Để sử dụng toàn bộ tiện ích nâng cao của Hệ Thống Pháp Luật vui lòng lựa chọn và đăng ký gói cước.
Nếu bạn là thành viên. Vui lòng ĐĂNG NHẬP để tiếp tục.
BỘ Y TẾ | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 10/1997/BYT-CT | Hà Nội, ngày 24 tháng 9 năm 1997 |
VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG NHIỄM HIV/AIDS
Dịch HIV/AIDS đang tiếp tục xu hướng gia tăng ở nước ta. Từ một trường hợp nhiễm đầu tiên được phát hiện năm 1990, đến 30/8/1997 số người nhiễm HIV được phát hiện lên tới 6.588, trong đó 957 trường hợp đã tiến triển thành AIDS, 505 bệnh nhân AIDS bị tử vong. Diễn biến tình hình dịch ngày càng trở nên phức tạp hơn, 55/61 tỉnh, thành phố phát hiện có người nhiễm HIV. Dịch phát triển từ nhóm có hành vi nguy cơ cao, có nguy cơ lây truyền qua việc thực hiện các dịch vụ y tế và lan truyền sang cộng đồng.
Ngành Y tế trong những năm qua đã có nhiều nỗ lực trong việc phối hợp với các Ban, ngành triển khai các hoạt động phòng chống nhiễm HIV/AIDS. Song hiệu quả của công tác phòng chống nhiễm HIV/AIDS chưa cao, các mặt hoạt động chưa đều, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến quản lý chương trình, chuyên môn kỹ thuật ở các cơ sở y tế cần phải được khắc phục. Nhiều cơ sở y tế chưa thực sự coi trọng công tác an toàn truyền màu, một số trường hợp cấp cứu phải lấy máu của người thân để truyền máu, nhưng không được xét nghiệm HIV, chưa thực hiện đúng các quy định chuyên môn xử lý nhiễm HIV/AIDS, đặc biệt là quy chế về vô khuẩn. Một số cơ sở khám bệnh, chữa bệnh chưa sẵn sàng tiếp nhận, điều trị và chăm sóc bệnh nhân AIDS, một số cán bộ, nhân viên y tế còn có thái độ phân biệt đối xử với bệnh nhân bị nhiễm HIV/AIDS.
Để chấn chỉnh và tăng cường hiệu quả hoạt động phòng nhiễm HIV/AIDS trong toàn ngành Y tế, Bộ trưởng Bộ Y tế chỉ thị cho Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ, Giám đốc Sở Y tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các cơ sở y tế và đơn vị trong toàn ngành triển khai thực hiện ngay các yêu cầu sau đây:
b) Tổ chức đào tạo lại cho cán bộ Y tế ở các tuyến về các quy chế vô và tiệt khuẩn phòng nhiễm HIV/AIDS trong các dịch vụ y tế.
c) Thanh tra Sở Y tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức kiểm tra định kỳ các cơ sở khám chữa bệnh Nhà nước và tư nhân về việc chấp hành các quy định chuyên môn xử lý nhiễm HIV/AIDS.
d) Thủ trưởng đơn vị thường xuyên tổ chức kiểm tra việc thực hiện quy chế này trong đơn vị. Không được để xảy ra lây nhiễm HIV qua việc thực hiện các dịch vụ y tế.
e) Mọi trường hợp để xảy ra lây nhiễm HIV qua truyền máu hoặc dịch vụ y tế ở đơn vị nào thì Thủ trưởng đơn vị đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
2. Tăng cường công tác quản lý, chăm sóc, điều trị và tư vấn cho người nhiễm HIV/AIDS:
a) Bố trí hợp lý các điểm tư vấn và cán bộ tư vấn về HIV/AIDS, bảo đảm những người đến xét nghiệm phải được tư vấn trước và sau xét nghiệm. Đối với trường hợp HIV dương tính cần phải duy trì tư vấn thường xuyên.
b) Tất cả các cơ sở Y tế điều trị đều không được từ chối điều trị bệnh nhân AIDS. Tuỳ theo hoàn cảnh và số lượng bệnh nhân AIDS ở mỗi địa phương việc thu nhận có thể tiến hành tổ chức điều trị bệnh nhân AIDS theo 3 hình thức:
+ Các địa phương có nhiều người bị nhiễm HIV/AIDS, có nhiều trường hợp nặng phải can thiệp về chuyên môn cần bố trí một số phòng bệnh đặt tại khoa truyền nhiễm của bệnh viện đa khoa tỉnh, nếu khoa tuyền nhiễm không đảm nhận hết thì có thể để bệnh nhân có biểu hiện nhiễm trùng cơ hội nằm ở các khoa có liên quan như Da liễu, Lao. Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã có khoa điều trị bệnh nhân AIDS cần được củng cố và bổ sung các điều kiện cần thiết để tiếp nhận và điều trị bệnh nhân AIDS.
+ Đối với các bệnh nhân AIDS nhẹ thì điều trị tại cộng đồng (gia đình) là chủ yếu. Việc quản lý, điều trị, theo dõi bệnh nhân AISD tại gia đình do trung tâm y tế quận, huyện đảm nhận. Trung tâm Y tế quận huyện có trách nhiệm hướng dẫn người bệnh đi điều trị tại bệnh viện tuyến tỉnh hoặc chuyển về trạm y tế xã, phường để chăm sóc, quản lý, điều trị ngoại trú.
+ Điều trị tại cơ sở từ thiện nhân đạo áp dụng đối với những địa phương có khả năng tổ chức cơ sở từ thiện để thu nhận bệnh nhân AIDS không gia đình, không nơi nương tựa, bệnh nhân SIDS có hoàn cảnh khó khăn.
c) Các nguyên tắc khi điều trị bệnh nhân AIDS:
- Điều trị theo hướng dẫn của Bộ Y tế
- Tổ chức phòng riêng cho bệnh nhân AIDS
- Thủ trưởng các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh điều trị bệnh nhân AIDS phải tạo điều kiện về cơ sở vật chất và trang bị phòng hộ lao động cho nhân viên y tế chịu trách nhiệm trực tiếp chăm sóc, điều trị bệnh nhân AIDS. Thực hiện nguyên tắc vô khuẩn chống lây chéo trong bệnh viên.
- Sau khi điều trị nội trú ổn định cho bệnh nhân AIDS, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm Y tế dự phòng, Trung tâm Y tế quận/huyện để thực hiện công tác quản lý, chăm sóc và phối hợp điều trị ngoại trú cho người nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng.
d) Ban phòng chống AIDS của Sở Y tế có trách nhiệm tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ Y tế nhằm nâng cao kỹ năng về chăm sóc, tư vấn nhiễm HIV/AIDS.
a) Trung tâm Y tế dự phòng các tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm triển khai hoạt động giám sát HIV/AIDS phải đảm bảo số mẫu xét nghiệm theo quy định. Những địa phương không thuộc diện giám sát trọng điểm, chỉ xét nghiệm cho các trường hợp tự nguyện, không xét nghiệm tràn lan gây lãng phí sinh phẩm.
b) Sau khi xét nghiệm xác định người nhiễm HIV/AIDS, Sở Y tế hoặc Trung tâm Y tế dự phòng được Sở Y tế uỷ quyền thông báo cho người bị nhiễm, gia đình người bị nhiễm, cán bộ chủ chốt ở địa phương được biết sau khi đã làm tốt công tác tư vấn.
c) Thực hiện nghiêm túc các quy định về báo cáo dịch, báo cáo kết quả giám sát trọng điểm theo mẫu và thời gian đã được thống nhất.
4. Quản lý trang thiết bị, sinh phẩm chương trình phòng chống AIDS
Các trang thiết bị, sinh phẩm chương trình phòng chống AIDS phải có sổ sách ghi chép đầy đủ: ngày nhận, tình trạng các trang thiết bị lúc nhận, người sử dụng trang thiết bị. Phải có lý lịch và bảng hướng dẫn sử dung máy. Các sinh phẩm phải bảo quản lanh, theo dõi chặt chẽ, nếu gần hết hạn phải chuyển ngay về Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh/thành phố để sử dụng vào mục đích giám sát trọng điểm. Danh sách phân bổ trang thiết bị vô trùng và các sinh phẩm đã được sắp xếp theo đề nghị của Sở Y tế, nếu địa phương nào muốn điều chỉnh lại phải báo cáo và được sự đồng ý của Ban AIDS Bộ Y tế. Các trang thiết bị phải được sử dụng đúng mục đích.
5. Củng cố công tác chỉ đạo quản lý chương trình ở các tuyến:
Những địa phương chưa có Ban phòng chống AIDS (kể cả tuyến huyện) phải triển khai thành lập ngay và bố trí cán bộ chuyên trách giúp Lãnh đạo Sở Y tế theo dõi, điều phối các hoạt động phòng chống AIDS ở địa phương theo hướng dẫn của Uỷ ban Quốc gia phòng chống AIDS và Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ.
Nhận được chỉ thị này, Bộ yêu cầu Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ, Giám đốc Sở Y tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thủ trưởng Y tế ngành tổ chức triển khai thực hiện các nội dung hoạt động nói trên và báo cáo kết quả về Bộ Y tế (Vụ Y tế Dự phòng, Vụ Điều trị).
| Đỗ Nguyên Phương (Đã ký)
|
- 1Quyết định 868/2005/QĐ-BYT về 07 biểu mẫu dành cho phòng xét nghiệm HIV do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 2Quyết định 38/QĐ-TTg năm 2008 về việc phối hợp trong phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS qua đường biên giới do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 3Quyết định 3005/QĐ-BYT năm 2014 công bố kết quả hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật về y tế tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2013 do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
Chỉ thị 10/1997/BYT-CT về tăng cường công tác phòng chống nhiễm HIV/AIDS do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- Số hiệu: 10/1997/BYT-CT
- Loại văn bản: Chỉ thị
- Ngày ban hành: 24/09/1997
- Nơi ban hành: Bộ Y tế
- Người ký: Đỗ Nguyên Phương
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: Kiểm tra
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra