Để sử dụng toàn bộ tiện ích nâng cao của Hệ Thống Pháp Luật vui lòng lựa chọn và đăng ký gói cước.
Nếu bạn là thành viên. Vui lòng ĐĂNG NHẬP để tiếp tục.
BỘ NỘI VỤ | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 53-NV/TB | Hà Nội, ngày 28 tháng 11 năm 1959 |
VỀ VIỆC VẬN DỤNG TIÊU CHUẨN ĐỂ XÁC NHẬN LIỆT SĨ
Kính gửi: Ủy ban Hành chính các khu, tỉnh, thành phố và khu vực Vĩnh Linh
Cho tới nay, theo quy định trong Chỉ thị số 87-TB-LS3 ngày 24-11-1958 của Bộ Thương binh, việc xác nhận liệt sĩ mới chỉ tiến hành trước với những trường hợp hy sinh "vì chiến đấu, đấu tranh với địch, hay vì dũng cảm vượt khó khăn nguy hiểm mà bị địch giết hại". Một số các trường hợp hy sinh khác cũng biểu lộ dũng cảm nhưng không thuộc diện nói trên nên thường còn để lại chưa xét.
Để việc xác nhận liệt sĩ có thể giải quyết được nhanh hơn mà vẫn đảm bảo tiêu chuẩn đã quy định trong bản "định nghĩa liệt sĩ" ban hành bằng nghị định số 980-TTg ngày 27-07-1956 của Thủ tướng phủ, Bộ đề nghị các Ủy ban:
Cũng theo tinh thần của điều quy định này, một số các trường hợp hy sinh tại vùng hậu phương nói chung (hoặc hy sinh trong hòa bình) cũng có thể được xét đủ tiêu chuẩn liệt sĩ nếu đó là những trường hợp vì yêu cầu của nhiệm vụ quan trọng cấp thiết cần phải kiên quyết thực hiện, dù thấy khó khăn nguy hiểm đến tính mạng mà vẫn làm rồi bị tai nạn hoặc địch oanh tạc mà hy sinh (kể cả trường hợp cứu người, cứu tài sản quốc gia). Thí dụ: vượt sóng to, gió cả để tiếp tế cho bộ đội, làm cầu cho bộ đội hành quân, lăn vào lửa cháy cứu người bị nạn, cứu tài sản quốc gia do đó bị chết đuối, chết thiêu; hoặc trong khi máy bay địch khủng bố, có nhiệm vụ đảm bảo trật tự, an ninh, bảo vệ tài sản quốc gia, dũng cảm thi hành nhiệm vụ do đó bị trúng bom, trúng đạn địch hy sinh.
Ở trên chỉ là mấy điểm giải thích về tiêu chuẩn liệt sĩ bổ sung vào những quy định của chỉ thị số 87-TB-LS3 ngày 24-11-1958 để làm cơ sở cho các địa phương vận dụng giải quyết các trường hợp còn lại. Trong thực tế, thường gặp một số trường hợp khó khăn hoặc có những khía cạnh lắt léo khó vận dụng tiêu chuẩn. Đối với những trường hợp đó, xét định phải thận trọng đảm bảo đạt được mục đích ý nghĩa của việc xác nhận ghi công liệt sĩ là nêu cao truyền thống hy sinh anh dũng để mọi người học tập. Muốn vậy, khi xác nhận phải nắm chắc tiêu chuẩn kết hợp với tình hình thực tế từng trường hợp, có điều tra nghiên cứu phân tích, dựa vào ý kiến của quần chúng và các tổ chức có trách nhiệm, hiểu biết tình hình, để nhận xét xác minh, ví dụ: đối với cán bộ, du kích xã thì dựa vào các tổ chức Chi bộ, Chi ủy, Chính quyền, đoàn thể xã; đối với cán bộ cấp Huyện, Tỉnh hoặc cán bộ thuộc phạm vi Huyện, Tỉnh quản lý thì dựa vào các cơ quan Tỉnh ủy, Huyện ủy, Ủy ban Hành chính và các cơ quan chuyên môn, chính quyền, đoàn thể Huyện, Tỉnh, đối với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, du kích thì dựa vào các cơ quan Quân sự: Huyện đội, Tỉnh đội để tập thể nhận xét xác minh nhằm đảm bảo cho việc ghi công liệt sĩ được xứng đáng, tránh những tình trạng xác nhận ẩu gây ra ảnh hưởng không tốt trong nhân dân. Đối với những trường hợp đặc biệt khó vận dụng tiêu chuẩn thì tạm thời vẫn để lại để xét vào đợt cuối cùng, nhưng cũng không nên hễ thấy khó vận dụng tiêu chuẩn là tạm hoãn.
2. Chỉ hoãn xét với những trường hợp tạm xếp loại như sau:
a) Những trường hợp mà tính chất nhiệm vụ và trường hợp hy sinh không biểu lộ rõ ràng dũng cảm như làm công tác tại vùng hậu phương, không có chiến sự mà bị phi cơ địch oanh tạc, bị đại bác địch cân vu vơ trúng phải, bị bắn nhằm hoặc bị tai nạn bất ngờ, rủi ro khác...
b) Những trường hợp nghi là bị chết vì hoang mang, giao động hoặc vì thiếu trách nhiệm, phạm kỷ luật sử dụng vũ khí (cần phân biệt với kỹ thuật non, hoặc vũ khí không đảm bảo an toàn), hay phạm kỷ luật chiến trường v.v...
c) Những trường hợp nhập nhằng chưa cụ thể, chính xác là chết vì nhiệm vụ hay vì việc riêng.
d) Những trường hợp chưa đủ tài liệu để xét định mà không thể xác nhận rõ ràng được hơn.
đ) Những trường hợp hiện chưa hoặc không được quần chúng đồng tính công nhận là liệt sĩ.
e) Những trường hợp ngoại lệ, đặc biệt mắc mớ khác mà chưa thể vận dụng những quy định hiện hành để giải quyết.
Mong các địa phương nghiên cứu kỹ, phổ biến cho cán bộ các ngành các cấp, nhất là cán bộ có trách nhiệm ở Tỉnh, Huyện, Xã quán triệt tinh thần của tiêu chuẩn và phương pháp vận dụng xác nhận liệt sĩ trong các trường hợp, để việc xác nhận ghi công liệt sĩ tiến hành được mau chóng và đảm bảo kết quả tốt đúng với mục đích yêu cầu đã đề ra.
K.T. BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ THỨ TRƯỞNG |
- 1Thông tư 22-NV-1968 hướng dẫn việc vận dụng tiêu chuẩn liệt sĩ trong tình hình mới do Bộ Nội vụ ban hành
- 2Thông tư 59-TB-SL5 năm 1956 giải thích và hướng dẫn thi hành Điều lệ ưu đãi gia đình liệt sĩ do Bộ Thương binh ban hành
- 3Thông tư 5815-TB/LS4 năm 1959 về việc giúp đỡ gia đình liệt sĩ, tử sĩ do Bộ Nội Vụ ban hành.
- 4Thông tư 12-TBXH-1975 về việc kết thúc việc xác nhận liệt sĩ trong kháng chiến chống Pháp ở miền Bắc do Bộ Thương binh Xã hội ban hành
- 5Thông Tư 09-TBXH-1976 Về việc kết thúc việc xác nhận liệt sĩ và thương binh chống Mỹ ở chiến trường A do Bộ Thương Binh và Xã Hội ban hành
- 1Thông tư 22-NV-1968 hướng dẫn việc vận dụng tiêu chuẩn liệt sĩ trong tình hình mới do Bộ Nội vụ ban hành
- 2Nghị định 980-TTg năm 1956 về bản điều lệ ưu đãi thương binh, dân quân du kích, thanh niên xung phong bị thương tật, bản điều lệ ưu đãi gia đình liệt sĩ và bản điều lệ ưu đãi gia đình liệt sĩ và bản điều lệ ưu đãi gia đình quân nhân do Thủ Tướng ban hành.
- 3Thông tư 59-TB-SL5 năm 1956 giải thích và hướng dẫn thi hành Điều lệ ưu đãi gia đình liệt sĩ do Bộ Thương binh ban hành
- 4Thông tư 5815-TB/LS4 năm 1959 về việc giúp đỡ gia đình liệt sĩ, tử sĩ do Bộ Nội Vụ ban hành.
- 5Thông tư 12-TBXH-1975 về việc kết thúc việc xác nhận liệt sĩ trong kháng chiến chống Pháp ở miền Bắc do Bộ Thương binh Xã hội ban hành
- 6Thông Tư 09-TBXH-1976 Về việc kết thúc việc xác nhận liệt sĩ và thương binh chống Mỹ ở chiến trường A do Bộ Thương Binh và Xã Hội ban hành
Thông tư 53-NV/TB năm 1959 về việc vận dụng tiêu chuẩn để xác nhận liệt sĩ do Bộ Nội Vụ ban hành
- Số hiệu: 53-NV/TB
- Loại văn bản: Thông tư
- Ngày ban hành: 28/11/1959
- Nơi ban hành: Bộ Nội vụ
- Người ký: Tô Quang Đẩu
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 49
- Ngày hiệu lực: Kiểm tra
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra