Hệ thống pháp luật

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH PHƯỚC

--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 19/NQ-HĐND

Bình Phước, ngày 07 tháng 12 năm 2016

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ VIỆC ĐẶT TÊN QUẢNG TRƯỜNG TỈNH

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
KHÓA IX, KỲ HỌP THỨ BA

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng;

Căn cứ Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT ngày 20 tháng 3 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ;

Xét Tờ trình số 81/TTr-UBND ngày 11 tháng 11 năm 2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh; Báo cáo thẩm tra số 33/BC-HĐND-VHXH ngày 23 tháng 11 năm 2016 của Ban văn hóa - xã hội Hội đồng nhân dân tỉnh và ý kiến thảo luận của các đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp.

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Thông qua việc đặt tên Quảng trường tỉnh là Quảng trường 23 tháng 3 tại thị xã Đồng Xoài (Có bảng mô tả kèm theo).

Điều 2. Giao Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức thực hiện; giao Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, các Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh, các Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh và các đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh giám sát việc thực hiện.

Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Phước khóa IX, kỳ họp thứ ba thông qua ngày 07 tháng 12 năm 2016 và có hiệu lực, kể từ ngày thông qua./.

 


Nơi nhận:
- Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ;
- VPQH, VPCP, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tài chính;
- TU, TTHDND, UBND tỉnh, UBMTTQVN tỉnh;
- Đoàn ĐBQH tỉnh;
- Các Ban của HĐND tỉnh;
- Đại biểu HĐND tỉnh;
- Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh;
- HĐND, UBND các huyện, thị xã;
- LĐVP, Phòng Tổng hợp;
- Lưu: VT.

CHỦ TỊCH




Trần Tuệ Hiền

 

BẢNG MÔ TẢ

QUẢNG TRƯỜNG TỈNH
(Ban hành kèm theo Nghị quyết số 19/NQ-HĐND ngày 07 tháng 12 năm 2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Phước)

1. Tên gọi

Quảng trường 23 tháng 3.

2. Địa điểm

Trung tâm hành chính tỉnh Bình Phước (Quốc lộ 14, phường Tân Phú, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước).

3. Ý nghĩa ngày 23 tháng 3

Tên gọi tỉnh Bình Phước có từ ngày 30 tháng 01 năm 1971, khi Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết sáp nhập hai tỉnh Bình Long, Phước Long thành một đơn vị trực thuộc Trung ương Cục. Bình Phước là một trọng điểm ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy gian khổ và hy sinh anh dũng của nhân dân ta.

Tỉnh Bình Phước có nhiều địa phương được giải phóng trước ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước nhưng tỉnh ta chưa xác định được ngày giải phóng. Ngày 15 tháng 4 năm 2015, Tỉnh ủy đã tổ chức Hội nghị lấy ý kiến của các nhân chứng lịch sử, của các nhà khoa học, các đồng chí nguyên lãnh đạo tỉnh để xác định ngày giải phóng tỉnh Bình Phước. Từ kết quả Hội nghị, ngày 21 tháng 4 năm 2015, tập thể Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã nghiên cứu, thảo luận nghiêm túc với tinh thần khách quan, khoa học, trách nhiệm với lịch sử. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã đi đến thống nhất chọn ngày 23 tháng 3 năm 1975 ngày giải phóng quận An Lộc - trung tâm hành chính của tỉnh Bình Long làm ngày giải phóng tỉnh Bình Phước với các lý do sau đây:

Thứ nhất, về nguyên tắc:

- Nguyên tắc đầu tiên: cần phải được tôn trọng và xem xét theo quan điểm lịch sử cụ thể, có nghĩa là phải xem xét vấn đề gắn với bối cảnh lịch sử ở thời điểm xảy ra sự kiện. Trong trường hợp này, chúng ta phải ghi nhận cơ cấu tổ chức hành chính và vị thế của các địa phương trong tỉnh Bình Phước ngày nay đúng như hiện trạng ở giai đoạn 1972 - 1975, tức là ở từng thời điểm được giải phóng, chỉ có 2 quận Phước Bình và An Lộc là Tỉnh lỵ (trung tâm hành chính) của 2 tỉnh Phước Long và Bình Long. Các quận còn lại như Bù Đăng, Bù Đốp, Lộc Ninh, Chơn Thành, kể cả quận Đôn Luân (thị xã Đồng Xoài ngày nay) đều là quận nhỏ không phải là trung tâm hành chính của tỉnh lúc bấy giờ.

- Nguyên tắc thứ hai: để chọn một ngày có tính chất đại diện cho một chuỗi sự kiện, bao giờ cũng phải lấy ngày diễn ra sự kiện tại trung tâm chính trị - hành chính, nơi đặt bộ máy chính quyền đầu não của đất nước hoặc địa phương.

Nếu tuân thủ các nguyên tắc trên và đối chiếu với tình hình thực tế ở 2 tỉnh Phước Long và Bình Long lúc đó thì chỉ có 2 ngày được chọn là ngày 06 tháng 01 năm 1975 ngày giải phóng Phước Bình, trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh Phước Long và ngày 23 tháng 3 năm 1975 ngày giải phóng An Lộc trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh Bình Long.

Thứ hai: ngoài các nguyên tắc trên, Ban Thường vụ Tỉnh ủy còn căn cứ vào các tiêu chí sau đây để xác định ngày giải phóng của tỉnh Bình Phước:

1. Ngày giải phóng là ngày diễn ra tại trung tâm chính trị - hành chính, nơi đặt bộ máy chính quyền đầu não của đối phương đã sụp đổ toàn diện về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội.

2. Sự kiện này phải nằm trong chuỗi sự kiện của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Như vậy, ngày 06 tháng 01 năm 1975 giải phóng tỉnh Phước Long là “Trận trinh sát chiến lược” rất quan trọng đối với địa phương và với toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nhưng lại không liên quan trực tiếp và không nằm trong chuỗi sự kiện của cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975, vì cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam được chính thức bắt đầu từ ngày 04 tháng 3 năm 1975 với chiến dịch Tây Nguyên, mặt khác lúc đó ngày 06 tháng 01 năm 1975 giải phóng Phước Long thì mới chỉ là giải phóng một nửa tỉnh Bình Phước ngày nay. Do vậy, nếu chọn ngày 06 tháng 01 năm 1975 là ngày giải phóng tỉnh Bình Phước thì chưa đầy đủ ý nghĩa và các tiêu chí, nguyên tắc.

Chính vì vậy, ngày 23 tháng 3 năm 1975 giải phóng An Lộc, trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh Bình Long là sự kiện đã đáp ứng đầy đủ và trọn vẹn các nguyên tắc và tiêu chí để chọn ngày giải phóng tỉnh Bình Phước.

Ngoài ra, về mặt thực tế các tỉnh và thành phố ở miền Nam thường chọn ngày giải phóng của tỉnh là ngày mà địa phương nơi trung tâm tỉnh hiện nay được giải phóng. Nhưng riêng tỉnh Bình Phước chúng ta lại có đặc điểm khác hẳn, vì trung tâm tỉnh hiện nay không phải đặt tại Phước Long hoặc Bình Long, mà tại Đồng Xoài (tức trung tâm quận Đôn Luân trước đây đã được giải phóng vào ngày 26 tháng 12 năm 1974). Vì vậy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy chọn ngày 23 tháng 3 năm 1975 giải phóng An Lộc, trung tâm tỉnh lỵ Bình Long vì lúc này toàn bộ chính quyền đầu não của 2 tỉnh Phước Long - Bình Long đã sụp đổ, hầu hết đất đai, dân số ở các địa phương thuộc tỉnh Bình Phước hiện nay đã được giải phóng. Tóm lại, chọn ngày 23 tháng 3 năm 1975 là ngày giải phóng tỉnh Bình Phước là khách quan, khoa học và đầy đủ ý nghĩa nhất.

Tại lễ kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước do Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh long trọng tổ chức vào ngày 24 tháng 4 năm 2015; Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh chính thức thông báo với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong tỉnh và người Bình Phước ở ngoài tỉnh: Ngày giải phóng tỉnh Bình Phước là ngày 23 tháng 3 năm 1975.

Ngày giải phóng tỉnh Bình Phước 23 tháng 3 năm 1975 mãi mãi là một trang chói lọi nhất của lịch sử tỉnh Bình Phước anh hùng. Đây là ngày để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tỉnh Bình Phước tổ chức các hoạt động kỷ niệm, khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết xây dựng tỉnh Bình Phước ngày càng giàu đẹp, văn minh; tôn vinh, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc tới cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đã hy sinh, đóng góp to lớn cho độc lập, hòa bình và sự phát triển của tỉnh.

4. Mô tả

Quảng trường nằm ở vị trí thuận lợi trong khu trung tâm hành chính tỉnh; phía trước Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh với hệ thống đường giao thông, cơ sở hạ tầng tương đối đồng bộ và nằm trong khu đông dân cư.

Ngày 08 tháng 11 năm 2001, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước đã quyết định xây dựng công trình công viên quảng trường tỉnh Bình Phước và đến quý III/2003 thì hoàn thành các hạng mục cuối cùng và chính thức đưa vào sử dụng Quảng trường tỉnh. Với tổng diện tích chiếm hữu 31.961,07m2, bao gồm các hạng mục như: Đường nội bộ, thảm cỏ, cây xanh, hàng rào bảo vệ, cấp nước, hệ thống chiếu sáng và trang trí (kèm theo Bảng vẽ mặt bằng tổng thể).

5. Sinh hoạt văn hóa liên quan đến quảng trường

Quảng trường tỉnh trong thời gian qua là nơi quảng bá, chia sẻ thông tin kinh tế - chính trị của tỉnh; là cửa ngõ giao thương, nơi xuất phát các hoạt động giao lưu văn hóa; với các cuộc diễu hành, các sự kiện kinh tế - chính trị của tỉnh.

Bên cạnh đó, hàng năm, nhân các sự kiện trọng đại của đất nước và của tỉnh, Quảng trường là nơi thường xuyên tổ chức các loại hình lễ hội như: Lễ hội văn hóa, thể thao, du lịch (Lễ hội Quả Điều vàng Việt Nam - Bình Phước năm 2010); Lễ hội lịch sử, cách mạng (Lễ kỷ niệm 10 năm, 15 năm ngày tái lập tỉnh Bình Phước); Lễ hội dân gian (Lễ hội Giao thừa được tổ chức hàng năm). Qua đó, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân, tạo bề nổi cho bộ mặt của tỉnh Bình Phước. Đồng thời, nơi đây đã trở thành biểu tượng của trung tâm thị xã Đồng Xoài nói riêng và tỉnh Bình Phước nói chung.

6. Kết luận

Với ý nghĩa quan trọng và các giá trị tiêu biểu của quảng trường, Hội đồng nhân dân tỉnh thống nhất đặt tên là Quảng trường 23 tháng 3 (phường Tân Phú, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước).

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Nghị quyết 19/NQ-HĐND năm 2016 về đặt tên Quảng trường tỉnh do tỉnh Bình Phước ban hành

  • Số hiệu: 19/NQ-HĐND
  • Loại văn bản: Nghị quyết
  • Ngày ban hành: 07/12/2016
  • Nơi ban hành: Tỉnh Bình Phước
  • Người ký: Trần Tuệ Hiền
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Dữ liệu đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 07/12/2016
  • Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực
Tải văn bản
Các nội dung liên quan: một lần cho cả thời gian thuêthuê đất trả tiềnnghĩa vụ mời bạn đọc tham khảo thêm trong Điều 85 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai

Điều 85. Trình tự, thủ tục đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất do thay đổi thông tin về người được cấp Giấy chứng nhận; giảm diện tích thửa đất do sạt lở tự nhiên; thay đổi về hạn chế quyền sử dụng đất; thay đổi về nghĩa vụ tài chính; thay đổi về tài sản gắn liền với đất so với nội dung đã đăng ký, cấp Giấy chứng nhận; chuyển từ hình thức thuê đất trả tiền hàng năm sang thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê hoặc từ giao đất không thu tiền sử dụng đất sang hình thức thuê đất hoặc từ thuê đất sang giao đất có thu tiền sử dụng đất

1. Người sử dụng đất nộp 01 bộ hồ sơ đăng ký biến động.

2. Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, nếu phù hợp quy định của pháp luật thì thực hiện các công việc sau đây:

a) Trích đo địa chính thửa đất đối với trường hợp có thay đổi về diện tích thửa đất, tài sản gắn liền với đất hoặc trường hợp đã cấp Giấy chứng nhận nhưng chưa có bản đồ địa chính, chưa trích đo địa chính thửa đất;

b) Trường hợp đăng ký thay đổi diện tích xây dựng, diện tích sử dụng, tầng cao, kết cấu, cấp (hạng) nhà hoặc công trình xây dựng mà không phù hợp với giấy phép xây dựng hoặc không có giấy phép xây dựng đối với trường hợp phải xin phép thì gửi phiếu lấy ý kiến của cơ quan quản lý, cấp phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng;

c) Gửi thông tin địa chính cho cơ quan thuế để xác định và thông báo thu nghĩa vụ tài chính đối với trường hợp phải nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo quy định của pháp luật;

d) Xác nhận thay đổi vào Giấy chứng nhận đã cấp hoặc lập hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với trường hợp phải cấp lại Giấy chứng nhận theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường; thông báo cho người sử dụng đất ký hoặc ký lại hợp đồng thuê đất với cơ quan tài nguyên và môi trường đối với trường hợp phải thuê đất;

đ) Chỉnh lý, cập nhật biến động vào hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu đất đai; trao Giấy chứng nhận cho người được cấp hoặc gửi Ủy ban nhân dân cấp xã để trao đối với trường hợp nộp hồ sơ tại cấp xã.

3. Trường hợp người sử dụng đất có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất kết hợp với đăng ký biến động về các nội dung theo quy định tại Điều này thì thực hiện thủ tục quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này đồng thời với thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất.