Hệ thống pháp luật

BỘ CHÍNH TRỊ
--------

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------

Số: 25-KL/TW

Hà Nội, ngày 17 tháng 10 năm 2003

 

KẾT LUẬN

VỀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH CƠ KHÍ VIỆT NAM

Tại phiên họp ngày 25-9-2003, sau khi nghe Ban cán sự đảng Chính phủ báo cáo về Chiến lược phát triển ngành Cơ khí Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 và định hướng đến năm 2020 và ý kiến của các bộ, ngành liên quan, Bộ Chính trị đã thảo luận và cơ bản nhất trí với Báo cáo chiến lược đã trình, đồng thời nhấn mạnh một số nội dung sau:

1. Ngành Cơ khí Việt Nam được hình thành, phát triển từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đã phát huy tác dụng tích cực trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, đi vào kinh tế thị trường, do đặc điểm của ngành Cơ khí là đầu tư ban đầu lớn chu kỳ sản xuất dài, vòng quay vốn chậm, lợi nhuận thấp hơn các ngành khác, lại đòi hỏi tổ chức chuyên môn hoá, hợp tác hoá cao, trong khi đó chúng ta lại thiếu các chính sách để hỗ trợ phát triển và bảo vệ thị trường trong nước, nên ngành Cơ khí không chuyển đổi kịp, chậm thích ứng được với cơ chế mới, sức cạnh tranh kém, nhiều sản phẩm từng là thế mạnh hàng chục năm trước như máy động lực nhỏ, máy kéo nhỏ, xe đạp, quạt điện.. mất dần thị trường tiêu thụ.

Song những năm gần đây, ngành Cơ khí cả nước đã từng bước đổi mới và nâng cao khả năng thiết kế, năng lực công nghệ và thiết bị, trình độ quản lý và điều hành đã phục hồi, phát triển với tốc độ tăng trưởng từ 21,2%/năm. Nhiều doanh nghiệp cơ khí đã tự vươn lên tìm kiếm nguồn vốn để đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ - thiết bị tiên tiến, đã có thể làm tổng thầu (EPC) chế tạo và cung cấp thiết bị cho một số dự án lớn như nhiệt điện, xi măng, bột giấy; mở rộng mặt hàng nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm kiếm và mở rộng thị trường, từng bước làm chủ được thị trường nội địa (máy động lực cỡ nhỏ, quạt điện, xe đạp, thiết bị điện, đóng tàu biển 6.500 tấn và 12.000 tấn), xuất khẩu được một số mặt hàng chuẩn bị để hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Những kết quả đó của ngành Cơ khí đã góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân và đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

2. Bên cạnh những kết quả đó, ngành Cơ khí còn những hạn chế sau:

Công tác xây dựng, quy hoạch chiến lược phát triển của ngành chưa được quan tâm đúng mức nên định hướng về mục tiêu, phương hướng, ngành nghề mũi nhọn, trọng tâm, trọng điểm, công nghệ chưa được xác định rõ. Phần lớn công nghệ và thiết bị của ngành Cơ khí đều cũ, lạc hậu so với khu vực và thế giới; 95% là các thiết bị lẻ, không đồng bộ, không có chuyển giao công nghệ, phần lớn đã hết khấu hao; trong khi đó, đầu tư cho cơ khí nhỏ bé lại phân tán, dàn trải, ít quan tâm đến đầu tư chiều sâu để đổi mới trang thiết bị và công nghệ nên các sản phẩm cơ khí mẫu mã chưa đa dạng, chất lượng còn thấp, giá thành cao, sức cạnh tranh kém so với các nước trong khu vực.

-Trình độ quản lý và tổ chức sản xuất còn yếu kém, lạc hậu, không theo kịp tiến trình đổi mới nền kinh tế. Tổ chức sản xuất còn khép kín, thiếu chuyên môn hóa, mức độ hợp tác hóa còn thấp, tư tưởng bao cấp, trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước trong nhiều doanh nghiệp còn khá nặng nề. Việc tổ chức sắp xếp lại ngành Cơ khí cả nước đã được đặt ra, nhưng chưa thực hiện tốt; công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này còn phân tán và bị buông lỏng.

- Chưa tích cực tổ chức thị trường trong nước để tạo điều kiện cho sản xuất cơ khí phát triển. Trong khi đó các doanh nghiệp cơ khí chưa thực sự chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.

- Công tác nghiên cứu phục vụ cho phát triển ngành Cơ khí còn yếu. Công tác tư vấn thiết kế, công nghệ, thiết bị chưa đáp ứng yêu cầu đã hạn chế đến khả năng làm chủ việc chế tạo các sản phẩm cơ khí phức tạp.

- Công tác đào tạo chưa được quan tâm đúng mức, số người học nghề và học đại học ngành Cơ khí ngày một giảm sút, dẫn đến tình trạng thiếu thợ giỏi có tay nghề cao.

3. Về định hướng chiến lược phát triển ngành Cơ khí, Bộ Chính trị nhấn mạnh một số nội dung đã được Nghị quyết Đại hội IX xác định, đó là:

- Phải coi cơ khí là một ngành công nghiệp nền tảng, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế, củng cố an ninh, quốc phòng, góp phần nâng cao đời sống nhân dân.

- Phải xây dựng ngành Cơ khí để đủ sức cạnh tranh vươn lên trong cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Khắc phục tình trạng bao cấp trong đầu tư phát triển ngành Cơ khí, các chính sách khuyến khích áp dụng bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tập trung vào các nhóm sản phẩm có lợi thế và phù hợp với lộ trình hội nhập AFTA và WTO.

- Tập trung phát triển ngành Cơ khí một cách có hiệu quả, bền vững trên cơ sở phát huy mọi nguồn lực trong nước kết hợp với nguồn lực bên ngoài. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển ngành Cơ khí một cách có tổ chức, bảo đảm sự phân công và hợp tác thích hợp; đồng thời, tiếp tục đổi mới, sắp xếp, phát triển và củng cố doanh nghiệp nhà nước về cơ khí đủ mạnh để giữ vai trò nòng cốt, là lực lượng chủ lực của ngành.

- Khai thác và phát huy tốt các tiềm năng về tài nguyên, nguồn nhân lực để tập trung phát triển có chọn lọc một số chuyên ngành, sản phẩm cơ khí trọng điểm có lợi thế, có sức cạnh tranh để đáp ứng nhu cầu cơ bản của nền kinh tế và xuất khẩu.

- Bộ Công nghiệp phải tập trung vào thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với toàn ngành Cơ khí, đối với các doanh nghiệp cơ khí thuộc mọi thành phần kinh tế; từng bước tách khỏi chức năng chủ quản đối với doanh nghiệp cơ khí nhà nước, xoá bỏ sự phân biệt cơ khí trung ương, cơ khí địa phương.

- Tăng cường năng lực nghiên cứu, chế tạo, đẩy mạnh việc tiếp thu, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến nhằm đạt trình độ công nghệ trung bình tiên tiến của khu vực, tạo ra nhiều sản phẩm cơ khí có khả năng cạnh tranh cao.

- Phấn đấu đến năm 2010 ngành Cơ khí đáp ứng tối thiểu 45 - 50% nhu cầu sản phẩm cơ khí của cả nước, trong đó xuất khẩu đạt 30% giá trị sản lượng.

4. Về chính sách và biện pháp, cần tập trung vào một số nội dung sau:

- Phát huy tốt nội lực, đồng thời thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển ngành Cơ khí. Tăng cường sự liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp cơ khí trong các ngành kinh tế khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế theo hướng hợp tác hoá, chuyên môn hoá; kết hợp chặt chẽ cơ khí dân sự với cơ khí quốc phòng, ra sức phát huy năng lực công nghiệp cơ khí quốc phòng phục vụ phát triển kinh tế trong thời bình. Khắc phục tình trạng chia cắt, phân tán trong ngành Cơ khí hiện nay.

- Hình thành các tổng công ty hoặc tập đoàn cơ khí mạnh về công nghệ và tài chính, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp cơ khí Nhà nước không cần giữ 100% vốn, kể cả bán cổ phần cho người nước ngoài để tạo vốn đầu tư phát triển và đa dạng hóa nguồn vốn.

- Thực hiện bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và có thời hạn đối với một số sản phẩm cơ khí trong nước. Đồng thời, Nhà nước có cơ chế hỗ trợ về lãi suất và thời hạn vay vốn lưu động cho các nhà sản xuất thiết bị cơ khí, các công trình chế tạo thiết bị toàn bộ cần vốn lớn, chu kỳ sản xuất dài, các dự án sản xuất các sản phẩm cơ khí trọng điểm.

- Tổ chức tốt thị trường trong nước cũng như tạo điều kiện để ngành Cơ khí đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm, góp phần thúc đẩy sản xuất cơ khí phát triển. Nghiên cứu xây dựng, ban hành một số chính sách nhằm khuyến khích, tăng khả năng tiêu thụ các sản phẩm cơ khí trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài.

- Nhà nước ưu tiên đầu tư nâng cấp các cơ sở đào tạo ngành Cơ khí và hỗ trợ kinh phí cử cán bộ, công nhân giỏi đi đào tạo và thực tập tại nước ngoài theo các chương tình, dự án được phê duyệt.

Trên cơ sở kết luận của Bộ Chính trị, Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo việc bổ sung, hoàn chỉnh và tổ chức thực hiện tốt chiến lược phát triển ngành Cơ khí Việt Nam.

 

 

T/M BỘ CHÍNH TRỊ




Phan Diễn

 

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Kết luận 25-KL/TW về Chiến lược phát triển ngành Cơ khí Việt Nam do Bộ Chính trị ban hành

  • Số hiệu: 25-KL/TW
  • Loại văn bản: Văn bản khác
  • Ngày ban hành: 17/10/2003
  • Nơi ban hành: Bộ Chính trị
  • Người ký: Phan Diễn
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 17/10/2003
  • Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định
Tải văn bản