Hệ thống pháp luật

CHÍNH PHỦ CỘNG HOÀ TÁT-GI-KI-XTAN;CHÍNH PHỦ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: Không số

Hà Nội, ngày 19 tháng 1 năm 1999

QUYẾT ĐỊNH

CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC SỐ 56 QĐ/CTN NGÀY 27 THÁNG 3 NĂM 2000 VỀ VIỆC PHÊ CHUẨN HIỆP ƯỚC VỀ NHỮNG CƠ SỞ QUAN HỆ NHÀ NƯỚC VÀ HỢP TÁC GIỮA NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ NƯỚC CỘNG HOÀ TÁT-GI-KI-XTAN

CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Căn cứ vào Điều 103 và Điều 106 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Căn cứ vào Pháp lệnh về ký kết và thực hiện Điều ước quốc tế của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 24 tháng 8 năm 1998;
Xét đề nghị của Chính phủ tại Công văn số 246/CP-QHQT ngày 15 tháng 3 năm 2000;

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1: Phê chuẩn Hiệp ước về những cơ sở quan hệ Nhà nước và hợp tác giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Tát-gi-ki-xtan được ký ngày 19 tháng 01 năm 1999 giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nước Cộng hoà Tát-gi-ki-xtan.

Điều 2: Bộ trưởng Bộ Ngoại giao có trách nhiệm làm thủ tục đối ngoại về việc Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phê chuẩn Hiệp ước này và thông báo cho các cơ quan hữu quan ngày có hiệu lực của Hiệp định.

Điều 3: Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký.

Thủ tướng Chính phủ, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.

HIỆP ƯỚC

VỀ NHỮNG CƠ SỞ QUAN HỆ NHÀ NƯỚC VÀ HỢP TÁC GIỮA NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ NƯỚC CỘNG HOÀ TÁT-GI-KI-XTAN

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Tát-gi-ki-xtan, sau đây gọi là hai Bên,

Tôn trọng các mục tiêu và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và các tiêu chuẩn khác của pháp luật quốc tế đã được thừa nhận,

Xuất phát từ quan điểm cho rằng việc phát triển quan hệ cùng có lợi giữa hai nước đáp ứng những lợi ích cơ bản của nhân dân hai nước, phục vụ sự nghiệp hoà bình và an ninh quốc tế, đặc biệt ở khu vực Châu Á,

Quyết tâm xây dựng quan hệ giữa hai quốc gia trên nguyên tắc bình đẳng, công bằng và hiểu biết lẫn nhau,

Với mục đích thiết lập sự hợp tác song phương cùng có lợi trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, thương mại - kỹ thuật, môi trường, thông tin, nhân đạo, văn hoá, và các lĩnh vực khác, đồng thời củng cố cơ sở pháp lý của sự hợp tác này,

Đã thoả thuận như sau:

Điều 1: Hai bên sẽ phát triển quan hệ hữu nghị, trước sau như một tuân thủ các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng, không dùng vũ lực hoặc đe doạ bằng vũ lực, giải quyết hoà bình các vấn đề tranh chấp, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Điều 2: Hai bên sẽ giải quyết mọi vấn đề tranh chấp có thể nảy sinh giữa hai nước bằng các biện pháp hoà bình phù hợp với những cam kết đã được ghi trong Hiến chương Liên hợp quốc và các văn kiện quốc tế khác.

Hai bên khẳng định an ninh quốc tế là sự nghiệp chung của tất cả các quốc gia và sẽ tiến hành nhất quán sự hợp tác trong lĩnh vực này, tích cực góp phần củng cố hoà bình, an ninh và sự tin cậy trên cơ sở song phương và đa phương.

Hai bên cam kết không tham gia bất kỳ liên minh nào nhằm chống lại Bên kia và không cho phép bất cứ Bên thứ ba nào sử dụng lãnh thổ của mình để tiến hành hoạt động thù địch chống lại bên kia.

Điều 3: Hai bên sẽ tăng cường trao đổi ý kiến và mở rộng hợp tác về các vấn đề Hai bên cùng quan tâm tại các tổ chức và diễn đàn quốc tế.

Điều 4: Nhằm bảo đảm các điều kiện cần thiết cho nhân dân hai nước xích lại gần nhau, Hai bên sẽ thúc đẩy mọi mặt việc mở rộng tiếp xúc giữa các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân hai nước.

Điều 5: Hai bên bảo đảm các điều kiện thuận lợi để phát triển sự hợp tác song phương cùng có lợi trong lĩnh vực kinh tế – thương mại và đầu tư phù hợp với pháp luật của mỗi Bên và các cam kết quốc tế của mình. Hai bên thấy cần thiết ký các Hiệp định tương ứng giữa hai Chính phủ về các lĩnh vực nêu trên.

Điều 6: Hai bên sẽ có những biện pháp nhằm hoàn thiện các phương tiện, hệ thống và các đường liên lạc với nhau, sẽ thúc đẩy việc quá cảnh hàng hoá, phương tiện giao thông và công dân của Bên kia qua lãnh thổ của mình và sẽ ký các Hiệp định riêng trong lĩnh vực này.

Điều 7: Hai bên sẽ thúc đẩy sự hợp tác có hiệu quả trong lĩnh vực khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng để phát triển và áp dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, cũng như để hỗ trợ cho mối quan hệ trực tiếp, những sáng kiến chung của các nhà khoa học, các viện nghiên cứu khoa học, các Liên hiệp khoa học – sản xuất. Hai bên sẽ ký các Hiệp định riêng về vấn đề này.

Điều 8: Hai bên sẽ phát triển quan hệ và hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và sẽ ký các Hiệp định riêng trong lĩnh vực này.

Điều 9: Hai bên coi việc mở rộng và làm sâu sắc các quan hệ văn hoá song phương không chỉ là nhu cầu tự nhiên của nhân dân hai nước, mà còn là điều kiện cần thiết để làm phong phù hơn di sản văn hoá thế giới. Xuất phát từ đó, Hai bên sẽ thúc đẩy việc mở rộng trao đổi giữa các tập thể sáng tác, các nhà hoạt động văn hoá, đồng thời đảm bảo cho công dân của Bên kia tiếp cận rộng rãi với các giá trị văn hoá của mình.

Mỗi bên sẽ góp phần bảo vệ và nghiên cứu di sản văn hoá và sáng tạo của Bên kia.

Điều 10: Xuất phát từ lợi ích và khẳ năng của mình, Hai bên sẽ phát triển sự hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ và cải thiện môi trường, khắc phục hậu quả của các sự cố công nghiệp và thiên tai, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, mở rộng các ngành sản xuất sạch về sinh thái, tiến hành các biện pháp có hiệu quả cao nhằm bảo vệ và khôi phục thiên nhiên ở Châu Á.

Điều 11: Hai bên thừa nhận sự cần thiết phối hợp hoạt động nhằm bảo vệ sức khoẻ nhân dân, phát triển y học và y tế.

Điều 12: Hai bên sẽ hợp tác và trao đổi kinh nghiệm đấu tranh chống tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, khủng bố, chuyên chở trái phép ma tuý, không tặc, đưa trái phép ra nước ngoài người và các giá trị văn hoá, lịch sử, cũng như các dạng tội phạm khác.

Hai bên sẽ hợp tác trong lĩnh vực tương trợ tư pháp và sẽ ký Hiệp định riêng về vấn đề này.

Điều 13: Quy chế pháp lý của sở hữu Nhà nước, cũng như của tài sản của các pháp nhân và công dân Bên này trên lãnh thổ Bên kia sẽ do các tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế và pháp luật của hai bên điều chỉnh.

Mỗi bên bảo đảm việc bảo hộ quyền sở hữu thuộc Bên kia trên lãnh thổ của mình.

Điều 14: Hiệp ước này không nhằm chống lại bất kỳ quốc gia nào và không liên quan đến các quyền và nghĩa vụ của Hai bên theo các Hiệp ước song phương và đa phương với các nước thứ ba.

Điều 15: Hai bên sẽ giải quyết những điều khác nhau trong việc giải thích và thi hành Hiệp ước này theo các thủ tục được quy định ở Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc.

Điều 16: Hiệp ước này có hiệu lực trong thời hạn 10 năm.

Hiệu lực của Hiệp ước sẽ mặc nhiên được gia hạn thêm từng 05 năm một, nếu một trong hai Bên không thông báo cho Bên kia bằng công hàm thông qua con đường ngoại giao ý định chấm dứt hiệu lực của Hiệp ước trước khi Hiệp ước hết hạn 12 tháng.

Hiệp ước này cần được phê chuẩn và sẽ có hiệu lực kể từ ngày trao đổi công hàm phê chuẩn.

Làm tại Hà Nội ngày 19 tháng 01 năm 1999 thành hai bản, mỗi bản bằng tiếng Việt, tiếng Tat-gích và tiếng Nga, tất cả các văn bản đều có giá trị như nhau.

Trong trường hợp có sự khác biệt trong cách giải thích các điều khoản của Hiệp ước này, văn bản bằng tiếng Nga sẽ được dùng làm cơ sở.

Hiệp ước về những cơ sở quan hệ Nhà nước và hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Tát-gi-ki-xtan bắt đầu có hiệu lực từ ngày 21 tháng 9 năm 2000.

E-Ra-Khơ-Mô-Nốp

(Đã ký)

Trần Đức Lương

(Đã ký)

 

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Hiệp ước về những cơ sở quan hệ Nhà nước và hợp tác giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Tát-Gi-Ki-Xtan

  • Số hiệu: Khôngsố
  • Loại văn bản: Điều ước quốc tế
  • Ngày ban hành: 19/01/1999
  • Nơi ban hành: Chính phủ Cộng hoà Tát-Gi-Ki-Xtan, Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
  • Người ký: E-Ra-Khơ-Mô-Nốp, Trần Đức Lương
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 21/09/2000
  • Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực
Tải văn bản