THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 71-TTG/CN | Hà Nội, ngày 30 tháng 07 năm 1968 |
QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ ĐỐI VỚI CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC ĐƯỢC ĐIỀU ĐỘNG VÀO QUÂN ĐỘI
Từ năm 1965 đến nay, trước tình hình đế quốc Mỹ tăng cường chiến tranh xâm lược miền Nam và đẩy mạnh cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, Chính phủ đã điều động công nhân, viên chức, động viên xã viên hợp tác xã nông nghiệp, thủ công nghiệp vào quân đội nhằm tăng cường lực lượng quốc phòng. Do đó, trong số công nhân, viên chức được điều động vào quân đội, ngoài những người trong lứa tuổi tuyển binh theo chế độ nghĩa vụ quân sự thời bình, còn có quân nhân tình nguyện chuyển ngành, công nhân, viên chức quá tuổi chế độ nghĩa vụ quân sự đang công tác ở các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước, các cơ quan đảng, đoàn thể từ cấp huyện trở lên.
Để đảm bảo yêu cầu điều động công nhân, viên chức vào quân đội trực tiếp chiến đấu với quân thù, đồng thời thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với những người đã làm tròn nhiệm vụ ở tiền tuyến về, căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp thường vụ Hội đồng Chính phủ ngày 24-4-1968, Thủ tướng Chính phủ quy định chế độ đối với công nhân, viên chức được điều động vào quân đội như sau:
I. PHƯƠNG CHÂM, NGUYÊN TẮC CHUNG
Việc giải quyết toàn bộ chế độ đối với công nhân, viên chức được điều động vào quân đội phải quán triệt các phương châm, nguyên tắc sau đây:
1. Phương châm:
a) Công nhân, viên chức được điều động vào quân đội để trực tiếp chiến đấu với quân thù, sau khi hoàn thành nhiệm vụ vinh quang trở về phải được đãi ngộ về tinh thần cũng như về vật chất một cách xứng đáng;
b) Sự đãi ngộ ấy phải phù hợp với khả năng của Nhà nước và cân đối trong tương quan với các lao động khác.
2. Nguyên tắc chung:
a) Công nhân, viên chức được giải quyết các quyền lợi theo chế độ hiện hành để sắp xếp, chuẩn bị trước khi nhập ngũ;
b) Công nhân, viên chức được điều động vào quân đội, sau khi ra khỏi quân đội, sẽ được sắp xếp công tác một cách thỏa đáng.
1. Lương: được cơ quan, xí nghiệp phát một kỳ lương (nửa tháng) theo lương chức vụ, hoặc cấp bậc, và các khoản phụ cấp thường xuyên như phụ cấp khu vực, phụ cấp kỹ thuật v .v… và trợ cấp con (nếu có).
Từ kỳ lương sau trở đi, đơn vị quân đội sẽ trả lương, hoặc sinh hoạt phí theo chế độ ở quân đội.
2. Được cấp thêm 5 ngày lương (đối với những người có thời gian công tác dưới 1 năm), 10 ngày lương (đối với những người có thời gian công tác từ 1 năm trở lên) kể cả phụ cấp khu vực (nếu có).
3. Những người chưa nghỉ hàng năm được cơ quan, xí nghiệp bố trí cho nghỉ, nếu phải đi gấp không thể bố trí nghỉ được thì cũng không thanh toán bằng tiền số ngày phép năm.
Trường hợp công nhân, viên chức đã nghỉ hàng năm rồi, nhưng hoàn cảnh cho phép thì cơ quan, xí nghiệp cho nghỉ 3 ngày để chuẩn bị nhập ngũ, nếu có điều kiện về thăm gia đình thì cho nghỉ 5 ngày, không kể những ngày đi đường. Những ngày nghỉ và đi đường được trả lương, các khoản phụ cấp thường xuyên (nếu có) và được thanh thanh toán tiền tàu xe.
4. Khi nhập ngũ, được cấp tiền tàu xe, phụ cấp đi đường từ cơ quan, xí nghiệp đến địa điểm tập kết của quân đội (nếu có).
1. Khi nhập ngũ, tùy theo nhu cầu của quân đội và trình độ đức tài, mỗi cán bộ, viên chức sẽ được sắp xếp công tác và hưởng các chế độ thống nhất của quân đội theo chức vụ được giao.
2. Chính sách đối với gia đình công nhân, viên chức được điều động vào quân đội, thi hành thống nhất theo thông tư số 227-CP ngày 15-11-1965 của Hội đồng Chính phủ.
Công nhân, viên chức được điều động vào quân đội, khi xuất ngũ có lý do chính đáng thì được hưởng các chế độ cụ thể sau đây:
1. Được trở về cơ quan, xí nghiệp cũ để tiếp tục công tác; nếu cơ quan, xí nghiệp cũ đã giải thể hoặc đủ người rồi thì cơ quan chủ quản của cơ quan, xí nghiệp ấy (Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các Tổng cục trực thuộc Hội đồng Chính phủ …hoặc Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) có trách nhiệm sắp xếp công tác cho anh, chị em.
Trường hợp gặp khó khăn, không thể sắp xếp công tác được thì tùy theo số công nhân, viên chức đó, trước đây thuộc khu vực sản xuất hay là khu vực hành chính, sự nghiệp mà Bộ Lao động hoặc Bộ Nội vụ bố trí công tác. Trong lúc chờ đợi, các cơ quan cũ vẫn tiếp tục quản lý; nếu cơ quan cũ đã giải thể mà không có cơ quan chủ quản quản lý thì đơn vị quân đội tạm thời quản lý, nhưng không được kéo dài quá 4 tháng; trong thời gian ấy các cơ quan có trách nhiệm nói trên phải sắp xếp công tác cho anh, chị em.
Khi sắp xếp công tác, các ngành, các cấp phải cố gắng sắp xếp đúng ngành nghề cũ của công nhân, viên chức. Trường hợp không thể sắp xếp đúng ngành nghề cũ được thì phải có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo tại chức hoặc tập trung để anh chị em mau chóng có khả năng đảm đương công tác mới.
Đối với công nhân, viên chức là sinh viên, học sinh tốt nghiệp các trường đại học, trung, sơ học chuyên nghiệp, trường công nhân, đang ở thời kỳ tập sự, được điều động vào quân đội, khi xuất ngũ sẽ được tuyển dụng chính thức. Trường hợp cơ quan, xí nghiệp xét thấy về nghiệp vụ, kỹ thuật của người công nhân, viên chức ấy còn mặt nào yếu thì phải có kế hoạch bồi dưỡng thêm.
Trước khi cho công nhân, viên chức xuất ngũ, các cấp trong quân đội cần báo trước cho các cơ quan, xí nghiệp liên quan biết để chuẩn bị tiếp nhận và sắp xếp công tác, tránh tình trạng để anh, chị em chờ đợi lâu ngày.
2. Việc sắp xếp lương cần bảo đảm quan hệ với công nhân, viên chức cùng đơn vị công tác, đồng thời cần chú ý thích đáng đến thành tích chiến đấu và thời gian của mỗi người. Cụ thể là:
a) Đối với công nhân, viên chức có thời gian tại ngũ dưới 3 năm.
- Nếu sắp xếp làm công việc cũ thì được hưởng lương chức vụ hoặc cấp bậc cũ trước khi nhập ngũ. Trường hợp lương cũ thấp hơn lương chính hoặc sinh hoạt phí của quân đội, thì cũng hưởng theo lương cũ.
- Nếu không thể sắp xếp làm công việc cũ được mà phải sắp xếp làm công việc mới thì làm việc gì hưởng lương chức việc ấy; nếu lương mới thấp hơn lương chức vụ hoặc cấp bậc trước khi nhập ngũ thì được hưởng lương cũ.
- Khi trở về cơ quan, xí nghiệp, anh chị em được xếp vào diện để xét nâng bậc, trong khi xét, cần chú ý đến những anh chị em trước khi vào quân đội chưa được nâng bậc và anh chị em có nhiều thành tích trong quân đội. Còn đối với công nhân thì áp dụng theo chế độ nâng bậc hiện hành.
- Đối với những người có thành tích chiến đấu xuất sắc, cần chú ý thích đáng trong việc nâng bậc hoặc đề bạt theo yêu cầu công tác.
b) Đối với công nhân, viên chức có thời gian tại ngũ từ 3 năm trở lên.
Được hưởng chính sách quân nhân tình nguyện chuyển ngành đã quy định tại nghị quyết số 01-CP ngày 9-01-1961của Hội đồng Chính phủ và thông tư số 03-TT/LB ngày 25-01-1961 của Liên bộ Lao động - Nội vụ. Trường hợp hưởng theo chế độ chuyển ngành mà thấp hơn lương cũ thì hưởng theo lương cũ. Những người có thành tích chiến đấu xuất sắc cũng được xét nâng bậc hoặc đề bạt như quy định tại điểm a trên đây.
3. Trong thời gian chờ đợi sắp xếp công tác, anh chị em được tạm hưởng lương hoặc sinh hoạt phí theo chế độ của quân đội.
4. Thời gian tại ngũ được tính là thời gian công tác liên tục để hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI THI HÀNH
1. Thông tư này thi hành từ 01-8-1968 đối với công nhân, viên chức (kể cả người đang tập sự) đã được tuyển dụng làm việc thường xuyên ở các cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường của Nhà nước, các xí nghiệp, cửa hàng công tư hợp doanh, các cơ quan Đảng và đoàn thể từ cấp huyện trở lên, được điều động vào quân đội.
Riêng chế độ khi xuất ngũ quy định tại phần II mục C áp dụng cả cho số công nhân, viên chức đi nghĩa vụ quân sự, đã được điều động vào quân đội từ ngày 05-5-1965 trở đi, hiện nay còn tại ngũ.
2. Công nhân viên chức được điều động vào quân đội và xuất ngũ trước 01-8-1968 nếu việc xếp lương chưa giải quyết đúng theo phần II mục C, điểm 2 thì cần giải quyết lại.
3. Thông tư số 50-TTg ngày 28-4-1962 của Thủ tướng Chính phủ nay thôi không áp dụng nữa.
4. Bộ Lao động có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành thông tư này.
KT. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ |
- 1Thông tư 227-CP-1965 về chính sách đối với gia đình quân nhân do Hội đồng Chính phủ ban hành
- 2Thông tư 50-TTg năm 1962 quy định tạm thời quyền lợi thuộc về chế độ đãi ngộ đối với công nhân, viên chức làm việc ở các cơ quan, xí nghiệp của Nhà nước được tuyển vào quân đội thường trực do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 3Nghị quyết số 01-CP về việc sử dụng, đào tạo và đãi ngộ quân nhân tình nguyện chuyển ngành do Hội đồng Chính phủ ban hành
- 4Thông tư 03-TT/LB năm 1961 giải thích và hướng dẫn thi hành chế độ đối với quân nhân chuyển ngành do Bộ Lao Động- Bộ Nội Vụ ban hành.
- 5Thông tư 248-TTg-1975 về việc áp dụng chế độ đối với quân nhân xuất ngũ có thời gian phục vụ trong quân đội dưới 5 năm được tuyển dụng vào các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước, hoặc vào học ở các trường Đại học, Trung học, Sơ học chuyên nghiệp, các trường dạy nghề do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 6Nghị định 189-HĐBT năm 1982 về chế độ đối với sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hết hạn tuổi phục vụ tại ngũ do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
- 7Thông tư 05-LĐ/TT-1979 hướng dẫn thi hành chính sách đối với quân nhân chuyển ngành theo Quyết định 178-CP-1974 do Bộ Lao động ban hành
- 1Thông tư 227-CP-1965 về chính sách đối với gia đình quân nhân do Hội đồng Chính phủ ban hành
- 2Nghị quyết số 01-CP về việc sử dụng, đào tạo và đãi ngộ quân nhân tình nguyện chuyển ngành do Hội đồng Chính phủ ban hành
- 3Thông tư 03-TT/LB năm 1961 giải thích và hướng dẫn thi hành chế độ đối với quân nhân chuyển ngành do Bộ Lao Động- Bộ Nội Vụ ban hành.
- 4Thông tư 248-TTg-1975 về việc áp dụng chế độ đối với quân nhân xuất ngũ có thời gian phục vụ trong quân đội dưới 5 năm được tuyển dụng vào các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước, hoặc vào học ở các trường Đại học, Trung học, Sơ học chuyên nghiệp, các trường dạy nghề do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 5Nghị định 189-HĐBT năm 1982 về chế độ đối với sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hết hạn tuổi phục vụ tại ngũ do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
- 6Thông tư 05-LĐ/TT-1979 hướng dẫn thi hành chính sách đối với quân nhân chuyển ngành theo Quyết định 178-CP-1974 do Bộ Lao động ban hành
Thông tư 71-TTg/CN-1968 quy định chế độ đối với công nhân, viên chức được điều động vào quân đội do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- Số hiệu: 71-TTg/CN
- Loại văn bản: Thông tư
- Ngày ban hành: 30/07/1968
- Nơi ban hành: Thủ tướng Chính phủ
- Người ký: Nguyễn Duy Trinh
- Ngày công báo: 31/08/1968
- Số công báo: Số 11
- Ngày hiệu lực: 01/08/1968
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định