tặng liệt sỹ và bằng Tổ quốc ghi công.

Nguyễn Thái Học

41

Nguyên Hồng

Nguyên Hồng (1918-1982) quê ở Vụ Bản, Nam Định. Nguyên Hồng ham đọc sách từ nhỏ, ông bắt đầu viết văn từ năm 1936 với truyện ngắn "Linh Hồn" đăng trên Tiểu thuyết thứ 7. Đến năm 1937, ông thực sự gây được tiếng vang trên văn đàn với tiểu thuyết "Bỉ Vỏ". Nguyên Hồng tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ (1936-1939) ở Hải Phòng. Năm 1943, Nguyên Hồng tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng... Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, là hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam năm 1957. Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Nguyên Hồng

42

Nguyễn Hiền

Nguyễn Hiền (1234-1256), quê xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định là trạng nguyên nhỏ tuổi nhất trong lịch sử khoa thi của nước ta, ông có nhiều kế sách hay phò vua, giúp nước, đối phó với quân phương Bắc, đánh giặc cỏ ở Mường La. Ông mộ dân đi khai hoang phục hoá, đắp đê sông Hồng, đào kênh mương dẫn nước, tạo mùa màng thắng lợi, nhân dân no ấm. Về quân sự, ông cho mở mang các xưởng rèn vũ khí, các võ đường rèn luyện quân sĩ, sẵn sàng chiến đấu chống quân xâm lược.

Nguyễn Hiền

43

Phạm Hùng

Phạm Hùng (1912-1988), tên thật là Phạm Văn Thiện, quê ở xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1930, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1945, ông được bầu làm Bí thứ Xứ uỷ lâm thời Nam Bộ. Từ 1956 - 1975, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng: Bí thư Trung ương Đảng, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bí thư Trung ương Cục Miền Nam. Từ 1976 - 1987, ông giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Phạm Hùng

44

Phùng Hưng

Phùng Hưng, quê ở làng Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội, trước sự tàn bạo của bọn đô hộ nhà Đường, khoảng năm 766 - 791, Phùng Hưng cùng với người em Phùng Hãi phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ. Phùng Hưng lãnh đạo nghĩa quân làm chủ đất Đường Lâm và cả một vùng rộng lớn, chiếm được thành phủ Tống Bình - cơ quan đầu não của bọn đô hộ nhà Đường.

Phùng Hưng

45

Lê Văn Hưu

Lê Văn Hưu (1230-1322) người làng Phủ - Lý, huyện Đông-Sơn, lộ Thanh - Hóa, nay thuộc xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa đỗ bảng nhãn năm Đinh mùi (1247), niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình dưới triều Trần Thái Tông. Lúc đó ông mới 18 tuổi. Sau làm đến chức Hàn lâm học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu. Năm 1272 ông soạn xong bộ Đại-việt sử ký từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng. Đó là bộ sử ký qui mô đầu tiên của nước ta, đã được Trần Thánh Tông ban chiếu khen. Nhưng đáng tiếc hiện nay bộ sách đã thất lạc, chỉ còn một ít lời bình được Ngô Sĩ Liên ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Ông là một sử gia có lòng yêu nước, có cách nhìn tiến bộ đối với nhiều sự kiện lịch sử đương thời, bộ sử của ông đã đóng góp rất nhiều cho Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên và đã để lại cho chúng ta nhiều nhận định quý báu về các sự kiện lịch sử cũng như những đoạn bình luận giàu tính chất văn học.

Lê Văn Hưu

46

Tố Hữu

Tố Hữu (1920-2002), quê ở xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế ông là một tác giả có vị trí đặc biệt quan trọng, một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam. Năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Ông đảm trách nhiều chức vụ: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam, Giám đốc Nha tuyên truyền và văn nghệ thuộc Thủ tướng phủ, Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền, Phó chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng…Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về Văn học nghệ thuật (1996), Huân chương Sao Vàng (1994), Giải thưởng Văn học ASEAN của Thái Lan (1996).

Tố Hữu

47

Nguyễn Văn Huyên

Nguyễn Văn Huyên (1908-1975), hiệu Huy Vân, sinh tại thôn Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội); tiến sĩ văn khoa, cử nhân luật, giáo sư sử học, từng làm Giám đốc trường Viễn Đông Bác Cổ (1945), Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1946-1975); Phó chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam; sáng lập Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam; để lại nhiều tác phẩm nghiên cứu văn, sử. Ông là người Việt Nam đầu tiên đỗ tiến sĩ khoa văn trường đại học Xoóbon (Pháp).

Nguyễn Văn Huyên

48

Phan Huy Ích

Phan Huy Ích (1751-1822) tên thật là Phan Công Hậu, ở làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An, (nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Năm 1771, ông thi đỗ Giải nguyên tại trường thi Nghệ An và được triều đình thu dụng và bổ nhiệm một chức quan nhỏ tại trấn Sơn Nam. Năm 1775, ông đỗ Tiến sĩ. Năm 1773, Phan Huy Ích được bổ chức Tả mạc xứ Sơn Nam. Năm 1775, ông lại đỗ đầu khoa thi hội ở Thăng Long, rồi sau đó đỗ chế khoa đồng tiến sĩ, được bổ Hàn lâm thừa chỉ ở phủ chúa Trịnh. Ủng hộ chế độ Chúa Trịnh, năm 1777 sau khi được bổ làm Đốc đồng Thanh Hoa, ông về giữ chức Thiêm sai tri hình phiên ở phủ Chúa. Năm Đinh Dậu, Phan Huy Ích được chúa Trịnh Sâm sai vào Phú Xuân phong chức tước cho Tây Sơn Nguyễn Nhạc, sau đó được chúa phái lên Nam quan tiếp sứ thần nhà Thanh. Góp nhiều công lớn trong lĩnh vực ngoại giao, ông trở thành nhà ngoại giao tiêu biểu thời Tây Sơn. Phan Huy Ích được vua Quang Trung giao cùng với Ngô Thì Nhậm trông nom công việc ngoại giao được giao toàn quyền việc đối ngoại với nhà Thanh. Ngoài những thành tích ngoại giao, ông còn đóng góp nhiều tác phẩm văn học có giá trị cho làng văn học Việt Nam. Cuối năm 1787, quân Tây Sơn ra Bắc Hà lần thứ hai. Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc cầu cứu. Phan Huy Ích bỏ lên Sài Sơn (Sơn Tây), chấm dứt 14 năm làm quan với chính quyền vua Lê - chúa Trịnh.

Phan Huy Ích

49

Trần Quang Khải

Trần Quang Khải (1241-1294): Trần Quang Khải, con thứ ba của Thái Tông Trần Cảnh, em ruột vua Trần Thánh Tông, làm tới chức Thượng tướng Thái sư; đảm nhận việc ngoại giao trong kháng chiến chống Nguyên - Mông, trực tiếp chỉ huy trận thắng ở Chương Dương (1285); tác giả bài Tụng giá hoàn kinh sư nổi tiếng. Trần Quang Khải có học lực cao, sáng tác nhiều bài thơ xuất sắc, bộc lộ hào khí của thời đại đất nước hưng thịnh, đồng thời lại chứng tỏ một tâm hồn thi sĩ phong phú, gắn bó với thiên nhiên. Tập thơ Lạc đạo tập chỉ còn sót lại hơn mười bài, có bài nổi tiếng.

Trần Quang Khải

50

Huỳnh Thúc Kháng

Huỳnh Thúc Kháng (1875-1947): nhà chí sĩ, nhà văn, quê huyện Thăng Bình (nay là Tiên Phước), tỉnh Quảng Nam, Đỗ hoàng giáp, không ra làm quan, đứng đầu phong trào Duy Tân ở Trung kỳ đầu thế kỷ XX. Phong trào chống sưu thuế nổ ra, ông bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo 13 năm, trở về là Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ, làm báo Tiếng dân. Sau Cách mạng tháng Tám, ông làm Bộ trưởng Nội vụ, quyền Chủ tịch nước khi Bác Hồ sang Pháp, sáng lập và là Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam. Tác giả các sách Thi tu tùng thoại, Thi tù thảo, Trung Kỳ cựu sưu ký.

Huỳnh Thúc Kháng

51

Phùng Khắc Khoan

Phùng Khắc Khoan (1528-1613): người làng Bùng (Phùng Xã), huyện Thạch Thất, nay thuộc Hà Nội; nổi tiếng thông minh từ nhỏ, học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm, quen gọi là Trạng Bùng. Năm 1550 vào Thanh phù Lê, diệt Mạc. Đỗ hoàng giáp (1580), làm quan thượng thư Bộ Hội, Bộ Công triều Lê; đi sứ sang nhà Minh (1597), lý lẽ cứng cỏi. Ông còn là nhà thơ, tác giả tập thơ Nôm Lâm tuyền văn, miêu tả các loài cây cỏ. Ông đem nghề dệt dạy cho dân vùng quê ông.

Phùng Khắc Khoan

52

Nguyễn Khoái

Nguyễn Khoái (Chưa rõ năm sinh, năm mất): Thế kỷ XIII, sinh trưởng ở đất Hồng Châu, tỉnh Hưng Yên, có sức khoẻ phi thường, được vua Trần giao trọng trách chỉ huy quân túc vệ, tham gia các trận đánh giặc Mông-Nguyên ở Tây Kết, Hàm Tử, Bạch Đằng... có tài thiện chiến trên bộ, dưới nước; lập chiến công lớn, giải phóng kinh đô Thăng Long. Ông được vua Trần thưởng công và phong làm “Liệt hầu” - Là tước thời Trần chỉ để dùng để ban cho người trong hoàng tộc.

Nguyễn Khoái

53

Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến (1835-1909): hiệu Quế Sơn, người làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông đỗ tam trường nên gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Làm quan triều Nguyễn ở nhiều nơi, sau tới chức Học sĩ sung Quốc sử quán Toản tu. Triều Nguyễn đầu hàng Pháp, ông cáo quan về quê. Nhà thơ hiện thực và trào lộng nổi tiếng, để lại nhiều thơ hay.

Nguyễn Khuyến

54

Phùng Chí Kiên

Phùng Chí Kiên (1901-1941), tên thật là Nguyễn Vĩ, quê xã Mỹ Quang Thượng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, được giác ngộ cách mạng rất sớm. Năm 1926 ông sang Quảng Châu dự huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc tổ chức rồi theo học trường Võ bị Hoàng Phố, gia nhập quân cách mạng Trung Quốc, khởi nghĩa Quảng Châu (12/1927) do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Năm 1931 học Đại học Phương Đông (Liên Xô). Năm 1934 tham gia chuẩn bị Đại hội lần thứ nhất của Đảng. Năm 1935 được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách công tác Đảng ở nước ngoài. Năm 1936 vận động thành lập Việt Nam Độc lập đồng minh hội ở Trung Quốc.Năm 1941 cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh về Pắc Bó, chỉ đạo căn cứ Bắc Sơn (Cao Bằng), chỉ huy trung đội cứu quốc quân số 1. Ông bị Pháp bắt và giết hại ở Ngân Sơn tháng 8/1941, sau được truy phong quân hàm cấp tướng.

Phùng Chí Kiên

55

Lý Thường Kiệt

Lý Thường Kiệt (1019-1105), họ Ngô tên Tuấn, tự là Thường Kiệt, sinh tại Phủ Thái Hoà, thành Thăng Long (Hà Nội). Từ nhỏ, Ông đã có chí hướng, ham đọc sách, nghiên cứu binh thư, luyện tập võ nghệ. Ông có tài văn, võ. Ông có nhiều công lao trong việc chống Tống bình Chiêm, đóng góp xây dựng đất nước phồn vinh. Lịch sử cũng đã lưu lại tư tưởng quân sự vô cùng táo bạo và thần tốc của Ông: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc”. Ông là tác giả bài thơ bất hủ “Nam Quốc Sơn Hà”, cổ vũ tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân dân ta. Bài thơ khẳng định quyền độc lập dân tộc tự chủ thiêng liêng của Tổ quốc. Bài thơ đã đi vào lịch sử của dân tộc ta như một bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất.

Lý Thường Kiệt

56

Võ Văn Kiệt

Võ Văn Kiệt (1922-2008), quê ở xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1939, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1946, ông được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu. Từ 1976 - 1982, ông giữ các chức vụ: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân TP.HCM, Bí thư Thành uỷ TP.HCM. Từ 1982 - 1988: Chủ nhiệm Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh… Năm 1997, ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng.

Võ Văn Kiệt

57

Yết Kiêu

Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế quê ở huyện Thanh Hà, Hải Dương, do trải cuộc sống trên sông nước từ nhỏ nên ông bơi lội rất giỏi. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần hai và lần ba, Phạm Hữu Thế với tài bơi lội "nhập thuỷ như phúc bình địa hỹ" (đi dưới nước ung dung, tự tại như trên đất bằng) đã lập nhiều chiến công đóng góp cho chiến thắng của vua tôi nhà Trần. Ông đã được nhân dân và vua quan nhà Trần gọi là Yết Kiêu (tên một loài cá lớn ngày xưa).

Yết Kiêu

58

Trương Vĩnh Ký

Trương Vĩnh Ký (1837-1898), quê ở huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre. Ông là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục học, khảo cứu văn hóa tiêu biểu của Việt Nam. Ông được phong Giáo sư Viện sĩ Pháp, là nhà bác học hàng đầu thế giới thế kỷ 19. Ông được coi là "ông tổ nghề báo Việt Nam", sáng lập và là Tổng biên tập tờ Gia Định báo.

Trương Vĩnh Ký

59

Cù Chính Lan

Cù Chính Lan (1930-1952), quê xã Quỳnh Lôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; trong chiến dịch Quang Trung (1950) được nêu gương “Anh hùng tay không diệt giặc”. Chiến dịch Hòa Bình (1951), anh dùng lựu đạn diệt xe tăng địch trên đường số 6 năm 1952, anh tham gia đánh đồn Gô Tô, bị cụt hai tay và một chân vẫn anh dũng chỉ huy đến hơi thở cuối cùng. Được truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Cù Chính Lan

60

Ỷ Lan

Nguyên phi Ỷ Lan (1044-1117), quê ở Gia Lâm, Hà Nội, tên thật là Lê Thị Yến, là một trong những danh nhân có tài trị nước của dân tộc. Năm 1072, vua Lý Thánh Tông mất, Ỷ Lan trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính. Bà cùng Tể tướng Lý Thường Kiệt lãnh đạo nhân dân đánh tan quân Tống xâm lược, xây dựng đất nước yên bình, giàu mạnh.

Ỷ Lan

61

Lê Lai

Lê Lai quê ở xã Kiên Thọ, Ngọc Lặc, Thanh Hoá ông tính cương trực, dung mạo khác thường, có chí khí. Ông hy sinh khi giả làm Lê Lợi để phá vòng vây cho chủ tướng và nghĩa quân Lam Sơn rút khỏi núi Chí Linh. Năm 1428, khi Lê Lợi lên ngôi vua, ông được truy tặng là Sùng Trung đồng Đức Hiệp mưu bảo chính Lũng Nhai công thần. Năm 1484, Lê Thánh Tông gia phong ông làm Trung Túc vương.

Lê Lai

62

Phạm Ngũ Lão

Phạm Ngũ Lão (1255-1320), quê ở làng Phủ Ủng, huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Ân Thi), tỉnh Hưng Yên; một nông dân, ham học, có ý chí, tình nguyện tham gia quân đội đánh giặc ngoại xâm, chỉ huy quân cấm vệ của Trần Hưng Đạo; lập nhiều chiến công trong hai lần chống Nguyên - Mông (1285-1288), sau còn đi dẹp loạn quấy phá biên giới Lão Qua và Chiêm Thành ở phía Nam, trở thành danh tướng đời Trần, được phong tước Quan nội hầu.

Phạm Ngũ Lão

63

Ngô Sĩ Liên

Ngô Sĩ Liên sống ở thế kỷ XV, người làng Chúc Lý, huyện Chương Đức, nay là xã Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Năm 1442 thi đậu tiến sĩ, làm ở Hàn lâm viện, rồi giữ chức Đô ngự sử. Năm 1480, dời Hồng Đức, theo lệnh của Lê Thánh Tông, ông biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư và Thực lục, trở thành nhà sử học nổi tiếng ở nước ta.

Ngô Sỹ Liên

64

Trần Huy Liệu

Trần Huy Liệu (1901-1969) quê ở làng Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Năm 1924, ông vào Nam công tác với các báo Nông cổ mín đàm, Rạng đông, làm chủ bút tờ Đông Pháp thời báo. Tháng 6/1927 ông bị Pháp bắt, kết án tù vì tham gia các tổ chức yêu nước. Năm 1928 ông gia nhập Việt Nam Quốc dân đảng và tổ chức đảng bộ trong Nam giữ cương vị Bí thư kỳ Nam bộ. Năm 1928, bị kết án 5 năm tù và đày ra Côn Đảo. Sau khi ra tù ông trở ra Bắc và tham gia hoạt động cách mạng, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 8/1945, ông dự Đại hội Quốc dân ở Tân Trào và được bầu làm Phó chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng (tức Chính phủ lâm thời). Ngày 25/8/1945, ông thay mặt Chính phủ cùng với Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận vào kinh đô Huế chấp nhận sự thoái vị và nhận ấn tín của vua Bảo Đại. Sau đó, ông lần lượt giữ các chức vụ: Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền cổ động, Chính trị Cục trưởng trong Quân sự Ủy viên hội, Bí thư Tổng bộ Việt Minh, Chủ tịch Hội Văn hóa cứu quốc, Ủy viên thường trực Quốc hội, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Trung. Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ ông tham gia công tác Quốc hội, làm Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất của Quốc hội.

Trần Huy Liệu

65

Cao Lỗ

Cao Lỗ quê quán: xã Cao Đức, Gia Bình, Bắc Ninh, là một vị tướng tài của Thục Phán An Dương Vương. Ông giỏi võ nghệ, là người chế ra nỏ Liên Châu (Nỏ thần) và được An Dương Vương giao nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa. Ông được tôn là vị tổ sư nghề rèn của Việt Nam.

Cao Lỗ

66

Mai Thúc Loan

Mai Thúc Loan quê quán Hà Tĩnh, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân chống sự chiếm đóng của nhà Đường ở Việt Nam vào đầu thế kỉ thứ 8. Ông xưng đế và đóng kinh đô ở thành Vạn An. Sau đó, ông cùng nghĩa quân quanh vùng, liên kết với cả các nước Chăm Pa, Chân Lạp chống giặc tại địa phương và tiến quân ra Bắc tiến công thành phủ Tống Bình. Bọn đô hộ nhà Đường bỏ thành chạy tháo thân về nước.

Mai Thúc Loan

67

Thế Lữ

Thế Lữ (1907-1989) tên khai sinh Nguyễn Đình Lễ, quê ở ấp Thái Hà, Hà Nội. Là một trong các tác giả Tự Lực có nhiều tác phẩm nhất được Nhà xuất bản Đời nay phát hành. Từ 1934 đến 1943, ông cho ra mắt 12 cuốn sách, trung bình mỗi năm một cuốn. Đáng chú ý nhất là tập truyện đầu tay Vàng và máu (1934), tập thơ Mấy vần thơ (1935)... Ngoài ra, ông dành nhiều thời gian và tâm huyết cho sân khấu kịch nói.

Thế Lữ

68

Phan Đăng Lưu

Phan Đăng Lưu (1902-1941), quê ở Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, là nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của Đảng cộng sản Việt Nam. Ông được bầu làm Uỷ viên thường vụ tổng bộ phụ trách tuyên huấn Tân Việt Cách mạng Đảng, có những đóng góp xuất sắc vào các cuộc vận động hợp pháp và nửa hợp pháp ở Trung Kì, đồng thời viết nhiều sách lí luận chính trị, văn học. Năm 1939, ông được bầu bổ sung vào Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương.

Phan Đăng Lưu

69

Lê Văn Lương

Lê Văn Lương (1912-1995), quê ở xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Năm 1945, ông là Ủy viên dự khuyết Xứ ủy Nam bộ, tham gia chỉ đạo Báo Sự thật và Nhà xuất bản Sự thật. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông ở, làm việc tại nhiều địa điểm của tỉnh Tuyên Quang và giữ các chức vụ: Bí thư Văn phòng Trung ương Đảng; Trưởng Ban Tổ chức Trung ­ương (khi đó gọi Bộ Tổ chức) kiêm phụ trách Văn phòng Trung ương Đảng.

Lê Văn Lương

70

Hồ Quý Ly

Hồ Quý Ly (1336-1407), là một vị vua Việt Nam, người đã tiến thân từ một đại thần dưới thời nhà Trần để khởi đầu nhà Hồ trong lịch sử Việt Nam. Trong thời gian cầm quyền, ông đã thực hiện nhiều cải cách quan trọng, nhưng bị thất bại trong việc hợp sức toàn dân chống lại cuộc xâm lăng của nhà Minh.

Hồ Quý Ly

71

Đặng Thai Mai

Đặng Thai Mai (1902-1984), quê Lương Điền, huyện Thanh Chương, Nghệ An, dạy ở trường Quốc học (Huế), sau ra Hà Nội mở trường Thăng Long, lập Hội truyền bá quốc ngữ, viết báo công khai của Đảng. Sau cách mạng, ông làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục, đại biểu Quốc hội, Viện trưởng Viện Văn học, Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông là nhà nghiên cứu văn học, sử học, triết học… có nhiều tác phẩm giá trị. Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Đặng Thai Mai

72

Phạm Sư Mạnh

Phạm Sư Mạnh quê quán làng Thạnh Hiệp, Kinh Môn, Hải Dương, là nho sĩ nổi tiếng triều Trần, tên thật là Phạm Độ, tự Nghĩa Phu, hiệu Uý Trai,. Ông đỗ Thái học đời Trần Minh Tông, từng giữ chức: Chưởng bạ thư kiêm tham chính viện Khu mật, Nhập nội hành khiển tri Khu mật viện sự, Hành khiển Tả ti lang trung, Nhập nội nạp ngôn.

Phạm Sư Mạnh

73

Hồ Tùng Mậu

Hồ Tùng Mậu (1896-1951), quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; tên chính là Hồ Bá Cự, tham gia cách mạng từ sớm, hoạt động ở Lào, Thái Lan, Trung Quốc. Viết báo Thanh niên. Năm 1926 vào Đảng Cộng sản Trung Quốc, khởi nghĩa Quảng Châu, bị bắt ba lần, tham gia hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản. Năm 1931 bị bắt giải về nước giam ở Tây Nguyên. Ông vượt trại về hoạt động ở miền Trung. Ông đã giữ các chức vụ Chủ tịch Ủy ban kháng chiến - hành chính Liên khu IV, Tổng Thanh tra Chính phủ, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa II. Ông hy sinh trên đường đi công tác ở Thanh Hóa.

Hồ Tung Mậu

74

Hàm Nghi

Hàm Nghi (1871-1943), là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn. Là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong Lịch sử Việt Nam. Cùng với các vị vua Thành Thái, Duy Tân ông là một trong ba vị vua yêu nước trong thời kỳ Pháp thuộc.

Hàm Nghi

75

Đặng Văn Ngữ

Đặng Văn Ngữ (1910-1967), giáo sư, bác sĩ, quê ở An Cựu, Huế. Nhà khoa học xuất sắc để lại nhiều công trình có giá trị cho ngành y và chuyên ngành ký sinh trùng. Ông là giáo sư chủ nhiệm bộ môn Sinh học, Đại học Y khoa, Viện trưởng Viện Sốt rét - Ký sinh trùng. Ông hy sinh tại Thừa Thiên khi đi thực nghiệm chống sốt rét cho quân Giải phóng miền Nam, được truy tặng liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Đặng Văn Ngữ

76

Ngô Thì Nhậm

Ngô Thì Nhậm (1746-1803), nhà văn hóa-quân sự lớn, người làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Đỗ tiến sĩ, làm tới Công bộ Hữu thị lang thời Lê Mạt. Quang Trung ra Bắc Hà, trọng dụng cử ông trấn giữ Thăng Long cùng với Ngô Văn Sở. Quân Thanh xâm lược, ông hiến kế lui quân về Tam Điệp bảo toàn lực lượng, đợi đại quân Tây Sơn ra, cùng tiến đánh giải phóng kinh thành - mùa xuân Kỷ Dậu 1789. Triều Tây Sơn mất, ông bị nhà Nguyễn bắt, hãm hại; Ông để lại nhiều tác phẩm giá trị về văn, sử, triết, ngoại giao.

Ngô Thì Nhậm

77

Đỗ Nhuận

Đỗ Nhuận (1922-1991), quê quán xã Thái Học, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương ông là một nhạc sĩ tiên phong của âm nhạc cách mạng, là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết Opera. Ông là Tổng thư ký đầu tiên của Hội nhạc sĩ Việt Nam khóa I, II. Năm 1943, ông tham gia hoạt động cách mạng và bị thực dân Pháp bắt giam vào các nhà lao: Hải Dương, Hoả Lò, Sơn La. Năm 1955, ông đạt giải nhất Hội văn nghệ Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó nổi bật là bài hát “Chiến thắng Điện Biên”… Ông được Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng Nhì, Giải thưởng Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến sĩ hạng Nhì, Huân chương Chiến thắng hạng Nhì.

Đỗ Nhuận

78

Trần Đăng Ninh

Trần Đăng Ninh là một nhà hoạt động cách mạng và quân sự, Chủ nhiệm đầu tiên của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng, Chủ nhiệm đầu tiên của Tổng cục Cung cấp (sau là Tổng cục Hậu cần, Quân đội Nhân dân Việt Nam) giai đoạn 1950-1955. Ông được Nhà nước tặng thưởng các Huân chương Độc lập hạng nhất, Quân công hạng nhì, Chiến thắng hạng nhất, truy tặng Huân chương sao Vàng năm 2003.

Trần Đăng Ninh

79

Hải Thượng Lãn Ông

Hải Thượng Lãn Ông là biệt hiệu của danh y Lê Hữu Trác (1720-1791), quê ở xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Ông là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc Việt Nam, từng chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Ông để lại nhiều tác phẩm lớn như: Hải Thượng y tông tâm lĩnh, Lĩnh Nam bản thảo, Thượng kinh ký sự.

Hải Thượng Lãn Ông

80

Huỳnh Tấn Phát

Huỳnh Tấn Phát (1913-1989 ), quê ở xã Châu Hưng, huyện Bình Đại, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Bến Tre). Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ông là Chủ nhiệm báo Thanh Niên, hoạt động trong phong trào Thanh niên Tiền Phong, truyền bá quốc ngữ, cứu tế nạn đói ở Nam Bộ. Ông được bí mật kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 5/3/1945. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông cùng một số trí thức Nam Bộ tham gia cướp chính quyền ở Sài Gòn-Chợ Lớn. Năm 1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được bổ sung làm Ủy viên dự khuyết Ban Thường trực Quốc hội. Năm 1949, ông ra chiến khu, giữ chức Ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, Giám đốc Sở Thông tin Nam Bộ, trực tiếp phụ trách Đài phát thanh Tiếng nói Sài Gòn-Chợ Lớn tự do. Năm 1960, ông tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, giữ chức Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương, đồng thời là Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định. Tháng 6/1969, ông được Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam bầu làm Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Năm 1976, ông được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Xây dựng cơ bản Nhà nước, Phó Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam. Ông còn đảm trách các chức vụ: Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Huỳnh Tấn Phát

81

Tôn Quang Phiệt

Tôn Quang Phiệt (1900-1973) quê ở xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Năm 1925, ông cùng Đặng Thai Mai, Phạm Thiều... sáng lập tổ chức Việt Nam nghĩa đoàn, tham gia đấu tranh đòi thực dân Pháp thả cụ Phan Bội Châu. Tổ chức này sau đó được thống nhất với Hội Phục Việt của Lê Văn Huân và Trần Mộng Bạch ở Vinh và Tôn Quang Phiệt được cử làm Hội trưởng Hội Phục Việt. Hội Phục Việt đổi tên thành Hội Hưng Nam (11/1925) rồi cuối cùng là Đảng Tân Việt (1928), một trong những tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng và Ủy ban kháng chiến đầu tiên của tỉnh Thừa Thiên. Năm 1946, ông trở thành Đại biểu Quốc hội khóa I và tham gia vào Uỷ ban dự thảo Hiến pháp Việt Nam. Ông là Đại biểu Quốc hội khóa I-IV đã từng đảm nhận nhiều chức vụ trong Quốc hội như: Phó trưởng ban Thường trực Quốc hội khóa I, Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Tổng Thư ký Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa III, IV. Ông còn là Chủ tịch Uỷ ban đoàn kết nhân dân Á - Phi của Việt Nam, Phó Hội trưởng Hội hữu nghị Việt - Trung, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Hội hữu nghị Việt - Xô. Từ năm 1954, ông có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị như: Lịch sử Việt Nam dưới thời Pháp thuộc (1948), Trên đường tranh đấu của nhân dân Việt Nam (1950)... Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh và Huân chương Sao Vàng.

Tôn Quang Phiệt

82

Vũ Trọng Phụng

Vũ Trọng Phụng (1912-1939), quê gốc ở huyện Mĩ Hào, Hưng Yên, từ nhỏ sống ở Hà Nội; nhà báo, nhà văn xuất chúng, với các tác phẩm phản ánh xã hội đương thời một cách sinh động, sắc sảo như: Số đỏ, Vỡ đê, Giông tố, Làm đĩ …

Vũ Trọng Phụng

83

Nguyễn Tri Phương

Nguyễn Tri Phương (1800-1873), quê ở Làng Đường Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông được vua Minh Mạng thu dụng. Năm Mậu Ngọ (1858), tàu chiến Pháp đến uy hiếp Đà Nẵng, ông được cử làm Quân thứ tổng thống đại thần trực tiếp chỉ huy quân đội chống giặc. Với vũ khí tối tân Pháp đã phá hủy một số lớn đồn lũy của ta, ông bị triều đình giáng cấp nhưng vẫn lưu tại chức. Ông xây dựng đồn Chí Hòa để chống Pháp. Ngày 25/10/1861, Pháp công phá đồn, ông bị thương, em trai ông là Nguyễn Duy tử trận. Pháp chiếm Gia Định, ông bị triều đình cách chức, năm sau được cử làm Đổng nhung quân vụ Biên Hòa. Ngày 19/11/1873, quân Pháp do Garnier chỉ huy, đánh úp Hà Nội. Con trai ông là phò mã Nguyễn Lâm hy sinh tại trận, ông bị trọng thương. Giặc Pháp chiếm thành Hà Nội, chúng bắt được ông trong lúc bị thương nặng, lính Pháp biết về ông nên cố cứu chữa, nhưng ông đã từ chối và nói rằng: “Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa”. Sau đó, ông tuyệt thực một tháng và mất. Yêu nước, thương dân, bất khuất trước kẻ thù, Nguyễn Tri Phương đã chọn cái chết để thỏa lòng trung với nước.

Nguyễn Tri Phương

84

Lạc Long Quân

Lạc Long Quân (khoảng thế kỷ 8-7 TCN), là nhân vật truyền thuyết Việt Nam. Lạc Long Quân được xem là vị vua của nhà nước sơ khai Xích Quỷ trước Văn Lang và là Thủy Tổ sinh ra dân tộc Việt Nam theo truyền thuyết "bọc trăm trứng".

Lạc Long Quân

85

Cao Bá Quát

Cao Bá Quát (1808-1855), tự Chu Thần, quê xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, sống ở Thăng Long, đỗ cử nhân, làm Giáo thụ Quốc Oai (Sơn Tây), năm 1854 cùng Lê Duy Cự khởi nghĩa Mỹ Lương (nay là Mỹ Đức, Hà Nội) bị đàn áp dã man và hy sinh. Nhà thơ lớn để lại hơn 1300 bài thơ, ông còn là nhà thư pháp, được người đời tôn ông là “Thánh Quát”.

Cao Bá Quát

86

Võ Thị Sáu

Võ Thị Sáu (1935-1952), tên thật là Nguyễn Thị Sáu, quê ở xã Phước Long Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, là anh hùng Lực lượng vũ trang (truy tặng 1993), khi hi sinh là đội viên Công an Xung phong quận Đất Đỏ. Tham gia cách mạng năm 1948. Sớm có ý thức căm thù thực dân Pháp, dũng cảm, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao như giao liên, mua hàng tiếp tế cho các tổ chức cách mạng. Tháng 5/1948, tham gia phá tề, trừ gian, giết cai tổng Tòng. Ngày 14/7/1949, cùng đồng đội phá cuộc mít tinh kỉ niệm quốc khánh Pháp do ngụy quyền tổ chức. Đã trực tiếp diệt nhiều lính Pháp ở Vũng Tàu. Tháng 5/1950, bị địch bắt giam ở Bà Rịa, sau chuyển đến Khám Chí Hoà, Sài Gòn. Mặc dù bị địch tra tấn dã man vẫn giữ vững khí tiết người công an cách mạng. Bị thực dân Pháp kết án tử hình - vụ án đã gây chấn động dư luận xã hội lúc đó. Khi bị dẫn đi làm thủ tục trước khi hành quyết đã khước từ rửa tội, từ chối bịt mắt khi ở pháp trường, giữ vững khí tiết người chiến sĩ cách mạng. Võ Thị Sáu hi sinh anh dũng hồi 7 giờ ngày 23/1/1952 và được truy tặng Huân chương Chiến công hạng nhất.

Võ Thị Sáu

87

Trương Hán Siêu

Trương Hán Siêu, quê huyện Yên Ninh (nay là Thành phố Ninh Bình), Ninh Bình; được Trần Hưng Đạo nuôi dưỡng và tiến cử, sau làm tới chức Hành khiển, Tả Tham tri Chính sự; trở thành nhà văn, nhà chính trị nổi tiếng thời Trần, là tác giả Hoàng Triều đại điển, Bạch Đằng giang phú …

Trương Hán Siêu

88

Nguyễn Văn Siêu

Nguyễn Văn Siêu (1799-1872), tự Tốn Ba, hiệu Phương Bình, người làng Kim Lũ (nay là xã Đại Kim), huyện Thanh Trì; sống ở thôn Cổ Lương, bờ sông Tô. Đỗ bảng, làm án sát sứ Hưng Yên, rồi về dạy học, lập trường Phương Đình. Ông giỏi văn chương, học rộng, được người đời gọi là Thần Siêu, cùng với Thánh Quát (Cao Bá Quát) là bạn, nổi tiếng thời ấy. Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị và có công tạo đền Ngọc Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút, ở đây còn nhiều những câu đối và đại tự do ông viết.

Nguyễn Văn Siêu

89

Nguyễn Sơn

Nguyễn Sơn (1908-1956) là một trong những người được phong quân hàm tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam đợt đầu tiên vào năm 1948. Ông cũng được Trung Quốc phong quân hàm tướng vào năm 1955 nên còn được gọi là "Lưỡng quốc tướng quân". Năm 1925, ông gia nhập "Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội", trở thành một trong những đảng viên sớm nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng trong thời gian đó, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Quảng Châu và học Trường Quân sự Hoàng Phố. Tháng 8/1927, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc từ đó tham gia vào cuộc khởi nghĩa vũ trang do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Năm 1934, ông được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương nước Cộng hòa Xô viết Trung Hoa. Tháng 11/1945, ông trở về nước hoạt động theo đề nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội và chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ như: Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Việt Nam, Tư lệnh kiêm Chính ủy hai Liên khu 4 và 5, Hiệu trưởng trường Lục quân Trung học Quảng Ngãi, Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Tổng Tham mưu, Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 4. Năm 1948, ông được Nhà nước phong quân hàm thiếu tướng trong đợt phong quân hàm đầu tiên. Ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

Nguyễn Sơn

90

Lý Quốc Sư

Lý Quốc Sư (1065-1141), quê quán ở Gia Viễn, Ninh Bình, là pháp danh của thiền sư Nguyễn Minh Không. Quốc sư đã có công lớn chữa bệnh hoá hổ cho vua Lý Thần Tông. Ngài là ông tổ nghề y, đúc đồng, thủ công nghiệp, trồng lúa nước, đã có công truyền nghề cho dân vùng Nam Định, được nhân dân Nam Định ghi nhớ công ơn, lập đền thờ.

Lý Quốc Sư

91

Nguyễn Văn Tạo

Nguyễn Văn Tạo (1908-1970), quê ở làng Phước Lợi (có tài liệu ghi là làng Gò Đen), tổng Long Hưng Hạ, tỉnh Chợ Lớn, nay thuộc tỉnh Long An. Năm 1926 ông sang Pháp, vừa học Đại học Văn khoa vừa đi làm và tham gia Đảng Việt Nam Độc lập, rồi gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1929, ông trở thành người Việt Nam duy nhất là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, phụ trách vấn đề thuộc địa. Năm 1930, ông về nước làm chủ bút báo Trung Lập. Năm 1933, ông đắc cử Ủy viên Hội đồng thành phố Sài Gòn. Năm 1945, ông về hoạt động tại Sài Gòn, tham gia lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám tại Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ. Ông tham gia cấp chính quyền tại Sài Gòn và được chỉ định vào Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ với chức vụ Ủy trưởng Nội vụ. Trong cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I năm 1946, ông trúng cử đại biểu quốc hội Việt Nam, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Rạch Giá. Năm 1946, ông ra Bắc, được chỉ định vào Chính phủ, giữ chức Bộ trưởng Bộ Lao động (1946-1965). Năm 1951, ông được Ban Chấp hành Trung ương Đảng phân công làm thành viên Ban Kinh tế Tài chính, Tiểu ban Công vận, Ủy viên Ban Việt kiều Trung ương (năm 1959). Năm 1965 ông giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng Nội chính của Chính phủ, hàm Bộ trưởng, đại biểu Quốc hội Việt Nam các khóa II, III. Năm 1956, ông được cử tham gia Tiểu ban Đấu tranh thống nhất của Quốc hội. Năm 1969 ông giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất của Quốc hội. Ông cũng là Hiệu trưởng đầu tiên của trường Đại học Kinh tế - Tài chính.

Nguyễn Văn Tạo

92

Duy Tân

Vua Duy Tân (1900-1945) là vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn. Năm 1916, lúc Châu Âu có đại chiến, ông bí mật liên lạc với các lãnh tụ Việt Nam Quang Phục Hội như Thái Phiên, Trần Cao Vân, ông dự định khởi nghĩa. Dự định thất bại và Duy Tân bị bắt ngày ngày 6 tháng 5 và đến ngày 3 tháng 11 năm 1916 ông bị đem an trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ Dương. Trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945) ông gia nhập quân Đồng Minh chống Phát xít Đức. Ngày 26 tháng 12 năm 1945, ông mất ở Cộng hòa Trung Phi.

Duy Tân

 

93

Tống Duy Tân

Tống Duy Tân (1837- 1892), quê quán: xã Đông Biện, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá là nhà yêu nước kháng Pháp. Năm1875 thi đỗ Tiến sĩ, bổ làm Tri phủ Vĩnh Tường, rồi Đốc học Thanh Hoá, sau làm Thương biện tỉnh vụ, đổi sang Chánh sứ Sơn phòng tỉnh Thanh Hoá, có lúc ông từ quan về dạy học. Năm 1885, sau khi Kinh đô Huế thất thủ, ông hưởng ứng phong trào Cần Vương tham gia khởi nghĩa chống Pháp, ông lập căn cứ và trở thành thủ lĩnh của chiến khu Ba Đình, tỉnh Thanh Hoá. Nghĩa quân của ông bị Pháp bao vây khủng bố, ông đành phải rút lui, lúc thì lánh ra Bắc, lúc chạy vào Hồng Lĩnh; một thời gian, ông bị tên Cao Ngọc Lệ (có sách ghi là Lễ) làm phản báo cho quân Pháp vây bắt. Chúng kết án tử hình và hành quyết ông vào ngày 5/10, Nhâm Thìn, 1892, hưởng thọ 55 tuổi. Trước khi mất ông có câu đối: "Món nợ tiền sinh nay mới trả. Cái danh bất tử trước còn truyền".

Tống Duy Tân

94

Lê Trọng Tấn

Lê Trọng Tấn (1914–1986) tên thật là Lê Trọng Tố quê ở làng Nghĩa Lộ, thôn An Định, xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, Hà Nội) Ông từng là Viện trưởng Học viện Quân sự Cao cấp, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam. Là Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông có công lớn trong trận Điện Biên Phủ, Đại đoàn 312 do ông chỉ huy đã đánh trận mở màn vào cao điểm Him Lam (13/3/1954) trận mở đầu của chiến dịch Điện Biên Phủ và sau 56 ngày đêm quân đội ta đã giành chiến thắng vào ngày 07/5/1954.

Lê Trọng Tấn

95

Nguyễn Cơ Thạch

Nguyễn Cơ Thạch (1921-1998), quê quán xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định Ông tham gia tổ chức Thanh niên Dân chủ rồi Thanh niên phản đế tại Nam Định (1937-1939), bị giam tại nhà lao Nam Định, Hòa Bình, Sơn La (1040-1945). Năm 1943 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau đó ông về công tác tại Bộ Quốc phòng, Bí thư cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Bí thư tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chính tỉnh Hà Đông (tháng 5/1949-5/1951); Bí thư Đảng ủy các cơ quan của Liên khu (1949-1954) và nhiều chức danh cấp cao khác. Ông được nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Sao vàng…

Nguyễn Cơ Thạch

96

Phạm Ngọc Thạch

Phạm Ngọc Thạch (1909-1968), quê quán ở Quy Nhơn, Bình Định là bác sĩ, giáo sư, Anh hùng Lao động; tốt nghiệp trường Đại học y khoa ở Pháp (1934), năm 1936, ông là hội viên duy nhất ở Đông Dương của Hội nghiên cứu về bệnh lao của Pháp. Về nước, ông mở bệnh viện tư chữa lao ở Sài Gòn. Đầu năm 1941, chủ động liên hệ với Đảng Cộng sản và tham gia phong trào cách mạng, phong trào Mặt trận Bình dân, khởi nghĩa tháng Tám được cử vào Ủy ban nhân dân cách mạng Sài Gòn. Sau năm 1954 ra Bắc, làm Bộ trưởng Y tế (1958), Viện trưởng Viện chống lao, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Tác giả của vắc-xin BCG nổi tiếng. Để có thực tế phục vụ chiến trường, năm 1968 ông trở về Nam và mất trong vùng giải phóng miền Đông Nam Bộ vì bệnh sốt rét ác tính ngày 07/11/1968. Phạm Ngọc Thạch có nhiều công trình nghiên cứu chuyên môn có giá trị về bệnh lao. Các luận văn viết bằng tiếng nước ngoài của ông đã được đăng trên nhiều kỷ yếu ở Bucarest (1961), New Delhi (1957), Moscow (1958) và Paris (1968).

Phạm Ngọc Thạch

97

Hoàng Văn Thái

Hoàng Văn Thái (1915-1986), tên thật là Hoàng Văn Xiêm, quê xã Tân An, huyện Tiền Hải, Thái Bình. Ông tham gia phong trào nông dân Tiền Hải từ năm 1936, được kết nạp vào Chi bộ Cộng sản đầu tiên của huyện Tiền Hải. Sau Cách mạng tháng Tám, được giao phụ trách Tổng Tham mưu trưởng Quân đội, Tư lệnh kiêm Chính ủy quân khu 5. Phó Bí thư Trung ương Cục, Tư lệnh Bộ chỉ huy Miền, trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh quan trọng trong chiến dịch tổng tiến công giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Hoàng Văn Thái

98

Cao Thắng

Cao Thắng (1864-1893), quê ở làng Yên Đức, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, tham gia khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng chỉ huy năm 1885, ông hy sinh trong một trận đánh đồn Pháp ở Thanh Chương (Nghệ An). Ông được cụ Phan Đình Phùng tin cẩn giao trách nhiệm chỉ huy quân sự. Nhờ có Cao Thắng, nghĩa quân trưởng thành nhanh chóng, mở rộng địa bàn, thanh thế vang dội ở 4 tỉnh miền Trung. Đặc biệt, Cao Thắng đã tìm mọi cách chế tạo được súng trường để trang bị cho nghĩa quân. Súng của Cao Thắng chế tạo làm cho các sĩ quan Pháp và kỹ sư Âu châu phải kinh ngạc.

Cao Thắng

99

Tô Hiến Thành

Tô Hiến Thành (1102-1179), người làng Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng (nay thuộc Hà Nội), làm quan Thái úy thời vua Lý Anh Tông (1138-1175); giỏi cả văn, võ. Chỉ huy quân dẹp loạn và bọn xâm lấn ở biên giới phía tây, phía nam. Ông là người trung trực, thanh liêm nổi tiếng, có công khai phá vùng Tống Sơn - Nga Sơn (Thanh Hóa).

Tô Hiến Thành

100

Bà Huyện Thanh Quan 

Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, quê ở làng Nghi Tàm, Hà Đông, Hà Nội. Bà nổi tiếng về tài làm thơ. Thời gian theo chồng vào làm việc ở Huế, bà được vua Minh Mạng sung vào triều làm Cung trung Giáo tập để dạy học cho công chúa và các cung nhân. Năm 1847, sau khi chồng mất, bà xin phép về quê và đưa bốn con nhỏ từ Huế về sống tại quê nội ở làng Nghi Tàm. Tác phẩm bà đã để lại gồm 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật, miêu tả phong cảnh đất nước như: Thăng Long thành hoài cổ, Qua chùa Trấn Quốc, qua Đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà, Tức cảnh chiều thu, Cảnh Hương sơn.

Bà Huyện Thanh Quan

101

Nguyễn Gia Thiều

Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), người làng Liễu Ngạn, huyện Siêu Loại (nay là Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Ông sinh trưởng trong một gia đình quý tộc, từ bé học trong phủ chúa Trịnh, thông minh, hiểu nhiều ngành nghệ thuật: nhạc họa, kiến trúc… 18 tuổi làm Hiệu úy rồi thăng Tổng binh, trấn thủ Hưng Hóa, được phong tước hầu. Tây Sơn thống nhất đất nước, ông về làng ẩn dật rồi mất. Tác giả Cung oán ngâm khúc nổi tiếng.

Nguyễn Gia Thiều

102

Nguyễn Thiếp

Nguyễn Thiếp (1723-1804) có tên húy là Minh, tự là Quang Thiếp, ông là người quê ở Cương Gián (Nghi Xuân, Hà Tĩnh). Năm Bính Tuất (1756), ông được bổ làm Huấn đạo (chức quan trông coi việc học trong một huyện) ở Anh Đô (phủ Anh Sơn, tỉnh Nghệ An). Ở đó 6 năm, ông được đổi làm Tri huyện Thanh Giang (nay là Thanh Chương, Nghệ An). Năm Mậu Tý (1768), ông xin từ quan về ở ẩn tại trại Bùi Phong trên dãy Thiên Nhẫn. Ông nhiều lần được vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ) mời về giúp việc triều chính nhưng ông từ chối. Năm 1791, vua Quang Trung lại cho mời ông vào Phú Xuân để bàn việc nước, lần này ông đã nhận lời. Đến gặp, ông đã dâng lên vua Quang Trung một bản tấu bàn về 3 vấn đề: Một là "Quân đức" (đại ý khuyên vua nên theo đạo Thánh hiền để trị nước); hai là "Dân tâm" (đại ý khuyên vua nên dùng nhân chính để thu phục lòng người), và ba là "Học pháp" (đại ý khuyên vua chăm lo việc giáo dục). Tuy là ba, nhưng chúng có quan hệ mật thiết với nhau và đều lấy quan niệm "dân là gốc nước" làm cơ sở. Nguyễn Thiếp viết: "Dân là gốc nước, gốc vững nước mới yên". Ngày 20/8/1791, nhà vua ban chiếu lập "Sùng chính Thư viện" ở nơi ông ở ẩn và mời ông làm Viện trưởng. Kể từ đó, ông hết lòng chăm lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy học và phổ biến trong dân. Chỉ trong hai năm, ông đã tổ chức dịch xong các sách: Tiểu học, Tứ thư, Kinh Thi, và chủ trì biên soạn xong hai bộ sách là Thi kinh giải âm và Ngũ kinh toát yếu diễn nghĩa.

Nguyễn Thiếp

103

Nguyễn Hữu Thọ

Nguyễn Hữu Thọ (1910-1996) quê tại làng Long Phú, tổng Long Hưng Hạ, quận Trung Quận, tỉnh Chợ Lớn (nay là thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An). Ông là Phó Chủ tịch nước của Việt Nam (1976-1980) và Quyền Chủ tịch nước Việt Nam (giai đoạn từ 30/3/1980 cho đến 4/7/1981), sau đó là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Việt Nam (1980-1992), Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa VII, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1988-1994). Ông còn là Chủ tịch đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Nguyễn Hữu Thọ

104

Lê Đức Thọ

Lê Đức Thọ (1911-1990), tên thật là Phan Đình Khải, quê làng Dịch Lễ, nay thuộc xã Nam Vân, Nam Định. Ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương, bị Pháp bắt tù đày ở Côn Đảo, Hỏa Lò, Sơn La, Hòa Bình… ra tù, ông tham gia phát động cao trào cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa. Kháng chiến toàn quốc, ông công tác ở miền Nam, giữ cương vị chủ chốt trong Xứ ủy Nam bộ, Trung ương Cục miền Nam. Năm 1955 ông được bổ sung vào Bộ Chính trị, phụ trách công tác tổ chức của Trung ương Đảng, Giám đốc trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, tham gia Quân ủy Trung ương, sau trở lại miền Nam công tác. Ông là cố vấn đặc biệt của phái đoàn Chính phủ ta tại hội nghị Paris, ký hiệp định với Mỹ giải quyết hòa bình vấn đề Việt Nam. Năm 1975, ông vào Nam chỉ đạo cuộc tổng tiến công mùa xuân và chiến dịch Hồ Chí Minh thống nhất đất nước.

Lê Đức Thọ

105

Hoàng Văn Thụ

Hoàng Văn Thụ (1906-1944), là bậc tiền bối cách mạng, dân tộc Tày, quê xã Nhân Lý, huyện Văn Yên, nay là Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, tham gia cách mạng từ năm 1927, đại biểu dự Đại hội lần thứ nhất của Đảng ở Ma Cao, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ, Thường vụ Trung ương Đảng, năm 1943 ông bị Pháp bắt tại Hà Nội, kiên cường bất khuất, bị chúng kết án tử hình. Những hoạt động của Hoàng Văn Thụ rất đa dạng. Ông rất giàu kinh nghiệm đối với công tác tuyên truyền trong công nhân, binh sĩ. Ông là chủ bút nhiều tờ báo bí mật như: Tranh đấu, Lao động nhằm phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng cho đồng bào miền núi. Ông cũng sử dụng thơ ca phục vụ cho lý tưởng cách mạng. Có nhiều bài Sli, lượn do Hoàng Văn Thụ sáng tác đã trở thành phổ biến và đi vào kho tàng văn nghệ dân gian.

Hoàng Văn Thụ

106

Xuân Thủy

Xuân Thủy (1912-1985), tên thật là Nguyễn Trọng Nhâm, quê huyện Từ Liêm, Hà Nội; từng giữ các chức vụ Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam tại Hội nghị Paris, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư kí Hội đồng Nhà nước, Phó Chủ tịch Quốc hội; ông là nhà thơ, để lại các tác phẩm Đường xuân, Thơ Xuân Thủy …

Xuân Thủy

107

Tôn Thất Thuyết

Tôn Thất Thuyết (1839-1913), quê ở Thôn Phú Mộng, phường Kim Long, thành phố Huế, là danh tướng, nhà yêu nước. Năm 1869, ông làm án sát Hải Dương, Tán tương Quân thứ Thái nguyên, Tán lý quân thứ Sơn Hưng Tuyên. Ông được phong làm Hữu Tham tri Bộ binh, tước Nam. Ông ráo riết chuẩn bị chống Pháp. Ông có công rước vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh mở đầu phong trào Cần Vương kháng Pháp.

Tôn Thất Thuyết

108

Hoàng Đạo Thúy

Hoàng Đạo Thúy (1900-1994), sinh ra tại số nhà 7 phố Hàng Đào, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sau khi học xong, ông làm giáo viên Tiểu học tại Trường Sinh Từ. Năm 1929, Hoàng Đạo Thúy cho in quyển Hướng đạo sinh và cùng một số đồng chí thành lập "Hội Hướng đạo Việt Nam". Năm 1931, ông thành lập Ấu đoàn Việt Nam đầu tiên tên là đoàn Lê Lợi và thành lập Thiếu đoàn Hùng Vương. Năm 1943, với sự hướng dẫn của ông Vũ Quý, ông bắt đầu hướng phong trào hướng đạo tham gia phong trào Việt Minh. Tháng 8/1945, ông được mời và được Trần Quốc Hoàn, Hà Huy Giáp đưa lên Tân Trào dự Quốc dân Đại hội. Tại đây, ông gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và các ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Năm 1945, ông được cử giữ chức Trưởng Phòng Thông tin Liên lạc trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu đồng thời là Ủy viên Ban Quân sự toàn quốc, ông trúng cử Đại biểu Quốc hội Việt Nam đại diện khu vực tỉnh Thái Bình. Năm 1946, ông được phân công làm Cục trưởng Chính trị Cục. Ngày 17/4/1946 ông được phân công làm Giám đốc Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. Ngày 1/5/1947, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1948, ông được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Giao thông công binh, Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Tổng Tham mưu. Cũng trong năm này, ông được đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh mời và bổ nhiệm giữ vai trò Tổng Thư ký đầu tiên của Phong trào thi đua toàn quốc. Ngày 25/61949, ông được bổ nhiệm giữ chức Cục trưởng Cục Thông tin Liên lạc. Năm 1962, ông chuyển ngành sang công tác tại Ủy ban Dân tộc Trung ương và giữ chức Giám đốc Trường Dân tộc Trung ương.

Hoàng Đạo Thúy

109

Nguyễn Đình Thi

Nguyễn Đình Thi (1924-2003) nguyên quán ở làng Vũ Thạch, hiện nay là phố Bà Triệu, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Những năm 1940, ông tham gia Tổ Văn hóa Cứu quốc. Năm 1945, ông tham dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào, sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Sau Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc. Ông thuộc thế hệ các nghệ sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Ông viết sách khảo luận triết học, viết văn, làm thơ, soạn nhạc, soạn kịch, viết lý luận phê bình. Ông được nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I năm 1996. Sau năm 1954, ông tham gia công tác quản lý văn học nghệ thuật. Từ năm 1958 đến năm 1989 làm Tổng Thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Từ năm 1995, ông là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật.

Nguyễn Đình Thi

110

Nguyễn Khánh Toàn

Nguyễn Khánh Toàn (1905-1993) quê ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Năm 1926, ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương. Năm 1929, ông sang học tại Trường Đảng Liên Xô theo giới thiệu của Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1939, ông được điều động về Trung Quốc hoạt động với nhóm Cộng sản Việt Nam ở Diên An. Tại đây ông tham gia giảng dạy Khoa lịch sử cách mạng thế giới và Khoa tiếng Nga với bí danh Hoàng Chính Quang. Năm 1946, ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Giáo dục. Năm 1960, ông được cử làm Phó chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước. Từ năm 1965 đến năm 1982, sau khi Ban Khoa học Xã hội tách khỏi Uỷ ban Khoa học Nhà nước để đổi thành Viện Khoa học Xã hội rồi Uỷ ban Khoa học Xã hội (nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam), ông được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm cơ quan nghiên cứu khoa học này cho đến ngày nghỉ hưu. Ông là Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (1960 - 1976), đại biểu Quốc hội các khóa II và III (1960 - 1971). Ông từng là Chủ tịch Hội đồng chỉ đạo nghiên cứu, phiên dịch và xuất bản Đại Việt sử ký toàn thư. Ông được bầu làm viện sĩ nước ngoài Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô và Viện Hàn lâm Khoa học CHDC Đức. Năm 1996, Ông được Chính phủ truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng.

Nguyễn Khánh Toàn

111

Tuệ Tĩnh

Tuệ Tĩnh (1341-1385), tên thật là Nguyễn Bá Thành, quê phủ Hồng Châu (nay thuộc huyện Cẩm Giàng), tỉnh Hải Dương; có tài chữa bệnh, được cử sang Trung Quốc chữa bệnh cho hoàng hậu, bị lưu lại và mất ở bên đó; là tác giả các bộ sách về thuốc Nam dược thần hiệu và Hồng Nghĩa Giác tự y thư.

Tuệ Tĩnh

112

Ngô Tất Tố

Ngô Tất Tố (1894-1954), nhà báo, nhà văn hiện đại, người làng Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông đỗ đầu xứ nhưng bỏ nho học, đi làm báo, viết văn dịch thuật. Những tác phẩm nổi tiếng trước Cách mạng như Tắt đèn, Việc làng, Lều chõng… cùng với bài báo bình luận xuất sắc ký nhiều bút danh; những sách nghiên cứu phê bình như Nho giáo, Lão tử, Mặc Tử; dịch thơ văn Hán - Nôm và truyện Trung Quốc, đã đưa ông thành cây bút hiện thực lớn. Ông tham gia Văn hóa cứu quốc, đi kháng chiến chống Pháp, làm báo cách mạng và mất tháng 4-1954 tại Yên Thế, Bắc Giang.

Ngô Tất Tố

113

Nguyễn Văn Tố

Nguyễn Văn Tố (1889-1947), quê ở Hà Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội). Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), ông giữ chức Bộ trưởng Cứu tế Xã hội trong Chính phủ cách mạng lâm thời. Ông là Đại biểu quốc hội, Chủ tịch Quốc hội khóa I. Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), ông cùng Chính phủ rút lên Việt Bắc tiếp tục kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngày 7/10/1947, trong một cuộc tấn công của quân đội Pháp vào chiến khu Việt Bắc, ông bị bắt, bị tra khảo và bị giết tại Bắc Kạn.

Nguyễn Văn Tố

114

Nguyễn Trường Tộ

Nguyễn Trường Tộ (1830 -1871), quê ở làng Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ An, là trí thức, nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19, có tài năng xuất chúng. Ông có lòng yêu nước thiết tha, đặt hy vọng vào thế hệ trẻ có thể canh tân đất nước theo mô hình Nhật Bản. Ông nhiều lần gửi các bản điều trần cho triều đình nhà Nguyễn, cử sứ bộ đi các nước tranh thủ sự ủng hộ, đánh úp Pháp ở sáu tỉnh Nam Bộ... Tên ông được đặt cho nhiều tên đường phố ở Việt Nam.

Nguyễn Trường Tộ

115

Trần Quốc Toản

Trần Quốc Toản (1267-1285), quê ở Tức Mặc, Mỹ Lộc, Nam Định, người anh hùng thiếu niên chống Nguyên Mông. Năm 1282, lúc ông mới 15 tuổi, được tin quân Nguyên Mông sang cướp nước ta, vua Trần Nhân Tông hội các vương hầu bàn kế sách chống giặc. Quốc Toản cũng là Hầu tước, nhưng vì nhỏ tuổi nên đến dự Hội Bình Than mà không được vào họp bàn. Ông đứng ngoài căm tức lỡ tay bóp nát quả cam vua ban cho. Tan Hội về, ông tập hợp đám bạn thiếu niên thân thuộc, sắm sửa vũ khí, may cờ hiệu đề 6 chữ: "Phá cường địch, báo hoàng ân", rồi tự dẫn binh ra trận đánh giặc. Ông cùng các chiến binh trẻ tuổi tham dự vào nhiều trận đánh lớn, từng có lúc theo Thượng tướng Trần Quang Khải, góp phần chiến thắng Chương Dương vang dội trong lịch sử chống Nguyên Mông. Trong một trận đánh không cân sức, ông bị trọng thương và hy sinh năm 1285, lúc ấy mới qua tuổi 18. Vua Trần Nhân Tông thương tiếc, thân làm bài văn tế và truy phong ông tước Hoài Văn Vương. Trần Quốc Toản là vị tướng trẻ nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Ông là tấm gương anh hùng yêu nước trẻ tuổi tiêu biểu của đất nước.

Trần Quốc Toản

116

Hà Hưng Tông

Hà Hưng Tông (1066-1127) quê ở châu Vị Long nay là huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang. Năm Nhâm Tuất (1082), ông kết duyên với Công chúa Khâm Thánh và được phong làm Tả đại liêu ban; đến năm Bính Dần (1086) kiêm thêm Tri châu Vị Long, giữ Tiết độ sứ, Kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu Thái phó. Ông được phong làm Phò ký lang, Đô tri tả vũ vệ đại tướng quân, đồng trung thư, môn hạ bình chương sự, kiêm quân nội khuyến nông sự Thái bảo, Thái phó, Thượng trụ quốc. 

Hà Hưng Tông

117

Lê Thánh Tông

Lê Thánh Tông (1442-1497), là vị vua thứ năm của nhà Hậu Lê, trị vì từ năm 1460 đến 1497. Ông là người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Trong lúc trị vì, Lê Thánh Tông đã đề xuất nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp. Ông là người xây dựng bộ Luật Hồng Đức. Đây là một công trình lập pháp lớn, chứng tỏ bước phát triển mới rất quan trọng của lịch sử pháp quyền Việt Nam. Ông được truy tôn là Sùng thiên Quảng vận Cao minh Quang chính Chí đức Đại công Thánh văn Thần vũ Đạt hiếu Thuần hoàng đế.

Lê Thánh Tông

118

Trần Thái Tông

Trần Thái Tông (1218-1277), vị vua đầu tiên của nhà Trần. Ông trực tiếp chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất thắng lợi; nhường ngôi cho con để tập trung nghiên cứu giáo lý nhà Phật và soạn tập Khóa hư lục.

Trần Thái Tông

119

Trần Thánh Tông

Trần Thánh Tông (1240-1290), vua thứ hai triều Trần, nhân từ, có nhiều chính sách tích cực, và là một nhà thơ lớn, trị vì 20 năm (1258-1278), sau nhường ngôi cho con là Trần Nhân Tông.

Trần Thánh Tông

120

Ngụy Như Kon Tum

Ngụy Như Kon Tum (1913 quê ở xã Minh Lương, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1932, Ngụy Như Kon tum tốt nghiệp loại xuất sắc cả ba bằng Tú tài bản xứ, Tú tài Tây ban Toán, Tú tài Tây ban Triết. Ông được cấp học bổng sang Paris du học và tốt nghiệp cử nhân Vật lý, Thạc sĩ Lý-Hóa tại Đại học Paris (còn gọi là Sorbonne, Pháp). Năm 1939, ông trở về nước và dạy tại trường Trung học Chasseloup (Sài Gòn) rồi trường Bưởi (Hà Nội). Ông sáng lập hội SET để giáo dục tinh thần yêu nước cho thanh niên trí thức. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tích cực tham gia công tác cách mạng. Kháng chiến bùng nổ, ông lên chiến khu Việt Bắc, giữ những chức vụ: Tổng Giám đốc trung học vụ kiêm Đổng lý sự vụ Bộ Quốc gia - Giáo dục (cuối 1946-1950). Năm 1951, ông chuyển sang làm Giám đốc Trường Sư phạm cao cấp ở Khu học xá Trung ương (Nam Ninh, Trung Quốc). Năm 1954, ông trở về thủ đô Hà Nội, được cử xây dựng ngành đại học và giảng dạy Vật lý tại Trường Sư phạm Khoa học. Hai năm sau, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập, giáo sư Ngụy Như Kon tum được cử làm Hiệu trưởng đầu tiên của trường và giữ chức vụ này cho tới khi về hưu.

Ngụy Như Kon Tum

121

Trần Quốc Tuấn

Trần Quốc Tuấn (1228-1300), còn được gọi là Hưng Đạo Đại Vương. Ông là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông được biết đến trong lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên-Mông (năm 1285 và năm 1288). Năm 1257, ông được Trần Thái Tông phong làm tướng chỉ huy các lực lượng ở biên giới đánh quân Mông Cổ xâm lược. Sau đó ông lui về thái ấp ở Vạn Kiếp. Đến tháng 10 âm lịch năm 1283, nhà Nguyên (Mông Cổ) đe dọa đánh Đại Việt lần hai, Hưng Đạo vương được Thượng hoàng Trần Thánh Tông, Hoàng đế Trần Nhân Tông phong làm Quốc công tiết chế thống lĩnh quân đội cả nước. Trên cương vị này, năm 1285, ông lãnh đạo quân sĩ chặn đánh đội quân xâm lược của Trấn Nam vương Thoát Hoan. Sau những thất bại ban đầu, quân dân Việt dưới sự lãnh đạo của hai vua Trần, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải và Hưng Đạo vương phản công mạnh mẽ, phá tan quân Nguyên trong các trận Hàm Tử, Chương Dương, Trường Yên, Vạn Kiếp,... quét sạch quân Nguyên khỏi biên giới. Năm 1288, quân Nguyên trở lại xâm lược Đại Việt. Hưng Đạo vương tiếp tục làm Quốc công tiết chế. Ông đã dùng lại kế cũ của Ngô Quyền, đánh bại hoàn toàn thủy quân của các tướng Phàn Tiếp, Ô Mã Nhi trong trận Bạch Đằng. Quân Nguyên lại phải chạy về nước. Tháng 4 âm lịch năm 1289, Trần Nhân Tông chính thức gia phong ông làm "Đại vương" dù chức quyền đứng đầu triều đình khi đó vẫn thuộc về Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải.

Trần Quốc Tuấn

122

Huyền Trân

Huyền Trân (1287-1340) là con gái vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý. Năm 1307, Chế Mân qua đời, Huyền Trân được cứu đưa về Thăng Long. Năm 1308, bà đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Năm 1311, bà đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay là Vụ Bản, tỉnh Nam Định) lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau bà được nhân dân thờ phụng tại đó.

Huyền Trân

123

Đặng Thùy Trâm

Đặng Thùy Trâm (1942-1970), tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa tại Trường Đại học Y khoa Hà Nội năm 1966, sau đó xung phong vào chiến trường miền Nam làm nhiệm vụ của người thầy thuốc trong thời gian chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bác sĩ Đặng Thùy Trâm công tác tại bệnh viện huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, trong khi làm nhiệm vụ tại địa bàn đã bị địch phục kích và anh dũng hy sinh vào năm 1970 khi còn rất trẻ. Trong hành trang để lại trước lúc hy sinh của Chị là 2 cuốn nhật ký đã được một cựu chiến binh Mỹ tên là Frederic Whitehurst từng tham chiến tại chiến trường huyện Đức Phổ tìm thấy và cất giữ. Cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” sau đó đã được Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn xuất bản và phát hành; liệt sĩ Đặng Thùy Trâm được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 2006.

Đặng Thùy Trâm

124

Nguyễn Văn Trỗi

Nguyễn Văn Trỗi (1940-1964), quê quán xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, Quảng Nam; Ông làm thợ điện ở nhà máy điện Chợ Quán và tham gia tổ chức Biệt động thành, Đại đội quyết tử Tây Nam Sài Gòn. Năm 1964, ông được tập huấn cách đánh biệt động nội thành ở căn cứ Rừng Thơm, Đức Hòa (Long An). Ngày 2/5/1964, ông nhận nhiệm vụ đặt mìn ở cầu Công Lý (nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi), để ám sát phái đoàn quân sự chính trị cao cấp của Chính phủ Mỹ do Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara dẫn đầu. Công việc bại lộ, ông bị bắt lúc 22 giờ ngày 9/5/1964. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đưa ông ra tòa án quân sự kết án tử hình. Để cứu ông, một tổ chức du kích Venezuela tuyên bố trao đổi anh với một con tin là trung tá không quân Mỹ là Michael Smolen mà họ vừa bắt giữ. Tuy nhiên, sau khi viên sĩ quan Mỹ vừa được trả tự do thì ông bị đưa đi xử bắn. Nguyễn Văn Trỗi bị xử bắn tại sân sau nhà lao Chí Hòa lúc 9 giờ 45 phút ngày 15 tháng 10 năm 1964, trước sự chứng kiến của nhiều phóng viên nước ngoài.

Nguyễn Văn Trỗi

125

Lý Tự Trọng

Lý Tự Trọng (1915-1932) , quê ở Xã Thạch Minh, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Anh có nhiều tích cực trong việc liên lạc giữa Tổng bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội với Đảng bộ, các cán bộ cách mạng ở Việt Nam đang hoạt động ở Trung Quốc; đồng thời tổ chức chuyển thư từ tài liệu của Tổng bộ về nước. Ngày 8/2/1931 để bảo vệ đồng chí đang diễn thuyết tuyên truyền cách mạng, Lý Tự Trọng đã bắn chết mật thám Pháp và bị bắt. Anh bị chính quyền Pháp tại Sài Gòn kết án tử hình, anh bị xử bắn khi mới 17 tuổi. Câu nói nổi tiếng của anh được các thế hệ thanh niên lấy làm lẽ sống cho mình ”Con đường thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng không có con đường nào khác”.

Lý Tự Trọng

126

Trần Bình Trọng

Trần Bình Trọng (1259-1285), danh tướng đời Trần, quê huyện Thanh Liêm, Hà Nam, vốn họ Lê do có công lớn nên được ban họ vua; trong trận đánh ở sông Thiên Mặc bị giặc Nguyên bắt dụ hàng, ông khảng khái nói: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” và chịu chết.

Trần Bình Trọng

127

Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Trứ (1778-1858), hiệu Ngộ Trai, Hy Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ giải nguyên (1819), làm tri huyện rồi đến Tổng đốc, Thượng thư nhưng đầy chìm nổi, có lúc bị cách làm lính. Ông có tài thao lược, có công khai hoang lấn biển vùng Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình; lập ra các huyện mới: Tiền Hải, Kim Sơn… Ông còn là nhà thơ tài hoa, sáng tác nhiều bài ca trù nổi tiếng.

Nguyễn Công Trứ

128

Nguyễn Trung Trực

Nguyễn Trung Trực (1838-1868), người phủ Tân An, tỉnh Đình Tường (nay thuộc Long An); còn có tên Nguyễn Văn Lịch - một nông dân kiêm ngư nghiệp; hăng hái chống Pháp khi chúng đánh chiếm các tỉnh Nam Kỳ; từng đánh đắm chiếm hạm Hy Vọng (Espérence) trên sông Vàm Cỏ (1861); được giao trấn thủ Hà Tiên. Pháp chiếm xong Nam Kỳ, ông lập căn cứ ở Hòn Chuông tiếp tục chiến đấu cho đến khi bị Pháp bắt và đem hành hình ở Rạch Giá. Ông để lại câu nói nổi tiếng: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”.

Nguyễn Trung Trực

129

Hồ Nguyên Trừng

Hồ Nguyên Trừng (1347-1446), quê ở Thanh Hóa còn có tên là Lê Trừng, hiệu Nam Ông. Dưới triều nhà Trần, Hồ Nguyên Trừng từng giữ chức Thượng Lân tự, Tư đồ. Sau đó, được cử làm Tả tướng quốc nhà Hồ, làm quan ở bộ Công khi nhà Minh xâm lược. Ông là nhà kỹ thuật quân sự, được coi là ông tổ của nghề đúc súng thần công Việt Nam. Ông cũng chỉ huy xây dựng nhiều công trình đồ sộ thời nhà Hồ. Ngoài ra ông còn là nhà văn Việt Nam ở thế kỷ 15, là người mở đường cho khuynh hướng viết về “người thực, việc thực” trong văn xuôi tự sự Việt Nam.

Hồ Nguyên Trừng

130

Nguyễn Quốc Trị

Nguyễn Quốc Trị (1921 - 1967) quê ở làng Phượng Kỷ, xã Đà Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Ông được phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào năm 1952 tại Đại hội chiến sỹ thi toàn quốc tổ chức tại Tuyên Quang.

Nguyễn Quốc Trị

131

Đào Duy Từ

Đào Duy Từ (1572-1634), quê huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa, con một gia đình nghệ sĩ tuồng vào Đàng Trong chống họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Ông giúp chúa Nguyễn đắp lũy Thầy (gồm 2 lũy Trường Dực, Nhật Lệ) ở Quảng Bình, được coi là Khai quốc công thần. Tác giả Hồ trướng khu cơ (sách binh pháp), tuồng Sơn Hậu, khúc ngâm Ngọc Long Cương Văn…

Đào Duy Từ

132

Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử (1912-1940), tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, huyện Đồng Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là tỉnh Quảng Bình). Hàn Mặc Tử làm thơ sớm, 14 tuổi đã làm thơ Đường luật đăng báo với bút danh Minh Duệ Thị; năm 1930 đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ do một thi xã tổ chức. Cùng Chế Lan Viên lập trường thơ Loạn. Ông sử dụng nhiều bút danh: Phong Trần, Lệ Thanh rồi cuối cùng là Hàn Mặc Tử. Tác phẩm gồm có: Lệ Thanh thi tập, Gái quê, Đau thương (còn gọi là Thơ điên), Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cầm châu duyên (gồm 02 vở kịch thơ: Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội)…Hàn Mặc Tử học tiểu học ở Qui Nhơn, trung học ở Huế, có thời gian làm ở Sở Đạc điền (Qui Nhơn). Năm 1934-1935 theo Thúc Tề vào Sài Gòn làm báo (viết báo Công luận, phụ trách trang văn báo Sài Gòn), về sau trở ra Qui Nhơn. Năm 1936 bị mắc bệnh phong, phải vào nhà thương Qui Hòa và qua đời ở đó.

Hàn Mặc Tử

133

Ngô Gia Tự

Ngô Gia Tự (1908-1935), quê ở Bắc Ninh, ông được Đảng kỳ bộ Bắc Kỳ chỉ định vào Tỉnh bộ Bắc Ninh. Cuối năm 1928, ông vào Sài Gòn hoạt động. Ông được bầu làm Bí thư Xứ ủy lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam Kỳ. Cuối năm 1930, ông bị Pháp bắt tại Sài Gòn, đến tháng 5/1933 thì chúng đày ông ra Côn Đảo.

Ngô Gia Tự

134

Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân (1910-1987), Nhà văn Việt Nam, người làng Mọc Thượng Đình, sinh tại phố Hàng Bạc, nhưng sống với gia đình thời trẻ ở miền Trung. Làm báo, viết văn, đóng phim từ năm 1930. Nổi tiếng với thể loại tùy bút mang phong cách riêng độc đáo trước Cách mạng, trong kháng chiến và sau hòa bình. Tham gia chống Pháp, đi Nam tiến; thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam; đi với bộ đội dự các chiến dịch sông Thao, đường số 4. Ông để lại nhiều tác phẩm giá trị: Thiếu quê hương, Vang bóng một thời, Tóc chi Hoài, Sông Đà; Hà nội ta đánh Mỹ giỏi….

Nguyễn Tuân

135

Dã Tượng

Dã Tượng có công trong sự nghiệp chống quân Nguyên - Mông cuối thế kỷ XIII. Ông là người nổi tiếng trung thành, tận tình bảo vệ chủ tướng. Chính ông và Yết Kiêu có công lớn lúc bắt Toa Đô. Trong cuộc chiến gay go, quân sĩ tản mác, ông đã bám trụ ở một điểm đến khi chủ tướng gặp được Yết Kiêu mới thôi. Ông được Trần Quốc Tuấn tin yêu. Theo truyền thuyết, Dã Tượng còn là ông tổ nghề rèn. Những làng rèn đều thờ Dã Tượng tiên sư.

Dã Tượng

136

Tô Ngọc Vân

Tô Ngọc Vân (1906-1954), quê ở làng Xuân Cầu, Văn Giang, Hưng Yên; sinh ở Hà Nội, học khóa II trường Mỹ thuật Đông Dương (1925-1931), sau trở thành giáo sư hội họa của trường. Ông tham gia hoạt động bán công khai trong Mật trận Việt Minh, sau Cách mạng tháng Tám là một trong những họa sĩ đầu tiên được vào vẽ Bác Hồ. Ông mất trong kháng chiến chống pháp, sau 28 năm cống hiến cho hội họa Việt Nam hiện đại; để lại nhiều tác phẩm sơn dầu giá trị, được lưu giữ trong các bảo tàng quốc gia và thế giới. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Tô Ngọc Vân

137

Chế Lan Viên

Chế Lan Viên (1920-1989), chính tên là Phan Ngọc Hoan, quê gốc ở Nghệ Tĩnh, sinh ở Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, học ở Qui Nhơn, đỗ trung học rồi dạy tư. Nổi tiếng từ khi còn ít tuổi, với tập thơ Điêu tàn (1938), tiếp đó là tập văn xuôi Vàng sao (1942). Từ Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên hoạt động văn nghệ và báo chí ở Liên khu IV rồi chuyển ra hoạt động ở Việt Bắc, tham gia nhiều khóa Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã xuất bản hàng chục đầu sách bao gồm thơ, bút ký, lý luận - phê bình, với bút pháp sắc sảo, thông minh và giàu chất trí tuệ. Ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Chế Lan Viên

138

Lương Thế Vinh

Lương thế Vinh (1441-1496) quê ở xã Liên Bảo, Vụ Bản, Nam Định, ngay từ bé Lương thế Vinh đã nổi tiếng “thần đồng làng Hương”. Ông có tài ngoại giao, thường giúp cho nhà vua việc văn từ bang giao với nước ngoài. Lương thế Vinh là một nhà giáo dục giỏi. Ông đã đề nghị nhà vua cải cách việc học hành thi cử , đưa việc học xuống tận nông thôn, cần quan tâm đến cả việc dạy tri thức và đạo đức. Đặc biệt, Lương thế Vinh rất chú trọng đến môn toán, đến việc dạy toán và học toán. Ông đã biên soạn cuốn “Toán pháp đại thành” dày 160 trang, là cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên ở nước ta. Bản cửu chương và bàn tính của ông rất thông dụng trong công sở và trong nhân dân. Dân quý mến gọi ông là Trạng Lường, tức là ông Trạng giỏi tính toán, đo lường. Lương Thế Vinh còn có những công trình về âm nhạc nhờ bộ Đồng Văn chuyên hợp xướng và bộ Nhã nhạc chuyên hòa tấu bằng nhạc khí, dùng trong quốc lễ và triều hội.

Lương Thế Vinh

139

Lưu Quang Vũ

Lưu Quang Vũ (1948-1988), quê quán xã Thiệu Cơ, Hạ Hòa, Phú Thọ, ông là nhà thơ, nhà soạn kịch và nhà văn hiện đại của Việt Nam. Năm 1978 ông làm biên tập viên Tạp chí sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch nói. Các tác phẩm của ông giàu tính hiện thực và nhân văn, được dàn dựng thành công như: “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Tôi và chúng ta”, “Tin ở hoa hồng”… Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000) về nghệ thuật sân khấu.

Lưu Quang Vũ

140

An Dương Vương

An Dương Vương tên thật là Thục Phán, là vị vua lập lên nược Âu Lạc và cũng là vị vua duy nhất cai trị nhà nước này. Âu Lạc là nhà nược thứ hai trong lịch sử Việt Nam, sau nhà nước Văn Lang đầu tiên của các vua Hùng. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi thời gian ông làm vua kéo dài 50 năm (từ 257 TCN đến 208TCN). Căn cứ và Sử ký Tư Mã Thiên thì cho rằng An Dương Vương và nước Âu Lạc tồn tại gần 30 năm (từ 208 TCN đến 179 TCN). Ông là người xây thành Cổ Loa và phát triển thủy binh, cho chế tạo nhiều vũ khí lợi hại, tạo lợi thế vững chắc cho Cổ Loa.

An Dương Vương

141

Hùng Vương

Theo truyền thuyết, là con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Truyền thuyết được ghi lại trong "Lĩnh Nam chích quái" thời Trần kể rằng Âu Cơ kết hôn với Lạc Long Quân, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con trai. Về sau, Lạc Long Quân chia tay với Âu Cơ; 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi. Người con cả được tôn làm vua, gọi là Hùng Vương. Hùng Vương đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ), truyền ngôi được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương. Về sau, một số biên niên sử Việt Nam đã chép thời đại huyền thoại này vào chính sử như "Đại Việt sử lược"(thời Trần), "Đại Việt sử kí toàn thư" (thời Lê). "Đại Việt sử lược" xếp Hùng Vương ngang với Trang Vương của triều Chu của Trung Quốc, tức khoảng 696 - 682 Tr.CN. "Đại Việt sử kí toàn thư" thì chép từ Kinh Dương Vương đến hết đời Hùng Vương cuối cùng vào Kỉ Hồng Bàng thị, tổng số là 2.622 năm, từ năm Nhâm Tuất đến năm Quý Mão. Năm Quý Mão được ghi rõ là tương ứng với năm thứ 27 đời Chu Noãn Vương của Trung Quốc, tức năm 258 tcn. Từ đó, có thể tính ra năm Nhâm Tuất là năm 2879 Tr.CN. Cũng từ cách ghi chép của "Đại Việt sử kí toàn thư" mà người ta nói là thời đại Hùng Vương cách chúng ta 4.000 năm. Chúng ta chưa có cứ liệu để biết các sách biên niên sử nói trên đã dựa vào căn cứ nào để ghi chép như vậy.

Hùng Vương

142

Kinh Dương Vương

Kinh Dương Vương là bậc thánh trí có tư chất thông minh, tài đức hơn người, sức khoẻ phi thường. Kinh Dương Vương thành lập nhà nước sơ khai đầu tiên vào năm Nhâm Tuất (2879TCN), đặt quốc hiệu là Xích Quỷ, đóng đô ở Hồng Lĩnh (nay là Ngàn Thống, Can Lộc, Hà Tĩnh). Sau đó rời đô ra Ao Việt (Việt Trì). Ông lấy con gái vua hồ Động Đình tên là Thần Long, sinh được một con trai đặt tên là Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân.

Kinh Dương Vương

143

Triệu Việt Vương

Triệu Việt Vương là miếu hiệu của Triệu Quang Phục, quê huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, trước phò Lý Nam Đế lập nước Vạn Xuân (544), rồi tự mình lên ngôi, xây căn cứ Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) chống quân xâm lược nhà Lương; sau bị Lí Phật Tử đánh bại, chạy về đến cửa Đại An (Nam Định) thì mất.

Triệu Việt Vương

144

Nguyễn Xiển

Nguyễn Xiển (1907-1997) quê ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Năm 1926, đỗ đầu tú tài Tây ở Hà Nội và đoạt học bổng sang Pháp học Trường Đại học Toulouse và đã đỗ cử nhân. Năm 1932, ông về nước, ra Hà Nội dạy học. Từ năm 1937 ông chuyển sang ngành khí tượng thủy văn. Năm 1941 ông phụ trách Đài khí tượng Phù Liễn Đông Dương tại tỉnh Kiến An hiện đại nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được cử giữ chức Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Bắc bộ kiêm Giám đốc Nha khí tượng. Năm 1946, ông được bầu làm Phó Tổng thư ký Đảng Xã hội Việt Nam. Ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam liên tục từ khoá I đến khoá VIII; Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội các khoá II, III, IV,V,VI; Phó Chủ tịch Quốc hội khoá VII. Từ năm 1955 đến 1959, ông làm Bộ trưởng Cứu tế xã hội. Từ năm 1960 đến 1976, ông làm Giám đốc Nha Khí tượng Việt Nam, Chủ tịch Uỷ ban địa cầu quốc tế Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban khoa học kỹ thuật nhà nước. Năm 1956, ông làm Tổng thư ký Đảng Xã hội Việt Nam và giữ chức này cho đến khi đảng này giải thể năm 1988. Ông còn là Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa I, khóa II. 

Nguyễn Xiển

145

Nguyễn Viết Xuân

Nguyễn Viết Xuân (1933-1964) quê ở thôn Thượng, xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 05/11/1952, Ông nhập ngũ và trở thành chiến sỹ của C3 Đoàn 99. Sau đó Ông trở thành chiến sỹ trinh sát của C832 D396. Ngày 18/11/1964, tại trận địa phòng không miền Tây tỉnh Quảng Bình. Máy bay phản lực Mỹ nhằm vào trận địa ném bom. Anh em trong đơn vị chưa quen bắn pháo nên có phần lúng túng, Ông đã kịp thời động viên: “Các đồng chí hãy vững vàng, dũng cảm nhìn thẳng máy bay mà bắn. Ngày 19/11/1964, Nguyễn Viết Xuân hi sinh nhưng lời hô bất hủ của Ông Nhằm thẳng quân thù, bắn! còn vang vọng. Cảm phục trước tấm gương hy sinh anh dũng, toàn quân đã noi gương Ông. Tổ quốc ghi nhớ công lao của Ông. Ngày 01/01/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho liệt Sĩ Nguyễn Viết Xuân.

Nguyễn Viết Xuân

146

Lê Anh Xuân

Lê Anh Xuân (1940 - 1968), là nhà văn, liệt sĩ. Anh từng học Đại học tổng hợp Hà Nội sau đó, được cử đi học ở nước ngoài, nhưng đã xin được về quê hương chiến đấu. Anh hy sinh ngày 25/5/1968 trong cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân 1968 ở vùng phụ cận Sài Gòn, ấp Phước Quảng, xã Phước Lợi, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Lê Anh Xuân có 3 tập thơ đã xuất bản "Tiếng gà gáy", "Hoa dừa", "Trường ca Nguyễn Văn Trỗi", trong đó có bài thơ nổi tiếng "Dáng đứng Việt Nam". Năm 2001, Lê Anh Xuân được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật và được truy tặng anh hùng lực lượng vũ trang năm 2011.

Lê Anh Xuân

147

Nguyễn Xí

Nguyễn Xí (1396-1465), là công thần khai quốc nhà Hậu Lê. Những năm 1421 và 1422, Nguyễn Xí là một trong những tướng có công đánh tan cuộc tấn công của quân Minh và quân Ai Lao, bảo vệ an toàn Bộ chỉ huy Lam Sơn và lãnh tụ của Lam Sơn là Bình Định Vương Lê Lợi. Năm 1427, ông đã phối hợp với tướng Lê Sát hạ thành, bắt sống các tướng Minh là Thôi Tụ, Hoàng Phúc, góp phần to lớn vào việc đánh chặn viện binh giặc, tạo điều kiện cho đại quân hạ thành Đông Quan, giải phóng đất nước vào năm 1427. Tháng 6.1460, ông cùng đại thần Đinh Liệt, Lê Niệm phế truất Nghi Dân đưa Gia vương (Lê Thánh Tông) lên ngôi hoàng đế. Nguyễn Xí được coi là một tướng tài từng phục vụ từ đời Lê Thái Tổ cho đến Lê Thánh Tông, đem lại nhiều thắng lợi trên hai mặt trận quân sự và chính trị.

Nguyễn Xí

148

Trần Tế Xương

Trần Tế Xương (1870-1907) tên thật Trần Duy Uyên, quê huyện Mỹ Lộc, Nam Định; có tài văn thơ nhưng đi thi 8 lần mà chỉ đỗ Tú tài nên thường gọi là Tú Xương; nổi tiếng với thơ trào phúng, là tác giả Vị Xuyên thi văn tập.

Trần Tế Xương

V. Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, anh hùng lao động của tỉnh Tuyên Quang: 03 tên

TT

Họ và tên

Quê quán

Chiến công

Đơn vị công tác, chức vụ

Tên dự kiến đặt

1

Phạm Đình Chiến

Xã Đông Thọ, huyện Sơn Dương

Được tuyên dương anh hùng LLVTND ngày 08/3/1995

Chiến sỹ phòng cảnh sát hình sự công an tỉnh Hà Giang 

Phạm Đình Chiến

2

Bàn Hồng Tiên

Xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa

Được tuyên dương anh hùng Lao động năm 1967

 Bí thư Đảng ủy xã Yên Nguyên, chủ nhiệm HTX Đồng Vàng, xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa

Bàn Hồng Tiên

3

Triệu Tiến Xuân

Xã Đức Xuân, huyện Na Hang

Được tuyên dương anh hùng LLVTND ngày 20/9/1971

Pháo thủ 1, A3, D1, E204, Bộ Tư lệnh pháo binh 

Triệu Tiến Xuân

VI. Các đồng chí nguyên lãnh đạo tỉnh Tuyên Quang qua các thời kỳ: 21 tên

TT

Họ và tên

Quê quán

Tóm tắt thân thế sự nghiệp

Tên dự kiến đặt

1

Trương Đình Dần 1910 - 2006

Xã Quỳnh Lưu, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình

Tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1925. Năm 1929 gia nhập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày 3/2/1930, được kết nạp Đảng. Từ năm 1940 đến 1945 là Xứ ủy viên dự khuyết Xứ ủy Bắc Kỳ. Năm 1941 là Bí thư Ban Cán sự Đảng Tuyên Quang. Đầu năm 1943, bị Pháp bắt giam. Năm 1945, sau khi thoát khỏi nhà tù, tiếp tục làm Bí thư liên tỉnh, hoạt động ở Ninh Bình, Tuyên Quang, Hưng Yên, Hải Dương, Hòa Bình. Từ năm 1946 đến 1953 lần lượt giữ các chức vụ: Đặc phái viên Ủy ban hành chính Bắc bộ, Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính Hòa Bình, Phó Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình, Bí thư Nông hội tỉnh Hòa Bình, Đại biểu Quốc hội khóa II.

Được Đảng và Nhà nước trao tặng: Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 50, 60, 70 năm tuổi Đảng.

Trương Đình Dần

2

Tạ Xuân Thu 1916 - 1971

Xã Tây Giang, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình

Năm 1936 tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1940, bị thực dân Pháp bắt. Tháng 9.1944 vượt ngục tham gia đội Cứu quốc quân và hoạt động xây dựng cơ sở cách mạng ở 2 tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang. Tháng 3/1945, ông chỉ huy đội Giải phóng quân chiến đấu giải phóng Tuyên Quang. Từ tháng 10/1945 đến năm 1950, giữ các trọng trách: Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang; Chính trị viên Khu 1; Chính ủy Khu 10; phụ trách Mặt trận Tây Tiến; Ủy viên kiểm tra của Quân ủy Trung ương và Thanh tra Quân đội. Từ năm 1950 đến 1953 là Phái viên quân sự của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang giúp Chính phủ Lào, chỉ huy bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Thượng Lào. Từ năm 1954 đến 1955 là Tư lệnh kiêm Chính ủy Bộ đội Biên phòng, Chính ủy Sư đoàn 335. Từ tháng 11/1953 đến 1963 là Chính ủy kiêm Cục trưởng Cục Phòng thủ bờ biển (đơn vị tiền thân của Quân chủng Hải quân)

Năm 1961, được phong hàm Thiếu tướng. Năm 1964 là Tư lệnh đầu tiên của Quân chủng Hải quân. Từ năm 1964 đến năm 1971 là Chính ủy Quân chủng Hải quân, Binh chủng pháo binh và Học viện quân sự. Đại biểu Quốc hội khóa I, II.

Được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Quân công hạng nhất, Huân chương Chiến công hạng nhất, Huân chương Chiến thắng hạng nhất, Huân chương Hồ Chí Minh.

Tạ Xuân Thu

3

Nguyễn Công Thành 1920 - 1957

Thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên

Tham gia cách mạng từ đầu năm 1936, hoạt động trong phong trào thanh niên dân chủ ở tỉnh Nam Định. Năm 1939, chuyển sang hoạt động ở Thái Bình. Tháng 4 và tháng 5 năm 1945, hoạt động tại huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh. Tháng 6/1945, lên hoạt động ở Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang), làm huấn luyện viên tại Trường Quân chính kháng Nhật. Tháng 8/1945, sau khi Tuyên Quang khởi nghĩa giành chính quyền thành công được cử làm Bí thư Tỉnh bộ Việt Minh kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến tỉnh Tuyên Quang. Cuối năm 1946, được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang. Đến giữa năm 1948, chuyển công tác về Liên Khu 10. Từ tháng 4/1950 đến tháng 3/1951 được điều động làm Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang. Từ năm 1951 đến năm 1957 Công tác tại báo Sự thật, Chánh Văn phòng Ban Tuyên huấn Trung ương kiêm Chánh Văn phòng Bộ Tuyên truyền.

Nguyễn Công Thành

4

Võ Thanh Hòa 1921

Huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định

Năm 1936 tham gia phong trào công khai. Năm 1938 tham gia Đoàn thanh niên Dân chủ. Năm 1939 tham gia Đoàn thanh niên Phản đế. Năm 1940, bị Pháp bắt và giam tại nhà giam Nam Định, Hà Nội, Sơn La, Hòa Bình. Năm 1943, thoát khỏi nhà tù về hoạt động ở Nam Định sau đó lên Vĩnh Yên lãnh đạo đấu tranh chống Quốc Dân Đảng. Tháng 6/1946 được đề bạt Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm tổng bộ Việt Minh. Năm 1947 là Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch tỉnh Vĩnh Yên. Năm 1948 là Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang. Năm 1949, công tác tại tuyên huấn Khu 3. Từ năm 1950 đến năm 1951 là Quyền Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương, Bí thư Tỉnh ủy Sơn Tây. Năm 1953 là Biên tập viên trong văn phòng Liên khu 3.

Võ Thanh Hòa

5

Trần Thanh Quang 1922-2017

Xã Nam Lợi, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định

Từ năm 1938 đến 1939 tham gia Thanh niên Dân chủ, Thanh niên Phản đế . Từ năm 1940 đén tháng 3/1945 bị bắt đầy ở Nam Định, Hỏa Lò, Sơn La, Chợ Chu. Tháng 3/1945, vượt ngục Hỏa Lò tiếp tục tham gia cách mạng.

Từ năm 1948 đến năm 1949 là Bí thư Tỉnh ủy Nam Định, Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hà Nam, Phó ban Tổ chức khu 10. Từ năm 1949 đến 1955 là Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang. Năm 1955 Phụ trách công tác tuyên huấn tại khu Việt Bắc. Từ năm 1956 đến 1971 là Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Chánh Văn phòng kiêm thường trực đảng đoàn Bộ Y tế, Phó Chủ nhiệm Ủy ban bảo vệ Phụ nữ và Trẻ em.

Khen thưởng: Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhì, Huân chương Chiến công hạng nhất, Huy hiệu Vì sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo.

Trần Thanh Quang

6

Nguyễn Công Bình 1909 - 1959

Xã Lạc Nghiệp, tổng Trà Lũ, Phủ Xuân Trường (nay là xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định)

Từ năm 1928 đến 1929 tham gia phong trào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Tháng 3/1943, cùng với 11 đồng chí tổ chức vượt ngục ở Chợ Chu trở về vùng núi Hồng hoạt động cách mạng. Năm 1945, ông chỉ huy giải phóng quân chiếm huyện lị Chiêm Hóa, thị xã Tuyên Quang. Ngày 22/8/1945 ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban lâm thời tỉnh Tuyên Quang. Từ năm 1946 đến 1956 là Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh Tuyên Quang. Từ năm 1953 đến 1956 là Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang. Sau đó được điều động sang công tác tại Khu tự trị Việt Bắc.

Nguyễn Công Bình

7

Nguyễn Xuân Việt 1914-1994

Xã Trường Yên, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội

Tham gia cách mạng năm 1938. Từ năm 1941 đến 1945 là Bí thư Chi bộ xã, cán bộ Việt Minh huyện, Ủy viên Ủy ban khởi nghĩa huyện Chương Mỹ. Từ năm 1945 đến năm 1946 là Ủy viên Thường vụ Huyện ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Chương Mỹ. Năm 1947 là Chính trị viên Huyện đội Chương Mỹ. Từ năm 1947 đến năm 1948 là Phó ban Thanh tra tỉnh Hà Đông. Từ năm 1948 đến năm 1950 là Phó Ban công tác đội văn phòng Trung ương Đảng. Từ năm 1950 đến năm 1953 là Tỉnh ủy viên, Bí thư kiêm Chủ tịch huyện Sơn Dương - Tuyên Quang. Từ năm 1953 đến năm 1958 là Tỉnh ủy viên, Bí thư nông hội, Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh Tuyên Quang. Từ năm 1958 đến năm 1961 là Quyền Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang, Khu ủy viên, Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang. Từ năm 1961 đến năm 1962 là Trưởng ban nghiên cứu thành phố Thái Nguyên - Việt Bắc. Từ năm 1962 đến năm 1976 là Bí thư Tỉnh ủy Nghĩa Lộ.

Khen thưởng: Huân chương Độc lập hạng nhì, Huân chương Kháng chiến hạng nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất, Huân chương Lao động hạng ba, Huy hiệu 50 năm tuổi đảng.

Nguyễn Xuân Việt

8

Trần Hoài Quang 1922-1999

Xã Triệu Sơn, huyện Triệu Hải, tỉnh Quảng Trị

Năm 1940, phụ trách Thanh niên Phản đế Huế. Cuối năm 1940, bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ, Buôn Ma Thuột. Tháng 6/1945, về hoạt động tại tỉnh Quảng Trị, huấn luyện dân quân du kích chuẩn bị cướp chính quyền. Cách mạng tháng Tám thành công, ông lần lượt làm Trung đoàn phó kiêm Chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật, Ủy viên Ban Chính trị khu C, Hiệu trưởng Trường Quân chính Lào - Việt Khu 4.

Từ năm 1946 đến 1948 là Phái viên chính trị Liên khu 4, Tỉnh ủy viên tỉnh Thừa Thiên, phụ trách Quân sự, Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến huyện Hương Trà. Tháng 1/1949, ông bị bắt giam vào nhà lao Thừa phù lần thứu 2. Tháng 2/1949, ông vượt ngục về làm Phó ban Tuyên huấn tỉnh Thừa Thiên. Tháng 5/1949 làm Tham mưu phó Mặt trận Bình Trị Thiên. Tháng 2/1950 được cử làm phái viên quân sự của Bộ Quốc phòng sang hoạt động ở Campuchia. Tháng 7/1950 được cử làm Chánh Văn phòng Bộ Chỉ huy Quân sự Campuchia kiêm Chánh Văn phòng Ban Ngoại vụ Nam Bộ, Tham mưu trưởng, Trưởng phòng Tham chính Campuchia. Năm 1954 công tác ở phòng Lào Miên Trung ương rồi Trung đoàn trưởng, Chính ủy Trung đoàn E664. Từ năm 1959 đến năm 1976 là Phó Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang, Ủy viên Khu tự trị Việt Bắc, Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang. Từ năm 1976 đến 1977 là Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên

Khen thưởng: Huy hiệu 40 năm và 50 năm tuổi đảng, Huân chương Độc lập hạng nhì, Huân chương Chiến thắng hạng nhất, Huân chương Chiến công hạng hai, Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng ba, Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng nhất, Huy hiệu Vì tổ chức và xây dựng công đoàn; Huy hiệu Vì sự nghiệp giao thông vận tải. 

Trần Hoài Quang

 

9

Lê Hạnh 1924-2013

Xã Cẩm Chế, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương

Từ tháng 8/1945 đến tháng 5/1947 là Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính xã Cẩm Chế. Từ tháng 5/1947 đến tháng 6/1949 là cán bộ Ban Tuyên huấn, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Hà, phụ trách công tác Tuyên huấn; Cán bộ Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hải Dương. Từ tháng 6/1949 đến tháng 6/1953 là Bí thư Huyện ủy Nam Sách, tỉnh Quảng Yên (nay thuộc Hải Dương). Từ tháng 6/1953 đến tháng 5/1955 là Trưởng ban Địch vận, Trưởng ban Chính trị Tỉnh đội Quảng Yên, Phó Trưởng ban Chính trị liên tỉnh Quảng Yên - Hồng Gai. Từ tháng 8/1955 đến tháng 12/1960 là Phó Trưởng ban Tổ chức Quân khu Việt Bắc. Năm 1962, được phong hàm Thiếu tá Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 4/1962, được điều động về làm Chính trị viên Tỉnh đội Tuyên Quang. Từ tháng 6/1963 đến tháng 1/1976 là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang khoá IV, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Tuyên Quang khoá V, khoá VI. Từ tháng 1/1976 đến tháng 4/1977 là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chính ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Tuyên. Từ tháng 5/1977 đến tháng 2/1979 là Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên. Từ tháng 3/1979 đến tháng 11/1983 là Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy

Khen thưởng: Huân chương Độc lập hạng nhì, Huân chương Kháng chiến hạng nhì, Huân chương Chiến thắng hạng ba, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng ba, Huy hiệu 40, 50, 60, 65 năm tuổi Đảng.

Lê Hạnh

 

10

Nguyễn Văn Đức 1923-2002

Thành phố Hà Nội

Trước và trong Cách mạng Tháng Tám, làm công tác liên lạc ở xã, chính trị viên xã đội, chính trị viên tự vệ liên xã. Từ năm 1948 đến năm 1951 là Trưởng ban Tỉnh báo, Ủy viên Thường vụ huyện ủy kiêm chính trị viên huyện đội Vĩnh Tường; Bí thư Huyện ủy Than Uyên, Yên Bái. Từ năm 1951 đến năm 1953 là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chính trị viên Tỉnh đội Yên Bái. Tháng 4/1951 là Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Yên Bái. Từ tháng 7/1951 đến năm 1953 là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chính trị viên Tỉnh đội Yên Bái. Từ năm 1954 đến năm 1963 là Phó Bí thư, Quyền Bí thư, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái. Từ năm 1963 đến năm 1976 là Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn. Từ năm 1976 đến năm 1979 công tác tại Viện kiểm sát Nhân dân tối cao. Từ năm 1979 đến năm 1986 là Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên. Tháng 9/1986, giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an). Năm 1989 được phong quân hàm Thượng tướng.

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa V, VI. Đại biểu Quốc hội khóa VII. Được tặng thưởng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, Huân chương Độc lập hạng nhất

Nguyễn Văn Đức

 

11

Phạm Đình Dy 1928-2016

Xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa

Từ năm 1951 đến năm 1953 công tác tại Ty giao thông Cao Bằng. Từ tháng 11/1953 đến tháng 8/1954 là cán bộ kỹ thuật công trường cầu đường Thái Nguyên - Lạng Sơn thuộc Bộ Giao Thông Công chính. Từ tháng 11/1956 đến tháng 8/1958 phụ trách bộ phận Kỹ thuật, kế hoạch Khu giao thông Lao- Hà -Yên. Từ tháng 9/1958 đến tháng 12/1960 là Trưởng Ty Giao thông Hà Giang. Từ tháng 2/1963 đến tháng 7/1964 là Phó Ty giao thông Hà Giang. Từ tháng 8/1964 đến tháng 7/1974 là Trưởng Ty Giao thông Hà Giang. Từ tháng 7/1974 đến 3/1976 là Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang. Từ tháng 4/1976 đến năm 1978 là Tỉnh ủy viên, Trưởng Ty Giao thông Hà Tuyên. Từ tháng 7/1977 đến tháng 6/1985 là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Tuyên. Từ tháng 7/1985 đến tháng 10/1986 là Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tuyên. Từ tháng 10/1986 đến 8/1991 ông là Ủy viên ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên.

Khen thưởng: Huân chương Độc lập hạng nhì, Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng nhất, Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng, nhiều Bằng khen của các cấp và bộ, ngành Trung ương.

Phạm Đình Dy

 

12

Lê Tùng 1919

Xã Lê Hồ, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.

 

Ông tham gia hoạt động Việt Minh trước Cách mạng tháng Tám. Tham gia cướp chính quyền ở huyện Kim Bảng.

Sau Cách mạng tháng Tám là Chính trị viên Tỉnh đội cảnh vệ Hà Nam. Năm 1947 là Phó Bí thư huyện ủy kiêm Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Năm 1948 là Bí thư Huyện ủy Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Năm 1950 là Bí thư Huyện ủy Sơn Dương, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Năm 1951 là Tỉnh ủy viên, phụ trách chi sở mậu dịch tỉnh Tuyên Quang. Từ năm 1952 đến 1955 là Tỉnh ủy viên phụ trách công trường sửa chữa cầu đường Ty giao thông. Từ năm 1956 đến 1959 là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang, Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy. Từ 1959 đến 1961 là Phó Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh Tuyên Quang. Từ năm 1961 đến 1963 là Khu ủy viên, Chánh Văn phòng khu ủy tự trị Việt Bắc. Từ năm 1963 đến 1968 là Phó Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang.

Lê Tùng

 

13

Lê Văn Lương 1918

Làng Minh Tảo, huyện Thanh Liêm, Hà Nam

Năm 1939 tham gia cách mạng trong tổ chức Thanh niên Cứu quốc Hà Nội. Từ năm 1942 đến năm 1945 bị thực dân Pháp bắt giam tại Hà Nội và Sơn La. Từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1945 là Chính trị viên chi đội Vệ quốc đoàn tỉnh Bắc Giang. Từ tháng 12/1945 đến tháng 8/1946 tham gia đại đội Nam Tiến ở Nha Trang, trung đoàn Bắc Bắc. Tháng 9/1946 đến tháng 3/1947 là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Tỉnh bộ Việt Minh. Từ tháng 4/1947 đến tháng 5/1948 là Tỉnh đội trưởng dân quân Thái Nguyên. Từ tháng 5/1948 đến tháng 3/1950 là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Tỉnh bộ Việt Minh. Từ tháng 3/1950 đến tháng 3/1951 là Trưởng ban kiểm tra, Trưởng Ban tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang. Từ tháng 3/1951 đến tháng 3/1952 là Phó Văn phòng liên khu ủy Việt Bắc. Từ tháng 3/1953 đến tháng 2/1957 là Ủy viên Đảng đoàn ban nông hội, phụ trách nông dân Liên khu Việt Bắc. Từ tháng 2/1957 đến năm 1959 là Giám đốc tài chính Khu tự trị Việt Bắc. Từ năm 1960 đến tháng 2/1961 là Khu ủy viên, Phó chủ tịch Ủy ban hành chính khu tự trị Việt Bắc. Từ tháng 3/1961 đến tháng 12/1975 là Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang. Từ năm 1976 đến tháng 3/1977 là Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Hà Tuyên.

Được tặng thưởng: Huân chương chiến công Hạng Ba, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và nhiều bằng khen.

Lê Văn Lương

 

14

Hồ Ngọc Thu 1921-2005

Xã Võng La, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

Từ năm 1941 là Bí thư Chi bộ thôn Võng La, xã Võng La. Trong và sau Cách mạng Tháng Tám ông đảm nhận các chức vụ: Bí thư Huyện đoàn Đông Anh; Tỉnh ủy viên tỉnh ủy Vĩnh Phúc; Bí thư Huyện ủy Kim Anh; Bí thư huyện ủy Yên Lãng; Bí thư huyện ủy Đa Phúc. Từ năm 1951 đến năm 1953 là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc. Từ năm 1956 đến năm 1959 là Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phúc. Từ năm 1959 đến năm 1968 là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Vĩnh Phúc. Từ năm 1968 đến năm 1972 là Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban Hành chính tỉnh Vĩnh Phú. Từ năm 1972 đến năm 1976 là Ủy viên thư ký Ủy ban thường vụ Quốc hội. Từ năm 1977 đến năm 1979 là Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Hà Tuyên; Đại biểu Quốc hội các khóa III, IV.

Khen thưởng: Huân chương Lao động hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.

Hồ Ngọc Thu

15

Vũ Tiến 1932-2003

Xã Tự Lập, huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phúc

Vào Đảng Cộng sản Việt Nam 25.6.1950. Tham gia cách mạng từ năm 14 tuổi làm giao thông liên lạc của Tỉnh bộ Việt Minh - Phúc Yên (1946), Thư ký chính trị Tiểu đoàn 39 Bắc Kạn (1948-1949); Cán bộ văn phòng Ban kinh tế Tỉnh ủy Vĩnh Phúc (1949-1959); Kế toán nhà in báo Độc Lập (1950-1951); học tại Trung Quốc (1951-1957); công tác tại ngành giáo dục tỉnh Hà Giang (1957-1962); học tại Trường Đại học sư phạm Hà Nội (1962-1965); Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Hà Giang, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tuyên (1965-1986); Từ năm 1983 là Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Hà Tuyên (1986-1991).

Khen thưởng: Huy chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhì, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.

Vũ Tiến

16

Vũ Tiệp 1936-2014

Xã Hồng Lạc, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang

Tháng 3/1950 tham gia cách mạng. Năm 1960 được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ tháng 7/1958 đến tháng 5/1960 là Bí thư Chi đoàn Thanh niên kiêm Ủy viên Hội đồng nhân dân xã Hồng Lạc, Ủy viên Ban Chấp hành Huyện đoàn Sơn Dương. Từ tháng 6/1960 đến tháng 6/1970 là Kế toán Văn phòng Huyện ủy Sơn Dương; Huyện ủy viên, Phó trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy Sơn Dương. Từ tháng 7/1970 đến tháng 9/1976 là cán bộ Ban Tổ chức Tỉnh ủy Tuyên Quang, Ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà Tuyên. Từ tháng 11/1978 đến tháng 9/1986 là Phó Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà Tuyên. Từ năm 1983 đến năm 1991 lần lượt giữ các chức vụ Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy kiêm Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà Tuyên, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Tuyên Quang. Từ tháng 11/1993 đến tháng 7/1995 là Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy.

Khen thưởng: Huân chương Độc lập hạng nhì, Huân chương Kháng chiến hạng nhì, Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng.

Vũ Tiệp

17

Nguyễn Thu Sơn 1919-1998

Xã Hồng Việt, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng

Năm 1936 tham gia phong trào Phản đế tại Cao Bằng. Năm 1941 sang Trung Quốc làm việc tại nhà in của báo Cờ giải phóng, sau học tại Trường Hoàng Phố. Năm 1944, về nước giữ chức Tiểu đội trưởng tuyên truyền giải phóng quân, tổ chức lực lượng tấn công thắng lợi tại đồn Phay Khắt và Nà Ngần. Trong Cách mạng tháng Tám, tổ chức phát triển du kích tại 3 huyện Chợ Đồn, Bạch Thông, Na Rì. Từ năm 1950 đến 1953 lần lượt giữu các chức vụ Phân khu trưởng Tây Nguyên, Trung đoàn trưởng trung đoàn 210, 215, 216 (liên khu 5); Tỉnh ủy viên, Tỉnh đội trưởng Cao Bằng. Từ năm 1953 đến 1957 là Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Tuyên Quang. Từ năm 1957 đến 1960 là Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Tuyên Quang. Từ năm 1962 đến 1971 là Chánh án Tòa án nhân dân Khu tự trị Việt Bắc

Khen thưởng: Huân chương Chiến thắng hạng nhất, Huân chương Độc lập hạng nhì, Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng

Nguyễn Thu Sơn

18

Triệu Kim Dung 1917-1989

Xã Vĩnh Lộc, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang

Trước Cách mạng tháng Tám, là Bí thư Thanh niên cứu quốc xã Vĩnh Lộc. Sau Cách mạng Tháng Tám, từ năm 1946-1949 là Bí thư Huyện bộ Việt Minh, Thường vụ Huyện ủy Sơn Dương. Từ năm 1949 đến 1951 là Bí thư Huyện ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Na Hang. Từ năm 1951-1953 là Bí thư Huyện ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến huyện Hàm Yên. Từ năm 1953 đến 1955 Phụ trách chi nhánh ngân hàng tỉnh. Từ năm 1956 đến năm 1960 là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Trưởng ty Thương nghiệp. Từ năm 1960 đến 1964 là Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh. Từ năm 1965 đến 1969 là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh. Từ năm 1970 đến 1976 là Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh.

Khen thưởng: Huân chương Kháng chiến hạng nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huy hiệu 40 năm tuổi đảng và nhiều phần thưởng khác.

Triệu Kim Dung

 

19

Viên Thế Nghiêu 1930

Xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang

Từ năm 1946 đến năm 1949 là giáo viên bình dân học vụ, cán bộ y tế nông thôn tiểu khu Quản Bạ, nhân viên Văn phòng Tỉnh ủy Hà Giang, Văn phòng Ban tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Giang. Từ năm 1950 đến 1953 là cán bộ kiểm tra Huyện ủy Đồng Văn, Bí thư Chi bộ xã Niêm Sơn, Sủng Là, Sà Phìn. Năm 1953 đến 1956 tham gia phát động quần chúng giảm tô, cải cách ruộng đất. Từ năm 1956 đến 1958 là Ủy viên chấp hành Tỉnh đoàn thanh niên Lao động Hà Giang. Từ năm 1959 đến 1961 là huyện ủy viên phụ trách tuyên huấn Huyện ủy Đồng Văn. Từ năm 1962 đến 1965 là Bí thư Huyện ủy Vị Xuyên. Từ năm 1965 đến 1966 là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch tỉnh. Từ năm 1967 đến 1969 là Ủy viên thư ký Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang. Từ năm 1969 đến 1970 là Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch tỉnh. Từ năm 1971 đến 1976 là Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh. Từ năm 1977 đến 1985 là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tuyên. Khen thưởng: Huân chương Kháng chiến hạng ba và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Viên Thế Nghiêu

 

20

Quan Ngọc Thuyết 1929-2005

Xã Thượng Lâm, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang

Từ năm 1948 đến 1949 là Phó Bí thư huyện đoàn. Năm 1950 là Chánh Văn phòng Ủy ban Liên Việt huyện Nà Hang. Từ năm 1951 đến 1953 là Chánh Văn phòng Huyện ủy, Bí thư Chi bộ cơ quan Huyện ủy Nà Hang. Từ năm 1953 đến 1955 là huyện ủy viên, phụ trách tổ chức Huyện ủy Nà Hang. Từ năm 1956 đến 1957 cán bộ tổ chức, Ủy viên Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Phó Bí thư Đảng ủy Dân-Chính-Đảng tỉnh Tuyên Quang. Từ năm 1957 đến 1958 là Phó Bí thư, quyền Bí thư Huyện ủy Nà Hang. Từ năm 1959 đến 1963 là Bí thư Huyện ủy, kiêm Chủ tịch Ủy ban Hành chính huyện Nà Hang. Từ năm 1963 đến 1965 là Ủy viên Ủy ban Hành chính tỉnh, Trưởng ty Nông nghiệp. Từ năm 1965 đến 1969 là Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh, Phó Trưởng ban Nông nghiệp tỉnh Tuyên Quang. Từ năm 1969 đến 1979 là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Tuyên Quang, Hà Tuyên. Từ năm 1979 đến năm 1983 là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Giám đốc Công an tỉnh Hà Tuyên. Từ năm 1983 đến 1986 là Phó Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên. Từ năm 1986 đến 1990 là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tuyên

Khen thưởng: Huân chương Độc lập Hang Ba, Huân chương kháng chiến Hạng Ba, Huân chương khansgc hiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.

Quan Ngọc Thuyết

 

21

Hoàng Thừa 1938-1997

Xã Vĩnh Phúc, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.

Từ năm 1954 đến 1958 là cán bộ Văn phòng huyện ủy Bắc Quang. Từ năm 1959 đến 1976 là Bí thư Huyện đoàn Bắc Quang; Bí thư Tỉnh đoàn Hà Giang. Từ năm 1976 đến 1981 là Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Vị Xuyên, Hà Tuyên. Từ năm 1981 đến 1988 là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh kiêm Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch tỉnh. Từ năm 1989 đến 1991 là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tuyên. Từ năm 1991 đến 1997 là Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội Hà Giang khóa IX, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, VIII.

Khen thưởng: Huân chương độc lập hạng Nhì, Huân chương kháng chiến Hạng Nhất, huy chương vì giai cấp công nhân Việt Nam và nhiều bằng khen khác.

Hoàng Thừa

 

VII. Danh sách các tuyến đường, phố đã được đặt tên: 70 tên

STT

Tên đường, phố

Ghi chú

1

Nguyễn Tất Thành

 

2

Tân Trào

 

3

Quang Trung

 

4

17/8

 

5

Kim Bình

Theo QĐ số 48 thuộc xã Tràng Đà

6

Bình Thuận

 

7

Chiến thắng Sông Lô

 

8

Nguyễn Văn Cừ

Theo QĐ số 20 thuộc phường Minh Xuân

9

Phan Thiết

 

10

Nguyễn Văn Linh

 

11

Hà Huy Tập

 

12

Đinh Tiên Hoàng

 

13

Nguyễn Lương Bằng

 

14

Hoàng Quốc Việt

 

15

Trần Đại Nghĩa

 

16

Song Hào

 

17

Nam Cao

 

18

Hà Tuyên

 

19

Trần Nhân Tông

 

20

Hồng Thái

 

21

Tôn Thất Tùng

Theo QĐ số 48 thuộc xã Ỷ La (cũ)

22

Hoa Lư

23

Lê Hồng Phong

 

24

Trần Hưng Đạo

 

25

Xuân Hoà

 

26

Ngô Quyền

 

27

Vũ Mùi

 

28

Lý Thánh Tông

 

29

Nguyễn Đình Chiểu

 

30

Hoàng Thế Cao

 

31

Bà Triệu

 

32

Hai Bà Trưng

 

33

Lê Quý Đôn

 

34

Hoàng Hoa Thám

 

35

Phan Đình Phùng

 

36

Nguyễn Thị Minh Khai

Theo QĐ 48 thuộc P. Phan Thiết

37

Nguyễn Du

 

38

Ngô Gia Khảm

 

39

Trần Nhật Duật

 

40

Hồ Xuân Hương

 

41

Chu Văn An

 

42

Đường Lê Lợi

 

43

Đường Chiến Thắng sông Lô

Đường liên xã, phường

44

Đường phố Lý Thái Tổ

 

45

Đường Trần Phú

 

46

Đường Nguyễn Trãi

 

47

Lý Nam Đế

 

48

Phan Chu Chinh

 

49

Văn Cao

 

50

Xã Tắc

 

51

Phan Bội Châu

 

52

Lương Sơn Tuyết

 

53

Tam Cờ

 

54

Đức Nghĩa

 

55

Nguyễn Bỉnh Khiêm

 

56

Thanh La

 

57

Mạc Đĩnh Chi

 

58

Trường Chinh

 

59

Nguyễn Chí Thanh

 

60

Kim Quan

 

61

Tiên Lũng

 

62

Tân Hà

Theo QĐ 48 thuộc xã Ỷ La

63

Lê Duẩn

64

Minh Thanh

65

Tuệ Tĩnh

66

Phạm Văn Đồng

 

67

Tôn Đức Thắng

 

68

Phú Hưng

 

69

Lê Đại Hành

 

70

Bình Ca

 

Tổng cộng: 297 tên (trong đó tên mới: 227; tên cũ: 70)

 

 

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Quyết định 77/QĐ-UBND năm 2020 về Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang

  • Số hiệu: 77/QĐ-UBND
  • Loại văn bản: Quyết định
  • Ngày ban hành: 19/03/2020
  • Nơi ban hành: Tỉnh Tuyên Quang
  • Người ký: Trần Ngọc Thực
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 19/03/2020
  • Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực
Tải văn bản