Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H TỈNH HÀ GIANG

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 16/2024/HS-ST Ngày 02/5/2024

NHÂN DANH

NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH HÀ GIANG

  • Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

    Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Thanh Bình.

    Các Hội thẩm nhân dân:

    Ông Lê Đình Thi.

    Ông Vũ Hùng Vương.

  • Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Khánh - Thư ký viên của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hà Giang.

  • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Hà Giang tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh Thảo - Kiểm sát viên.

Ngày 02/5/2024, tại điểm cầu trung tâm: Phòng xử án Hình sự Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hà Giang, điểm cầu thành phần: Nhà tạm giữ Công an thành phố H, Toà án nhân dân thành phố H xét xử trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2024/TLST-HS ngày 02/4/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2024/QĐXXST-HS ngày 17/4/2024 đối với bị cáo:

  • NGUYỄN MẠNH T; Tên gọi khác: Không; sinh ngày: 16/10/1970 tại: tỉnh Hà Giang; ĐKHKTT và nơi cư trú: Tổ 04, phường Q, thành phố H, tỉnh Hà Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T và bà: Hứa Thị M (đều đã chết); vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1970; con: Có một con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/12/2023; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố H, tỉnh Hà Giang. Có mặt.

    NỘI DUNG VỤ ÁN:

    Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

    Khoảng 13 giờ 45’ ngày 19/12/2023, tại khu vực tổ 5, phường Q thành phố H, tỉnh Hà Giang, tổ công tác của Đội Cảnh sát hình sự, kinh tế, ma túy Công an thành phố H bắt quả tang bị cáo Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1970, trú tại tổ 14, phường Q thành phố H đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng 0,185 gam (heroine), mục đích để bị cáo sử dụng.

    Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Mạnh T khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 19/12/2023, bị cáo đang ngồi chơi một mình ở Cầu Gạc Đì thuộc tổ 02, phường Q, thành phố H thì nhìn thấy một người đàn ông tự xưng tên Giang mà T đã quen từ trước (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đang đi xe máy một mình nên bị cáo chủ động gọi lại nhờ G chở về nhà tại tổ 04, phường Q, thành phố H, Giang đồng ý. Trên đường về G hỏi bị cáo “Đã chơi chưa”, bị cáo hiểu ý G nói là đã sử dụng ma túy chưa nên bị cáo trả lời “Tao không có tiền”, G nói “Em, nghe thấy vậy bị cáo không nói gì. Khi về đến gần nhà bị cáo, Giang dừng xe rồi đưa cho bị cáo số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), bị cáo nhận tiền và cất vào túi áo rồi đi bộ vào nhà. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, khi bị cáo đang ở nhà thì nhận được điện thoại của G với nội dung “Ra đầu cầu Suối Tiên để lấy hàng”, bị cáo trả lời “” sau đó một mình đi bộ ra khu vực đầu cầu Suối T thuộc tổ 05, phường Q, thành phố H thì gặp một người đàn ông tự xưng tên P (hiệnđang ngồi trên xe mô tô chờ sẵn, bị cáo chủ động đến đưa cho P số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), P nhận tiền và nói “Đợi một tí” rồi điều khiển mô tô đi lên cầu Suối Tiên sang phường P, thành phố

    H. Còn bị cáo đi bộ lên cầu Suối Tiên ngồi đợi, khoảng 10 phút sau P quay lại ném một gói giấy màu trắng xuống đường, P không nói gì mà dùng tay trái chỉ vào gói giấy rơi dưới đất rồi quay xe lại đi về hướng phường P, thành phố H. Bị cáo biết gói giấy P ném xuống đất có chứa ma túy nên đã đi đến nhặt gói giấy P vừa ném xuống, bị cáo mở gói giấy ra thấy bên trong còn một gói giấy màu trắng khác nên tiếp tục mở gói giấy ra kiểm tra thì thấy bên trong có chất bột màu trắng là ma tuý loại Heroine, bị cáo đổ một phần ma túy sang tờ giấy bạc đã chuẩn bị sẵn từ trước rồi gói hai gói ma túy lại. Sau đó bị cáo cất hai gói ma túy vào trong túi áo khoác phía trước bên trái đang mặc thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang, quá trình bắt quả tang bị cáo đã làm rơi một gói ma túy xuống đất. Cơ quan điều tra đã T hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng liên quan và đưa bị cáo về trụ sở Công an để làm việc.

    Tại Cơ quan điều tra, bị cáo T đã thừa nhận hai gói ma túy bị thu giữ đều là của bị cáo, kết quả cân tịnh có khối lượng là 0,185 gam (không phẩy một trăm tám.

    Kết quả trưng cầu giám định: Ngày 20/12/2023, Cơ quan CSĐT Công an thành phố H tỉnh Hà Giang ra Quyết định trưng cầu giám định số: 124/QĐ- ĐCSHS-KTMT, trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang giám định đối với 02 (hai) mẫu gửi giám định, ký hiệu A1, A2 thu giữ liên quan đến vụ án Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 19/12/2023 tại tổ 05, phường Q, thành phố H, tỉnh Hà Giang.

    Tại bản Kết luận giám định, số 12/KL-KTHS, ngày 24/12/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang, kết luận: 02 (hai) mẫu gửi giám định, ký hiệu A1, A2 đều là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,185 gam (Không phẩyHeroine có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Nghị định

    57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

    * Vật chứng thu giữ:

    Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H, tỉnh Hà Giang đã thu giữ những vật chứng gồm:

  • 01 (một) P bì màu trắng, niêm P kín, mặt trước P bì ghi: “Mẫu hoàn lại trả, mặt sau P bì có hai dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang và các chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia niêm P.

  • 01 (một) P bì màu trắng, niêm P kín, mặt trước P bì ghi: “Vỏ bao gói saumặt sau P bì có hai dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang và các chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia niêm P.

  • 01 (một) P bì màu trắng, niêm P kín, mặt trước P bì ghi: “VỎ BAO GÓI VÀ P, mặt sau P bì có ba dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H, tỉnh Hà giang và các chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia niêm P.

  • 01 (một) điện thoại di động, vỏ màu đen (đã qua sử dụng).

    Tại Cáo trạng số 14/CT-VKS-TPHG ngày 02/4/2024, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh T về tội “Tàng trữ trái phép chất matheo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

    Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận giám định, lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, các vật chứng thu giữ và tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

    Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H tham gia phiên tòa, sau khi phân tích đánh chứng cứ, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử:

    • Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh T phạm tội "Tàng trữ trái.

    • Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh T từ 14 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 19/12/2023.

    • Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

    • Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý theo quy định của pháp luật.

    • Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Mạnh T không có ý kiến đối đáp lại với luận tội và quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H.

Bị cáo thực hiện quyền nói lời sau cùng: Bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình và xin được hưởng khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều được thực hiện theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, không có khiếu nại, tố cáo, do đó hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều hợp pháp.

[2]. Căn cứ định tội và định khung hình phạt đối với bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định và các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 13 giờ 45 phút ngày 19/12/2023, tại khu vực đường Nguyễn Văn Linh, thuộc tổ 05, phường Q, thành phố H, tỉnh Hà Giang, bị cáo Nguyễn Mạnh T, đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,185 gam (KhôngHeroine với mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Mạnh T đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

[3]. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, đề nghị mức hình phạt như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Ma túy là loại độc dược có tính gây nghiện cao nên Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, chiếm đoạt, sử dụng các chất ma túy. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi, hoàn toàn nhận thức được tính nguy hiểm của ma túy và tác hại của nó làm cho người sử dụng bị lệ thuộc, bị suy giảm về sức khỏe, trí tuệ, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế của bản thân, nghiện ma túy còn làm nguyên nhân chính làm phát sinh nhiều tội phạm khác. Qua đó thể hiện việc bị cáo phạm tội với lỗi cố ý,

xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo cần thiết phải xử phạt bị cáo bằng mức án phù hợp với tính chất phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe và phòng ngừa tội phạm chung nhưng cũng cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ khi lượng hình để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5]. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6]. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Mạnh T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, ngoài ra bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Văn Tứ đã được thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba, là tình tiết giảm nhẹ thân nhân người phạm tội có công với Cách mạng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến. Tuy nhiên theo tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thể hiện bị cáo là lao động tự do và nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định. Vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8]. Biện pháp tư pháp và về xử lý vật chứng: 01 (một) P bì màu trắng, niêm P kín, mặt trước P bì ghi: “Mẫu hoàn lại trả sau giám định, ký hiệu A1, A2”, mặt sau P bì có hai dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang và các chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia niêm P; 01 (một) P bì màu trắng, niêm P kín, mặt trước P bì ghi: “Vỏ bao gói sau giám định” mặt sau P bì có hai dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang và các chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia niêm P; 01 (một) P bì màu trắng, niêm P kín, mặt trước P bì ghi: “VỎ BAO GÓI VÀ P BÌ NIÊM P CŨ”, mặt sau P bì có ba dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H, tỉnh Hà giang Hà Giang và các chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia niêm P. Xét thấy, đây là vật chứng Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và đồ vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[9]. Đối với 01 (một) điện thoại di động, vỏ màu đen, có chữ Massel phần bàn phím bị bong, phần nắp nhựa phía sau bị vỡ, không bật nguồn, không kiểm tra máy móc bên trong (đã qua sử dụng). Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai đã sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

[10]. Ngày 15/3/2024 Công an thành phố H đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 00519/QĐ-XPHC đối với Nguyễn Mạnh T về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy, quy định tại khoản 1 Điều 23 Nghị định 144/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ bằng hình thức phạt cảnh cáo là phù hợp nên chấp nhận.

[11]. Về nguồn gốc số ma túy (Heroine) tàng trữ, quá trình điều tra bị cáo khai nhận được một người đàn ông tên P là bạn của Giang (không biết địa chỉ cụ thể) đi mua hộ với giá 300.000đ vào ngày 19/12/2023. Bị cáo T không quen biết người đàn ông tên P này, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch. Do đó, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[12]. Đối với người đàn ông tự xưng tên Giang làm nghề thuyền chài trên Sông Lô thuộc trên địa phận thành phố H, đã cho bị cáo T số tiền 300.000 đ và giới thiệu người đàn ông tên P để T nhờ đi mua ma túy (Hiện chưa xác định được nhân. Do đó, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật

[13]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 48, Điều 50 Bộ luật Hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106,

Điều 136, Điều 331, Điều 333, Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

  1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

  2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh T 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 19/12/2023.

  3. Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

    • Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) P bì màu trắng, niêm P kín, mặt trước P bì ghi: “Mẫu hoàn lại trả sau giám định, ký hiệu A1, A2”, mặt sau P bì có hai dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang và các chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia niêm P; 01 (một) P bì màu trắng, niêm P kín, mặt trước P bì ghi: “Vỏ bao gói sau giám định” mặt sau P bì có hai dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang và các chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia niêm P; 01 (một) P bì màu trắng, niêm P kín, mặt trước P bì ghi: “VỎ BAO, mặt sau P bì có ba dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H, tỉnh Hà giang và các chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia niêm P.

    • Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động, vỏ màu đen, có chữ Massel phần bàn phím bị bong, phần nắp nhựa phía sau bị vỡ, không bật nguồn, không kiểm tra máy móc bên trong (đã qua sử dụng).

      Vật chứng được bàn giao theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố H và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H ngày 03/4/2024.

  4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Mạnh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

  5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm báo cho bị cáo có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

  • TAND tỉnh Hà Giang;

  • VKSND tỉnh Hà Giang;

  • Sở Tư pháp tỉnh Hà Giang;

  • VKSND TP H;

  • Công an TP H;

  • Nhà Tạm giữ CA TP H;

  • Chi cục THADS TP H;

  • Bị cáo;

  • Lưu HSHS - BP.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Lê Thị Thanh Bình

CÁC HỘI THẨM NHÂN DÂN

Lê Đình Thi Vũ Hùng Vƣơng

THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Lê Thị Thanh Bình

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 16/2024/HS-ST ngày 02/05/2024 của TAND TP. Hà Giang, tỉnh Hà Giang

  • Số bản án: 16/2024/HS-ST
  • Quan hệ pháp luật:
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 02/05/2024
  • Loại vụ/việc: Hình sự
  • Tòa án xét xử: TAND TP. Hà Giang, tỉnh Hà Giang
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: BC T
Tải về bản án