- 1Nghị định 111-NĐ năm 1957 Quy định cụ thể những khoản trợ cấp cho quân nhân phục viên do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành
- 2Nghị định 500-NĐ/LB năm 1958 quy định thể lệ trợ cấp dài hạn cho những quân nhân tình nguyện được phục viên vì ốm yếu mà không có khả năng lao động do Bộ trưởng Bộ Cứu tế Xã hội- Bộ trưởng Bộ Tài chính- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành.
BỘ NỘI VỤ | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 81-NV/DC | Hà Nội, ngày 13 tháng 12 năm 1958 |
Kính gửi: Ủy ban Hành chính các Khu, thành phố, tỉnh và khu vực Vĩnh Linh
Để thi hành Nghị định số 523-TTg ngày 06 tháng 12 năm 1958 của Thủ tướng phủ về việc trợ cấp dài hạn cho quân nhân tình nguyện đã phục viên bị bệnh kinh niên tái phát ốm, yếu không còn khả năng lao động, Bộ nêu một số điểm để các địa phương căn cứ vào đó mà tiến hành.
I. - MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA VIỆC TRỢ CẤP
Việc trợ cấp cho quân nhân phục viên là biểu hiện sự quan tâm săn sóc của Đảng và Chính phủ đối với anh chị em, những người đã góp phần to lớn trong sự nghiệp giải phóng đất nước. Nó thiết thực giúp đỡ cho quân nhân phục viên ở nhà kết hợp với hoàn cảnh gia đình có điều kiện chữa bệnh và giảm bớt khó khăn cho gia đình hoặc tăng một phần sinh hoạt để giải quyết căn bản hoặc giải quyết dần dần tình trạng bệnh tật để có thể tiếp tục lao động sản xuất.
Trợ cấp cho quân nhân phục viên là một công tác chính trị: nó ổn định một phần tư tưởng cho bản thân anh em và cho cả gia đình; nó có ảnh hưởng rất tốt trong việc xây dựng lực lượng hậu bị, củng cố quốc phòng.
Trợ cấp cho quân nhân phục viên cũng là một công tác xã hội trong việc thanh toán dần vết tích chiến tranh còn sót lại.
1) Cần quan niệm rõ vấn đề trợ cấp là một sự cố gắng của Đảng và Chính phủ trong lúc kinh tế nước nhà còn đang gặp nhiều khó khăn. Nó chỉ mới giải quyết được một mức nào cho quân nhân phục viên chứ chưa phải giải quyết thích đáng được mức nhu cầu nói chung. Vì vậy khi xét trợ cấp cần phải tránh tình trạng thành kiến với anh em mà làm qua loa, đại khái để khỏi hao tổn công quỹ hoặc làm tràn lan để ban ơn, xoa dịu, thỏa mãn anh em. Trường hợp đáng trợ cấp thì trợ cấp; trường hợp không đáng trợ cấp thì cương quyết không trợ cấp, nhưng phải kiên trì giải thích để cho quân nhân phục viên khỏi thắc mắc.
2) Khi khám xét trợ cấp, Hội đồng giám định y khoa cần phải đông đủ để trao đổi, bàn bạc tập thể chu đáo, hội chuẩn phân loại cho đúng; nhưng muốn cho được hợp lý, đảm bảo đúng mức quyền lợi cho quân nhân phục viên, điều căn bản là phải xét bệnh kinh niên tái phát ốm, yếu, không còn khả năng lao động và triển vọng tương lai của sức khỏe mà đề nghị trợ cấp.
3) Bệnh kinh niên là những bệnh lâu năm đã điều trị tại bệnh viện hay khu an điều dưỡng mà chưa khỏi hẳn nên khi thời tiết thay đổi hay sinh hoạt sút kém bị tái phát. Do đó làm cho con người ốm, yếu, suy nhược toàn thân, mất hẳn hoặc một phần lớn sức khỏe lao động sản xuất. Cũng có người vì bị bệnh thần kinh rối loạn mà không thể lao động được. Cũng có người bị bệnh kinh niên nhẹ nhưng vì bị trực tiếp ảnh hưởng chiến tranh lại thêm tuổi nhiều nên cũng mất hoàn toàn hoặc một phần lớn sức khỏe để lao động.
4) Hội đồng giám định y khoa phải quan hệ chặt chẽ với Ủy ban Hành chính khu, thành phố, tỉnh và khu vực, Hội đồng giám định y khoa có quyền khám xét, chứng nhận và đề nghị cho quân nhân phục viên được hưởng trợ cấp mất sức lao động dài hạn sau khi có ý kiến nhận xét sơ bộ về khả năng lao động của Ủy ban Hành chính xã hay khu phố, Ủy ban Hành chính khu, thành phố, tỉnh, khu vực căn cứ vào tình hình thực tế mà quyết định sau khi có ý kiến của Hội đồng giám định y khoa.
III. – ĐỐI TƯỢNG TRỢ CẤP VÀ PHẠM VI TRỢ CẤP
Chỉ trợ cấp cho những quân nhân tình nguyện đã phục viên từ ngày hòa bình lập lại (20-07-1954) hiện bị bệnh kinh niên ốm yếu, mất sức lao động, cụ thể là:
1) Những quân nhân tình nguyện đã phục viên từ ngày 20-07-1954 đến ngày 01-07-1957 hiện bị bệnh kinh niên tái phát ốm, yếu không còn khả năng lao động.
2) Những quân nhân tình nguyện đã phục viên từ ngày 01-07-1957, đã được hưởng trợ cấp theo Nghị định số 111-NĐ ngày 22-06-1957 của Bộ Quốc phòng nhưng đến nay đã hết hạn và hiện bị bệnh kinh niên tái phát không còn khả năng lao động.
3) Những quân nhân tình nguyện trước chuyển ngành mà nay đã phục viên vì lý do bệnh kinh niên tái phát ốm yếu không lao động sản xuất được.
Phạm vi trợ cấp này chỉ áp dụng cho những quân nhân tình nguyện đã phục viên bị bệnh kinh niên ốm yếu không còn khả năng lao động từ 20-07-1954 đến ngày 11-11-1958 ban hành Nghị định số 500-NĐ/LB quy định trợ cấp dài hạn cho quân nhân tình nguyện ốm, yếu, mất sức lao động, sắp phục viên.
IV. TRỢ CẤP – TÍNH TRỢ CẤP – LĨNH TRỢ CẤP
Như trên đã nói, trợ cấp sức khỏe là nhằm mục đích giúp đỡ anh chị em kết hợp với hoàn cảnh gia đình có điều kiện chữa bệnh và giảm bớt khó khăn cho gia đình hoặc tăng thêm phần sinh hoạt nên mức ấn định tối đa là 12.000 đồng mỗi người một tháng, dành cho anh chị em nào hoàn toàn mất sức lao động và ít nhất là 8.000 đồng cho người bị mất một phần sức khỏe. Mức trợ cấp này là căn cứ vào tình hình sinh hoạt bình thường hiện nay.
Sau 2 năm, tính từ ngày Ủy ban Hành chính khu, thành phố, tỉnh, khu vực quyết định, những quân nhân phục viên được hưởng trợ cấp này đều được Hội đồng giám định y khoa khám lại sức khỏe; nếu được chứng nhận sức khỏe đã bình phục, đủ sức lao động để tự sinh sống thì sẽ chấm dứt trợ cấp. Ngược lại, nếu chưa đủ khả năng lao động để tự sống thì vẫn tiếp tục được hưởng trợ cấp 2 năm nữa; sau đó cứ 2 năm khám lại sức khỏe một lần như đã quy định trên.
Quân nhân phục viên được trợ cấp dài hạn thì lĩnh bằng tiền mặt.
Tiền trợ cấp được lĩnh mỗi quý (3 tháng) một lần bắt đầu từ ngày 01 tháng đầu quý.
Khi đến lĩnh tiền, quân nhân phục viên phải mang theo các giấy tờ như quyết định, lý lịch quân nhân phục viên, giấy lĩnh tiền trợ cấp.
Trường hợp quân nhân bị đau yếu không đi lĩnh được có thể viết giấy ủy nhiệm cho cha mẹ, vợ con, anh chị em ruột đi lĩnh thay, có chứng thực của Ủy ban Hành chính xã hay khu phố.
Quân nhân phục viên được hưởng trợ cấp dài hạn nếu vì bệnh tái phát thì được bệnh viện thu nhận để điều trị. Khi nằm bệnh viện, quân nhân phục viên vẫn được hưởng trợ cấp nếu còn thời hạn. Tiền viện phí, tiền bồi dưỡng nếu có, thì áp dụng theo tinh thần thông tư số 4697-BYT-CB ngày 09-07-1958 và số 5996-BYT-CB ngày 23-08-1958 của Bộ Y tế.
Trường hợp quân nhân phục viên hiện đương nằm điều trị tại bệnh viện thì được tiếp tục điều trị; khi ra viện, nếu thấy cần thiết, Hội đồng giám định y khoa sẽ khám và đề nghị, Ủy ban Hành chính khu, thành phố, tỉnh và khu vực xét và quyết định.
Những quân nhân phục viên được hưởng trợ cấp dài hạn, nếu hiện nay không có gia đình hoặc nơi nương tựa thì được nghiên cứu thu nhận vào trại điều dưỡng của Bộ Cứu tế xã hội. Khi vào trại thì không được hưởng trường hợp dài hạn nữa mà hưởng theo chế độ hiện hành của trại do trại đài thọ. Khi ra trại về địa phương, nếu còn thời hạn, vẫn được tiếp tục trợ cấp.
Để thi hành việc trợ cấp sức khỏe được tốt cho quân nhân phục viên nghĩa là đảm bảo đúng mức quyền lợi của anh chị em, không tràn lan cũng không hẹp hòi, tránh suy bì, thắc mắc lung tung gây sự xích mích giữa gia đình và giữa anh em với nhau, thêm khó khăn của địa phương, cần phải:
a) Đối với cán bộ phụ trách: nghiên cứu kỹ Nghị định, thông tư, nắm vững mục đích, yêu cầu, đối tượng phạm vi trợ cấp, quan hệ chặt chẽ với Y tế đặt kế hoạch tỉ mỉ và hướng dẫn cụ thể Ủy ban Hành chính cơ sở.
b) Đối với Ủy ban Hành chính xã, khu phố, thị trấn: nắm vững mục đích yêu cầu, đối tượng phạm vi trợ cấp; thông tư tưởng, không ngại khó, không thành kiến hoặc hẹp hòi với anh em hoặc ban ơn nhằm rũ trách nhiệm, giảm khó khăn cho địa phương.
c) Đối với quân nhân phục viên: ngoài mục đích yêu cầu, giáo dục cho anh chị em thấy sự quan tâm săn sóc tận tình và lòng biến ơn của Đảng, Chính phủ và của toàn dân, nhưng cũng làm cho anh em thấy được khả năng kinh tế nước nhà hiện nay còn eo hẹp mà không đòi hỏi quá đáng.
Trên đây Bộ nêu những điểm chính; công việc khám xét, phân loại, quyết định trợ cấp sẽ gặp nhiều khó khăn phức tạp. Bộ đề nghị các Ủy ban Hành chính khu, thành phố, khu vực, nghiên cứu, phối hợp chặt chẽ với Y tế, đặt kế hoạch cụ thể nhất là đối với Ủy ban Hành chính xã, thị trấn, khu phố và tiến hành nhanh nhưng thận trọng, chu đáo. Gặp điều gì trở ngại cần báo cáo cho Bộ biết kịp thời.
K.T. BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ |
- 1Nghị định 523-TTg năm 1958 về chế độ trợ cấp dài hạn cho quân nhân tình nguyện đã phục viên từ ngày hòa bình lập lại đến nay bị bệnh kinh niên tái phát ốm, yếu không còn khả năng lao động do Thủ Tướng Chính Phủ ban hành.
- 2Nghị định 111-NĐ năm 1957 Quy định cụ thể những khoản trợ cấp cho quân nhân phục viên do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành
- 3Thông tư 3346-BYT/CB năm 1959 về tiêu chuẩn bệnh tật trong việc xét trợ cấp cho quân nhân phục viên do Bộ Y Tế ban hành.
- 4Nghị định 500-NĐ/LB năm 1958 quy định thể lệ trợ cấp dài hạn cho những quân nhân tình nguyện được phục viên vì ốm yếu mà không có khả năng lao động do Bộ trưởng Bộ Cứu tế Xã hội- Bộ trưởng Bộ Tài chính- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành.
- 5Thông tư 58-NV năm 1961 hướng dẫn trợ cấp đợt thứ hai cho quân nhân phục viên mất sức lao động do Bộ Nội Vụ ban hành.
Thông tư 81-NV/DC năm 1958 hướng dẫn Nghị định 523-TTg về trường hợp dài hạn cho quân nhân tình nguyện đã phục viên bị bệnh kinh niên tái phát ốm, yếu không còn khả năng lao động do Bộ Nội Vụ ban hành
- Số hiệu: 81-NV/DC
- Loại văn bản: Thông tư
- Ngày ban hành: 13/12/1958
- Nơi ban hành: Bộ Nội vụ
- Người ký: Tô Quang Đẩu
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 1
- Ngày hiệu lực: 28/12/1958
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định