Hệ thống pháp luật
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH LẠNG SƠN

-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 855/QĐ-UBND

Lạng Sơn, ngày 22 tháng 4 năm 2021

 

QUYẾT ĐỊNH

PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN BẢO TỒN, TÔN TẠO, PHÁT HUY GIÁ TRỊ HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA VÀ DANH LAM THẮNG CẢNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN GIAI ĐOẠN 2021 - 2030

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19/6/2015; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22/11/2019;

Căn cứ Luật Di sản văn hóa ngày 29/6/2001 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa ngày 18/6/2009;

Căn cứ Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa;

Căn cứ Nghị quyết số 25-NQ/TU ngày 31/8/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về bảo tồn và phát huy vốn di sản văn hóa tỉnh Lạng Sơn, giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo;

Căn cứ Kết luận số 28-KL/TU ngày 31/12/2020 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TU ngày 31/8/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về bảo tồn và phát huy vốn di sản văn hóa tỉnh Lạng Sơn, giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo;

Theo đề nghị của Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Tờ trình số 48 /TTr-SVHTTDL ngày 31/3/2021.

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt kèm theo Quyết định này Đề án bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2021 - 2030.

Điều 2. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Thủ trưởng các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố và Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

 


Nơi nhận:
- Như Điều 2;
- Thường trực Tỉnh ủy;
- Thường trực HĐND tỉnh;
- Chủ tịch, các Phó Chủ tịch UBND tỉnh;
- PCVP UBND tỉnh, các Phòng: KGVX, THNC, KT, TT TH-CB;
- Lưu: VT, KGVX
(NNK).

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH





Dương Xuân Huyên

 

ĐỀ ÁN

BẢO TỒN, TÔN TẠO, PHÁT HUY GIÁ TRỊ HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA VÀ DANH LAM THẮNG CẢNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN GIAI ĐOẠN 2021-2030
(Phê duyệt theo Quyết định số 855/QĐ-UBND ngày 22 tháng 4 năm 2021 của UBND tỉnh Lạng Sơn)

 

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết xây dựng Đề án

2. Căn cứ xây dựng Đề án

2.1. Căn cứ pháp lý

2.2. Căn cứ khoa học

2.3. Căn cứ thực tiễn

3. Mục tiêu của đề án

3.1. Mục tiêu chung

3.2. Mục tiêu cụ thể

4. Đối tượng, phạm vi của đề án

4.1. Đối tượng

4.2. Phạm vi nghiên cứu

5. Cách tiếp cận của Đề án

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ, VĂN HÓA VÀ DANH LAM THẮNG CẢNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN

I. TỔNG QUAN VỀ TỈNH LẠNG SƠN

1. Đặc điểm tự nhiên, văn hóa, xã hội tỉnh Lạng Sơn

2. Đặc điểm lịch sử, văn hóa

3. Khái quát về hệ thống di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

II. HIỆN TRẠNG HỆ THỐNG DI TÍCH

1. Số lượng, địa bàn phân bố và loại hình di tích

1.1. Số lượng và địa bàn phân bố

1.2. Loại hình di tích

2. Tình trạng xếp hạng di tích

3. Tình trạng kỹ thuật và bảo tồn yếu tố gốc của hệ thống di tích

3.1. Tình trạng kỹ thuật của các di tích đình, chùa, đền/miếu/nghè

3.2. Tình trạng bảo tồn yếu tố gốc

III. ĐÁNH GIÁ CÁC GIÁ TRỊ CỦA HỆ THỐNG DI TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN

1. Giá trị lịch sử - văn hóa

1.1. Niên đại di tích

1.2. Hệ thống hiện vật có giá trị

1.3. Đối tượng thờ tự và các giá trị văn hóa phi vật thể

2. Giá trị kiến trúc nghệ thuật

2.1. Giá trị về cảnh quan di tích

2.2. Bố cục mặt bằng tổng thể

2.3. Kết cấu kiến trúc

3. Giá trị nghệ thuật điêu khắc, trang trí trên kiến trúc

4. Giá trị về nghiên cứu khoa học

IV. ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH, THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ, BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN

1. Về công tác quản lý di tích

2. Về công tác kiểm kê, phân loại, xếp hạng di tích

3. Về công tác quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thực trạng xâm hại di tích

3.1. Công tác quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ,cấp quyền sử dụng đất cho di tích

3.2. Thực trạng xâm phạm lấn chiếm di tích

4. Về công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích

4.1. Thực trạng công tác bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích

4.2. Thực trạng sử dụng di tích

V. ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG KẾT NỐI VÀ DỰ BÁO NGUY CƠ TÁC ĐỘNG TỚI HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA VÀ DANH LAM THẮNG CẢNH TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỬA TỈNH

1. Vị trí, vai trò của hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh đối với phát triển du lịch

2. Đánh giá nguy cơ tác động đến hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh đối với phát triển du lịch

2.1. Tình trạng kỹ thuật của hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh ảnh hưởng đến phát triển du lịch

2.2. Tình trạng khai thác hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh phục vụ du lịch

2.3. Các nguy cơ tác động đến hệ thống các di tích và danh lam thắng cảnh do khai thác hoạt động du lịch

3. Cơ chế tổ chức, quản lý các hoạt động khai thác du lịch tại hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh

3.1. Cơ chế chính sách về bảo tồn bảo tồn và phát huy giá trị di tích gắn kết với du lịch

3.2. Tổ chức, quản lý các hoạt động khai thác du lịch tại hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh

3.3. Nguy cơ tác động đến di tích do công tác tổ chức, quản lý các hoạt động khai thác du lịch (gần trùng nhau)

4. Thực trạng các mô hình kết nối hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh với phát triển du lịch

4.1. Khai thác du lịch tại các điểm di tích

4.2. Khai thác du lịch các cụm điểm di tích

Phần thứ hai

QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN, TÔN TẠO, PHÁT HUY GIÁ TRỊ HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA VÀ DANH LAM THẮNG CẢNH TỈNH LẠNG SƠN

I. QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC

1. Quan điểm

2. Nguyên tắc

II. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu tổng quát

2. Mục tiêu cụ thể

2.1. Giai đoạn 2021 - 2025

2.2. Giai đoạn 2026 - 2030

III. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRONG CÔNG TÁC BẢO TỒN, TU BỔ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA VÀ DANH LAM THẮNG CẢNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

1. Nhiệm vụ cơ bản

2. Giải pháp cơ bản

3. Nhiệm vụ, giải pháp mang tính chuyên ngành cụ thể đối với từng loại hình di tích

Phần thứ ba

NHU CẦU, CƠ CẤU NGUỒN KINH PHÍ, PHÂN KỲ ĐẦU TƯ VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

I. NHU CẦU, CƠ CẤU NGUỒN KINH PHÍ, PHÂN KỲ ĐẦU TƯ

1. Nhu cầu kinh phí

2. Cơ cấu nguồn kinh phí và phân kỳ đầu tư

2.1. Cơ cấu kinh phí

2.2. Phân kỳ đầu tư

II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

2. Sở Kế hoạch và Đầu tư

3. Sở Tài chính

4. Sở Xây dựng

5. Sở Tài nguyên và Môi trường

6. Sở Khoa học và Công nghệ

7. Sở Nội vụ

8. Sở Ngoại vụ

9. Sở Giáo dục và Đào tạo

10. Sở Thông tin và Truyền Thông

11. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh

12. Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Báo Lạng Sơn

13. Đề nghị Mặt trận Tổ quốc

14. Các sở, ngành, đoàn thể khác của tỉnh; các hội, liên hiệp hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của tỉnh

15. UBND các huyện, thành phố

KẾT LUẬN

PHỤ LỤC

 

DANH MỤC HÌNH

Hình 1: Biểu đồ về sự phân bố các di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Hình 2: Biểu đồ về các loại hình di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Hình 3: Biểu đồ về loại di tích chia theo chức năng

Hình 4: Biểu đồ tình trạng xếp hạng di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Hình 5: Biểu đồ về tình trạng kỹ thuật của các di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Hình 6: Biểu đồ về tình trạng bảo tồn yếu tố gốc của các loại hình di tích trên

địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Hình 7: Sơ đồ về mối quan hệ giữa các đối tượng liên quan đến di tích

Hình 8: Biện pháp thay cốt cấu kiện

 

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1: Tổng hợp vị trí ngôi đình trong tổng thể

Bảng 2: Tổng hợp vị trí ngôi chùa trong tổng thể

Bảng 3: Tổng hợp vị trí ngôi đền/miếu/nghè trong tổng thể

Bảng 4: Thống kê các dạng mặt bằng đình

Bảng 5: Thống kê các dạng mặt bằng chùa

Bảng 6: Thống kê các dạng mặt bằng đền/miếu/nghè

Bảng 7: Thực trạng đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích giai đoạn 2016-2020

Bảng 8: Một số đặc điểm giá trị, hoạt động khai thác du lịch của danh lam thắng cảnh trên địa bàn tình Lạng Sơn

Bảng 9: Khách du lịch đến Lạng Sơn giai đoạn 2015-2020

Bảng 10: Bảng nhu cầu kinh phí thực hiện quy hoạch, khoanh vùng và tu bổ, tôn tạo di tích

Bảng 11: Bảng phân bổ kinh phí theo từng giai đoạn

 

MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết xây dựng Đề án

Bảo tồn phát huy giá trị của di sản luôn là vấn đề cốt lõi, vấn đề trọng tâm gắn liền với việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Lạng Sơn là tỉnh có nhiều loại hình di tích, danh lam thắng cảnh, địa hình tự nhiên đa dạng, phong phú, được xác định là một điểm đến hấp dẫn đối với khách du lịch trong và ngoài nước. Việc bảo tồn, phát huy một cách hệ thống các điểm di tích trên địa bàn tỉnh gắn kết hài hòa với việc phát triển du lịch luôn là sự kết hợp bền vững mang lại hiệu quả kinh tế cao, đóng góp một phần không nhỏ trong đời sống xã hội và nền kinh tế của địa phương.

Thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TU ngày 31/8/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa tỉnh Lạng Sơn, giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo; Kế hoạch số 32/KH-UBND ngày 17/02/2017 của UBND tỉnh về việc thực hiện Nghị Quyết số 25-NQ/TU ngày 31/8/2016 công tác huy động các nguồn lực để trùng tu, đầu tư tôn tạo di tích được quan tâm, đẩy mạnh; công tác quy hoạch, khoanh vùng, lập hồ sơ khoa học, cắm mốc cũng được địa phương quan tâm triển khai thực hiện. Nhiều điểm, khu di tích đã được lập Quy hoạch bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị nhằm góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch như: Khu di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh - Núi Tô Thị - Thành Nhà Mạc, Khu du lịch Mẫu Sơn, Đền Bắc Lệ…

Tuy nhiên, do chưa có một kế hoạch dài hạn mang tính tổng thể, toàn diện đối với toàn bộ hệ thống di tích trong tỉnh nên việc đầu tư tu bổ, khai thác và phát huy giá trị gặp rất nhiều khó khăn, bất cập; các di tích vẫn chưa phát huy được thế mạnh và có đóng góp tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, gây lãng phí tài nguyên du lịch.

Bên cạnh những mặt đã đạt được, công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích vẫn còn nhiều hạn chế. Trải qua thời gian, điều kiện thời tiết khắc nghiệt, nhiều di tích đã và đang xuống cấp nghiêm trọng, mất dần các giá trị vốn có, gây khó khăn cho công tác bảo vệ, bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Do hạn chế về nguồn lực, nhiều di tích mới chỉ được tập trung đầu tư cho các hạng mục chính. Do đầu tư chưa đồng bộ nên các di tích chưa phát huy tốt hiệu quả đầu tư, chưa thu hút khách tham quan cũng như góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đối với hầu hết các di tích, kinh phí dành cho hoạt động bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích còn nhiều hạn chế. Một số di tích tôn giáo, tín ngưỡng thu hút đông khách du lịch tới hành hương, tham quan nhưng chưa được đầu tư hoàn thiện hệ thống hạ tầng phục vụ tham quan du lịch, dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại các điểm di tích.

Công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực di sản văn hóa mặc dù đã được quan tâm, đẩy mạnh, địa phương đã ban hành nhiều văn bản về công tác quản lý di tích, nhưng chưa được chính quyền cơ sở quan tâm đúng mức, công tác lập hồ sơ khoanh vùng bảo vệ di tích còn nhiều hạn chế dẫn đến việc thiếu cơ sở pháp lý để quản lý, bảo vệ di tích. Ở cấp huyện còn thiếu cán bộ chuyên trách có chuyên môn nghiệp vụ bảo tồn di tích để trực tiếp tham mưu về công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích trên địa bàn. Sự tham gia của cộng đồng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị của di tích còn hạn chế.

Từ thực trạng nêu trên, việc xây dựng Đề án “Bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2021-2030” là nhu cầu cấp thiết nhằm bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Việc xây dựng Đề án có ý nghĩa hết sức quan trọng, mang lại lợi ích thiết thực:

- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về hệ thống di tích toàn tỉnh, hệ thống hóa toàn bộ các di tích trên địa bàn, phân loại di tích theo các loại hình, cấp độ hư hỏng, xác lập trình tự ưu tiên đầu tư…

- Là cơ sở khoa học đầy đủ, chính xác trong công tác bảo tồn, quản lý di tích và các hoạt động liên quan đến công tác bảo tồn, tu bổ, phát huy giá trị di tích, gia tăng giá trị hệ thống di tích trên toàn tỉnh.

- Là cơ sở quan trọng cho việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, du lịch của tỉnh và các huyện, thành phố trong tỉnh; trong việc lập, điều chỉnh quy hoạch định hướng và phát triển của các địa phương liên quan tới các điểm di tích cũng như là cơ sở khoa học cho việc lập, thẩm định, phê duyệt, triển khai các dự án đầu tư xây dựng, bảo quản, tu bổ, phục hồi và phát huy giá trị từng điểm, khu di tích gắn với phát triển kinh tế - xã hội,du lịch tại địa phương.

Đề án này bao gồm các căn cứ pháp lý, các phương hướng, các nguyên tắc kỹ thuật, các chiến lược dài hạn và kế hoạch trung hạn, ngắn hạn cùng những mục tiêu và biện pháp để bảo tồn, quản lý và phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Đề án là tiền đề, cơ sở định hướng các hoạt động quản lý, bảo tồn di tích trên địa bàn tỉnh trong 10-15 năm tới.Đồng thời cụ thể hóa Nghị quyết số 25-NQ/TU, cũng như các Nghị quyết chuyên đề của tỉnh trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch thông qua các chương trình, đề án, dự án nhằm thúc đẩy sự hợp tác chặt chẽ với các bên liên quan trong bảo tồn và phát huy giá trị di tích.

2. Căn cứ xây dựng Đề án

2.1. Căn cứ pháp lý

- Luật Di sản văn hoá ngày 29/6/2001; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hoá ngày 18/6/2009;

- Luật Đất đai ngày 29/11/2013;

- Luật Xây dựng ngày 18/6/2014;

- Luật Du lịch ngày 09/6/2017;

- Luật Quy hoạch ngày 24/11/2017;

- Luật Đầu tư công ngày 13/6/2019;

- Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hoá và Luật Sửa đổi một số điều của Luật Di sản văn hoá;

- Nghị định số 166/2018/NĐ-CP ngày 25/12/2018 của Chính phủ về việc Quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh;

- Thông tư số 15/2019/TT-BVHTTDL ngày 31/12/2019 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ phục hồi di tích;

- Nghị quyết số 25-NQ/TU ngày 31/8/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về bảo tồn, phát huy vốn di sản văn hóa tỉnh Lạng Sơn, giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo; Kết luận số 28-KL/TU ngày 31/12/2020 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TU ngày 31/8/2016 về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa tỉnh Lạng Sơn, giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo;

- Chương trình hành động số 116 - CTr/TU ngày 17/9/2014 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”;

- Chương trình hành động số 74/CTr-TU ngày 28/12/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn;

- Nghị quyết số 12/2018/NQ-HĐND ngày 10/12/2018 của Hội đồng nhân dân tỉnh Lạng Sơn về chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn;

- Kế hoạch hành động số 53/KH-UBND ngày 29/5/2015 của UBND tỉnh Lạng Sơn thực hiện Nghị quyết số 102/NQ-CP của Chính phủ, Chương trình hành động số 116-CTr/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn về thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW (khóa XI);

- Kế hoạch số 35/KH-UBND ngày 26/02/2018 của UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết số 103/NQ-CP ngày 06/10/2017 của Chính phủ và Chương trình hành động của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn;

- Quyết định số 63/2017/QĐ-UBND ngày 20/12/2017 của UBND tỉnh về việc ban hành quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn;

- Quyết định số 73/QĐ-UBND ngày 10/01/2019 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc phê duyệt và công bố danh mục kiểm kê di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn;

- Quyết định số 1787/QĐ-UBND ngày 17/9/2019 của Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn về việc phê duyệt đề cương và dự toán kinh phí xây dựng Đề án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đến năm 2030, tầm nhìn 2035.

2.2. Căn cứ khoa học

- Căn cứ hồ sơ, lý lịch khoa học hệ thống di tích xếp hạng quốc gia đặc biệt, quốc gia, cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn;

- Các hồ sơ tài liệu khoa học, lịch sử, các kết quả nghiên cứu liên quan của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh và các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân liên quan;

- Các ấn phẩm, bài viết chuyên khảo chuyên đề của các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa trong và ngoài tỉnh;

- Các nguồn tài liệu, số liệu khác có liên quan.

2.3. Căn cứ thực tiễn

- Căn cứ kết quả công tác tổng kiểm kê, rà soát hệ thống di tích, cơ sở tín ngưỡng tôn giáo trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2017 - 2019 (Báo cáo tổng kết, phiếu kiểm kê, ảnh minh họa và các văn bản liên quan khác);

- Căn cứ Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TU ngày 31/8/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa tỉnh Lạng Sơn, giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo (báo cáo sơ kết và các phụ lục kèm theo);

- Căn cứ kết quả công tác điền dã, khảo sát, đánh giá, tổng hợp số liệu về công tác bảo vệ, phát huy giá trị di tích trên địa bàn 11/11 huyện, thành phố thuộc tỉnh Lạng Sơn của Viện bảo tồn di tích năm 2020;thực trạng hệ thống di tích trên địa bàn tỉnh và thực tế công tác quản lý, nhu cầu bảo tồn và phát huy giá trị di tích trên địa bàn tỉnh hiện nay.

3. Mục tiêu của Đề án

3.1. Mục tiêu chung

Ngăn chặn tình trạng xuống cấp của hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh, loại trừ các nguy cơ làm hư hại, mất mát, biến dạng di tích, đưa ra một chiến lược toàn diện bảo vệ lâu dài, bảo tồn và phát huy các giá trị đã được tích lũy qua các giai đoạn lịch sử ở các di tích và không gian văn hóa liên quan trong mối quan hệ với cuộc sống đương đại, văn hóa, xã hội, kinh tế của địa phương, góp phần phục vụ công tác giáo dục tuyên truyền lịch sử cách mạng, phát triển kinh tế - xã hội, du lịch - dịch vụ của địa phương.

3.2. Mục tiêu cụ thể

- Xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học đầy đủ về các di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh, phục vụ việc đề xuất các giải pháp bảo quản, tu bổ, phục hồi, phát huy giá trị di tích cũng như lưu trữ, nghiên cứu, tìm hiểu về di tích và hệ thống di tích của tỉnh.

- Xác định chương trình, kế hoạch tầm vi mô, vĩ mô về quản lý bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh: định hướng cơ bản; nguyên tắc về bảo tồn; giải pháp thực hiện đối với từng loại hình di tích; trình tự các bước thực hiện, xác lập trình tự ưu tiên đầu tư...và các vấn đề liên quan khác.

- Xác định các mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cũng như các chỉ tiêu mang tính định lượng cần đạt được ở mỗi giai đoạn trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh.

- Đề ra các hoạt động mang tính đồng bộ, thống nhất trong việc quản lý, bảo vệ, bảo tồn và phát huy giá trị di tích, trong đó bao gồm cả việc cải cách công tác quản lý, hoàn thiện thể chế chính sách trong hoạt động quản lý, bảo tồn, đầu tư tu bổ di tích; bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ thực hiện công tác quản lý bảo tồn di tích, phương hướng và giải pháp cụ thể với từng nhóm đối tượng (di tích quốc gia đặc biệt, di tích cấp quốc gia, di tích cấp tỉnh, di tích nằm trong danh mục kiểm kê được phê duyệt).

- Đề xuất danh mục đầu tư cho hoạt động quản lý bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh của địa phương theo thứ tự ưu tiên (ưu tiên nguồn vốn, ưu tiên loại hình di tích).

4. Đối tượng, phạm vi của Đề án

4.1. Đối tượng

Gồm toàn bộ các di tích trong hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, được phê duyệt và công bố theo Quyết định số 73/QĐ-UBND ngày 10/01/2019 của Chủ tịch UBND tỉnh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu chính trên địa bàn toàn tỉnh Lạng Sơn, ngoài ra mở rộng các vùng lân cận ngoài tỉnh có liên quan.

5. Cách tiếp cận của Đề án

Đề án được xây dựng trên quan điểm tiếp cận tổng hợp, kết hợp cả công tác đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích; công tác quản lý, xây dựng các cơ chế chính sách phù hợp, truyền thông nâng cao nhận thức, đề xuất đầu tư phát triển du lịch, xây dựng các chương trình nghiên cứu, nâng cao năng lực và hợp tác thực hiện; xây dựng các kế hoạch dài hạn, ngắn hạn, phương án ngăn chặn, xử lý kết hợp với phòng ngừa để giải quyết hiệu quả các vấn đề mà hệ thống di tích, danh lam thắng cảnh ở địa phương đã và đang phải đối mặt.

Đối tượng mà Đề án hướng tới sẽ bao gồm các di tích khảo cổ, kiến trúc nghệ thuật (tôn giáo tín ngưỡng, thành quách, đô thị cổ...), lịch sử (lưu niệm sự kiện, lưu niệm danh nhân), danh lam thắng cảnh gắn với hệ thống di vật, cổ vật, không gian văn hóa gắn liền với di tích theo định hướng duy trì, gia cố, bảo quản khoa học và lâu dài, thận trọng đối với các hoạt động phục hồi, đồng thời đáp ứng được những vấn đề quản lý phức tạp mà hệ thống di tích đang phải đối mặt cũng như đảm bảo cân bằng giữa phát triển với bảo tồn di tích.

Cùng với đó, Đề án cũng đề cập tới cơ hội phát triển một cách bền vững cho hệ thống di tích của địa phương, tạo lập mối quan hệ giữa bảo tồn di tích và khai thác du lịch. Quá trình quản lý, trùng tu, tôn tạo di tích cần chú ý tới việc đảm bảo nhu cầu phát triển du lịch, cũng như khả năng tiếp cận di tích, nâng cao năng lực thông tin, tạo điều kiện cho khách du lịch tương tác với di tích. Bên cạnh đó cần định hướng xây dựng các sản phẩm du lịch nhằm thu hút du khách tới các điểm di tích của địa phương.

Một phần quan trọng mà Đề án sẽ đề xuất là các hoạt động tuyên truyền, giáo dục về di tích, đặc biệt giáo dục di tích cho thế hệ trẻ. Đây là thế hệ sẽ có nhiệm vụ tiếp tục bảo tồn và phát huy giá trị di tích trong tương lai. Truyền thông và giáo dục về di sản, về lịch sử dân tộc được thực hiện thông qua các di tích, các trưng bày trong khu di tích. Là điều kiện, kênh thông tin quan trọng nhằm tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu những nội dung, giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc trưng tiêu tiểu của từng di tích nói riêng, hệ thống di tích tại địa phương nói chung tới công chúng. Đồng thời tuyên truyền, phổ biến, đưa ra những quy tắc ứng xử chung trong công tác bảo vệ, phát huy di tích, tránh các hiện tượng xâm phạm, lấn chiếm di tích.

Vì vậy, Đề án sẽ nhận diện các giá trị của hệ thống di tích, danh lam thắng cảnh của tỉnh Lạng Sơn, xác định các nguy cơ làm ảnh hưởng, hạn chế những nguy cơ có thể đe dọa tới giá trị của hệ thống di tích, đồng thời tuyên truyền quảng bá những giá trị đó đến cộng đồng.

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA VÀ DANH LAM THẮNG CẢNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN

I. TỔNG QUAN VỀ TỈNH LẠNG SƠN

1. Đặc điểm tự nhiên, văn hóa, xã hội tỉnh Lạng Sơn

1.1. Đặc điểm tự nhiên

Tỉnh Lạng Sơn là tỉnh miền núi phía Đông Bắc, có đường biên giới với Trung Quốc. Phía Bắc giáp Cao Bằng, phía Nam giáp Bắc Giang, phía Đông giáp tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), phía Đông Nam giáp Quảng Ninh, phía Tây và phía Tây Nam giáp Bắc Kạn và Thái Nguyên. Địa hình phổ biến là núi thấp và đồi, ít núi trung bình và không có núi cao. Độ cao trung bình là 252m so với mực nước biển. Hướng địa hình rất đa dạng và phức tạp.

Lạng Sơn có mạng lưới sông ngòi phong phú, với 7 sông chính. Ở Lạng Sơn có một số hồ chứa nước tự nhiên và nhân tạo phục vụ thủy lợi và một số hồ, đập có cảnh quan đẹp có thể khai thác phục vụ du lịch như: đập Bản Nầng (huyện Văn Quan), hồ Nà Tâm (thành phố Lạng Sơn), hồ Tam Hoa, hồ Pác Mỏ, hồ Vũ Lăng (huyện Bắc Sơn). Lạng Sơn còn có nhiều con suối, nhiều thác nhỏ như: Thác Long Đầu, Khuôn Van (Lộc Bình), Đăng Mò (Bình Gia), Thác Xăng - Thác Mây (huyện Văn Lãng, Tràng Định)...các thác có vẻ đẹp nguyên sơ, và có khả năng khai thác du lịch trong tương lai.

Với những đặc điểm địa lý, tự nhiên như trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình khai thác và phát huy giá trị các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.

1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội

Năm 2020, theo thông báo của Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước đạt 2,09% (mục tiêu là 8,5 - 9%), trong đó nông lâm nghiệp tăng 3,06%, công nghiệp - xây dựng tăng 2,35%, dịch vụ tăng 1,54%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 2,04%. Cơ cấu kinh tế: nông lâm nghiệp chiếm 23,19%, công nghiệp - xây dựng 22,47%, dịch vụ 49,59%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 4,75%. GRDP bình quân đầu người đạt 43,4 triệu đồng. Dù ảnh hưởng của dịch bệnh, với nhiều giải pháp quyết liệt, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 7.117 tỷ đồng, vượt 16% so với dự toán tỉnh giao.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng Khu du lịch Quốc gia Mẫu Sơn đến năm 2040. Đang tổ chức lập các quy hoạch phân khu xây dựng và quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 đối với dự án Quần thể khu du lịch sinh thái, cáp treo Mẫu Sơn. Hoàn thành các Đề án phát triển du lịch tỉnh Lạng Sơn đến năm 2030, Đề án phát triển kinh tế ban đêm tại thành phố Lạng Sơn. Công nhận điểm du lịch cộng đồng Hữu Liên, Yên Thịnh, điểm du lịch Thác bản Khiếng; đưa vào hoạt động điểm du lịch mạo hiểm tại xã Yên Thịnh, huyện Hữu Lũng.

Các hoạt động văn hóa, xã hội trên địa bàn tỉnh được quan tâm và phát triển sâu rộng. Các hoạt động y tế, giáo dục từng bước được hoàn thiện và nâng cao. Tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, thể thao chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh, Đại hội Đảng bộ các cấp; tổ chức thành công Kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Lương Văn Tri, Kỷ niệm 80 năm ngày khởi nghĩa Bắc Sơn và Đại hội Thi đua yêu nước tỉnh Lạng Sơn lần thứ V. Thực hiện tốt công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa. Di tích lịch sử Chi Lăng được Thủ tướng Chính phủ công nhận di tích Quốc gia đặc biệt, thực hiện xếp hạng 03 di tích cấp tỉnh; hoàn thành hạng mục san nền, đường giao thông công vụ, thi công hạng mục đền thờ chính dự án Đền Chi Lăng.

2. Đặc điểm lịch sử, văn hóa

Lạng Sơn là vùng đất cổ, lịch sử ghi dấu nơi con người cư trú từ lâu đời. Minh chứng cho điều này là các di chỉ của người cổ đại ở hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Kéo Lèng có niên đại cách ngày nay hàng vạn năm. Đây là di chỉ nổi tiếng ở Việt Nam và vùng Đông - Nam Á, cùng với các di chỉ này là hệ thống di chỉ thuộc nền văn hóa Bắc Sơn. Lạng Sơn là nơi phát hiện di tích hoá thạch người vượn (Homo erectus), hoá thạch người khôn ngoan (Homo sapiens) và di chỉ hang động văn hoá Bắc Sơn, đánh dấu các mốc quan trọng của tiền sử Việt Nam và Đông Nam Á. Tiếp sau đó là các di tích văn hoá của cư dân hậu kỳ đá mới trước văn hoá Mai Pha, niên đại khoảng 6.000 đến 4.000 năm cách ngày nay. Cuối cùng là các di tích văn hoá Mai Pha, văn hoá của cư dân hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí, niên đại cách đây chừng 4.000 đến 3.000 năm cách ngày nay.

Sang thời Hồ và Lê sơ, năm 1406, khi quân Minh sang xâm lược nước ta, Lạng Sơn lại góp phần quan trọng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đầu năm 1426, sau khi giải phóng Thanh Hóa, nghĩa quân Lam Sơn tiến quân ra vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, kết hợp với các phong trào yêu nước tại các địa phương để giải phóng dân tộc. Ải Chi Lăng vốn được xem là cửa ải xung yếu nhất, trong kháng chiến chống quân Tống đời Lý và chống quân Nguyên - Mông đời Trần lại được chọn làm trận địa đánh đòn phủ đầu hết sức bất ngờ vào viện binh, làm hơn 100 kỵ binh của địch bị tiêu diệt, Liễu Thăng bị trúng lao chết bên sườn núi Mã Yên (ngày 20/9 năm Đinh Mùi - tức ngày 10/10/1427). Chiến thắng Chi Lăng có ý nghĩa quyết định đến cục diện cuộc chiến, góp phần quan trọng kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

Thời Lê Trung Hưng, vào thế kỷ 17, Lạng Sơn có nhiều chuyển biến tích cực về thương mại trao đổi, trở thành trung tâm đầu mối giao lưu hàng hóa sầm uất nhất nhì Đàng ngoài bấy giờ. Thành quả này gắn với nhiều tên tuổi như Thân Công Tài, Vi Đức Thắng hay cuối thế kỷ 18 nổi bật là Đốc trấn Ngô Thì Sĩ.

Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dưới sự chỉ đạo của Trung ương, chi bộ Đảng vùng núi biên giới Việt - Trung được thành lập, đồng chí Hoàng Văn Thụ được giao nhiệm vụ xây dựng, phát triển phong trào cách mạng Lạng Sơn. Tháng 7/1936, đồng chí tới Bắc Sơn gây dựng cơ sở cách mạng. Ngày 25/9/1936, tại thôn Mỏ Tát, xã Vũ Lăng, đồng chí tổ chức kết nạp đảng viên và thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Bắc Sơn. Ngày 11/4/1938, tổ chức kết nạp đảng viên ở xã Phi Mỹ, Tràng Định và thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Tràng Định. Ngay khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ (27/9/1940), đồng chí Hoàng Văn Thụ đã họp bàn để duy trì Đội du kích Bắc Sơn và tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 tháng 11/1940 đã quyết định phát triển hình thức đấu tranh vũ trang, thành lập căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai.

Năm 1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ. Đáp lời kêu gọi thiêng liêng của Đảng và Hồ Chủ Tịch, nhân dân Lạng Sơn anh dũng bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến. Chiến khu Việt Bắc, trong đó có Lạng Sơn trở thành căn cứ địa của cuộc kháng chiến chống Pháp. Một số căn cứ du kích của tỉnh như: khu du kích Ba Sơn (Cao Lộc), Chi Lăng (Lộc Bình), Nà Thuộc (Đình Lập) đã trở thành biểu trưng cho tinh thần chống Pháp của nhân dân Lạng Sơn.

Trong kháng chiến chống Pháp, quân dân Lạng Sơn lập nhiều chiến công vang dội, tiêu biểu là chiến dịch đường số 4, chiến thắng Biên giới Thu - Đông (1947-1950). Những cái tên Bông Lau, Lũng Phầy, Đèo Khách, Ba Sơn, Bản Nằm... đã mãi đi vào lịch sử vẻ vang của đất nước.

Năm 1954, thực dân Pháp rút khỏi miền Bắc nước ta. Đất nước tạm chia làm 2 miền, vĩ tuyến 17 trở thành giới tuyến tạm thời. Nhân dân Lạng Sơn bắt tay vào xây dựng CNXH và chi viện cho miền Nam đánh Mỹ. Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, năm 1976, hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng sáp nhập thành tỉnh Cao Lạng. Tháng 12/1978, tỉnh Cao Lạng lại tách ra thành hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng.

3. Khái quát về hệ thống di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Lạng Sơn là tỉnh thành có vị trí địa lý đặc biệt quan trọng, nơi đây với sự ưu đãi của thiên nhiên từng là một trong những cái nôi của sự quần tụ, sinh sống của loài người nguyên thủy trong giai đoạn tiền sơ sử với những chứng tích khảo cổ được khám phá. Đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ học người Pháp đã phát hiện tại hang Kéo Lèng (TT Bình Gia, huyện Bình Gia) những răng, mảnh xương trán của loài người thời hậu kỳ Cánh tân, nối tiếp đó là việc xuất lộ các di chỉ nổi tiếng như hang Thẩm Khoách (thị trấn Bình Gia, huyện Bình Gia) hay hang Phai Vệ (TP. Lạng Sơn) với rất nhiều rìu đá, mảnh vòng, hạt chuỗi,... thuộc nền văn hóa Bắc Sơn. Bên cạnh đó, từ năm 1996, các nhà khoa học đã xác lập sự tồn tại văn hóa Mai Pha. Đây là nền văn hóa mới chỉ tìm thấy ở Lạng Sơn và là một văn hoá quan trọng ở miền núi biên giới Đông Bắc của nước ta. Nó tiếp nối văn hoá Bắc Sơn và có mối liên hệ chặt chẽ với các văn hoá đồng đại như văn hoá Phùng Nguyên và văn hoá Hạ Long, một trong những nguồn hợp tạo dựng văn hoá Việt cổ sau này.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Lạng Sơn ghi dấu công lao của các vị anh hùng với những sự kiện, những chiến công hiển hách còn mãi lưu danh trong lịch sử dân tộc. Khu di tích lịch sử Chi Lăng từ mỏm núi Lạng Lắc (Mai Sao) đến cầu suối Lân - sông Hóa với các di tích gắn liền với những chiến công hiển hách, những sự kiện trọng đại của dân tộc như: Làng Coóc, Đông Mồ, Làng Lìu, núi Ngọc (núi Chị Em), núi Quỷ, Ải Chi Lăng (Quỷ Môn Quan), Bãi Hào, núi Phượng Hoàng, Đấu Đong Quân, Quán Bầu, núi Kỳ Lân, núi Mã Yên, Lân Giao, Thành Kho, Vực Bơi, núi Bàn Cờ, Đồng Bành, dốc Ba Tài... là những kỳ tích chống các thế lực xâm lược phương Bắc từ Tống, Nguyên - Mông đến Minh, Thanh... Hiện nay, khu di tích lịch sử Chi Lăng đã được xếp hạng Quốc gia đặc biệt, theo quyết định số 1954/QĐ-TTg ngày 31/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ.

Trên mảnh đất Lạng Sơn còn lưu dấu nhiều di tích cách mạng trong thời kỳ chống Pháp như: Khu di tích chiến thắng Đường 4, khu lưu niệm đồng chí Hoàng Văn Thụ, tiêu biểu là khu di tích lịch sử khởi nghĩa Bắc Sơn đã được xếp hạng Quốc gia đặc biệt vào ngày 22/12/2016 theo Quyết định số 2499/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tại đây ngày 25/9/1940 một số đồng chí thoát khỏi nhà tù Lạng Sơn về cùng các đồng chí sở tại họp tại đình Nông Lục (Hưng Vũ) quyết định Bắc Sơn khởi nghĩa. Ngày 16/10/1940, đội du kích Bắc Sơn được chính thức thành lập tại Vũ Lăng. Ngày 23/2/1941, tại căn cứ Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ, đội Cứu quốc quân I chính thức được thành lập. Ngày nay đi qua đường Bắc Sơn đến trường Vũ Lăng là rất nhiều các di tích như: đình Nông Lục, đồn Mỏ Nhài, Bò Tát, đèo Thâm Thoong - Dập Dị, đèo Tam Canh, Khuổi Nọi, Lân Pán, Lân Táy - Mỏ Pia... nơi mà các đội du kích, cứu quốc quân I, cùng quần chúng cách mạng từ 27/9/1940 đến tháng 8/1945 đã làm cho thực dân Pháp cùng phát xít Nhật kinh hồn bạt vía.

Bên cạnh đó, Lạng Sơn cũng là địa phương có nhiều công trình di tích kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, trong đó ở thành phố Lạng Sơn có chùa Thành, đền Kỳ Cùng, Đoàn thành tứ trấn (đền cửa Bắc, đền cửa Nam, đền cửa Đông và đền cửa Tây),... Ngoài ra, còn có nhiều di tích nổi tiếng khác như đền Mẫu Đồng Đăng (huyện Cao Lộc), đền Bắc Lệ (huyện Hữu Lũng),...Đó đều là những di tích được đông đảo mọi tầng lớp người dân đến tham quan, chiêm bái bởi giá trị tâm linh lịch sử tồn tại lâu đời còn duy trì, tồn tại đến ngày nay trong tâm thức Nhân dân và du khách trong và ngoài tỉnh.

II. HIỆN TRẠNG HỆ THỐNG DI TÍCH

1. Số lượng, địa bàn phân bố và loại hình di tích

Theo Quyết định số 73/QĐ-UBND ngày 10/01/2019, tỉnh Lạng Sơn có 335 điểm và khu di tích nằm trong danh mục kiểm kê (với 421 điểm), trong đó, đến nay đã có 128 khu, điểm di tích đã xếp hạng; 207 di tích chưa xếp hạng nằm trong danh mục kiểm kê (xem Phụ lục 1 - Bảng phân bố di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn).

1.1. Số lượng và địa bàn phân bố

Hình 1: Biểu đồ về sự phân bố các di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Biểu đồ hình 1 cho thấy, các di tích tập trung số lượng lớn tại 2 huyện Hữu Lũng, Chi Lăng và lần lượt chiếm 19,95% và 16,63% trong tổng số các di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Huyện Đình Lập có số lượng di tích thấp nhất, chiếm 1,43%, các huyện khác chiếm tỷ lệ trung bình trong khoảng từ 5,22 - 9,74%. Cụ thể phân bố các loại di tích trong từng huyện như sau:

- Thành phố Lạng Sơn có 31 di tích gồm: 02 đình/02 xã, 02 chùa/01 phường, 15 đền, miếu, nghè/06 xã, 03 hang/01 xã, 01 núi, đèo, đồi/01phường, 02 nhà lưu niệm, nhà ở/02 phường, và 06 loại hình khác/04 xã.

- Huyện Hữu Lũng có 84 di tích gồm: 42 đình/21 xã, 09 chùa/08 xã, 20 đền, miếu, nghè/12 xã, 09 hang/06 xã, 02 địa điểm/02 xã, 02 loại hình khác/02 xã.

- Huyện Chi Lăng có 70 di tích gồm: 05 đình/03 xã, 03 chùa/02 xã, 10 đền, miếu, nghè/06 xã, 08 hang/06 xã, 12 núi, đèo, đồi/03 xã, 10 địa điểm/02 xã, và 22 loại hình khác/05 xã.

- Huyện Bắc Sơn có 40 di tích gồm: 09 đình/05 xã, 01 chùa/01 xã, 02 đền, miếu, nghè/02 xã, 07 hang/06 xã, 04 núi, đèo, đồi/04 xã, 12 địa điểm/05 xã, và 05 loại hình khác/05 xã.

- Huyện Bình Gia có 22 di tích gồm: 04 đình/04 xã, 01 đền, miếu, nghè/01 xã, 07 hang/06 xã, 04 núi, đèo, đồi/04 xã, 01 nhà lưu niệm/01 xã, 02 địa điểm/02 xã, và 03 loại hình khác/03 xã.

- Huyện Cao Lộc có 31 di tích gồm: 04 đình/04 xã, 01 chùa/01 xã, 03 đền, miếu, nghè/01 xã, 05 hang/02 xã, 07 địa điểm/07 xã, và 11 loại hình khác/05 xã.

- Huyện Tràng Định có 41 di tích gồm: 02 đình/02 xã, 01 chùa/01 xã, 03 đền, miếu, nghè/02 xã, 06 hang/02 xã, 01 núi, đèo, đồi/01 xã, 04 nhà lưu niệm, nhà ở/03 xã, 18 địa điểm/09 xã, và 06 loại hình khác/05 xã.

- Huyện Văn Lãng có 37 di tích gồm: 03 đình/03 xã, 03 chùa/03 xã, 02 đền, miếu, nghè/01 xã, 06 hang/06 xã, 02 núi, đèo, đồi/01 xã, 01 nhà lưu niệm/01 xã, 18 địa điểm/09 xã, và 02 loại hình khác/02 xã.

- Huyện Lộc Bình có 34 di tích gồm: 06 đình/05 xã, 02 chùa/02 xã, 01 đền, miếu, nghè/01 xã, 03 núi, đèo, đồi/03 xã, 01 nhà ở /01 xã, 17 địa điểm/06 xã, và 04 loại hình khác/04 xã.

- Huyện Đình Lập có 06 di tích gồm: 04 đình/04 xã, 01 núi, đèo, đồi/01 xã, 01 nhà ở /01 xã.

- Huyện Văn Quan có 25 di tích gồm: 08 đình/05 xã, 12 hang/06 xã, 02 nhà lưu niệm/02 xã, 02 địa điểm/02 xã, và 01 loại hình khác/01 xã.

1.2. Loại hình di tích

Các di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn hội tụ đủ 4 loại hình, trong đó số lượng, tỷ lệ các loại hình di tích tính từ cao xuống thấp lần lượt là: lịch sử - văn hóa 183/421 di tích, chiếm 43,47%; kiến trúc nghệ thuật 174/421 di tích, chiếm 41,33%, khảo cổ học 38/421 di tích, chiếm 9,03% và danh lam thắng cảnh 26/421 di tích, chiếm 6,17% (xem Phụ lục 2 - Bảng phân bố số lượng các loại hình di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn)

Hình 2: Biểu đồ về các loại hình di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Kết quả cho thấy, di tích ở phần lớn các huyện đều bao gồm đầy đủ 4 loại hình (trừ huyện Đình Lập không có di tích khảo cổ học và danh lam thắng cảnh). Cụ thể như sau:

-Thành phố Lạng Sơn: có 18 di tích kiến trúc nghệ thuật/07 xã, 02 di tích khảo cổ học/02 xã, 06 di tích lịch sử văn hóa/03 xã và 05 di tích danh lam thắng cảnh/02 xã.

- Huyện Hữu Lũng: có 72 di tích kiến trúc nghệ thuật/23 xã, 06 di tích khảo cổ học/04 xã và 04 di tích lịch sử văn hóa/04 xã và 02 di tích danh lam thắng cảnh/02 xã.

- Huyện Chi Lăng:có 20 di tích kiến trúc nghệ thuật/07 xã, 05 di tích khảo cổ học/04 xã, 42 di tích lịch sử văn hóa/05 xã và 03 di tích danh lam thắng cảnh/03 xã.

- Huyện Bắc Sơn: có 13 di tích kiến trúc nghệ thuật/07 xã, 02 di tích khảo cổ học/02 xã, 22 di tích lịch sử văn hóa/10 xã và 03 di tích danh lam thắng cảnh/03 xã.

- Huyện Bình Gia: có 05 di tích kiến trúc nghệ thuật/04 xã, 06 di tích khảo cổ học/04 xã, 09 di tích lịch sử văn hóa/07 xã và 02 di tích danh lam thắng cảnh/01 xã.

- Huyện Cao Lộc: có 07 di tích kiến trúc nghệ thuật/05 xã, 02 di tích khảo cổ học/02 xã, 21 di tích lịch sử văn hóa/09 xã và 01 di tích danh lam thắng cảnh/01 xã.

- Huyện Tràng Định: có 08 di tích kiến trúc nghệ thuật/05 xã, 03 di tích khảo cổ học/03 xã, 27 di tích lịch sử văn hóa/09 xã và 03 di tích danh lam thắng cảnh/03 xã.

- Huyện Văn Lãng: có 08 di tích kiến trúc nghệ thuật/06 xã, 02 di tích khảo cổ học/02 xã, 26 di tích lịch sử văn hóa/12 xã và 01 di tích danh lam thắng cảnh/01 xã.

- Huyện Lộc Bình: có 10 di tích kiến trúc nghệ thuật/07 xã, 04 di tích khảo cổ học/03 xã, 15 di tích lịch sử văn hóa/05 xã và 05 di tích danh lam thắng cảnh/04 xã.

- Huyện Đình Lập: có 03 di tích kiến trúc nghệ thuật/03 xã, 03 di tích lịch sử văn hóa/03 xã.

- Huyện Văn Quan: có 10 di tích kiến trúc nghệ thuật/06 xã, 06 di tích khảo cổ học/05 xã, 08 di tích lịch sử văn hóa/07 xã và 01 di tích danh lam thắng cảnh/01 xã.

Quá trình điều tra và khảo sát nhận thấy các di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn gồm có nhiều loại khác nhau, căn cứ theo đặc điểm, chức năng của các di tích có thể chia thành 08 nhóm như sau: đình, chùa, đền/miếu/nghè, hang, núi/đèo/đồi, nhà lưu niệm/nhà ở, địa điểm/làng/bãi tập, đồn và loại hình khác như: bia, cây, cầu, hồ, bến…(xem Phụ lục 3 - Số lượng các loại hình di tích chia theo chức năng).

Hình 3: Biểu đồ về loại di tích chia theo chức năng

Kết quả trên biểu đồ hình 3 cho thấy, các di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn rất phong phú về loại hình. Trong đó số lượng, tỷ lệ các loại hình di tích theo chức năng tính từ cao xuống thấp lần lượt là: Đình làng 89/421 di tích (chiếm 21,14%), địa điểm/làng/bãi tập 88/421 di tích (chiếm 20,9%), hang 63/421 di tích (chiếm 14,96%), loại hình khác 62/421 di tích (chiếm 14,73%), đền/miếu/nghè 57/421 di tích (chiếm 13,54%), đồi/núi/đèo 28/421 di tích (chiếm 6,65%), chùa 22/421 di tích (chiếm 5,24%) và thấp nhất là nhà ở/nhà lưu niệm 12/421 di tích (chiếm 2,85%).

- Đình làng: qua tổng hợp phân tích, số liệu cho thấy, huyện Hữu Lũng có số lượng đình làng lớn nhất với 42/89 đình (chiếm 47,19%). Sau đó lần lượt là các huyện: Bắc Sơn 09/89 đình làng (chiếm 10,11%); Lộc Bình 06/89 đình làng (chiếm 6,74 %), Chi Lăng 05 đình (chiếm 5.62%), Bình Gia và Cao Lộc và Đình Lập đều có 04 đình làng (chiếm 4,49 %), Văn Lãng 03 đình làng (chiếm 3.37%), cuối cùng là huyện Tràng Định và Thành phố Lạng Sơn có 02 đình làng (chiếm 2,25 %).

- Chùa:qua tổng hợp phân tích, số liệu cho thấy, huyện Hữu Lũng có số lượng chùa lớn nhất với 09/22 chùa (chiếm 40,91%). Sau đó lần lượt là các huyện: Văn Lãng và Chi Lăng đều có 03 chùa (chiếm 13,64 %); Thành phố Lạng Sơn có 02 chùa (chiếm 9,09%), Bắc Sơn, Cao Lộc và Tràng Định đều có 01 chùa (chiếm 4,55%). Các huyện Bình Gia, Đình Lập và Văn Quan chưa có ngôi chùa nào.

- Đền/miếu/nghè:qua tổng hợp phân tích, số liệu cho thấy, huyện Hữu Lũng có số lượng đền/miếu/nghè lớn nhất với 20/57 di tích (chiếm 35,09%), Thành phố Lạng Sơn với 15/57 di tích (chiếm 26,32%), Chi Lăng với 10/57 di tích (chiếm 17,54%). Tiếp đó là các huyện Tràng Định và Cao Lộc đều có 03 đền/miếu/nghè (chiếm 5,26 %), huyện Văn Lãng và Bắc Sơn có 02 đền/miếu/nghè (chiếm 3,51%), huyện Lộc Bình và Bình Gia có 01 đền/miếu/nghè (chiếm 1,75 %). Các huyện Đình Lập và Văn Quan chưa có ngôi đền/miếu/nghè nào.

- Hang/động:qua tổng hợp phân tích, số liệu cho thấy huyện Văn Quan có số lượng hang/động lớn nhất với 12/63 hang/động (chiếm 19,05%). Sau đó lần lượt là các huyện: Hữu Lũng có 09 hang/động (chiếm 1,29 %); Chi Lăng có 08 hang/động (chiếm 12,70 %), Bắc Sơn và Bình Gia đều có 07 hang/động (chiếm 11,11 %), Tràng Định, Văn Lãng có 06 hang/động (chiếm 9,52 %), Thành phố Lạng Sơn có 03 hang/động (chiếm 4,76%). Các huyện Lộc Bình và Đình Lập chưa có di tích nào thuộc loại hình hang/động.

-Núi/đồi/đèo: qua tổng hợp phân tích, số liệu cho thấy, huyện Chi Lăng có số lượng di tích núi/đồi/đèo lớn nhất là 12/28 di tích (chiếm 42,86%), sau đó lần lượt là các huyện: Bắc Sơn và Bình Gia 04/28 di tích (chiếm 14,29%%); Lộc Bình có 03/28 di tích (chiếm 10,71%), Văn Lãng có 02/28 di tích (chiếm 7,14%), thành phố Lạng Sơn, huyện Tràng Định và huyện Đình Lập có 01/28 di tích (chiếm 3,57%). Các huyện Hữu Lũng, Cao Lộc và Văn Quan chưa có di tích thuộc loại hình núi/đồi/đèo.

- Nhà lưu niệm/nhà ở:qua tổng hợp phân tích, số liệu cho thấy, huyện Tràng Định có số lượng di tích là nhà lưu niệm/nhà ở lớn nhất là 04/12 di tích (chiếm 33,33%). Tiếp đến là: Thành phố Lạng Sơn và huyện Văn Quan có 02/12 di tích (chiếm 16,67 %); huyện Bình Gia, Văn Lãng, Lộc Bình và Đình Lập có 01/12 di tích (chiếm 8,33%). Các huyện còn lại chưa có di tích nào thuộc loại hình này.

- Địa điểm/bãi tập/làng/đồn: qua tổng hợp phân tích, số liệu kiểm kê cho thấy, số lượng di tích thuộc loại hình địa điểm/làng/bãi tập/đồn tập trung chủ yếu ở huyện Tràng Định, Văn Lãng đều với 18/88 di tích (chiếm 20,45%). Tiếp đến là các huyện: Lộc Bình với 17/88 di tích (chiếm 19,32%); Bắc Sơn với 12/88 di tích (chiếm 13,64%); Chi Lăng với 10/88 di tích (chiếm tỷ lệ 11,36%), Cao Lộc với 07/88 di tích (chiếm 7,95%), huyện Bình Gia và Văn Quan và Hữu Lũng đều có 02/88 di tích (chiếm 2,27%). Các huyện Đình Lập và thành phố Lạng Sơn chưa có di tích nào thuộc loại hình này.

- Loại hình khác: các di tích thuộc loại hình khác gồm: bia, cây, cầu, hồ, bến… Qua tổng hợp phân tích, số liệu cho thấy. Các di tích này phân bố ở hầu hết các huyện, thành phố trừ huyện Đình Lập, trong đó, huyện Chi Lăng có số lượng lớn nhất là 22/62 di tích (chiếm 35,48%). Tiếp đến là huyện Cao Lộc với 11/62 di tích (chiếm 17,74%), Thành phố Lạng Sơn và huyện Tràng Định đều có 06/62 di tích (chiếm 9,68%), huyện Bắc Sơn có 05/62 di tích (chiếm 8,06%), huyện Lộc Bình có 04/62 di tích (chiếm 6,45%), huyện Bình Gia có 03/62 di tích (chiếm 4,84%), huyện Văn Lãng và Hữu Lũng có 02/62 di tích chiếm 3,23% và huyện Văn Quan có 01/62 di tích, chiếm 1,61% (xem Phụ lục 4 - Phân bố số lượng các loại hình di tích theo chức năng trên địa bàn từng huyện, thành phố của tỉnh Lạng Sơn).

2. Tình trạng xếp hạng di tích

Kết quả điều tra, khảo sát di tích cho thấy, trong số 335 điểm, khu di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn có 2 khu di tích (gồm 36 điểm di tích) được xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt, 28 cụm di tích và di tích xếp hạng cấp Quốc gia, 98 di tích xếp hạng cấp tỉnh và 207 di tích chưa được xếp hạng(xem Phụ lục 5 - Tình trạng xếp hạng di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn).

Hình 4: Biểu đồ tình trạng xếp hạng di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Thực trạng xếp hạng các di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn cụ thể như sau:

- Xếp hạng cấp Quốc gia đặc biệt:gồm 02 khu di tích (36 điểm) gồm có 36 điểm di tích chiếm 0,6%, trong đó, khu di tích Chi Lăng gồm 24 điểm di tích và Khu di tích Khởi nghĩa Bắc Sơn gồm 12 điểm di tích.

- Xếp hạng cấp Quốc gia có 28 cụm di tích và di tích, chiếm 8,36%, trong đó:

+ Huyện Chi Lăng (02): 01 khu di tích (gồm 24 điểm) và 01 di tích.

+ Thành phố Lạng Sơn (13): 01 Khu di tích Nhị - Tam Thanh, núi Tô Thị, thành nhà Mạc và 12 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia.

+ Huyện Tràng Định (03): 01 khu di tích lịch sử Đường số 4 (gồm 8 điểm) và 02 di tích.

+ Huyện Bắc Sơn, Bình Gia đều có 03 di tích.

+ Các huyện Cao Lộc, Văn Lãng, Lộc Bình và Văn Quan đều có 01 di tích.

- Xếp hạng cấp tỉnh có 98 di tích, chiếm 29,25%, được phân bố tương đối đồng đều trên địa bàn các huyện, cụ thể như sau:

+ Huyện Cao Lộc (12): 01 Khu di tích lịch sử Du kích Ba Sơn (gồm 08 điểm) và 11 di tích

+ Huyện Hữu Lũng, Bắc Sơn:đều có 12 di tích.

+ Huyện Văn Quan: 11 di tích.

+ Huyện Lộc Bình (10): 01 khu di tích Chi Lăng (gồm 13 điểm) và 9 di tích được xếp hạng cấp tỉnh.

+ Huyện Bình Gia: 10 di tích.

+ Huyện Văn Lãng: 08 di tích.

+ Thành phố Lạng Sơn và huyện Tràng Định: đều có 07 di tích.

+ Huyện Chi Lăng: 05 di tích.

+ Huyện Đình Lập: 04 di tích.

- Chưa xếp hạng: tỉnh Lạng Sơn hiện có số lượng lớn di tích chưa xếp hạng là 207 di tích, chiếm 61,79% chiếm hơn một nửa số di tích trên toàn tỉnh. Trong đó: Huyện Hữu Lũng: 72 di tích; huyện Văn Lãng: 28 di tích; huyện Tràng Định: 23 di tích; huyện Chi Lăng: 17 di tích; huyện Bắc Sơn và Văn Quan: đều có 13 di tích; huyện Cao Lộc và huyện Lộc Bình: đều có 11 di tích; huyện Bình Gia: 09 di tích; Thành phố Lạng Sơn: 08 di tích; huyện Đình Lập: 02 di tích.

(xem phụ lục 6 - Danh mục thống kê các di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn).

3. Tình trạng kỹ thuật và bảo tồn yếu tố gốc của hệ thống di tích

3.1. Tình trạng kỹ thuật của di tích

Qua quá trình, khảo sát thực tế 168 di tích thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật (đình, chùa,đền/miếu/nghè) trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn cho thấy tình trạng kỹ thuật của các di tích trên thể hiện ở 4 mức độ sau:

- Xuống cấp nghiêm trọng: mức độ hư hại di tích từ 70% trở lên.

- Xuống cấp: 40 % -70% mức độ hư hại di tích.

- Trung bình: 10% - 40 % mức độ hư hại di tích.

- Tốt: 0% - 10 % mức độ hư hại di tích.

Hình 5: Biểu đồ về tình trạng kỹ thuật của các di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Kết quả khảo sát, đánh giá, phân tích tổng hợp số liệu của 168 di tích là đình, đền, chùa cho thấy:

- Số đình, đền, chùa có tình trạng kỹ thuật tốt: là 79/168 di tích và chiếm 47,31%. Có 25/89 đình (chiếm 28,09%) có tình trạng kỹ thuật tốt. Phần lớn đền/miếu/nghè trên địa bàn tỉnh (44/57) có tình trạng kỹ thuật tốt (chiếm 77,19%). Có 10/22 ngôi chùa (45,45%) có tình trạng kỹ thuật tốt. Các di tích có tình trạng kỹ thuật tốt thường là các di tích mới được tu bổ, tôn tạo hoặc được xây mới như: đình Nông Lục (huyện Bắc Sơn), đền Trần Hưng Đạo (huyện Bình Gia), đền Cô Đôi, đền Quan, đền Mẫu Đồng Đăng, chùa Bắc Nga (huyện Cao Lộc), đình Tà Hón (huyện Đình Lập), đền Chầu Năm, đền Chầu Bát, đền Cô Chín, đền Chầu Mười (huyện Chi Lăng), đền Bắc Lệ, đình Bắc Lệ (huyện Hữu Lũng)…

- Số đình, đền, chùa có tình trạng kỹ thuật trung bình: là 47/168 di tích (chiếm 27,54%). Có 32/89 ngôi đình (35,96%) có tình trạng kỹ thuật trung bình. Có 8/57 đền/miếu/nghè trên địa bàn tỉnh có tình trạng kỹ thuật trung bình (chiếm 14,04%). Có 7/22 ngôi chùa (31,82%) có tình trạng kỹ thuật trung bình. Các di tích này tập trung chủ yếu ở huyện Hữu Lũng như đình Tri Quan Thượng, đình Trại Dạ, đền Suối Ngang…

- Số đình, đền, chùa đang bị xuống cấp: là 28/168 di tích (chiếm 16,77%). Có 22/89 ngôi đình (24,72%) đang bị xuống cấp, 2/57 đền/miếu/nghè đang xuống cấp (chiếm 3,51%,) 4/22 ngôi chùa (18,18%) đang bị xuống cấp. Một số di tích đang bị xuống cấp như: đình Nà Thia, đình Ỏi Nu, đình Khun Lầu, đình Coóc Sa (huyện Văn Quan), đình Na Dương, chùa Trung Thiên và đình Khau Ngòa (huyện Lộc Bình).

- Số đình, đền, chùa đang bị xuống cấp nghiêm trọng: là 14/168 di tích (chiếm 8,33%). Trong đó, có 10/89 đình (chiếm 11,24% số đình), có 3/57 đền/miếu (chiếm 5,26% số đền/miếu) và 01/22 chùa (chiếm 4,76% số chùa) đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Cụ thể là một số di tích như: đình làng Trung, chùa Nái, cầu Quan Âm (huyện Chi Lăng), đình Dục Lắc, nghè Hữu Vĩnh (huyện Bắc Sơn).

(Xem Phụ lục 7,8 - tình trạng kỹ thuật của di tích kiến trúc đình, đền/miếu/nghè, chùa trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn)

3.2. Tình trạng bảo tồn yếu tố gốc

Về tình trạng bảo tồn các yếu tố gốc cụ thể của các huyện/thành phố và các loại hình di tích như sau: (chi tiết tại Phụ lục 9, 10- Tình trạng bảo tồn yếu tố gốc của các loại hình di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn)

Hình 6: Biểu đồ về tình trạng bảo tồn yếu tố gốc của các loại hình di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Kết quả cho thấy:

- Bảo tồn nhiều yếu tốc gốc:có 116/421 di tích, chiếm 27,55% tổng số di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Các di tích này tập trung chủ yếu ở các loại hình hang/động (37,5%), đồi/núi/đèo (39,29%), địa điểm (14,94%), loại hình khác (20,97%), nhà lưu niệm/nhà ở (16,67%). Các loại hình di tích đình, đền/miếu/nghè và chùa số lượng di tích bảo tồn được nhiều yếu tố gốc rất ít chỉ chiếm 6,74% và 9,09%, riêng đền/miếu/nghè không có di tích nào bảo tồn được nhiều yếu tố gốc.

- Bảo tồn được các yếu tố gốc ở mức độ trung bình:có 70/421 di tích, chiếm 16,63% tổng số di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Các di tích này tập trung ở các loại hình hình hang/động (56,25%), đồi/núi/đèo (50%), địa điểm (37,93%), loại hình khác (35,48%), nhà lưu niệm/nhà ở (25%). Các loại hình di tích kiến trúc đình, đền/miếu/nghè lần lượt chiếm 4,49%, 3,51% và 4,55%.

- Bảo tồn được ít yếu tố gốc:có 211/421 di tích, chiếm 50,12% tổng số di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Trong đó đình (78/89 di tích, chiếm 87,64% số đình), đền/miếu/nghè (55/57di tích chiếm 96,49% số đền/miếu/nghè), chùa (18/22 chùa chiếm 81,82% số chùa), nhà lưu niệm/nhà ở (7/12 di tích chiếm 58,33% tổng số nhà), địa điểm/làng/bãi tập (31/88 di tích chiếm 34,48% số địa điểm/làng/bãi tập), hang (3/63 hang chiếm 4,76 % số hang), loại hình khác (17/62 di tích chiếm 27,42% số di tích thuộc loại hình này).

- Không còn dấu tích:có 24/421 di tích, chiếm 5,7% tổng số di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Các di tích này hiện nay chỉ được cắm biển tên và tập trung chủ yếu ở loại hình địa điểm (12,64% tổng số địa điểm) và loại hình khác (16,13% tổng số di tích thuộc loại hình khác). Có 4,45% trong tổng số chùa trên địa bàn tỉnh không còn dấu vết, 3,57% loại đồi/núi/đèo và 1,12% tổng số đình không còn dấu tích.

III. ĐÁNH GIÁ CÁC GIÁ TRỊ CỦA HỆ THỐNG DI TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN

1. Giá trị lịch sử văn hóa

1.1. Niên đại di tích

Trong quá trình điều tra khảo sát, mỗi di tích đều có phần đánh giá niên đại di tích, bao gồm:

Niên đại tuyệt đối:được đánh giá dựa trên tư liệu minh văn chạm khắc trực tiếp trên kiến trúc như ở thượng lương, dạ câu đầu; hoặc sơn lại trên tường.

Niên đại tương đối: dựa vào di vật, tầng văn hóa, phong cách nghệ thuật kiến trúc và hoa văn trang trí, cũng như những dấu vết chạm khắc trang trí sớm nhất hiện còn trên kiến trúc. Ngoài ra, dựa trên việc tổng hợp các thông tin, tư liệu ở những lần tu sửa di tích thời gian gần đây.

1.1.1. Đối với loại hình di tích khảo cổ học

Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 38 di tích khảo cổ học, trong đó có 19 di tích mang dấu ấn văn hóa Bắc Sơn (Sơ kỳ đá mới - khung niên đại cách ngày nay từ 11.000 năm đến 6.000 năm); 07 di tích mang dấu ấn văn hóa Mai Pha (hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí - khung niên đại cách ngày nay từ 4.000 đến 3.000 năm); 03 di tích thuộc trung kỳ Cánh Tân (thời kỳ đồ đá cũ - khung niện đại cách ngày nay từ 0,5-0,3 triệu năm); 03 di tích thuộc hậu kỳ Cánh Tân (thời kỳ đồ đá cũ - khung niện đại cách ngày nay từ 40-11 nghìn năm); 01 cây hóa thạch thuộc thế Trung Tân (khung niên đại cách ngày nay từ 25.000.000 - 15.000.000 năm); 01 giếng cổ, 01địa điểm phát hiện trống đồng (Đồi Khau Phất); 01 địa điểm phát hiện mộ thuyền(Hang Cổ sinh); 01 địa điểm có nhiều chồng xếp nhau; 01 di tích chưa có thông tin chính xác về vị trí và niên đại (Xem phụ lục 11 - Danh sách các di tích khảo cổ học trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn).

1.1.2. Đối với loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật và một số di tích lịch sử văn hóa có công trình kiến trúc

Mặc dù hầu hết các công trình kiến trúc nghệ thuật đều đã được trùng tu, tôn tạo, song qua những di vật, cổ vật và những thành phần kiến trúc còn lại đến ngày nay đã chỉ ra quy mô, tầm cỡ của các di tích.

Ở loại hình chùa, chùa Thành (Thành phố Lạng Sơn) được xây dựng vào thời Hậu Lê (thế kỷ 15); chùa Trung Thiên (Lộc Bình) được xây dựng vào cuối thế kỷ 17 do Quận công Vi Đức Thắng phát tâm công đức; động - chùa Nhị Thanh, Tam Thanh gắn với danh nhân Ngô Thì Sĩ giai đoạn thế kỷ 18 là những ngôi chùa nổi tiếng ở Lạng Sơn.

Ở loại hình đình, đền, miếu, nghè, dấu vết kiến trúc sớm nhất là từ đầu thế kỷ 20, như đình Nông Lục, đình làng Huyền, đình làng Mỏ, đình làng Cóc (Bắc Sơn). Nhiều di tích mặc dù đã được trùng tu, xây mới gần đây nhưng vẫn còn giữ được các di vật như sắc phong, ngai thờ, bài vị minh chứng cho lịch sử ra đời từ khá sớm của di tích.

Ở loại hình từ đường, nhà thờ họ, kiến trúc cơ bản đã được trùng tu, xây mới gần đây, do sự đóng góp công sức, kinh phí của con cháu trong họ. Trong đó nổi tiếng nhất có khu biệt phủ Vi Văn Định (Lộc Bình) còn giữ lại được cổng và vật liệu xây dựng có niên đại đầu thế kỷ 20.

Ở loại hình nhà cổ, có di tích Phố Ngầu (Cao Lộc) là một khu phố cổ của người Hoa kiều được xây dựng từ đầu thế kỷ 20 với hai dãy phố chạy song song theo trục chính hướng Đông - Tây ra tới gần bờ sông Kỳ Cùng, ở giữa là một khoảng rộng tạo nên khu chợ, là nơi giao lưu buôn bán của nhân dân địa phương. Hiện nay phố Ngầu chỉ còn lại 7 ngôi nhà được xây dựng khá giống nhau theo kiến trúc tường trình, mái lợp ngói âm dương. Cùng với đó, ở Lạng Sơn còn có di tích hệ thống nhà cổ kiến trúc Pháp (Tràng Định) còn bảo lưu được một số ngôi nhà của người Việt xây theo kiến trúc Pháp vào khoảng những năm 30,40 của thế kỷ 20.

Bên cạnh đó, còn có một số địa điểm như làng cổ Phạc Lạn, xã Hoàng Văn Thụ (huyện Văn Lãng); làng cổ Quỳnh Sơn, xã Bắc Quỳnh (huyện Bắc Sơn), làng cổ nhà trình tường Bản Khoai, Bản Dị, xã Hữu Khánh (huyện Lộc Bình), làng Khuyên Hin, xã Xuất Lễ (huyện Cao Lộc)...Tuy hầu hết chưa được đưa vào danh mục kiểm kê song vẫn còn rải rác một số ngôi nhà còn bảo lưu được các kiến trúc cổ cần được gìn giữ.

Ở loại hình cầu cổ, có cầu Khao (Cao Lộc) thiết kế theo hình vòm cuốn, chân cầu được xây dựng bằng những tảng đá xanh hình chữ nhật. Đây là một hình thức xây dựng cầu khá hiếm gặp ở Lạng Sơn, niên đại khoảng thời Lê -Nguyễn.

Cụ thể ở từng huyện, thành phố như sau:

* Tại huyện Bắc Sơn

Ở loại hình đình có 9 di tích, đa số còn bảo lưu được các cấu kiện gỗ phong cách nghệ thuật đầu thế kỷ 20. Bắc Sơn là địa phương giữ được nhiều ngôi đình có dấu vết kiến trúc nghệ thuật sớm nhất so với các địa phương khác ở Lạng Sơn. Tiêu biểu có Đình Nông Lục (xã Hưng Vũ), đình làng Huyền, đình làng Mỏ (xã Trấn Yên); đình Quỳnh Sơn (xã Bắc Quỳnh): mái lợp ngói âm dương, còn nhiều mảng chạm khắc phong cách nghệ thuật đầu thế kỷ 20.

Ở loại hình chùa, có 01 di tích là chùa Quỳnh Sơn (xã Bắc Quỳnh) đang trong quá trình trùng tu, xây mới lại hoàn toàn.

Ở loại hình nghè, có tổng cộng 2 nghè, trong đó nghè Hữu Vĩnh (xã Hữu Vĩnh) đã bị xuống cấp nghiêm trọng, tuy nhiên vẫn còn một số mảng chạm mang phong cách đầu thế kỷ 20.

Ở loại hình cầu, có cầu lợp Long Đống (xã Long Đống) theo sử liệu cho biết được dựng năm Chính Hòa thứ 23 (1763) theo kiểu “thượng gia - hạ kiều”. Trải qua nhiều năm sương gió cùng với thời gian và chiến tranh tàn phá, cây cầu cổ đã mất đi dấu tích của kiến trúc cổ, toàn bộ nhà trên cầu và mặt cầu đã bị hư hỏng đổ xuống suối Long Đống. Cầu Long Đống hiện nay đã được xây mới lại hoàn toàn bằng bê tông.

* Tại huyện Cao Lộc

Ở loại hình đình, trong số 4 di tích khảo sát có đình Hang Pài (xã Thụy Hùng) đã bị phá hủy hoàn toàn, hiện chỉ còn một miếu nhỏ mới được xây dựng đặt bát hương thờ cúng, tuy nhiên tư liệu văn bia hiện còn cho biết đình được dựng vào đời vua Thành Thái. Còn đình Tài Trỏ (xã Yên Trạch) có phong cách nghệ thuật thế kỷ 20 cũng đang bị xuống cấp nghiêm trọng.

Ở loại hình chùa, có 1 di tích là chùa Bắc Nga (xã Gia Cát), tuy có tư liệu văn bia cho thấy chùa có niên đại muộn nhất vào thế kỷ 19 nhưng chùa cũng đã được trùng tu vào đầu thế kỷ 21.

Ở loại hình đền, trong 3 di tích khảo sát đều là những ngôi đền nổi tiếng được nhiều người thăm viếng như đền Cô Đôi, đền Mẫu Đồng Đăng, đền Quan (thị trấn Đồng Đăng). Tuy nhiên đây đều là những công trình được xây dựng mới lại hoàn toàn vào cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21.

Ở loại hình địa điểm/làng/bãi tập, trong số 7 di tích khảo sát có phố Ngầu(xã Tân Liên) còn khoảng 8 nhà cổ xây dựng vào đầu thế kỷ 20, tuy nhiên đều đã bị xuống cấp, hư hỏng nặng.

Ở loại hình cầu, có cầu Khao (xã Thụy Hùng) có niên đại thời Lê - Nguyễn hiện đã bị xuống cấp và không còn được sử dụng.

* Tại huyện Bình Gia

Ở loại hình đình, có 4 đình được khảo sát. Trong đó đình Phai Cam (thị trấn Bình Gia) có quy mô khá đồ sộ mang phong cách nghệ thuật đầu thế kỷ 20. Những ngôi đình còn lại đều đã được trùng tu, xây mới vào cuối thế kỷ 20 đến đầu thế kỷ 21.

Ở loại hình đền, có 1 di tích là đền Trần Hưng Đạo (thị trấn Bình Gia) còn lưu giữ được một bức hoành phi thời Nguyễn nhưng kiến trúc đã được xây mới lại toàn bộ.

*Tại huyện Văn Quan

Ở loại hình đình, có 8 di tích đình nhưng đây là đều là các di tích được xây mới lại với quy mô nhỏ, có di tích còn lợp tạm bợ bằng fibro xi măng như đình Bản Só (xã Hữu Lễ). Niên đại xây dựng lại các ngôi đình này đều là cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21.

Ở loại hình cầu đá, có 1 di tích là cầu đá Xuân Mai (xã Bình Phúc) có niên đại thời Lê - Nguyễn, tuy nhiên hiện nay đã không còn được sử dụng và dần trở nên hoang phế.

Ở loại hình nhà ở/nhà lưu niệm, có 2 di tích được khảo sát là nhà lưu niệm đồng chí Lương Văn Tri (xã Trấn Ninh) có niên đại thế kỷ 20 và nhà là thờ tổ họ Hà với hạng mục từ đường và lăng mộ đều được xây mới vào đầu thế kỷ 21.

* Tại thành phố Lạng Sơn

Ở loại hình đình, có 2 di tích là đình Pác Mòng đang trong quá trình xây mới và đình Mai Pha (xã Mai Pha) là công trình phục dựng đầu thế kỷ 21.

Ở loại hình chùa, có 1 di tích là chùa Thành (phường Chi Lăng). Trước kia chùa nằm ở cạnh Đoàn Thành thuộc xã Mai Pha - Châu Ôn, thế kỷ 15 gọi là chùa Hương Lâm. Vào năm Cánh Hưng thứ 4 (1796) chùa được chuyển về ở chỗ hiện nay (đầu cầu Kỳ Cùng) đổi tên là chùa Tuần Khánh, sau lại lấy tên là chùa Diên Khánh có nghĩa là tích điều thiện để có nhiều phúc truyền cho đời sau.Chùa Thành là một công trình nghệ thuật kiến trúc qui mô nhất ở Lạng Sơn, được tôn tạo tu sửa vào những năm 1796, 1947, 1975, 1980, 1992, 2007.

Bên cạnh đó, chùa Tiên, động Nhị Thanh, Tam Thanh tuy được xếp vào di tích danh lam thắng cảnh nhưng có thờ tự và bài trí hệ thống tượng Phật trong hang động. Hiện chưa rõ chính xác các di tích này bắt đầu xuất hiện thêm chức năng tôn giáo vào khoảng thời gian nào.

Ở loại hình đền, miếu, có 15 di tích, là những di tích được ghi nhận có niên đại khởi dựng sớm và nhiều người thăm viếng. Tuy nhiên, kiến trúc hiện nay đều mang phong cách nghệ thuật chung cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, tiêu biểu là:

Đền Tả Phủ (phường Hoàng Văn Thụ) được xây dựng vào năm Chính Hòa thứ 4 (1683) ở trung tâm phố Kỳ Lừa.

Đền Kỳ Cùng (phường Vĩnh Trại) được sách “Đại Nam Nhất Thông Chí” viết: “Đền Kỳ Cùng ở xã Vĩnh Trại - Châu Thoát Lãng, nơi tả ngạn sông Kỳ Cùng có thần Giao Long. Đền rất linh hiển được lịch triều phong tặng. Khi sứ bộ đi qua đây, trước sửa lễ cáo yết sau mới sang đò...”. Đền Kỳ Cùng đã trải qua các đợt trùng tu vào những năm 1928, 1931, 1967, 1989,...

Đền Cửa Tây (phường Chi Lăng) được xây dựng vào năm 1924 để thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo cùng các vị thánh Mẫu

Đền Cửa Bắc (phường Chi Lăng) còn một đoạn Thượng lương ghi niên đại: “Hoàng triều Khải Định thập niên mùa xuân tu tạo linh từ, cát nhật, lương thời thụ trụ thượng lương đại cát”; điều đó cho biết đền được tu tạo vào năm 1925.

Đền Cửa Nam (phường Chi Lăng) có niên đại khắc trên thượng lương gian giữa tòa Tiền tế: “Bảo Đại cửu niên, tuế thứ Giáp Tuất, lục nguyệt, sơ bát nhật trùng tu, thụ trụ thượng lượng đại cát”; điều này cho biết đền được trùng tu vào ngày 8/6/1934 theo Âm lịch.

Đền Khánh Sơn (xã Mai Pha) có niên đại khắc trên Thượng lương gian giữa: “Khải Định tam niên, tuế thứ Mậu Ngọ, thập nguyệt, nhị thập ngũ nhật Ngọ, lương thời đại cát đại lợi”; cho biết đền có niên đại năm 1918. Phong cách nghệ thuật chung của đền cũng mang dấu ấn đầu thế kỷ 20.

Ở loại hình nhà ở/nhà lưu niệm, có 2 di tích được khảo sát là di tích khuôn viên lưu niệm Hồ Chí Minh (phường Vĩnh Trại) và di tích nhà số 8 - phố Chính Cai Kỳ Lừa (phường Hoàng Văn Thụ) đều có niên đại thế kỷ XXI.

* Tại huyện Hữu Lũng

Ở loại hình đình, tổng số có 42 di tích. Mặc dù tư liệu sắc phong cho thấy một số ngôi đình có niên đại khởi dựng muộn nhất là đầu thế kỷ 20, tuy nhiên các di tích đều không còn giữ được thành phần gốc. Niên đại trùng tu, xây mới chủ yếu là cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21.

Ở loại hình chùa, 9 di tích được khảo sát cũng có tình trạng tương tự như loại hình đình. Chùa ít được đầu tư, hầu hết xây kiểu chắp vá, niên đại hiếm được ghi lại nhưng dựa trên phong cách nghệ thuật cho thấy chủ yếu là xây mới đầu thế kỷ 21. Một số đã bị hư hỏng do không được chăm sóc thường xuyên. Một số di tích tuy tên gọi là chùa nhưng thực tế lại là đình như chùa Lầm Thượng (xã Yên Vượng); chùa Sơn Lộc (xã Yên Thịnh). Trong đó chùa Sơn Lộc có niên đại ghi trên Thượng lương gian giữa: “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tứ thập ngũ niên, tuế thứ Kỷ Tỵ, quý đông nguyệt, thập tứ nhật, lập đình trụ đại cát” cho biết kiến trúc đình được dựng vào năm 1989.

Ở loại hình đền, nghè, trong số 20 di tích được khảo sát,có nhiều ngôi đền nổi tiếng về tâm linh như đền Bắc Lệ (xã Tân Thành), đền Chầu Lục, đền Quan Giám Sát (xã Hòa Lạc), đền Suối Ngang (xã Hòa Thắng),... Ở đền Chầu Lục, dạ thượng lương gian giữa tòa Tiền tế ghi: “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Ất Dậu”, nghĩa là được xây dựng năm 1993. Ở dạ thượng lương gian giữa tòa Trung cung thì cho biết: “Việt Nam Quốc tuế thứ Kỷ Sửu niên, thập nguyệt nhập nhất nhật”, tức xây dựng năm 2009.Nhìn chung, những ngôi đền đều được xây mới, trùng tu vào cuối thế kỷ 20 đến đầu thế kỷ 21; không còn giữ được các thành phần trang trí kiến trúc gốc.

* Tại huyện Chi Lăng

Ở loại hình đình, có 5 di tích thì 4 di tích là đình Tháng 1, đình Tháng 4 (thị trấn Chi Lăng), đình làng Mỏ, đình làng Coóc (xã Quang Lang nay là thị trấn Đồng Mỏ) đều mới được xây dựng, trùng tu gần đây; còn đình làng Trung (xã Chi Lăng) đã trở thành phế tích.

Ở loại hình chùa, có 1 di tích được xếp vào loại hình kiến trúc nghệ thuật là chùa Tháng 2 (thị trấn Chi Lăng) là công trình mới được trùng tu; còn chùa Hang (TT Đồng Mỏ) và chùa Nái (thị trấn Chi Lăng) nằm trong cụm di tích lịch sử Chi Lăng nay đã không còn dấu vết; đình chùa làng Trung (TT Đồng Mỏ) là công trình mới được trùng tu…

Ở loại hình đền, có 10 di tích, trong đó nhiều đền nổi tiếng về tín ngưỡng thờ Mẫu như đền Chầu Bát, đền Cô Chín (thị trấn Đồng Mỏ), đền Chầu Mười (xã Hòa Bình), đền Chầu Năm (thị trấn Chi Lăng). Tất cả đều là các công trình mới được xây dựng, trùng tu lại vào đầu thế kỷ 21.

* Tại huyện Tràng Định

Ở loại hình đình, có 2 di tích đình là đình Chúa Sơn Lâm (xã Kháng Chiến) và đình Phai Phát (xã Đề Thám). Trong đó đình Chúa Sơn Lâm đã bị bỏ hoang từ năm 1989, đền nay chỉ còn là phế tích; còn đình Phai Phát, mặc dù còn tư liệu sắc phong niên đại Khải Định thứ 9 (1924) song hiện nay cũng chỉ là ngôi đình nhỏ được xây dựng năm 2018 bằng gạch, mái lợp fibro xi măng.

Ở loại hình chùa, tương truyền, chùa Linh Quang được xây dựng theo sắc chỉ của vua Lê Thái Tổ (thế kỷ 15). Theo Đại Nam nhất thống chí, đây là một trong 7 ngôi chùa cổ có quy mô ở Lạng Sơn thời phong kiến Lê - Mạc (gồm: chùa Diên Khánh, Chùa Song Tiên ở địa phận xã Mai Pha thuộc Châu Ôn; chùa Tam Thanh và Nhị Thanh ở địa phận xã Vĩnh Trại Châu Thoát Lãng Châu, chùa Bắc Trấn ở xã Hữu Thu, châu Thoát Lãng; chùa Linh Quang ở địa phận xã Cẩm Sơn, huyện Thất Khê; chùa Tiên Nga ở địa phận Nga Trang phía bắc châu Lộc Bình. Tuy nhiên, vào năm 1986, chùa Linh Quang hiện nay đã bị sập đổ hoàn toàn và mới gần đây nhân dân địa phương đã cho dựng tạm chùa Linh Quang trên nền đất cũ của chùa, xây bằng gạch, lợp ngói fibro xi măng để đáp ứng nguyện vọng tâm linh của nhân dân địa phương.

Ở loại hình đền,qua khảo sát 3 di tích, trong đó đền Quan Lãnh và đền Gốc Sung (thị trấn Thất Khê) mặc dù được tu bổ trong những năm gần đây nhưng vẫn giữ được dấu vết kiến trúc nghệ thuật thế kỷ 20; còn đền Phja My có niên đại phục dựng đầu thế kỷ 21.

Ở loại hình nhà ở/nhà lưu niệm, có di tích nhà lưu niệm chủ tịch Hồ Chí Minh (thị trấn Thất Khê) mới xây dựng năm 2020. Cùng với đó là một số công trình cột mốc ghi dấu di tích chiến thắng đường 4 có niên đại đầu thế kỷ 21.

* Tại huyện Văn Lãng

Ở loại hình đình, qua khảo sát có tổng cộng 3 di tích là đình Na Sầm (thị trấn Na Sầm), đình Bản Van (xã Hội Hoan), đình Bản Kìa (xã Hội Hoan). Tất cả đều có niên đại trùng tu xây mới đầu thế kỷ 21.

Ở loại hình chùa, có 3 di tích, trong đó Chùa Thanh Hương (xã Tân Mỹ) và chùa Nà Cưởm (TT Na Sầm) đều được trùng tu trên nền cũ vào những năm 2016-2017; riêng chùa Tân Thanh (xã Tân Thanh) được xây mới hoàn toàn vào năm 2015.

Ở loại hình đền, có 2 di tích đều nằm ở thị trấn Na Sầm là đền thờ Hai Bà Trưng và đền thờ Đức Thánh Trần có niên đại đầu thế kỷ 21. Trong đó đền Đức Thánh Trần vẫn còn dấu tích đền cũ dựng tựa vào vách núi cách đó không xa.

Ở loại hình nhà ở/nhà lưu niệm, có nhà lưu niệm của đồng chí Hoàng Văn Thụ (xã Hoàng Văn Thụ) có niên đại theo phong cách nghệ thuật thế kỷ 20.

* Tại huyện Lộc Bình

Ở loại hình đình, đình Pò Nọi (TT Lộc Bình), đình Khau Ngòa (xã Thống Nhất) đình Na Dương (thị trấn Na Dương) có niên đại thế kỷ 20; còn đình Bản Chu (xã Khuất Xá), đình Vằng Khắc (xã Thống Nhất), các đình còn lại có niên đại thế kỷ 21.

Ở loại hình chùa, có 2 di tích được khảo sát, trong đó chùa Trung Thiên (xã Tú Đoạn) theo tư liệu văn bia được dựng năm Chính Hòa thứ nhất (năm 1680), qua nhiều lần trùng tu, hiện nay chùa còn lưu giữ được 2 vì nách ván mê có niên đại đầu thế kỷ 20. Di tích còn lại là chùa Bản Chu (xã Khuất Xá) đang trong quá trình xây mới lại hoàn toàn.

Ở loại hình đền, có 1 di tích là đền Khánh Sơn (thị trấn Lộc Bình) có niên đại cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21.

Ở loại hình nhà lưu niệm/nhà ở, có di tích khu nhà cổ (biệt phủ) Vi Văn Định, Di tích này hiện đã được trùng tu, xây mới vào năm 2017, tuy nhiên bên ngoài vẫn còn dấu vết cổng xây bằng gạch có niên đại đầu thế kỷ 20.

* Tại huyện Đình Lập

Ở loại hình đình, có 4 di tích là đình Pò Háng (xã Bính Xá), đình Đông Quất (xã Cường Lợi), đình Khe Dăm (xã Lâm Ca), đình Tà Hón (xã Đình Lập) đều được phục dựng và trùng tu vào đầu thế kỷ 21.

Ở loại hình nhà lưu niệm/nhà ở, có di tích nhà Cao - Phố Cũ được xếp vào loại hình di tích lịch sử văn hóa do ông Lài Quản (người Hoa kiều) xây dựng năm 1924, trải qua nhiều lần tu sửa đến nay vẫn mang nhiều nét phong cách thế kỷ 20.

1.2. Hệ thống hiện vật có giá trị

Trong các di tích được khảo sát tại tỉnh Lạng Sơn còn giữ được một số di vật có giá trị như: sắc phong, bia đá, tượng thờ… có giá trị.

1.2.1. Bia đá

Di vật này có cả ở đình, đền, chùa, hang động, gồm hai loại là bia đá khối rời và bia khắc trên vách núi (bia ma nhai). Hiện nay, Bảo tàng Lạng Sơn đang lưu trữ 62 bản dập văn bia (thành phố Lạng Sơn có 40 văn bia). Trong đó theo thống kê ở từng di tích trên địa bàn cho thấy: Thành phố Lạng Sơn có 8 di tích, huyện Hữu Lũng có 5 di tích, huyện Cao Lộc có 5 di tích, huyện Tràng Định có 02 di tích, huyện Lộc Bình và Văn Lãng đều có 01 di tích (xem chi tiết tại phụ lục số 12 - Thống kê bia đá tại các di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn)

Qua nghiên cứu, tấm bia cổ nhất theo kết quả điều tra là “Thể tồn bi ký” tại di tích Thủy Môn Đình (huyện Cao Lộc) tạo vào năm Cảnh Trị 8 (1670). Bia do Thao quận công Nguyễn Đình Lộc soạn. Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu nội dung bia Thủy Môn Đình đã nổi bật lên những giá trị lịch sử đặc biệt quan trọng bởi cụm từ “Việt Nam hầu thiệt. Trấn Bắc ải quan”(có nghĩa: Đây là cửa ngõ và yết hầu của nước Việt Nam, và là ải quan trấn giữ phương Bắc). Việc sử dụng 2 chữ “Việt Nam” trên “Thể Tồn bi ký” mang ý nghĩa “hành chính” rất lớn, nó đã khẳng định rằng Quốc hiệu Việt Nam đã được sử dụng từ lâu, từ năm 1670 đã có trên văn bia và chắc chắn nó đã có từ trước những năm 1670.

Một số tấm bia cổ khác dựng vào giai đoạn nửa sau thế kỷ 17 là “Tân tạo Mẫu Sơn xứ Trung Thiên tự” có niên đại Chính Hòa thứ 1 (năm 1680) ở chùa Trung Thiên (huyện Lộc Bình) và “Tôn sư phụ bi” có niên đại Chính Hòa thứ 4 (năm 1683) ở đền Tả Phủ (thành phố Lạng Sơn).

Động Nhị Thanh là di tích có hệ thống bia ma nhai đồ sộ với 20 văn bia đủ mọi kích thước xen kẽ nhau. Nội dung bia chủ yếu ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên và con người Xứ Lạng, ghi lại việc phát hiện, tạo dựng động Nhị Thanh và chùa Tam Giáo của các bậc tiền nhân, trong đó có bài“Nhị Thanh động phú”tức bài phú động Nhị Thanh của Ngô Thì Sĩ viết năm 1779 cùng bài thơ tự tán của ông khi mới phát hiện và đặt tên cho động Nhị Thanh và các bài viết của tiến sĩ Lê Hữu Dung - Phụng sai Đốc đồng xứ Lạng Sơn tham hiệp quân vụ năm 1780 cùng nhiều bài viết của các danh nhân thi sĩ khác.

1.2.2. Tượng thờ

Động Tam Thanh còn lưu giữ bức phù điêu Adiđà có niên đại khoảng thế kỷ 17 được tạc theo thế đứng vào vách đá trong hình một lá bồ đề là một nét độc đáo và được coi là tượng thờ dạng phù điêu có niên đại sớm nhất từng được biết đến ở Lạng Sơn. Động Nhị Thanh còn lưu giữ một bức họa vẽ Ngô Thì Sĩ từ năm 1779 với phong thái uy nghi, trang trọng.

Ngoài ra, một số ít di tích cũng còn giữ được hệ thống tượng thờ hay bát hương có giá trị với niên đại khoảng thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 như ở đền Bắc Lệ xã Tân Thành (huyện Hữu Lũng), đình Khau Ngòa (huyện Lộc Bình),...

Chùa Thành (thành phố Lạng Sơn) là ngôi chùa có hệ thống tượng thờ bằng đồng nguyên khối nhiều nhất Việt Nam với 53 pho tượng.

1.2.3. Sắc phong

Di vật này chủ yếu có ở đình và đền. Nhiều ngôi đền còn giữ được số lượng sắc phong lớn, tiêu biểu như: đền thờ Đức Thánh Trần (thành phố Lạng Sơn) còn 9 sắc phong, đền Quan Giám Sát (huyện Hữu Lũng) có 4 sắc phong, đền Thuốc Sơn, đình Đồng Lai (huyện Hữu Lũng) có 2 sắc phong,... Hầu hết các sắc phong ở Lạng Sơn đều có niên đại thời Nguyễn, với mốc thời gian muộn nhất là Khải Định thứ 9, năm 1924 (xem phụ lục số 13 - Thống kê sắc phong tại các di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn)

1.3. Đối tượng thờ tự và các giá trị văn hóa phi vật thể

Đối với loại hình đình, đối tượng thờ là những vị thần (có thể là thần tự nhiên hoặc nhân thần - những người có công với dân làng), tuy nhiên phổ biến hơn cả là thờ Cao Sơn, Quý Minh, nhất là với những di tích gần sông Thương và sông Kỳ Cùng. Cũng một số di tích, nhất là di tích xây mới, người dân địa phương đã hoàn toàn không nhớ hoặc không nhớ chính xác Thành hoàng làng là ai. Khi được phỏng vấn, họ cho biết chỉ có thế hệ cũ là còn biết tên của vị thần được thờ, còn họ chỉ biết chung chung là thờ Thành hoàng.

Đối với loại hình đền, đối tượng thờ là những vị thần hoặc thờ Mẫu, đức thánh Trần, chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đối với loại hình chùa, đối tượng thờ chính là Phật giáo Đại thừa. Tuy nhiên, hiện gần như tất cả các chùa đều thờ thêm Mẫu, đức thánh Trần.

Cùng với việc thờ tự các vị thần, thành hoàng, hàng năm, tại mỗi di tích đều có những ngày lễ hội để thờ cúng, tưởng nhớ các vị Thành Hoàng. Lễ hội là một nhu cầu không thể thiếu của nhân dân các dân tộc Lạng Sơn. Lễ hội được hình thành từ lòng ngưỡng mộ, biết ơn đối với những người đã có công với dân với nước, từ sự tôn thờ các thế lực tự nhiên và từ sự khát vọng cầu mùa, cầu an của cư dân nông nghiệp.

Lạng Sơn hiện có 08 di sản được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia, gồm: lễ hội đền Kỳ Cùng - Tả Phủ (thành phố Lạng Sơn); lễ hội Ná Nhèm (xã Trấn Yên, huyện Bắc Sơn); lễ hội Bùng Kham (TT Thất Khê, huyện Tràng Định); lễ hội Trò Ngô làng Giàng (xã Yên Thịnh, huyện Hữu Lũng); lễ hội Phai Lừa (xã Hồng Phong, huyện Bình Gia); nghi lễ then của người Tày Nùng Lạng Sơn; Di sản Múa sư tử mèo của người Tày, Nùng Lạng Sơn; Hát Sli dân tộc Nùng Lạng Sơn.

2. Giá trị kiến trúc, nghệ thuật

2.1. Giá trị về cảnh quan di tích

Từ trước đến nay, theo quan niệm của người dân Việt Nam nói chung, việc chọn hướng, vị thế cho một công trình kiến trúc, đặc biệt đối với các di tích là cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo là một việc làm hết sức quan trọng và tuân theo một quy tắc nhất định. Dựa vào đó người ta cho rằng chọn đất phải là nơi có "địa linh", tức là vùng đất phải cao ráo, sáng sủa, đẹp đẽ, phía trước phải rộng rãi, phong quang, xung quanh tốt nhất phải có núi chầu về, sau lưng có thế tựa, hai bên có "tay ngai" và trước mắt bao giờ cũng phải có nguồn nước. Tóm lại phải chọn đất làm sao cho có "đầu gối sơn, chân đạp thủy".

Bên cạnh thế đất, điều được người dân quan tâm đến nữa là việc chọn hướng cho di tích. Hướng là yếu tố liên quan đến sự hưng, vong của cả cộng đồng. Nếu chọn hướng tốt mới có sự linh ứng của thần linh, từ đó mới được thần ban lộc, phù hộ, che chở cho cuộc sống của người dân được thịnh vượng, no ấm. Người Việt thường chon hướng của công trình theo hướng Nam hoặc hướng Tây. Bởi hướng Nam là hướng phù hợp với điều kiện tự nhiên và khí hậu ở nước ta, mùa hè thì mát, mùa đông thì ấm tạo nên sự thông thoáng, khô ráo. Đạo Phật cùng cho rằng hướng Nam là hướng trí tuệ trong sáng, hướng của thánh nhân và bậc đế vương. Hướng Tây mặc dù khí hậu nóng vào mùa hè, nhưng về mặt tâm linh, người dân cho là phù hợp quy luật âm dương thuận hòa do vậy thần sẽ bình tâm tọa hưởng, trị vì và ban phúc cho dân.

Xuất phát từ quan niệm đó, nên các công trình kiến trúc ở nước ta về cơ bản thường xây dựng theo Nam, Tây, Đông Nam, Tây Nam...và việc xây dựng các công trình ở Lạng Sơn cũng không nằm ngoài quy tắc, quan niệm trên.

2.1.1. Ở loại hình đình

Bảng 1: Tổng hợp vị trí ngôi đình trong tổng thể

TT

Tên huyện/TP

Vị trí ngôi đình

Tổng

Đầu làng

Giữa làng

Ngoài làng

Gần sông

Gần đường lớn

1

Bắc Sơn

4

3

0

0

2

9

2

Bình Gia

0

2

0

0

2

4

3

Cao Lộc

0

3

1

0

0

4

4

Văn Quan

0

3

2

0

3

8

5

TP. Lạng Sơn

1

0

0

1

0

2

6

Hữu Lũng

0

11

13

4

14

42

7

Chi Lăng

0

0

0

1

4

5

8

Tràng Định

0

0

1

0

1

2

9

Văn Lãng

0

0

3

0

0

3

10

Lộc Bình

1

3

1

1

0

6

11

Đình Lập

0

3

0

1

0

4

Tổng

6

28

 21

8

26

89

Qua khảo sát, ở Lạng Sơn đình thường hướng về một không gian thoáng đãng, có thể đó là một cánh đồng rộng, như đình Bản Chu (xã Khuất Xá, huyện Lộc Bình), đình Pác Moòng (xã Quảng Lạc, thành phố Lạng Sơn), hoặc hướng về nguồn nước, như đình Đồng Thuốc (xã Cai Kinh, huyện Hữu Lũng) gần sông Thương, đình Bản Làn (xã Điềm He, huyện Văn Quan) gần sông Kỳ Cùng.

Tuy nhiên, có những ngôi đình được dựng theo hướng khác nhau như: hướng Bắc (đình Cao - xã Sơn Hà, huyện Hữu Lũng; đình Đại Lương), hướng Tây Bắc (đình làng Lay, xã Thanh Sơn, huyện Hữu Lũng), hướng Đông Bắc (đình Bản Kìa - xã Hội Hoan, huyện Văn Lãng)...Việc này có thể là do việc chọn hướng đình phụ thuộc vào các công trình xung quanh như đường đi, nhà văn hóa, để tạo ra sự thuận tiện với người dân địa phương.

Về mặt cảnh quan, bảng tổng hợp trên cho thấy đa phần các ngôi đình được dựng gần khu dân cư, một số xây dựng trên một gò đất cao như đình Gò Chùa (xã Hữu Liên, huyện Hữu Lũng), đình Khau Ngòa (xã Vân Mộng, huyện Lộc Bình). Cũng có những ngôi đình được dựng ở ngoài làng, xa khu dân cư, nhưng cũng gần trục giao thông, thuận tiện cho đi lại, như đình Chúa Sơn Lâm (xã Kháng Chiến, huyện Tràng Định), đình Nông Lục (xã Hưng Vũ, huyện Bắc Sơn),...Cá biệt một số đình ở trong làng nhưng cũng gần sông; hay có đình vừa ngoài làng, vừa gần đường lớn.Như vậy, tính chung trong toàn tỉnh, số lượng đình làng được dựng ở giữa làng chiếm đa số. Những ngôi đình nằm ở ngoài làng thì cũng có cảnh quan đẹp, giữa không gian rộng, thoáng hoặc gần kề các con sông, như sông Thương, sông Kỳ Cùng…

2.1.2. Ở loại hình chùa

Nhiều ngôi chùa ở Lạng Sơn thường được xây dựng trên một gò đất khu vực ngoài làng và cách xa khu dân cư, như chùa Bắc Nga (xã Gia Cát, huyện Cao Lộc), chùa Đẩu (xã Đồng Tân, huyện Hữu Lũng). Khá nhiều ngôi chùa lại được dựng gần đình, nhưng thường nằm phía sau đình và tạo thành một cụm di tích tôn giáo, tín ngưỡng, như cụm đình - chùa An Lộc Thịnh (xã Yên Thịnh, huyện Hữu Lũng), đình - chùa Kim Sơn (TT Đồng Mỏ, huyện Chi Lăng…Hướng chùa tùy thuộc vào địa thế của từng khu đất nên cũng khá đa dạng, đủ 8 hướng.

Bảng 2: Tổng hợp vị trí ngôi chùa trong tổng thể

TT

Tên huyện/TP

Vị trí ngôi chùa

Tổng

Đầu làng

Giữa làng

Ngoài làng

Gần sông

Gần đường lớn

1

Bắc Sơn

0

0

0

0

1

1

2

Bình Gia

0

0

0

0

0

0

3

Cao Lộc

0

0

0

0

1

1

4

Văn Quan

0

0

0

 

0

0

5

TP. Lạng Sơn

0

0

0

1

1

2

6

Hữu Lũng

0

3

1

1

4

9

7

Chi Lăng

0

1

1

1

0

3

8

Tràng Định

0

0

0

1

0

1

9

Văn Lãng

0

0

0

0

3

3

10

Lộc Bình

0

0

1

1

0

2

11

Đình Lập

0

0

0

0

0

0

Tổng

0

4

3

5

10

22

Kết quả khảo sát cho thấy số chùa nằm ở giữa làng và chùa nằm ngoài làng, xa khu dân cư là tương đương nhau, một số chùa chọn địa thế gần sông. Ngoài ra do quá trình đô thị hóa, hiện đại quá, nhiều con đường tỉnh lộ, quốc lộ chạy qua rất gần với di tích.

2.1.3. Ở loại hình đền/miếu/nghè

Bảng 3: Tổng hợp vị trí ngôi đền/miếu/nghè trong tổng thể

TT

Tên huyện/thành phố

Vị trí ngôi đền/miếu/nghè

Tổng

Đầu làng

Giữa làng

Ngoài làng

Gần sông

Gần đường lớn

 

1

Bắc Sơn

1

1

0

0

 

2

2

Bình Gia

0

 1

0

0

0

1

3

Cao Lộc

0

0

0

0

3

3

4

Văn Quan

0

0

0

0

0

0

5

TP. Lạng Sơn

0

2

0

9

4

15

6

Hữu Lũng

0

7

3

3

7

20

7

Chi Lăng

0

3

1

2

4

10

8

Tràng Định

0

0

0

1

2

3

9

Văn Lãng

0

0

0

2

0

2

10

Lộc Bình

0

1

0

0

0

1

11

Đình Lập

0

0

0

0

0

0

Tổng

1

15

4

17

20

57

Cũng như loại hình đình, nhiều ngôi đền, miếu, nghè được dựng gần khu dân cư như đền Quan Giám Sát (xã Hòa Lạc, huyện Hữu Lũng), đền Chầu Bát (thị trấn Đồng Mỏ, huyện Chi Lăng) hoặc cũng có khi là trên một ngọn đồi hoặc núi cao như đền Quan (thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc), đền Khánh Sơn (xã Mai Pha, thành phố Lạng Sơn)...Nói chung, di tích thuộc loại hình này thường được dựng nương theo địa hình tự nhiên khá đa dạng và cũng đủ cả 8 hướng.

Kết quả tổng hợp cho thấy đa số đền/miếu/nghè ở gần khu dân cư và có rất nhiều đền có địa thế đẹp, gần sông và đường lớn, thuận tiện cho việc thăm viếng, sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân. Trong đó nổi bật nhất là hệ thống các di tích đền ở thành phố Lạng Sơn.

2.2. Bố cục mặt bằng tổng thể

Bố cục mặt bằng tổng thể di tích là một trong những thành tố quan trọng để xác định niên đại, phong cách kiến trúc và quy mô, diện tích của một công trình. Ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử bố cục mặt bằng tổng thể của di tích cũng có những thay đổi nhất định và thường tập trung ở một số kiến trúc cơ bản như: Chữ nhất (), chữ Nhị (), chữ đinh (), chữ công () đối với các công trình đơn lẻ, quy mô nhỏ, quỹ đất hạn chế và chữ Tam (), chữ môn (), "nội công ngoại quốc () đối với công trình tổng thể, quy mô lớn, quỹ đất rộng.

Với đặc thù ở tỉnh miền núi, các di tích kiến trúc nghệ thuật ở Lạng Sơn phổ biến là kiểu mặt bằng chữ “đinh”, chữ “nhất”... các công trình tổng thể quy mô lớn còn ít.

2.2.1. Ở loại hình đình

Bảng 4: Thống kê các dạng mặt bằng đình

TT

Tên huyện/TP

Các dạng mặt bằng

Tổng

Chữ Nhất

Chữ Nhị

Chữ Đinh

Chữ Công

1

Bắc Sơn

9

0

0

0

9

2

Bình Gia

4

0

0

0

4

3

Cao Lộc

3

0

0

1

4

4

Văn Quan

8

0

0

0

8

5

TP. Lạng Sơn

1

0

1

0

2

6

Hữu Lũng

32

1

9

0

42

7

Chi Lăng

3

1

1

0

5

8

Tràng Định

2

0

0

0

2

9

Văn Lãng

3

0

0

0

3

10

Lộc Bình

3

1

2

0

6

11

Đình Lập

3

0

1

0

4

 

Tổng

71

3

14

1

89

Trong một di tích đình làng ở Việt Nam nói chung và Lạng Sơn nói riêng thường bao gồm những công trình như: cổng đình (nghi môn), tiền tế, hậu cung. Với cách bố trí trên, qua khảo sát đánh giá tổng thể đình ở Lạng Sơn có 4 dạng mặt bằng khác nhau, trong đó phổ biến nhất là dạng chữ Nhất và chữ đinh.

Nếu cộng cả những di tích đang trùng tu hoặc đã bị phá hủy thì cũng có thể thấy rõ ràng rằng dạng mặt bằng phổ biến nhất là mặt bằng chữ nhất. Chúng thường là những công trình mới được trùng tu xây mới, kết cấu đơn giản và có diện tích không quá lớn.

2.2.2. Ở loại hình chùa

Tổng thể một ngôi chùa thường hạng mục tam quan - tam bảo - nhà tổ, nhà mẫu… Điển hình ở Lạng Sơn hiện nay là một số ngôi chùa lớn như chùa Thành (Thành phố Lạng Sơn), chùa Tân Thanh (xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng),...Tùy theo quy mô ngôi chùa mà sẽ có nhiều hoặc ít các công trình thờ tự. Việc xác định mặt bằng tổng thể các hạng mục chính trong ngôi chùa ở Lạng Sơn cho thấy có 5 dạng mặt bằng khác nhau, phổ biến nhất là dạng chữ Nhất.

Bảng 5: Thống kê các dạng mặt bằng chùa

TT

Tên huyện/TP

Các dạng mặt bằng

Tổng

Chữ Nhất

Chữ Nhị

Chữ Đinh

Chữ Công

Tiền nhất, hậu đinh

 

1

Bắc Sơn

1

0

0

0

0

1

2

Bình Gia

0

0

0

0

0

0

3

Cao Lộc

0

1

0

0

0

1

4

Văn Quan

0

0

0

0

0

0

5

TP. Lạng Sơn

1

0

0

0

1

2

6

Hữu Lũng

3

2

3

1

0

9

7

Chi Lăng

3

0

0

0

0

3

8

Tràng Định

1

0

0

0

0

1

9

Văn Lãng

2

0

0

1

0

3

10

Lộc Bình

2

0

0

0

0

2

11

Đình Lập

0

0

0

0

0

0

Tổng

13

3

3

2

1

22

2.2.3. Ở loại hình đền/miếu/nghè

Tổng thể một ngôi đền thường gồm nhiều hạng mục: nghi môn, đại bái - hậu cung - tả, hữu vu như ở ngôi đình. Kết quả khảo sát cho thấy có tới 6 dạng mặt bằng tổng thể trong hệ thống đền/miếu/nghè được khảo sát ở tỉnh Lạng Sơn.

Kết quả cho thấy mặt bằng tổng thể kiểu chữ Đinh chiếm số lượng lớn nhất, chúng bao gồm tòa đại bái và hậu cung vuông góc với nhau. Kiểu mặt bằng chữ Nhất chiếm số lượng ít hơn một chút, trong khi đó kiểu chữ Tam thường xuất hiện ở các công trình đền lớn, quy mô đồ sộ.

Bảng 6: Thống kê các dạng mặt bằng đền/miếu/nghè

TT

Tên huyện/TP

Các dạng mặt bằng

Tổng

Chữ Nhất

Chữ Nhị

Chữ Đinh

Chữ Công

Chữ Tam

Nội công ngoại quốc

1

Bắc Sơn

2

0

0

0

0

0

2

2

Bình Gia

0

0

1

0

0

0

1

3

Cao Lộc

2

0

0

0

1

0

3

4

Văn Quan

0

0

0

0

0

0

0

5

TP. Lạng Sơn

3

2

6

1

3

0

15

6

Hữu Lũng

7

0

8

0

5

0

20

7

Chi Lăng

1

1

5

1

1

1

10

8

Tràng Định

1

1

1

0

0

0

3

9

Văn Lãng

1

1

0

0

0

0

2

10

Lộc Bình

0

0

0

0

1

0

1

11

Đình Lập

0

0

0

0

0

0

0

Tổng

17

5

21

2

11

1

57

2.3. Kết cấu kiến trúc

Kiến trúc cổ truyền Việt Nam đa phần sử dụng kết cấu khung gỗ như nhà gỗ truyền thống Việt Nam kết hợp với những vật liệu bổ trợ khác như: gạch, đá, gỗ, ngói... để tạo dựng nên công trình. Thực sự không có sự phân chia hoặc khác biệt nhiều về kết cấu của các thể loại công trình khác nhau. Kết cấu kiến trúc của ngôi đình cũng có thể thấy ở ngôi đền hoặc ngôi chùa. Sự khác nhau về kiểu thức liên kết chỉ là do chúng được sinh ra ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. Dựa trên đặc điểm cũng như tính chất của hệ kết cấu cũng như vật liệu này, trong kiến trúc cổ truyền Việt Nam không thực sự tồn tại các công trình có kích thước lớn như các quốc gia khác.

Các công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn cũng được dựng lên bằng hệ khung gỗ, với các dạng liên kết theo kiểu 2 hay 4 hàng chân như những kiến trúc dân gian truyền thống khác của Việt Nam.

Nền: nền các công trình hiện được lát bằng nhiều loại vật liệu như gạch bát, gạch đỏ, gạch men… với các hình thức lát khác nhau như. Lát mạch thẳng, mạch “chữ Công”, hay lát mạch chéo. Cũng có những di tích không lát gạch mà chỉ được láng xi măng. Đối với hệ thống đình ở Lạng Sơn, dựa vào dấu vết lỗ mộng chân cột có thể biết được nguyên gốc xưa những công trình này đều có sàn gỗ. Hiện nay chỉ còn đình Nông Lục là còn sàn.

Bộ khung kiến trúc: bộ khung kiến trúc cổ truyền trong các công trình kiến trúc được dựng lên bởi những cây cột. Những công trình kiến trúc cổ là những công trình còn giữ được bộ khung kiến trúc có niên đại từ nửa đầu thế kỷ 20 trở về trước. Ở Lạng Sơn, những công trình kiến trúc cổ dạng này vô cùng ít ỏi, do rất nhiều di tích hiện đã bị bê tông hóa với những kết cấu truyền thống nhưng bằng cột bê tông giả gỗ hoặc có những công trình cũng dùng vật liệu gỗ nhưng mới dựng gần đây, kết cấu đơn giản. Bộ khung gỗ trong kiến trúc ở tỉnh Lạng Sơn có khung niên đại chỉ khoảng từ đầu thế kỷ 20 trở lại đây.

Bộ khung gỗ trong kiến trúc ở Lạng Sơn được dựng bởi các hàng chân cột (phổ biến là 2 hay 4 hàng cột). Bộ vì là yếu tố cơ bản của kết cấu khung gỗ. Nó vừa là kết cấu chịu lực, nâng đỡ mái, vừa là đơn vị tổ chức không gian công trình. Theo mặt cắt ngang, một bộ vì được chia thành ba phần:

Vì nóc: là liên kết các cấu kiện ở khoảng không gian giữa hai cột cái, đỡ nóc và nửa mái phía trên. Khoảng không gian ấy có hình một tam giác cân, giới hạn bởi câu đầu là cạnh đáy và hai cạnh kia là hai chiều dốc của mái trước, sau công trình. Câu đầu là cấu kiện liên kết hai đầu một cặp cột cái trước, sau công trình, theo mặt cắt ngang. Kết quả khảo sát cho thấy có những kiểu vì nóc chính sau được sử dụng trong di tích kiến trúc ở tỉnh Lạng Sơn là kiểu vì kèo đơn giản, hiếm gặp hơn là kiểu chồng rường - giá chiêng.

Vì nách: là liên kết các cấu kiện ở khoảng không gian hình một tam giác vuông, được tạo thành giữa cột cái và cột quân. Tam giác vuông này có cạnh dài là xà nách (cấu kiện liên kết cột cái và cột quân theo mặt cắt ngang), cạnh ngắn là độ dài hơn của cột cái so với cột quân và cạnh huyền là độ dài mặt mái phần dưới. Kết quả khảo sát cho thấy có những kiểu vì nách chính sau được sử dụng trong di tích kiến trúc ở tỉnh Lạng Sơn là vì kèo, một số là kiểu ván mê, chồng rường.

Hiên: là liên kết các cấu kiện để đỡ phần đua vươn ra ở hàng hiên, tính từ cột quân ra hết chân mái giọt gianh. Liên kết hiên trong các di tích kiến trúc ở Lạng Sơn thường là bẩy chéo.

Bên cạnh đó, một số công trình kiến trúc ở Lạng Sơn có kết cấu đơn giản với tường gạch, mái lợp bằng tấm fibro xi măng hoặc vì nóc được làm theo kiểu quá giang gác tường. Đó hầu hết là các công trình trùng tu, xây mới lại hoàn toàn. Một số dạng khác ít gặp hơn là kiến trúc nhà cổ theo phong cách Pháp, hoặc nhà trình tương, mái lợp ngói âm dương,...

Hai bộ vì (một tổ hợp liên kết các cấu kiện theo mặt cắt ngang một kiến trúc) liền sát nhau xác định 01 gian. Gian là một đơn vị tổ chức không gian mặt bằng, xác định quy mô, tầm cỡ của các kiến trúc cổ truyền. Số vì luôn là một số chẵn và số gian bao giờ cũng là một số lẻ. Số gian trong mỗi hạng mục công trình ở các di tích của tỉnh Lạng Sơn thường là 1, 3, 5 gian hoặc 3 gian 2 chái…

Hệ mái: bộ mái là một trong những thành phần bao che quan trọng nhất của kiến trúc. Trong kiến trúc cổ truyền ở tỉnh Lạng Sơn, phổ biến nhất là dạng 2 mái hoặc 4 mái; hai mái chính trước - sau có diện tích khá rộng, phủ trùm công trình còn hai mái hồi có diện tích nhỏ hơn.

Hầu hết các công trình đều chỉ có 1 tầng mái. Một số công trình có thể có 2,3tầng mái kiểu chồng diêm như chùa Thành, đền Cửa Tây (thành phố Lạng Sơn). Mái lợp khá đa dạng, một số công trình cổ lợp ngói âm dương, ngoài ra phổ biến là lợp ngói Tây, ngói di, ngói vẩy cả, lợp fibro xi măng.

Bao che xung quanh hầu hết là tường xây gạch. Một số di tích sử dụng vật liệu gỗ để bao che như đình Nông Lục. Cửa ra vào mở ở phía trước với các bộ cửa bức bàn hoặc kiểu “thượng song, hạ bản”…cũng có khi để trống không dùng cửa với các công trình xây mang tính chất tạm bợ.

Như vậy, ở mỗi công trình di tích kiến trúc người ta lại có sự lựa chọn, kết hợp các kiểu liên kết khác nhau để tạo nên những công trình kiến trúc phù hợp với nhu cầu của từng nơi.

3. Giá trị nghệ thuật điêu khắc, trang trí trên kiến trúc

Về nghệ thuật trang trí, điêu khắc, các chi tiết thường chỉ tập trung ở một số di tích có niên đại đầu thế kỷ 20. Những điêu khắc, trang trí có giá trị nhất đều tập trung ở đình làng. Huyện Bắc Sơn còn giữ được nhiều ngôi đình có những tác phẩm điêu khắc trang trí đẹp nhất, tiêu biểu có thể kể ra đây như: đình Nông Lục, đình làng Mỏ, đình làng Huyền... Ngoài ra, ở huyện Lộc Bình cũng còn giữ được một số mảng chạm khắc cổ đề tài cá vượt vũ môn ở chùa Trung Thiên.

Trong đó, xét cả yếu tố giá trị lịch sử và nghệ thuật trang trí thì đình Nông Lục là đại diện tiêu biểu nhất và có thể nói là kiến trúc cổ nhất còn được bảo tồn gần như nguyên vẹn nhất ở tỉnh Lạng Sơn. Kết cấu bộ kèo của đình theo kiểu vì ván mê cầu kỳ, tinh xảo. Các hoạ tiết chạm khắc của đình mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn đầu thế kỷ 20, chính giữa vì kèo được chạm mặt hồ phù lớn, từ mặt hồ phù lớn tạo ra 2 tay, hai đầu tay được chạm 2 mặt hồ phù nhỏ. Chân của vì ván mê tỳ lên xà ngang, xà ngang được đặt trên đầu hai cột là hai đầu vuông thắt đáy, xà ngang được đỡ bằng hai nghé bẩy, các xà ngang được chạm trổ hình 2 con phượng vũ chầu vào con dơi ở giữa, dưới dạng chữ Phúc cách điệu.Nối tiếp cột cái với cột quân là các xà nách có mộng bắt vào các cột quân, phần liên kết phía trên được chạm trổ các đề tài: trúc hoá long, lý ngư vọng nguyệt, tứ linh... các cột quân được nối với các cột hiên bằng các xà nách nhỏ, dưới các xà nách, đầu cột con và cột hiên đều có các đầu móng thắt đáy để liên kết đỡ lực của mái.Phía trên cùng ở gian chính diện của đình Nông Lục được chạm lưỡng long chầu nguyệt, mái của khám thờ chạm tứ linh, trên cùng là xà nóc, dưới có chạm hổ phù lớn được đỡ bằng ván mê, hai bên chạm hình rồng nhả mây.

Tóm lại, những đề tài điêu khắc, trang trí trên các di tích kiến trúc ở tỉnh Lạng Sơn không còn nhiều, niên đại của những mảng chạm khắc này trải từ đầu thế kỷ 20 tới nay. Những nghệ nhân xưa đã sử dụng nhiều thủ pháp chạm khắc, trang trí để thể hiện các tác phẩm điêu khắc, qua đó gửi gắm những quan niệm riêng về thế giới quan, nhân sinh quan cũng như những khát vọng về một cuộc sống ấm no, mùa màng bội thu. Các trang trí chạm khắc đó cũng góp phần tri thức của các nhà nghiên cứu mỹ thuật, kiến trúc, lịch sử khi tìm hiểu về nghệ thuật thời Nguyễn ở Lạng Sơn nói riêng và cả nước nói chung.

4. Giá trị về nghiên cứu khoa học

Lạng Sơn là một tỉnh miền núi phía Đông Bắc của Việt Nam, là địa phương có nhiều di tích gắn với những sự kiện lịch sử như ải Nam Quan, ải Chi Lăng, thành Nhà Mạc, thành cổ Lạng Sơn,...nơi ghi dấu biết bao dấu mốc lịch sử thời trung đại Việt Nam. Sang thế kỷ 20, Lạng Sơn còn là căn cứ địa cách mạng với khu di tích khởi nghĩa Bắc Sơn, là quê hương của nhiều chiến sỹ cách mạng yêu nước như Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Tri... Và đây còn là nơi cư trú của nhiều dân tộc cùng sinh sống như Kinh, Tày, Nùng, Dao, Hoa...với nhiều nét đẹp mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc truyền thống trong tập quán sản xuất cũng như trong sinh hoạt đời thường.

Bên cạnh đó, trên mảnh đất Lạng Sơn còn lưu trữ biết bao tiềm năng và giá trị to lớn về khảo cổ học. Đầu nhưng năm 60 thế kỷ trước, giới khảo cổ học đã phát hiện răng người vượn cổ cùng nhiều hóa thạch cổ cách ngày nay 475.000 năm ở hang Thẩm Khuyên và trước đó người Pháp cùng đã phát hiện hang tại di tích Kéo Lèng (xã Tô Hiệu nay là TT Bình Gia, huyện Bình Gia) những răng, mảnh xương trán loại người hiện đại (thời hậu Cánh Tân), hang Thẩm Khoách (thị trấn Bình Gia, huyện Bình Gia) và các hang Dơi (Bắc Sơn) hay hang Phja Vệ (TP. Lạng Sơn)... rất nhiều rìu đá, đao mài lười, dâu mài... thuộc nền văn hóa Bắc Sơn. Qua các cuộc khai quật, các nhà nghiên cứu đã xác lập nên “văn hóa Mai Pha” và cả một giai đoạn trước và sau nó, góp phần xuyên suốt quá trình lịch sử Lạng Sơn.

IV. ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH, THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ, BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN

1. Về công tác quản lý

Việc tăng cường đẩy mạnh hiệu lực hiệu quả trong công tác quản lý di tích luôn được cấp ủy đảng, chính quyền các cấp từ tỉnh đến cơ sở quan tâm chú trọng. Ngay sau khi Luật Di sản văn hóa và các văn bản hướng dẫn thi hành kèm theo được ban hành và có hiệu lực. Trên cơ sở tỉnh hình, điều kiện thực tế của địa phương để cụ thể hóa hơn nữa Luật và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và các bộ, ngành trung ương. Việc nghiên cứu, xây dựng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật luôn được tỉnh Lạng Sơn quan tâm, thực hiện và đạt được một số kết quả nhất định. Kết quả từ năm 2003 đến nay tỉnh Lạng Sơn đã xây dựng ban hành 02 Nghị quyết chuyên đề của Ban thường vụ Tỉnh ủy; 04 Nghị quyết chuyên đề của Hội đồng nhân dân; 09 văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ di tích.

Qua quá trình triển khai thực hiện các Nghị quyết chuyên đề và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh từng bước được hoàn thiện và đi vào cuộc sống. Qua đó góp phần thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, tăng cường cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đảm bảo tính khả thi của văn bản khi đưa vào áp dụng trong thực tiễn; tạo hành lang, cơ sở pháp lý, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước; huy động mọi nguồn lực, sự đồng thuận của Nhân dân và toàn xã hội.

Trên cơ sở đó, tỉnh Lạng Sơn đã có nhiều đổi mới trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành các hoạt động quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di tích.Công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích trên địa bàn tỉnh ngày càng được chú trọng, đóng một vai trò to lớn trong việc giáo dục truyền thống cho cán bộ và nhân dân, nhất là các thế hệ trẻ, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng và là nguồn tài nguyên vô giá cho việc khai thác du lịch, dịch vụ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch với chức năng, nhiệm vụ là cơ quan chuyên môn, giúp việc cho Ủy ban nhân dân tỉnh trong công tác quản lý nhà nước về văn hóa, thể thao và du lịch nói chung, di sản văn hóa nói riêng đã chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, đoàn thể tỉnh tham mưu, tổ chức hoạt động quản lý nhà nước về di tích trên địa bàn tỉnh và chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các huyện thành phố thực hiện hiệu quả công tác quản lý theo phân cấp. Đến nay về cơ bản 11/11/ thành phố đã việc phân cấp quản lý theo quy định, 128/128 di tích được xếp hạng (gồm có: 2 di tích quốc gia đặc biệt, 28 di tích quốc gia, 98 di tích cấp tỉnh) đã được phân cấp về chính quyền địa phương trực tiếp quản lý.

UBND các huyện, thành phố được giao quản lý trực tiếp di tích bên cạnh việc thành lập Ban quản lý để chỉ đạo chung tất cả các di tích trên địa bàn do 01 đồng chí Phó Chủ tịch UBND làm trưởng ban, Phòng Văn hóa Thông tin là cơ quan chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan trực tiếp tham mưu, chỉ đạo đã phát huy vai trò, tính chủ động, kịp thời của chính quyền địa phương thông qua việc đẩy mạnh phân cấp quản lý về cơ sở để xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân liên quan theo nhiều mô hình khác nhau tùy vào đặc điểm quy mô, tính chất loại hình di tích, tiêu biểu một số mô hình là:

- Mô hình Ban quản lý di tích là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện: điển hình là huyện Chi Lăng qua việc thành lập Ban quản lý di tích danh thắng huyện Chi Lăng trực tiếp quản lý phụ trách các di tích trên địa bàn.

- Mô hình Ban quản lý trực thuộc Trung tâm Văn hóa, Thể thao và Truyền thông (Trung tâm Văn hóa cấp huyện): Điển hình là Khu di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh (Thành phố Lạng Sơn); Khu di tích khởi nghĩa Bắc Sơn (huyện Bắc Sơn), Khu di tích lưu niệm đồng chí Hoàng Văn Thụ (huyện Văn Lãng), Khu di tích lưu niệm đồng chí Lương Văn Tri (huyện Văn Quan), Khu di tích lưu niệm Hồ Chí Minh (huyện Tràng Định). Hay mô hình trực thuộc Phòng Văn hóa và Thông tin huyện như: Hang Kéo Lèng, Hang Thẩm Khuyên - Thẩm Hai (huyện Bình Gia).

- Mô hình ban quản lý di tích trực thuộc UBND cấp xã, phường, thị trấn: là mô hình được áp dụng phổ biến tại các huyện, thành phố hiện nay, tiêu biểu là:

+ Huyện Bắc Sơn: 13/18 đơn vị xã, thị trấn có Ban quản lý di tích và các xã đã thành lập tổ thường trực quản lý phụ trách các di tích trên địa bàn.

+ Huyện Bình Gia: hoàn thành việc thành lập Ban quản lý di tích cấp xã.

+ Thành phố Lạng Sơn: đến nay cơ bản các phường, xã đã thành lập được Ban quản lý di tích cấp phường, xã (phường Đông Kinh chưa thực hiện thành lập vì trên địa bàn chỉ có các miếu thổ công nhỏ giao cộng đồng dân cư quản lý). Công tác quản lý Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo được thực hiện thường xuyên, các cơ sở tín ngưỡng tôn giáo nói chung hoạt động ổn định, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tâm linh của nhân dân và du khách thập phương.

Ngoài các mô hình quản lý trực tiếp trên, đối với một số di tích có tính đặc thù được giao cho các đơn vị, doanh nghiệp, gia đình dòng họ quản lý như:

+ Đối với di tích nằm trong khu vực quốc phòng (di tích Hang Thẩm Khoách, huyện Bình Gia, giao cho Ban Chỉ huy quân sự huyện trực tiếp quản lý;

+ Đối với di tích nằm trên địa bàn nhiều xã, nằm trong khu vực phát triển du lịch (thác nước Đăng Mò, huyện Bình Gia), dự kiến giao cho doanh nghiệp trực tiếp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch.

+ Đối với di tích liên quan, gắn liền đến gia đình dòng họ giao cho gia đình dòng họ quản lý hoặc làm bộ phận thường trực Ban quản lý như: đền Chầu Lục, đền Chầu Năm Suối Lân (huyện Chi Lăng), đền Quan Giám Sát (huyện Hữu Lũng), Nhà thờ họ Nguyễn Đình (huyện Tràng Định)…và một số di tích khác.

Nhìn chung, các Ban quản lý di tích trên thực hiện tương đối hiệu quả các chức năng nhiệm vụ và cơ bản tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Thông qua các phương thức quản lý trên công tác quản lý di tích trên địa bàn đã quy định rõ vai trò, trách nhiệm, quyền hạn cụ thể trong công tác quản lý di tích từ tỉnh đến cơ sở. Đồng thời phát huy vai trò định hướng của nhà nước trong công tác quản lý nhà nước cũng như huy động sự vào cuộc của các cấp, các ngành trong việc quản lý nắm bắt tình hình hoạt động của di tích trên địa bàn tỉnh nhằm đưa ra các phương án xử lý, kịp thời theo đúng quy định của nhà nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về di sản văn hóa ở một số nơi còn hạn chế tồn tại những hạn chế nhất định. Tổng số di tích trên địa bàn tỉnh tương đối lớn nhưng phân bố trên diện rộng, không tập trung, nằm phân tán rải rác ở khắp các huyện, thành phố và cả các vùng sâu, vùng xa trong khi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, ngành trung ương tuy đã được bổ sung, thay thế nhưng vẫn còn những tồn tại, hạn chế, thiếu đồng bộ thống nhất, còn có khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn, chưa bao quát hết được nhưng phát sinh, yêu cầu, đòi hỏi thực tế từ việc phân cấp quản lý di tích, mô hình quản lý di tích..và các vấn liên quan khác nên gây khó khăn cho địa phương, cơ sở trong quá trình thực hiện. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới về tư duy, cải cách về phương thức lãnh đạo, vai trò, vị trí văn hóa có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Việc phân cấp quản lý chưa đồng bộ, thống nhất với quy mô, tính chất của khu di tích; trách nhiệm của cơ quan, đơn vị được giao quản lý trực tiếp còn lỏng lẻo, thiếu sâu sát, chưa chủ động trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng. Sự phối hợp giữa các ngành chức năng, chính quyền các cấp trong công tác quản lý di tích tại cơ sở còn chồng chéo, chưa chặt chẽ. Chủ trương xã hội hóa công tác quản lý, bảo tồn di tích những năm qua bên cạnh những kết quả tích cực là sự xâm nhập của yếu tố thương mại, ít nhiều làm sai lệch yếu tố gốc cấu thành di tích, làm biến đổi di tích, làm mai một, mất đi giá trị di tích. Ý thức của nhân dân trong việc tham gia bảo vệ, phát huy giá trị di tích còn chưa cao.

2. Công tác kiểm kê, phân loại, xếp hạng di tích

Công tác kiểm kê, rà soát phân loại hệ thống di tích luôn được quan tâm thực hiện. Từ năm 1998 đến nay tỉnh đã tiến hành 02 đợt tổng kiểm kê hệ thống di tích cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn (đợt I giai đoạn 1998 - 2000; đợt II giai đoạn 2017 - 2019). Qua công tác kiểm kê đã nghiên cứu lựa chọn 335 di tích đưa vào danh mục kiểm kê trình Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt (theo Quyết định số 73/QĐ-UBND ngày 10/01/2019) để quản lý, bảo vệ theo quy định của Luật di sản văn hóa. Đồng thời tách bạch tách bạch và phân loại rõ đối tượng quản lý hoạt động tín ngưỡng theo quy định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản hướng dẫn thi hành kèm theo.

Trên cơ sở danh mục kiểm kê, tỉnh cũng đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chuyên môn nghiên cứu lựa chọn các di tích có giá trị tiêu biểu lập hồ sơ trình xếp hạng di tích các cấp. Từ năm 2016 đến năm 2020 đã nghiên cứu lập hồ sơ 12 điểm, khu di tích trình xếp hạng các cấp (02 khu di tích quốc gia, 02 di tích quốc gia, 06 di tích cấp tỉnh)nâng tổng số di tích xếp hạng lên 128 di tích.

Nhìn chung, công tác kiểm kê, phân loại, lập hồ sơ khoa học trình xếp hạng di tích các cấp được thực hiện tương đối hiệu quả. Việc kiểm kê, lập hồ sơ khoa học đã được thực hiện chặt chẽ, khoa học hơn. Quy trình xếp hạng và hồ sơ di tích được thực hiện theo hai bước, lập hồ sơ trích ngang để có sự thỏa thuận bước đầu trước khi lập hồ sơ khoa học và pháp lý, nhằm giảm bớt sự lãng phí và tránh phiền hà cho địa phương trong việc lập hồ sơ.Việc xác định giá trị di tích và các khu vực bảo vệ di tích được làm kỹ càng hơn. Hồ sơ, lý lịch di sản được ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật trong việc tư liệu hóa, lưu giữ, bảo quản, phục vụ công tác quản lý nhà nước và các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định.

Tuy nhiên, do những quy định cũ trước đây và các yếu tố lịch sử để lại nên công tác kiểm kê di tích chưa được thực hiện định kỳ theo quy định, việc phân loại, nhận diện di tích chưa đồng bộ, thống nhất, một số di tích khi xếp chưa đầy đủ hồ sơ theo quy định hiện hành gây khó khăn trong hoạt động quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị, đặc biệt là việc xác định giá trị, nhân vật, sự kiện lịch sử gắn liền với di tích; cũng như công tác quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho di tích... và các vấn đề liên quan khác.

3. Công tác quy hoạch khoanh vùng bảo vệ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thực trạng xâm phạm lấn chiếm di tích

3.1. Công tác quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ, cấp giấy chứng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho di tích

Việc quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ đối với các di tích được Ủy ban nhân dân các cấp quan tâm, chỉ đạo thực hiện. Chính quyền và các đơn vị chuyên môn đã tiến hành rà soát đưa vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương. Trong tổng số 335 điểm, khu di tích(gồm 421 điểm) khảo sát trên toàn tỉnh Lạng Sơn có 6/335, chiếm 1,79% điểm, khu di tích (chi tiết là 75/421 điểm, chiếm 17,8%)đã được quy hoạch; 78/335, chiếm 23,28% điểm, khu di tích di tích(chi tiết là 119/421chiếm 28,26%) đã được khoanh vùng bảo vệ; 34/335, chiếm 10,1 % điểm, khu di tích (chi tiết là 34/421 điểm, chiếm 8,07%)đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cụ thể như sau:

- Huyện Bắc Sơn:không có di tích được quy hoạch;có 10/29 di tích đã khoanh vùng bảo vệ, chiếm 34,48% toàn huyện, chiếm 1,49% toàn tỉnh; 5/29 điểm, khu di tích(Đình Pác Yếng, Đình Quỳnh Sơn, Đình Dục Lắc, Cầu Lợp Long Đống, Đình Long Đống) đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chiếm 17% toàn huyện, chiếm 1,49% toàn tỉnh.

- Huyện Bình Gia: Các di tích trên địa bàn huyện chưa được quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ, cắm mốc giới di tích; không có bản đồ khoanh vùng bảo vệ (một thành phần của hồ sơ khoa học khi xếp hạng di tích) do vậy hiện nay không xác định được ranh giới, diện tích di tích cũng như đánh giá được mức độ xâm phạm, lấn chiếm di tích. Có 01/22 di tích (Đền Trần Hưng Đạo) đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chiếm 4,5% toàn huyện, chiếm 0,29% toàn tỉnh.

- Huyện Cao Lộc: có 2/24 di tích(Chùa Bắc Nga; Khu du kích Ba Sơn) đã được quy hoạch, chiếm 8,3 % số di tích toàn huyện, chiếm 0,59% số di tích toàn tỉnh; 08 di tích (Núi Phja Điểm, Đền Mẫu, Nhà bia Thuỷ Môn Đình, Pháo đài Đồng Đăng, chùa Bắc Nga, Hang Lạo Pảo, đền Quan, Cầu ngầm Khánh Khê và Nhà bia chiến thắng sư đoàn 338) đã được khoanh vùng bảo vệ; 2/24 di tích (Đền Mẫu thị trấn Đồng Đăng và Pháo Đài Đồng Đăng) đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chiếm 8,3% toàn huyện, chiếm 0,59% toàn tỉnh.

- Huyện Đình Lập: không có di tích được quy hoạch và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; có 3/6 di tích đã khoanh vùng bảo vệ, chiếm 50% toàn huyện, chiếm 0,89% toàn tỉnh. Đối với các di tích chưa được cấp quyền sử dụng đất, các xã đang lập hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện nay đang hoàn thiện hồ sơ cho 02 di tích Đình Pò Háng, xã Bính Xá; Đình Đông Quất, xã Cường Lợi.

- Huyện Chi Lăng: có 01/25 khu, điểm di tích(khu di tích lịch sử Chi Lăng) đã được quy hoạch chiếm 4% toàn huyện, chiếm 0,29% toàn tỉnh; 04 điểm di tích (đền Cao Đức Thánh Cả và Hang Gió, chùa Làng Trung, Hang Lạng Nắc)được khoanh vùng bảo vệ ; có 01 di tích (Đền Cao) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. UBND huyện Chi Lăng đã và đang xây dựng hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 06 điểm di tích và 01 trụ sở làm việc của BQL Di tích lịch sử và Danh thắng huyện, gồm: Hang Lạng Nắc, Hang Gió, Đền Quỷ Môn Quan, Đền Quán Nàng, Đền Cao Đức Thánh Cả, Đền Hổ Lai, Chùa Làng Trung và Khuôn viên Nhà trưng bày chiến thắng Chi Lăng. Đến nay, công tác đo đạc, xác định ranh giới, lấy chữ ký tiếp giáp giữa đất di tích và đất liền kề của các hộ dân xung quanh, lập hồ sơ đất đai di tích…đã được tiến hành khẩn trương, nghiêm túc, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt.

- Hữu Lũng:có 01/84 di tích đã được quy hoạch là đền Bắc Lệ, chiếm 1,19% toàn huyện, chiếm 0,29% toàn tỉnh; có 6 di tích được khoanh vùng bảo vệ gồm: Hang Làng Loi, Hang Minh Lệ I, Đền Thuốc Sơn, Đền Đèo Kẻng, Chùa Làng Giàng, Đền Bắc Lệ; có 6/84 di tích đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chiếm 7,1% toàn huyện, chiếm 0,29% toàn tỉnh(Trong số di tích có 05 di tích đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm: Đền Đèo Kẻng, Đền Bắc Lệ , xã Tân Thành; Đền Phú Vị , xã Hồ Sơn; Đền Suối Ngang, xã Hòa Thắng; Chùa Sơn Lộc Tự (Chùa Làng Giàng), xã Yên Thịnh); có 01 di tích đã lập hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2018 nhưng đến nay chưa được cấp giấy là Đền Quan Giám Sát, xã Hòa Lạc)

- Huyện Lộc Bình:Có 01 khu di tích(khu du kích Chi Lăng) đã được quy hoạch; 8 di tích (Chùa Trung Thiên, Đình Vằng Khắc, Khu vực núi Mẫu Sơn, Địa điểm đầu nguồn suối Long Đầu, Khu linh địa Mẫu Sơn, Khu du kích Chi Lăng (13 điểm), Núi Phặt Chỉ, Thác bản Khiếng, Điểm Cao 424, Khu di tích lưu niệm dòng họ Vi) đã được khoanh vùng, bảo vệ; 3/22 di tích (đền Khánh Sơn, thị trấn Lộc Bình; chùa Trung Thiên, xã Tú Đoạn và Đình Vằng Khắc, xã Thống Nhất) đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chiếm 13,63% toàn huyện, chiếm 0,29% toàn tỉnh.

- Huyện Tràng Định: có 0/33 di tích đã được quy hoạch; 9/33 di tích khoanh vùng bảo vệ chiếm 27,27% toàn huyện, chiếm 2,68% toàn tỉnh. Có 4/33 di tích đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chiếm 12% toàn huyện, chiếm 1,19% toàn tỉnh; 04 điểm Di tích (Di tích Đền thờ Trần Hưng Đạo; Đền Quan lãnh; Bia Kéo Lếch và Nhà Thơ Tổ họ Nguyễn) đã đã được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

- Huyện Văn Quan: không có di tích nào được quy hoạch, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho di tích và chỉ có 1/25 di tích (di tích lưu niệm đồng chí Lương Văn Tri) được khoanh vùng bảo vệ di tích. Hiện đang tiến hành trích đo, khoanh vùng bảo vệ di tích, cắm mốc cho di tích lịch sử: Hang Ngườm Thẳm và hang Rộc Mạ, hang Pác Ả - Kéo Vãng, Cầu đá, Bia đá Dã Nham...và các điểm di tích khác.

- Huyện Văn Lãng: không có di tích nào trên địa bàn huyện được quy hoạch; có 9/37 di tích(Di tích lưu niệm Hoàng Văn Thụ, Địa điểm lán Khau Bay, Địa điểm trường Đon Đình Biên, Bia đá (Diễn trận Sơn) của Ngô Thì Sĩ, Đền thờ Hai Bà Trưng, Địa điểm Háng Van, Chùa Tà Lài, Địa điểm Ga Bản Trang, Đền Đức Thánh Trần)đã khoanh vùng bảo vệ chiếm 24,32% toàn huyện, chiếm 2,68% toàn tỉnh; 02/37 di tích ( Đền Đức Thánh Trần; Khu di tích lưu niệm đồng chí Hoàng Văn Thụ) đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chiếm 5,4% toàn huyện, chiếm 0,59% toàn tỉnh.

- Thành phố Lạng Sơn: có 01/28 di tích (Khu di tích Nhị - Tam Thanh, Núi Tô Thị, Thành Nhà Mạc)đã được quy hoạch; 15/28(gồm Chùa Thành, Chùa Tiên, Đoàn Thành, Đền Cửa Đông, Đền Cửa Nam, Đền Mẫu Thoải, Đền Kỳ Cùng…) đã khoanh vùng bảo vệ chiếm 53,5% toàn thành phố, chiếm 4,47% toàn tỉnh; 10/28 di tích đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chiếm 35,7% toàn thành phố, chiếm 2,98% toàn tỉnh.

(Xem Phụ lục 14 - Thực trạng quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho di tích)

3.2. Thực trạng xâm phạm lấn chiếm di tích

Có 77/421 di tích, chiếm 18,28% bị xâm phạm (trong đó có 29 di tích ít bị xâm phạm, chiếm 6,88% và 48 di tích bị xâm hại nghiêm trọng, chiếm 11,4%). Có 344/421 di tích không bị xâm phạm, chiếm 81,72% (xem Phụ lục 15 - Thực trạng xâm phạm, lấn chiếm di tích tỉnh Lạng Sơn). Số lượng di tích bị xâm phạm nghiêm trọng tập trung chủ yếu ở huyện Chi Lăng và Văn Lãng.

- Huyện Chi Lăng: có 34/70 di tích bị xâm phạm chiếm 48,5% toàn huyện và chiếm 8,07% toàn tỉnh, trong đó có 23 di tích bị xâm phạm nghiêm trọng. Tình trạng xâm phạm di tích do chính quyền cơ sở chưa quan tâm đúng mức, chưa huy động được cộng đồng tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di tích. Đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước ở cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu. Ý thức bảo vệ di sản của một bộ phận người dân chưa cao. Do đó, tình trạng lấn chiếm phạm vi bảo vệ di tích dưới nhiều hình thức vẫn xảy ra, đe dọa tính nguyên gốc của các di tích. Ví như khu di tích: Quảng trường Đồng Đĩnh, Thành Bầu, Làng Đồn, Ba Đàn (thuộc xã Chi Lăng) đến nay đã trở thành nơi định cư của hàng trăm hộ dân, họ đã sinh sống trong khu vực di tích từ lâu và có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, điều này gây khó khăn cho việc xác định ranh giới và khoanh vùng bảo vệ di tích. Thêm vào đó, yếu tố khách quan do sự ảnh hưởng của thời tiết, thiên tai, chiến tranh… cũng tác động không nhỏ làm cho môi trường cảnh quan di tích bị mai một nghiêm trọng. Đơn cử như: khu di tích Đấu Đong Quân (xã Chi Lăng), theo sử liệu, Khu di tích lịch sử Chi Lăng có 4 Đấu Đong Quân được đắp bằng đất, hình chữ nhật rộng 9m, cao từ 1 - 1,5 m so với mặt ruộng. Tuy nhiên, do quá trình làm đường, cải tạo đất canh tác, đến nay, 3/4 Đấu Đong Quân đã bị phá hủy hoàn toàn, không còn dấu tích. Hay như di tích Ải Chi Lăng có độ cao nguyên bản từ 15 - 20 m so với mặt ruộng, do tác động của thiên nhiên, con người, đến nay chỗ cao nhất cũng chỉ còn 10 m.

- Huyện Văn Lãng: có 13/37 di tích bị xâm phạm chiếm 35,13% toàn huyện và chiếm 3,08 toàn tỉnh, trong đó có 11 di tích bị xâm phạm nghiêm trọng điển hình như sau:

+ Địa điểm Trường Đon Đình Biên: Di tích lịch sử, không còn bia di tích; vị trí, địa điểm của di tích này đã xây trụ sở UBND xã Hoàng Văn Thụ.

+ Địa điểm Ga Bản Chang: Di tích lịch sử, thuộc thôn Bản Chang, xã Tân Mỹ, huyện Văn Lãng, không còn bia di tích. Vị trí, địa điểm của di tích là ruộng, hiện nay đã giao cho dân quản lý và sử dụng.

+ Lán Khau Bay: Di tích lịch sử, thuộc thôn Thuận Lợi xã Hoàng Văn Thụ, huyện Văn Lãng. Hiện còn lại phế tích trên vạt đồi, đất đã giao cho người dân quản lý sử dụng.

+ Bia đá Diễn trận Sơn: Di tích lịch sử, thuộc khu 5, thị trấn Na Sầm, huyện Văn Lãng. Vị trí, địa điểm của di tích, bia khắc vào vách núi.

+ Chợ Háng Van: không còn nguyên trạng, diện tích đất đã được cấp cho người dân quản lý sử dụng.

- Huyện Bắc Sơn: có 4/40 di tích bị xâm phạm chiếm 10% toàn huyện và chiếm 0,95% toàn tỉnh, trong đó có 3 di tích bị xâm phạm nghiêm trọng điển hình như tình trạng xây dựng trái phép trên đất di tích Đèo Tam Canh. Các khu di tích đã bị xâm hại, lấn chiếm chủ yếu là chiếm dụng mặt bằng, không gian cảnh quan, hành lang bảo vệ di tích; cơi nới, xây dựng công trình, nhà ở, dựng lều, quán buôn bán trong khu vực di tích, xuống cấp do thiên tai, thời tiết. Ví như di tích Nà Kheo bị hộ dân lấn chiếm 700m2. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích trên địa bàn.

- Huyện Cao lộc: có 7/31 di tích bị xâm phạm chiếm 22,5% toàn huyện và chiếm 1,66% toàn tỉnh, trong đó có 4 di tích bị xâm phạm nghiêm trọng điển hình là điểm di tích được xếp hạng cấp Quốc gia và cấp tỉnh trên địa bàn huyện Cao Lộc có một số điểm di tích bị xâm hại, lấn chiếm về đất đai, xây dựng nhà ở, vật kiến trúc và lấn chiếm đất để trồng trọt trên khu đất của di tích:

+ Di tích lịch sử Pháo đài Đồng Đăng được UBND tỉnh Lạng Sơn giao quyền và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn quản lý diện tích 50.030m2 tại Quyết định số 1284/QĐ-UBND ngày 13/7/2001; năm 2012 Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh đã tổ chức cắm được 48 mốc và đo đạc lại diện tích khu đất là 52.677,1m2 (tăng so với GCNQSD đất là 2.647,1m2) hiện nay 03 mốc đã bị mất (mốc 21,22,34); 01 mốc bị dịch chuyển (mốc 04); có 16 hộ trồng hoa màu và cây lâu năm, 05 hộ xây dựng nhà ở trên đất di tích.

+ Di tích lịch sử Nhà bia Thuỷ Môn Đình hiện có 19 hộ gia đình xây nhà trong phạm vi khoanh vùng.

+ Tại di tích chùa Bắc Nga xã Gia Cát có 01 hộ dân vi phạm lấn chiếm đất nhà chùa với tổng diện tích 4.474,4 m2.

+ Di tích Núi Phja Điểm và 03 di tích thuộc Khu du kích Ba Sơn (Đồn Nà Phia xã Xuất Lễ, Đình Bản Vàng, Đồn Bản Xâm xã Cao Lâu)...bị xâm hại, lấn chiếm để trồng hoa màu xung quanh khu vực di tích.

+ Di tích Bốt gác của Pháp tại thôn Liên Hòa xã Gia Cát hiện tại xung quanh bị dân lấn chiếm.

Các điểm di tích nêu trên chưa được khoanh vùng bảo vệ và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên rất khó xác định ranh giới đâu là đất của khu vực di tích. Do vậy có ảnh hưởng đến việc quản lý các di tích. Riêng Đồn Nà Phia thuộc khu du kích Ba Sơn xã Xuất Lễ hiện nay không còn dấu vết di tích, các bức tường của di tích hiện nay người dân đã san lấp tạo mặt bằng để làm nhà ở.

- Thành phố Lạng Sơn: Tại di tích cấp Quốc gia Nhị - Tam Thanh (phường Tam Thanh), hiện có trên 370 hộ gia đình đang sinh sống trong khu vực bảo vệ di tích. Tại đây có khoảng 200 căn nhà cấp 4 được xây dựng từ lâu, đã xuống cấp, không đảm bảo về chỗ ở cho người dân. Nhiều hộ gia đình đã cơi nới, xây dựng nhà ở trong khu vực bảo vệ di tích, gây ảnh hưởng đến giá trị vốn có của di tích. Ngoài ra, hàng trăm hộ dân trong khu vực khối 6, 7 phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn đang trực tiếp thải hàng nghìn m3 nước sinh hoạt và rác bẩn mỗi năm xuống dòng suối Ngọc Tuyền - di tích Nhị - Tam Thanh, gây ô nhiễm và ảnh hưởng nghiêm trọng đến cảnh quan trong di tích.

- Huyện Lộc Bình, Đình Lập, Văn Quan: hầu hết các điểm di tích đều được quản lý một cách chặt chẽ, hoạt động đúng với các quy định của pháp luật, không để xảy ra tình trạng xâm hại và lấn chiếm.

4. Thực trạng công tác bảo quản, tu bổ, phục hồi và sử dụng di tích

4.1. Thực trạng công tác bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích

4.1.1. Các hình thức bảo quản, tu bổ, phục hồi

Theo số liệu điều tra khảo sát, trong tổng số 421 di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn có 181 công trình di tích kiến trúc nghệ thuật và di tích lịch sử văn hóa có công trình kiến trúc. Đánh giá tình trạng bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích trên 180 di tích ở các mặt: Công trình xây mới duy trì chức năng thờ cúng, xây mới bằng vật liệu truyền thống, xây mới bằng vật liệu hiện đại, phế tích như sau:

- Công trình tu bổ: có 12/181 công trình (chiếm 6,63% toàn tỉnh). Trong đó huyện Bắc Sơn có 7 di tích được tu bổ là đình Nông Lục, Trường Vũ Lăng, đình Long Đống, đình làng Huyền, đình làng Mỏ, đình làng Thẳm, đình Pác Yếng.

- Công trình xây mới: 159/181 công trình chiếm 87,8% toàn tỉnh. Trong đó:

+ Công trình xây mới duy trì chức năng thờ cúng: có 35/159 công trình chiếm 22,01% toàn tỉnh. Trong đó điển hình là huyện Hữu Lũng có 19 công trình xây mới để duy trì chức năng thờ cúng điển hình như Chùa Cả, đình Cốc Lùng, đình Ngòi Ngang, đình làng Cả, đình Chãng, đình Trung, chùa Am….

+ Công trình xây mới bằng vật liệu truyền thống: có 10/159 công trình chiếm 6,29% toàn tỉnh. Trong đó điển hình là đình Quỳnh Sơn và nghè Yên Lãng (huyện Bắc Sơn); nhà bia Thủy Môn Đình, đình Tài Trỏ (huyện Cao Lộc); đình Phai Cam và đình Bản Chu (huyện Bình Gia).

+ Công trình xây mới bằng vật liệu hiện đại: có 114/159 công trình chiếm 71,70% toàn tỉnh. Trong đó điển hình nhất ở huyện Hữu Lũng, thành phố Lạng Sơn và huyện Chi Lăng.

- Phế tích/không còn dấu vết: có 10/181 công trình chiếm 5,5%. Trong đó, huyện huyện Chi Lăng có 03 di tích phế tích, huyện Cao Lộc có 02 di tích phế tích, huyện Bắc Sơn có 02 di tích phế tích, huyện Hữu Lũng và huyện Tràng Định, huyện Lộc Bình mỗi huyện có 01 di tích phế tích (xem Phụ lục 16 - Thực trạng bảo tồn, tu bổ di tích)

4.1.2. Nguồn vốn đầu tư bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích

Nhìn chung, mức chi hàng năm cho sự nghiệp văn hóa cơ bản đáp ứng yêu cầu để thực hiện các nhiệm vụ trong lĩnh vực văn hóa. Công tác xã hội hóa đã đạt được những kết quả quan trọng, tiềm năng và nguồn lực to lớn của xã hội bước đầu được phát huy. Qua đó góp phần tăng thêm nguồn lực hoạt động, khắc phục sự hạn hẹp của ngân sách Nhà nước; huy động, khai thác, sử dụng hiệu quả công sức, trí tuệ, tài sản của nhân dân và toàn xã hội cho sự nghiệp văn hóa nói chung, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa nói riêng.

Bảng 7: Thực trạng đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích giai đoạn 2016-2020

Đơn vị: Triệu đồng

STT

Thực trạng đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích giai đoạn 2016 - 2020

Nguồn vốn

Tổng kinh phí

Nhà nước

XHH

1

Năm 2016

15.479

1.178.078

16.647,078

2

Năm 2017

1.578,169

3.325,749

4.903,918

3

Năm 2018

4.424

27. 628,886

32.052,886

4

Năm 2019

27.918,5

11.143,342

39.061,842

5

Năm 2020

32.979,55

7.646,866

40.626,416

Tổng cộng

82.379,219

50.912,921

133.292,14

Kết quả trong giai đoạn 2016 - 2020, bằng nguồn vốn ch­ương trình mục tiêu phát triển văn hóa, ngân sách tỉnh, huyện và các nguồn lực xã hội hóa với tổng kinh phí trên 133.292,14 triệu đồng (trong đó ngân sách nhà nước 82.379,219 triệu đồng (chiếm 62%), xã hội hóa 50.912,921 triệu đồng (chiếm 38 %) đã có 47 di tích với 79 lượt di tích được tu bổ, tôn tạo, phục hồi. Trong đó, nguồn kinh phí Nhà nước đã tập trung ưu tiên đầu tư vào một số điểm di tích tiêu biểu của tỉnh như: Khu di tích Chi Lăng, Khu di tích khởi nghĩa Bắc Sơn, Khu di tích Nhị - Tam Thanh, Núi Tô Thị, Thành Nhà Mạc, Khu di tích Đường số 4... từng bước hình thành một số vùng, không gian văn hóa tiêu biểu của tỉnh nói chung, thương hiệu riêng có của một số huyện, thành phố để hình thành các sản phẩm văn hóa - du lịch thu hút du khách đến với Lạng Sơn.

Việc huy động nguồn vốn xã hội hóa lấy kinh phí xây dựng, tu bổ và sửa chữa các di tích hiện đã đạt được những kết quả bước đầu. Một số địa phương trên địa bàn tỉnh như: thành phố Lạng Sơn, huyện Hữu Lũng, Chi Lăng, Cao Lộc… được đánh giá tốt trong công tác bảo vệ, phát huy giá trị di tích từ huy động xã hội hóa. Từ năm 2017 đến nay, nhiều di tích tại các huyện, thành phố được tôn tạo với số tiền rất lớn từ xã hội hóa. Nổi bật nhất trong số các địa phương trên là Thành phố Lạng Sơn. Từ năm 2016 đến nay thành phố Lạng Sơn đã và đang trùng tu, tôn tạo, chống xuống cấp được trên 10 di tích từ nguồn xã hội hóa với số tiền gần tỷ đồng; tiếp đến là các huyện Hữu Lũng trên 08 tỷ; huyện Cao Lộc trên 07 tỷ đồng, huyện Chi Lăng trên 01 tỷ đồng… Sự đóng góp của nhân dân và các tổ chức xã hội không những phát huy hiệu quả trong việc bảo tồn hệ thống di tích trên toàn tỉnh, làm cho bộ mặt nhiều di tích thay đổi, góp phần đưa di tích trở thành điểm du lịch hấp dẫn, nổi tiếng, thu hút đông khách du lịch đến với địa phương mà còn tác động trở lại xã hội cho sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương, điển hình như: đền Kỳ Cùng, đền Bắc Lệ, đền Mẫu Đồng Đăng, chùa Thành, chùa Tân Thanh…và một số điểm di tích khác.

 Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được do điểu kiện kinh tế, xã hội của tỉnh còn khó khăn nên quy mô và nguồn lực đầu tư cho hoạt động văn hóa nói chung, công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích còn hạn chế chưa tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và tình hình thực tế của từng địa bàn, từng dân tộc. Nhiều di tích đã xếp hạng các cấp, đặc biệt các di tích thuộc loại hình lịch sử, khảo cổ, kiến trúc nghệ thuật đã bị hư hỏng, xuống cấp, thậm chí đã trở thành phế tích nhưng không có kinh phí để bảo quản, tu bổ, phục hồi. Việc huy động các nguồn lực cho hoạt động xã hội hóa mặc dù đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu và chỉ tập trung vào một số di tích thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật là cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo; loại hình danh lam thắng cảnh. Bên cạnh đó do nguồn kinh phí huy động được còn nhỏ lẻ, manh mún, dàn trải, kéo dài gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện, đặc biệt là những công trình công trình có tính chất quần thể, quy mô lớn, vùng, không gian văn hóa, hệ thống di sản văn hóa vật thể, phi vật thể tiêu biểu của tỉnh để hình thành các sản phẩm văn hóa - du lịch mang tính đặc trưng, thương hiệu tạo sự đột phá, sức hấp dẫn Nhân dân và du khách trong và ngoài nước.

4.2. Thực trạng sử dụng di tích

Qua việc đánh giá sử dụng và phát huy giá trị di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trên các góc độ như: Đúng chức năng, sai chức năng, sai một phần chức năng hoặc không còn sử dụng. Thực trạng sử dụng di tích theo từng huyện khảo sát, cụ thể như sau:

- Số di tích không còn được sử dụng: 39/421 di tích chiếm 9,26% toàn tỉnh. Trong đó, điển hình có 13 di tích không còn sử dụng ở huyện Cao Lộc, huyện Văn Lãng (11/37 di tích mất dấu vết).

- Số di tích sử dụng sai một phần chức năng: 2/421 di tích chiếm 0,48%.

- Số di tích sử dụng sai chức chức năng: 10/421 di tích chiếm 2,38%.

- Số di tích sử dụng đúng chức năng: 370/421 di tích chiếm 87,88%.

(Xem Phụ lục 17- Thực trạng sử dụng di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn)

Có thể thấy rằng, loại hình di tích khảo cổ học và danh lam thắng cảnh đều đang được sử dụng đúng chức năng; trong khi đó loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật và lịch sử văn hóa tồn tại nhiều trường hợp sử dụng sai chức năng hoặc không còn được sử dụng. Cụ thể như sau:

4.2.1. Đối với loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật

a. Đối với di tích sử dụng sai một phần chức năng

Có 01 di tích là chùa Lầm Thượng (xã Yên Vượng, huyện Hữu Lũng). Trước đây, di tích là nơi thờ Phật, phục vụ nhu cầu tôn giáo của người dân địa phương. Tuy nhiên, hiện nay, địa điểm này đã không còn tượng Phật mà chuyển đổi chức năng sử dụng thành đình thờ 5 vị thành hoàng và 2 vị phúc thần.

b. Đối với di tích không còn được sử dụng

Huyện Bắc Sơn có 2 di tích. Di tích thứ nhất là đình Dục Lắc (xã Bắc Quỳnh). Theo những dấu tích còn sót lại trên mặt đất thì đình được khởi dựng khoảng đầu thế kỷ 20, cửa đình hướng Đông Nam, sau là núi, trước là suối và cánh đồng thôn Nội Hoà. Hiện nay, đình Dục Lắc đã bị sụp đổ hoàn toàn. Di tích thứ 2 hiện đang bị xuống cấp nghiêm trọng là nghè Hữu Vĩnh, mặc dù vẫn còn một số mảng chạm mang phong cách đầu thế kỷ 20, nhưng qua thời gian chiến tranh, và không được người dân thờ cúng nên đã dần trở thành phế tích.

Huyện Cao Lộc có 1 di tích là cầu Khao. Trước khi xây cây cầu mới ngay bên cạnh này thì đây vẫn là cây cầu duy nhất phục vụ cho việc đi lại của nhân dân địa phương. Hiện tại cầu Khao đã không còn được sử dụng do không còn đáp ứng được nhu cầu đi lại của nhân dân.

Huyện Tràng Định có 1 di tích là đình Chúa Sơn Lâm (xã Kháng Chiến). Từ năm 1999 cho tới nay, nhân dân không còn thờ tự nữa, đình bị bỏ không và cũng không được tu bổ tôn tạo, hiện trạng chỉ còn lại một phần chân tường và nền móng.

4.2.2. Đối với loại hình di tích lịch sử - văn hóa

a. Đối với di tích sử dụng sai chức năng

- Huyện Bắc Sơn có 1 di tích là làng Khuôn Khát (xã Vũ Lễ). Di tích cách quốc lộ 1B khoảng 1.500m, hiện đã bị biến đổi rất nhiều, không còn giữ được nền móng nhà hay bất kỳ dấu vết kiến trúc nào liên quan đến Làng Khuôn Khát xưa. Hiện nay, nhân dân đã trồng hoa màu, các cây công nghiệp: keo, sở, bạch đàn ở xung quanh và trên đất của di tích.

- Huyện Chi Lăng có 7 di tích sử dụng sai chức năng, tất cả đều nằm ở xã Chi Lăng, thuộc khu di tích Chi Lăng. Các di tích này hiện này đều đã trở thành đất canh tác nông nghiệp của người Dân địa phương.

- Huyện Tràng Định có 2 di tích là đồn Đèo Khách (xã Hùng Việt) và đồn Thất Khê (thị trấn Thất Khê).

b. Đối với di tích sử dụng sai một phần chức năng

Khu di tích Pò Đồn (TT Bình Gia) đã được Đảng và Nhà nước ta tiến hành xây dựng thành những công trình trụ sở của các cơ quan, huyện ủy và UBND huyện Bình Gia.... Hệ thống đồn bốt, hầm hào cũng đã bị san lấp gần hết.

c. Đối với di tích không còn được sử dụng

 - Huyện Hữu Lũng có 1 di tích là khu căn cứ khởi nghĩa Hoàng Đình Kinh. Di tích này là những dãy núi non đại ngàn trùng điệp trải rộng khắp trên địa bàn của hai huyện Chi Lăng và Hữu Lũng. Chính những địa điểm này là nơi che chắn và nơi trú ngụ sinh hoạt, tập luyện, họp bàn đánh Pháp của thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh trong những năm 1885-1888.

 - Huyện Chi Lăng có 06 di tích, đều nằm trong cụm khu di tích Chi Lăng, gắn với những địa danh lưu dấu kháng chiến chống kẻ thù xâm lược như lò gạch cổ, hòn đá mổ lợn,... Đến nay, các di tích này đã bị mai một.

 - Huyện Bình Gia có 02 di tích. Di tích thứ nhất là Bến đò Văn Mịch (xã Hồng Phong) hiện nay đã không còn được sử dụng do chính quyền đã xây cầu mới gần đó. Di tích thứ hai là địa điểm đình Nà Đồng hiện nay đã trở thành hoang phế.

- Huyện Cao Lộc có 12 di tích, đó là các di tích nằm trong khu di tích lịch sử du kích Ba Sơn hoặc có liên quan tới cụm di tích này, nằm rải rác ở các xã Thụy Hùng, Xuất Lễ, Hải Yến, Công Sơn, Cao Lâu, Bình Trung, Gia Cát. Một vài di tích trong số đó là hang đã từng sử dụng làm căn cứ cách mạng, hiện đã không còn được sử dụng như hang Ngườm Liên, hang Lạo Pảo, hang Đán Lài,...

- Huyện Tràng Định có 03 di tích là đồn Bản Trại (xã Kháng Chiến), di tích Pò Đồn và Ngườm Chuông (xã Quốc Khánh). Đó từng là điểm di tích lịch sử cách mạng, là nơi sơ tán và cũng là nơi hoạt động của cán bộ cách mạng xã huyện Tràng Định.

- Huyện Văn Lãng có 11 di tích: từng là những địa điểm cách mạng hay đồn bốt do Pháp xây dựng, ghi dấu chiến thắng của quân và dân ta như đồn Na Sầm (thị trấn Na Sầm); địa điểm Cha Lùng - Cha Páo, đồn Nà Cạn, đồn Nà Lẹng (xã Tân Việt),...

Kết quả khảo sát thực trạng của các loại hình di tích trong tổng số 421 di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nhận thấy:

- Loại hình di tích lịch sử văn hóa có tình trạng sử dụng kém nhất với 35/183 di tích không còn sử dụng, chiếm 19,12%, 10/183 di tích sử dụng sai chức năng, chiếm 5,46%.

- Loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật có 04/174 di tích không còn sử dụng chiếm 2,29%, 01/174 di tích sử dụng sai chức năng và sai một phần chức năng chiếm 0,57%.

- Loại hình di tích khảo cổ học và danh lam thắng cảnh có tình trạng sử dụng tốt, tất cả các di tích sử dụng đúng chức năng.

Nhìn chung, số lượng di tích sử dụng đúng chức năng vẫn chiếm tỉ lệ đa số (87,88%); các di tích sử dụng sai chức năng chiếm đại đa số ở loại hình di tích lịch sử văn hóa; các di tích sai một phần chức năng nằm ở loại hình kiến trúc nghệ thuật. Bên cạnh đó, số lượng di tích không còn được sử dụng chiếm một tỷ lệ không hề nhỏ (9,26%) đặt ra những vấn đề về công tác quản lý, sử dụng, cũng như đòi hỏi sự quan tâm của các cấp chính quyền và người dân địa phương đối với di sản (xem Phụ lục 18- Thực trạng sử dụng của các loại hình di tích).

V. ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG KẾT NỐI VÀ DỰ BÁO NGUY CƠ TÁC ĐỘNG TỚI HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA VÀ DANH LAM THẮNG CẢNH TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỦA TỈNH

1. Vị trí, vai trò của hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh đối với phát triển du lịch

Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 xác định: “... Tập trung xây dựng hệ thống sản phẩm, loại hình du lịch đặc trưng và chất lượng cao trên cơ sở phát huy giá trị tài nguyên du lịch độc đáo, đặc sắc, có thế mạnh nổi trội. Đặc biệt, tập trung phát triển các loại hình, sản phẩm du lịch văn hóa gắn với di sản, lễ hội, tham quan và tìm hiểu văn hóa, lối sống địa phương; phát triển du lịch làng nghề và du lịch cộng đồng kết hợp nghỉ tại nhà dân...”.

Theo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Lạng Sơn đến năm 2020được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 545/QĐ-TTg ngày 09/5/2012 đã xác định “Phát triển du lịch theo hướng bền vững và toàn diện; bảo vệ, tôn tạo và nâng cấp các di tích văn hóa - lịch sử, phục hồi văn hóa dân gian mang đậm bản sắc dân tộc; khuyến khích phát triển du lịch tâm linh, du lịch tham quan di tích lịch sử kết hợp với sinh thái nghỉ dưỡng”

Việc khai thác các hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh để phát triển du lịch, không những đem lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội, giúp thúc đẩy ngành du lịch cho tỉnh nhà mà còn góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích lịch sử, văn hóa nhằm giới thiệu, truyền tải thông điệp rộng rãi đến các du khách trong, ngoài nước biết đến bề dày lịch sử hào hùng của tỉnh Lạng Sơn. Từ nhiều năm nay, các địa danh như: Nhị Thanh, Tam Thanh, Đền Kỳ Cùng, du lịch Mẫu Sơn…luôn là điểm đến hấp dẫn của khách du lịch cả nước, đặc biệt đối với người dân Thủ đô Hà Nội và các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng. Các hoạt động tham quan du lịch gắn với các di tích lịch sử cách mạng ở Lạng Sơn tập trung chủ yếu ở Khu di tích lịch sử Chi Lăng, Khu di tích lịch sử khởi nghĩa Bắc Sơn. Hai khu di tích này đã được công nhận là khu di tích Quốc Gia đặc biệt, là niềm tự hào của người dân Lạng Sơn và cũng là một động lực thúc đẩy cho việc khai thác du lịch tại các di tích lịch sử, cách mạng vốn dĩ là những địa điểm có sức thu hút khách du lịch ít hơn so với các loại hình di tích khác.

Với vị trí tiền đồn của Tổ quốc, với tiềm năng du lịch phong phú, trong đó đặc biệt là các giá trị văn hóa đậm đà bản sắc các dân tộc vùng núi Đông Bắc. Lạng Sơn có thể phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù, trở thành điểm đến hấp dẫn của khách du lịch trong và ngoài nước, là mắt xích quan trọng trong tuyến du lịch văn hóa - lịch sử “về với cội nguồn cách mạng” của du lịch Việt Nam. Sản phẩm du lịch văn hóa - tâm linh - lễ hội trong thời gian vừa qua luôn là điểm nhấn, thu hút khách du lịch (đặc biệt là khách nội địa) đến Lạng Sơn và luôn chiếm tỷ trọng lớn. Ước tính khoảng trên 70% lượng khách đến Lạng Sơn đi theo các loại hình du lịch văn hóa - tâm linh. Với lợi thế hơn 335 địa danh, danh thắng, di tích lịch sử, trong đó có nhiều điểm đã khai thác du lịch văn hóa - tâm linh. Đầu tư cho du lịch văn hóa - tâm linh ngày càng được đẩy mạnh ở quy mô, tính chất hoạt động, tiêu biểu như các điểm di tích: đền Bắc Lệ, đền Mẫu Đồng Đăng, khu danh thắng Nhị - Tam Thanh, chùa Thành, chùa Tân Thanh, đền Kỳ Cùng…

Trong những năm gần đây, du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, tỉnh Lạng Sơn đã chú trọng đến việc phát triển loại hình du lịch tham quan di tích văn hóa, lịch sử. Theo thống kê lượng khách du lịch toàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2019 tỉnh Lạng Sơn đón 10.213.000 lượt khách tham quan du lịch (trong đó khách nội địa 8.760.450 lượt khách, khách quốc tế 1.452.550 lượt khách), mỗi năm trung bình tăng 15,42% (năm 2016 đón 1.813.000 tăng 4,7%, năm 2017 đón 2.640.000 tăng 45,5%, năm 2018 đón 2.808.000 tăng 6,3%, năm 2019 đón 2.952.000 tăng 5,16%. Doanh thu đạt 3.715 tỷ đồng mỗi năm tăng trung bình 18,38% (năm 2016 đạt 679 tỷ đồng tăng 4,8% năm 2017 đạt 910 tỷ đồng tăng 34%, năm 2018 đạt 900 tỷ đồng giảm 1,1% năm 2019 đạt 1.226 tỷ tăng 36,2%).

Du lịch Lạng Sơn phát triển đi đôi với gìn giữ, phát huy các giá trị cảnh quan, các di tích, các giá trị văn hóa của tỉnh. Đặc biệt, các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc là những di sản văn hóa được bảo tồn và phát huy thông qua quảng bá và sự giao lưu của khách du lịch. Tỉnh Lạng Sơn đang quan tâm đến việc đầu tư cơ sở vật chất, thường xuyên tu bổ, tôn tạo, chỉnh trang cũng như nâng cấp hạ tầng giao thông, dịch vụ du lịch tại các điểm tham quan di tích lịch sử, văn hóa,…để tạo nên sản phẩm du lịch có tính bền vững và phát triển.

2. Đánh giá thực trạng, nguy cơ tác động đến hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh đối với phát triển du lịch

2.1. Tình trạng kỹ thuật của hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh ảnh hưởng đến phát triển du lịch

2.1.1. Các di tích khảo cổ học

Các di tích khảo cổ hiện nay trên địa bàn tỉnh là một trong những nguồn tài nguyên du lịch độc đáo, vô giá mà tổ tiên để lại cho thế hệ hôm nay. Việc bảo tồn và phát huy chúng gắn với du lịch là xu hướng đúng đắn phát triển du lịch thời kỳ mở cửa và hội nhập của một tỉnh nơi biên viễn của Tổ quốc. Tuy nhiên, hiện nay, các di tích vẫn chưa đáp ứng đầy đủ điều kiện để đưa vào khai thác du lịch, dẫn tới một số di tích đã rơi vào tình trạng hoang hóa như: di chỉ Mai Pha (thành phố Lạng Sơn), di chỉ hang Kéo Lèng (huyện Bình Gia).

2.1.2. Các di tích kiến trúc nghệ thuật, lịch sử văn hóa

Hai loại hình này chiếm 84% tổng số di tích của tỉnh Lạng Sơn. Tuy nhiên, qua công tác điều tra cho thấy vẫn xảy ra tình trạng xây mới, lấn chiếm sử dụng đất, chưa quy hoạch, chưa được khoanh vùng bảo vệ và giá trị bảo tồn yếu tố gốc ở mức khiêm tốn cho thấy giá trị bảo tồn của hệ thống di tích này đang bị mai một. Trước thực trạng nhiều di tích đã bị xâm hại, lấn chiếm, ngành Văn hóa tỉnh Lạng Sơn đã phối hợp với các Đội kiểm tra liên ngành các cấp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nắm bắt tình hình hoạt động tại các điểm di tích trên địa bàn. Qua đó, các đội kiểm tra đã tiến hành lập nhiều biên bản và xử phạt các hành vi vi phạm, yêu cầu các tổ chức, cá nhân vi phạm chủ động khắc phục hậu quả nhằm khôi phục lại không gian cảnh quan của di tích, bảo vệ an ninh trật tự và nếp sống văn minh, văn hóa tín ngưỡng tại di tích và cơ sở thờ tự.

Hơn nữa, công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với di tích xếp hạng các cấp còn chậm, do đó chưa có cơ sở pháp lý để khoanh vùng bảo vệ. Ngoài ra, sự phối hợp giữa các ngành chức năng, chính quyền các cấp trong quản lý di tích tại cơ sở cũng chưa thực sự chặt chẽ và quyết liệt…

2.1.3. Các di tích danh lam thắng cảnh

Tỉnh Lạng Sơn có vị trí địa hình, khí hậu, đa dạng sinh học kết hợp tạo nên một hệ thống các di tích danh lam thắng cảnh rất độc đáo, tạo ra các sản phẩm du lịch khác biệt nhằm thu hút du lịch. Bảng 10 gồm 09 di tích, khu di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia, cấp tỉnh trong tổng số 26 di tích danh lam thắng cảnh. Hiện trạng khai thác trên cho thấy các di tích danh lam thắng cảnh nhờ việc được xếp hạng cũng đã được đầu tư, khai thác du lịch.

Bảng 8: Một số đặc điểm giá trị, hoạt động khai thác du lịch của danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh

TT

Tên di tích

Giá trị, hoạt động khai thác du lịch

1

Hang Gió- Huyện Chi Lăng

- Hệ thống hang động (gồm 6 hang gần nhau, mỗi hang có một vẻ đẹp riêng nổi bật là Hang Gió)

- Sinh thái, cảnh quan tự nhiên.

- Giá trị khảo cổ

- Đã khai thác du lịch đón tiếp hàng nghìn lượt khách mỗi năm.

- Có Ban quản lý danh thắng Hang Gió trực tiếp quản lý

2

Hồ Pác Mỏ - huyện Bắc Sơn

- Hệ thống hang động

- Sinh thái tự nhiên

- Cảnh quan hồ nước xung quanh tương đối đẹp

- Chưa có các dịch vụ và hàng hoá du lịch

- Khách du lịch địa phương

3

Hang Cốc Lý- Huyện Bắc Sơn

- Hệ thống hang động đá vôi(có nhiều nhũ đá đẹp, đa dạng hình thái)

- Sinh thái, cảnh quan tự nhiên

- Vẫn còn hoang sơ

- Chưa có các dịch vụ và hàng hoá du lịch

4

Khu vực núi Mẫu Sơn- Huyện Lộc Bình

- Khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng.

- Sinh thái, cảnh quan tự nhiên.

- Đã khai thác du lịch và hiện đang quá tải do cơ sở vật chất kỹ thuật chưa đáp ứng

5

Núi Phặt Chỉ- Huyện Lộc Bình

- Núi nằm trong khu du lịch Mẫu Sơn.

- Sinh thái, cảnh quan tự nhiên hoang sơ.

- Mới đưa vào khai thác du lịch

- Chưa có các dịch vụ và hàng hoá du lịch

6

Thác Bản Khiếng -Huyện Lộc Bình

- Hệ thống thác nước tự nhiên (Thác bắt nguồn từ dãy núi Mẫu Sơn hùng vĩ có độ cao trên 1.000 m)

- Sinh thái, cảnh quan tự nhiên.

- Chưa có dịch vụ và hàng hóa du lịch

- Từ cuối năm 2019 điểm du lịch đã đón từ 200-600 lượt khách.Trong 4 ngày nghỉ lễ (30/4 - 3/5/2020), điểm du lịch này đã đón trên 1.000 lượt khách

7

Địa điểm suối Long Đầu-Huyện Lộc Bình

- Hệ thống suối (chảy dài khoảng 10km, cách cửa khẩu Quốc Gia Chi Ma 4km)

- Sinh thái, cảnh quan vùng núi tự nhiên

- Suối vẫn còn hoang sơ

- Thu hút khách đến tắm mát, nghỉ ngơi

8

Khu di tích Nhị - Tam Thanh, núi Tô Thị, thành nhà Mạc- TP

- Khu di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh, núi Tô Thị, thành Nhà Mạc nằm trong dãy núi đá vôi phía Tây Bắc Thành phố Lạng Sơn.

- Sinh thái, cảnh quan vùng núi tự nhiên

- Khai thác thu hút du lịch tâm linh

9

Chùa Tiên - Giếng Tiên, TP. Lạng Sơn

- Do hang núi Đại Tượng (núi hình con Voi) tạo nên mà thành.

- Sinh thái, cảnh quan vùng núi tự nhiên

- Khai thác du lịch tâm linh

2.2. Tình trạng khai thác hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh phục vụ du lịch

Tỉnh Lạng Sơn đã có những bước phát triển đáng khích lệ về lượng khách, thu nhập, cơ sở vật chất kỹ thuật và việc làm, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh Lạng Sơn:

2.2.1. Số lượng khách du lịch

Lượng khách du lịch đến Lạng Sơn tăng trưởng đều quá các năm. Trong 5 năm trở lại đây (2015 - 2020), tốc độ tăng trưởng trung bình khách du lịch quốc tế đạt 9,2 %/năm, đối với khách du lịch nội địa là 4.6%/năm; Ngày lưu trú trung bình của khách du lịch quốc tế đến Lạng Sơn còn thấp, dao động trong khoảng 1,5 - 1,8 ngày.

Bảng 9: Khách du lịch đến Lạng Sơn giai đoạn 2015-2020

Chỉ tiêu

Đơn vị

2015

2016

2017

2018

2019

2020

Tăng TB %

Tổng lượng khách

Nghìn lượt

2.350

2.510

2.640

2.808

2.952

3.100

5,25

Nội địa

Nghìn lượt

2.050

2.149

2.258

2.378

2.500

2.640

4,6

Quốc tế

Nghìn lượt

300

361

382

430

452

460

9,2

Phần lớn khách du lịch quốc tế đến Lạng Sơn là Trung Quốc và một số ít các nước khác với mục du lịch văn hóa, lễ hội, tham quan danh lam thắng cảnh, nghiên cứu, sinh thái, tìm hiểu văn hóa bản địa; còn khách đến với mục đích công vụ, hội nghị, hội thảo (MICE) còn khá ít.

Khách du lịch nội địa chiếm trên 80% tổng lượng khách đến Lạng Sơn (riêng năm 2019 là 84,7%), chủ yếu đến từ các tỉnh đồng bằng Sông Hồng, Hà Nội, Hải Phòng, các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc, khách từ các tỉnh Miền Trung và Miền Nam còn hạn chế. Mục đích chủ yếu của khách là du lịch văn hóa, tâm linh, lễ hội, tham quan các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, cửa khẩu, đường biên, mốc giới quốc gia, du lịch cộng đồng... Các điểm du lịch của Lạng Sơn thu hút khách du lịch nội địa chủ yếu là Khu du lịch quốc gia Mẫu Sơn; cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị; các điểm du lịch tâm linh (động Nhị - Tam Thanh, đền Kỳ Cùng, chùa Thành, đền Mẫu Đồng Đăng, đền Bắc Lệ...), Chợ Đông Kinh; các làng du lịch cộng đồng homestay...

Khách du lịch nội địa đến Lạng Sơn thường đi theo nhóm do các công ty du lịch, lữ hành tổ chức; do các tổ chức công đoàn, tổ chức xã hội, hội nghề nghiệp tổ chức; hoặc tự tổ chức theo các nhóm.

2.2.2. Tổng thu từ khách du lịch tỉnh Lạng Sơn

Nhìn chung, tổng thu từ du lịch bao gồm tất cả các khoản thu từ khách du lịch như lưu trú, ăn uống, vận chuyển, dịch vụ lữ hành, hướng dẫn, mua sắm hàng lưu niệm và các dịch vụ bổ sung khác tăng dần theo từng năm... Năm 2010, tổng thu từ du lịch của Lạng Sơn đạt 730 tỷ đồng; năm 2015 đạt 810 tỷ đồng; đến năm 2019 tăng lên 1.226 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2014 - 2018 đạt 9,86%/năm, trong đó tổng thu từ khách nội địa chiếm khoảng 82%, khách quốc tế khoảng 18%.

Mức chi tiêu trung bình khách du lịch đến Lạng Sơn còn thấp. Qua thống kê sơ bộ, mức chi tiêu bình quân của khách quốc tế đến tỉnh Lạng Sơn khoảng 1 triệu đồng/ngày (tương đương khoảng 45 USD/ngày) đối với khách quốc tế có lưu trú và khoảng 30 USD/ngày đối với khách quốc tế không lưu trú 700.000 đồng/ngày. Mức chi tiêu bình quân của khách nội địa thấp hơn so với khách quốc tế, khoảng 600.000 đồng/ngày (tương đương khoảng 25 USD/ngày), đối với khách nội địa không lưu trú khoảng 400.000đồng/ngày. Phần lớn khách du lịch chi tiêu vào dịch vụ lưu trú và ăn uống; mua sắm hàng hóa, một số đồ thủ công mỹ nghệ, đồ lưu niệm...

Tỷ lệ tổng thu từ khách du lịch của tỉnh Lạng Sơn trong mấy năm qua không có sự biến động nhiều, dao động trong khoảng từ 11 - 13% và vẫn chưa tương xứng với tỷ lệ khách, nguyên nhân do:

- Sản phẩm du lịch chậm đổi mới, chưa theo kịp thị hiếu khách du lịch, ít các dịch vụ gia tăng để phục vụ được khách du lịch, thiếu sản phẩm độc đáo mang đặc thù riêng của các địa phương, thiếu những dịch vụ cao cấp để có thể phục vụ được khách có khả năng chi trả cao,...

- Thiếu dịch vụ giải trí cho khách du lịch, đặc biệt là giải trí về đêm. Chưa có những cơ sở vui chơi giải trí cao cấp để níu chân khách lưu trú.

- Thời gian khách lưu trú ngắn, khoảng thời gian 1,4 ngày.

2.3. Các nguy cơ tác động đến hệ thống các di tích và danh lam thắng cảnh do khai thác hoạt động du lịch

Việc đưa vào khai thác hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh đang là một xu thế tất yếu, là yếu tố quan trọng cấu thành lên sản phẩm du lịch và tỉnh Lạng Sơn cũng đang phát huy hết giá trị của tài nguyên du lịch này. Tuy nhiên, vừa phát triển du lịch và vừa bảo tồn các giá trị di tích là mối quan hệ hữu cơ không tách rời, ảnh hưởng qua lại và trong quá trình khai thác hoạt động du lịch sẽ xảy ra những nguy cơ ảnh hưởng đến việc hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh, cụ thể như sau:

2.3.1. Sự vô ý thức của một bộ phận du khách làm hư hại di tích

Sự vô ý thức của một số du khách đã làm hư hại, ảnh hưởng tới di tích. Đặc biệt những người trẻ tuổi thường có thói quen để lại dấu tích của mình ở những nơi đã đến như viết vẽ, chạm khắc lên các công trình kiến trúc, hiện vật. Sự vô tình hay cố ý của con người (du khách) tác động dù trực tiếp hay gián tiếp đến di tích cũng để lại hậu quả. Leo trèo, sờ mó, bôi vẽ lên hiện vật và di tích là những tác động có thể ảnh hưởng tới sự bền vững của di tích cũng như các giá trị khoa học, lịch sử của di tích. Để làm sạch các vết bẩn này rất khó khăn, nỗ lực làm sạch các dấu vết này nhiều khi còn gây hư hại tới hiện vật.

2.3.2. Ô nhiễm môi trường di tích

Khi du lịch phát triển với số lượng khách tham quan lớn, nhiều di tích đã xảy ra hiện tượng quá tải, không đáp ứng được nhu cầu của khách tham quan. Cùng với hệ thống hạ tầng (nhà vệ sinh, thùng thu gom rác, bãi đỗ xe…) yếu kém không đáp ứng được nhu cầu dẫn đến hiện tượng ô nhiễm ở di tích.

Trong quá trình tổ chức lễ hội không gian di tích luôn trong tình trạng quá tải do số lượng khách du lịch tập trung đông trong một thời gian ngắn. Hiện nay, khách du lịch thường tới các điểm di tích bằng các phương tiện cơ giới. Lượng xe lớn, tập trung trong thời gian ngắn đã gây ra ô nhiễm không khí do bụi, khí thải của xe, tiếng động của xe cơ giới.

Hiện nay, môi trường du lịch Lạng Sơn chưa phát hiện có vấn đề nghiêm trọng. Tuy nhiên, đã xuất hiện nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường và qua đó ảnh hưởng đến phát triển du lịch bền vững ở Lạng Sơn như:

- Nguy cơ ô nhiễm môi trường nước trên hệ thống sông, suối do chất thải từ các hoạt động công nghiệp, nước thải từ sinh hoạt của cộng đồng, nước thải từ hoạt động kinh doanh trên địa bàn Lạng Sơn. Sự gia tăng tình trạng ô nhiễm ở những khu vực này sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động du lịch ở một số khu/điểm du lịch: Đền Tả Phù, Kỳ Cùng, các miếu thờ hai bên bờ sông, ô nhiễm mùi ở khu vực động Tam Thanh do mùi nước bị ô nhiễm ở dòng suối Ngọc Tuyền bốc lên, nhất là vào những mùa khô cạn gây khó chịu cho khách du lịch...

- Nguy cơ ô nhiễm môi trường không khí và môi trường nước sông Kỳ Cùng, suối Ngọc Tuyền, hồ Phai Loạn... Sự gia tăng tình trạng ô nhiễm ở những khu vực này sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động du lịch ở một số khu/điểm du lịch ở khu vực động Nhị Thanh, và suối Ngọc Tuyền…

- Nguy cơ suy giảm môi trường do chính hoạt động du lịch: chất thải từ các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch (khách sạn, nhà hàng, phương tiện vận chuyển khách) và khách du lịch. Phạm vi tác động của hoạt động du lịch đối với môi trường chủ yếu tại các khu du lịch, các điểm tham quan du lịch tại các địa bàn tỉnh Lạng Sơn, những tác động này diễn ra mạnh hơn đặc biệt vào mùa lễ hội.

- Nguy cơ tác động tiêu cực tới di tích lịch sử văn hóa:cảnh quan và các di tích thường bị xuống cấp về mặt thẩm mỹ do việc xây dựng các công trình du lịch hiện đại và các cơ sở dịch vụ du lịch. Trong quá trình phát triển hạ tầng và xây dựng các khu du lịch, các hoạt động chủ yếu bao gồm san lấp chuẩn bị mặt bằng, khai thác vật liệu xây dựng; xây dựng cơ sở hạ tầng (đường giao thông, hệ thống cung cấp nước và năng lượng, hệ thống thu gom và xử lý chất thải…); xây dựng các công trình dịch vụ du lịch, các hoạt động vận chuyển…Trong nhiều trường hợp, kiến trúc của những tòa nhà mới thường thiếu sự hài hòa với những kiến trúc truyền thống. Hơn nữa, việc xây dựng các công trình du lịch không có quy hoạch sẽ làm cho cảnh quan bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Lượng du khách quá đông đến tham quan di tích cũng có thể làm cho các công trình này bị xuống cấp. Vấn đề này ở Lạng Sơn chưa ảnh hưởng nhiều vì còn ít các khu du lịch được đầu tư xây dựng nhưng trong tương lai gần mức độ ảnh hưởng sẽ là đáng kể cùng với sự phát triển của các khu, điểm du lịch.

Tại các hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh của tỉnh Lạng Sơn, phần lớn rác thải từ các khu, điểm du lịch vẫn được chuyển về bãi chôn lấp tập trung và hầu hết chưa có khu xử lý chất thải rắn đạt tiêu chuẩn. Việc phân loại chất thải rắn tại nguồn chưa được thực hiện đồng bộ, hoặc có thực hiện nhưng không thường xuyên tại các điểm, khu du lịch. Nước thải từ các cơ sở du lịch phần lớn chưa được xử lý đạt chuẩn trước khi thải ra môi trường, ngoại trừ các cơ sở lưu trú, nhà hàng cao cấp, các cơ sở dịch vụ du lịch còn lại, hoặc chỉ xử lý sơ bộ qua bể lắng, hoặc xả thẳng ra môi trường gây ra tình trạng ô nhiễm ngày càng gia tăng, một số nơi rất nghiêm trọng. Ngoài ra, do phát triển quá nhanh để đáp ứng nhu cầu của lượng khách du lịch ngày một tăng, hệ thống các khách sạn, nhà hàng, các điểm vui chơi giải trí… tăng lên một cách nhanh chóng. Trong khi đó, hệ thống kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà nước và ngành du lịch chưa theo kịp… cho nên nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ được xây dựng thiếu hệ thống xử lý chất thải bảo vệ môi trường. Điều này khiến quá trình suy thoái môi trường diễn ra nhanh hơn. Đáng chú ý, nhiều cơ sở kinh doanh du lịch mới chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế trước mắt đã khai thác nguồn tài nguyên phục vụ nhu cầu của du khách một cách không hợp lý.

3. Thực trạng cơ chế tổ chức, quản lý các hoạt động khai thác du lịch tại hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh

3.1. Cơ chế chính sách về bảo tồn và phát huy giá trị di tích gắn kết với du lịch

Cùng với chính sách công nhận di tích, nhà nước đã ban hành những quy định về tổ chức quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di tích. Với mục tiêu xây dựng và phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó lấy di sản văn hóa là nền tảng, động lực để phát triển. Hoạt động khai thác, phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh ngày càng được quan tâm, chú trọng và có những chuyển biến tích cực, thông qua nhiều hoạt động và đạt được một số kết quả nhất định, tiêu biểu là:

- Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh đã quan tâm, chỉ đạo, xây dựng, phê duyệt và ban hành các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề và chương trình hành động về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa; phát triển du lịch đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Bên cạnh đó, ngoài Đề án phát triển du lịch chung của tỉnh đã có 4/11 huyện hoàn thành đề án phát triển du lịch riêng (gồm Bắc Sơn, Bình Gia, Văn Quan và thành phố Lạng Sơn); 03/11 huyện đang triển khai lập đề án (gồm Chi Lăng, Lộc Bình, Tràng Định).

- Quan tâm, xây dựng, hình thành các tua, tuyến du lịch gắn liền với những di sản văn hóa vật thể, phi vật thể tiêu biểu trên địa bàn tỉnh nói chung và cụm các huyện, thành phố nói riêng để từng bước xây dựng, hình thành sản phẩm văn hóa du lịch đặc thù, đặc biệt là các loại hình du lịch tâm linh, sinh thái, cộng đồng gắn với du lịch mua sắm, mạo hiểm. Đồng thời cùng với chính sách công nhận di tích việc công nhận các điểm du lịch quốc gia và du lịch địa phương cũng được quan tâm, đẩy mạnh thông qua việc triển khai thực hiện quy trình, thủ tục đề nghị Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày 20/02/2017 quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Mẫu Sơn, tỉnh Lạng Sơn đến năm 2030; thẩm định và quyết định công nhận 46 điểm du lịch địa phương (trong đó 34/46 điểm du lịch là điểm, khu di tích, thiết chế văn hóa).

- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến nội dung, giá trị, tiềm năng, thế mạnh về di sản văn hóa trên các phương tiện thông tin đại chúng ở trung ương và địa phương. Từ năm 2016 đến nay đã biên tập, in ấn, phát hành, tái bản 36.000 ấn phẩm tờ rơi, tờ gấp về du lịch (gồm du lịch Lạng Sơn mùa lễ hội, du lịch Mẫu Sơn, du lịch cộng đồng Quỳnh Sơn, du lịch sinh thái cộng đồng Hữu Liên, niên giám du lịch, bản đồ du lịch, du lịch Bắc Sơn, điểm đến du lịch Lạng Sơn, cẩm nang du lịch Lạng Sơn, postcard du lịch Lạng Sơn, tuyến điểm du lịch đặc sắc); xây dựng 07 video, clip(gồm tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng Lạng Sơn, Lạng Sơn điểm đến du lịch tâm linh, Lạng Sơn thắm mãi sắc hoa đào, du lịch sinh thái cộng đồng Hữu Liên, du lịch sinh thái cộng đồng Vũ Lăng, dấu ấn du lịch nơi địa đầu tổ quốc, hành trình du lịch Lạng Sơn) để phát sóng, quảng bá trên các phương tiện thông tin, đại chúng như: Báo Lạng Sơn, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh,Tạp chí du lịch, Trung tâm điện ảnh Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, chương trình S Việt Nam (VTV1), truyền hình nhân dân và các phương tiện truyền thông khác.

- Tăng cường, đẩy mạnh việc tổ chức các chương trình sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch nhân dịp các ngày lễ lớn của tỉnh, đất nước như: Tuần Văn hóa, Thể thao và Du lịch, lễ hội hoa Đào xứ Lạng, liên hoan du lịch Mẫu Sơn, du lịch qua miền di sản... và nhiều sự kiện, hoạt động liên quan khác.

Các hoạt động trên bước đầu xây dựng, hình thành các sản phẩm văn hóa - du lịch để từng bước đáp ứng nhu cầu tham quan, hưởng thụ, thu hút, hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài tỉnh đến với Lạng Sơn. Đồng thời đem lại nguồn thu ngân sách đáng kể và tạo sinh kế, giải quyết việc làm, ổn định và nâng cao đời sống cho Nhân dân địa phương.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả trên công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch một cách bền vững còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có. Thiếu những công trình quy mô lớn, vùng, không gian văn hóa, hệ thống di sản văn hóa vật thể, phi vật thể tiêu biểu của tỉnh để hình thành các sản phẩm văn hóa - du lịch mang tính đặc trưng, thương hiệu tạo sự đột phá, sức hấp dẫn Nhân dân và du khách trong và ngoài nước.

3.2. Tổ chức, quản lý các hoạt động khai thác du lịch tại hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh

Nhìn chung công tác tổ chức, quản lý các hoạt động khai thác du lịch gắn với hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn còn gặp phải những bất cập sau:

- Công tác tuyên truyền, giáo dục về tu bổ, tôn tạo di tích đối với chủ di tích, những người trong giới chức sắc tôn giáo còn hạn chế. Việc quản lý và sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả nguồn vốn xã hội hóa chưa được chú ý. Việc quản lý nguồn thu, nguồn công đức cũng như giải quyết vấn đề giữa bảo tồn di tích với xây dựng công trình mới đáp ứng nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng và du lịch chưa được thực hiện.

- Trong công tác quản lý và bảo tồn di tích, hầu như chưa có những nghiên cứu đánh giá tác động của du lịch đối với từng di tích, cũng như việc đánh giá hiệu quả dự án bảo tồn. Hiện nay công tác lập kế hoạch quản lý chung đối với các khu di tích trong đó có cả quản lý du lịch ở di tích hầu như chưa được thực hiện. Kế hoạch này có thể coi là khung pháp lý cơ bản cho việc xây dựng các dự án bảo tồn cũng như các kế hoạch phát triển du lịch ở di tích.

- Công tác quy hoạch di tích mới chỉ tập trung ở một số di tích Quốc gia đặc biệt, còn lại chủ yếu chưa có quy hoạch tổng thể đầu tư tu bổ di tích, cắm mốc giới di tích riêng cho từng khu di tích. Một khó khăn trong việc bảo tồn và phát triển du lịch ở nhiều di tích đó là khoanh vùng bảo vệ di tích thường nhỏ hẹp, việc phát triển du lịch đòi hỏi quỹ đất lớn và mở rộng khu vực xung quanh.

- Các sản phẩm du lịch còn nghèo nàn. Các di tích đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế ở địa phương. Để tăng doanh thu từ du lịch di sản, không nên đặt vấn đề tăng lượng khách tới khu di tích mà nên tập trung vào việc tăng thời gian khách ở lại khu di tích cũng như tăng thêm chi tiêu ở đây thông qua việc mua các sản phẩm độc đáo của địa phương, đa dạng hóa và tăng cường những trải nghiệm của khách du lịch. Cần phải quan tâm nghiên cứu và mở rộng hoạt động du lịch ra các lĩnh vực văn hóa phi vật thể. Điều này sẽ làm cho thời gian của du khách ở di tích lâu hơn, đồng thời cũng hiểu biết hơn về truyền thống văn hóa.

- Công tác kiểm tra giám sát hoạt động bảo tồn di tích, lễ hội… đã được thực hiện nhưng còn chồng chéo và chưa hiệu quả, đặc biệt ở một số di tích do cộng đồng quản lý.

- Chưa có sự tham gia của cộng đồng trong mọi giai đoạn của phát triển du lịch. Cộng đồng hiện nay vẫn chưa đánh giá được tầm quan trọng của du lịch bền vững ở di tích. Ở nhiều điểm di tích, đặc biệt là các di tích tôn giáo tín ngưỡng mục tiêu thu hút đông khách du lịch được đặt lên hàng đầu. Các công trình phụ trợ phục vụ du lịch được xây dựng tràn lan, trong khi đó công tác giữ gìn vệ sinh môi trường chưa được chú trọng.

- Cộng đồng cũng chưa có được thu nhập ổn định từ di tích. Các hoạt động dịch vụ ở di tích hầu như là tự phát, không có kiểm soát dẫn tới hiện tượng chèo kéo khách du lịch.

- Nhận thức của những người quản lý di tích đặc biệt là các di tích tôn giáo tín ngưỡng, còn coi trọng việc thu hút khách du lịch bằng mọi giá trong khi đó không có kiến thức về di tích, về tu bổ di tích dẫn tới việc tự ý xây dựng di tích làm ảnh hưởng tới giá trị di tích.

Nguyên nhân của những tồn tại trên chủ yếu do các yếu tố sau:

a. Mô hình quản lý di tích chưa thống nhất

Để bảo vệ di tích, các địa phương đã chủ động thành lập Tổ/Ban quản lý tại hầu hết các di tích. Hiện nay, mô hình tổ chức đơn vị quản lý di tích ở địa phương rất đa dạng, được tổ chức từ các cơ quan trung ương (bộ, ngành), đến địa phương, tuy nhiên trên cả nước hiện nay đang có sự chồng chéo về chức năng quản lý nhà nước và quản lý sự nghiệp.

b. Chú trọng vào việc tu bổ các di tích trong khi đó việc phát huy giá trị di tích làm tiền đề cho phát triển du lịch chưa được quan tâm đúng mức

Thực tế cho thấy nhiều dự án tu bổ di tích chỉ tập trung chú trọng bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể, trong khi đó chưa đầu tư nhiều cho hoạt động nghiên cứu bảo tồn, phục hồi các giá trị văn hóa phi vật thể ở di tích. Trong khi đó giá trị này là một điểm thu hút khách tham quan.

Các di tích thu hút khách du lịch ở nước ta thường là các di tích tâm linh và khách du lịch tâm linh đang ngày càng tăng lên. Đặc điểm của khách du lịch đến các di tích này thường ít quan tâm tìm hiểu về di tích. Trong khi đó hoạt động tuyên truyền, quảng bá giới thiệu giá trị di tích còn ít hấp dẫn.

Bên cạnh đó việc nghiên cứu, mở rộng các điểm tham quan xung quanh di tích để tránh quá tải, giảm áp lực cho di tích hầu như chưa được thực hiện.

c. Các di tích khảo cổ học, di tích cách mạng chưa thu hút đông đảo khách tham quan

Hiện nay khá nhiều di tích cách mạng được quan tâm đầu tư và đã có cơ sở hạ tầng tốt phục vụ khách du lịch tuy nhiên vẫn chưa thu hút được khách tham quan. Điều này cho thấy hiệu quả đầu tư chưa cao.

Lý do là do chưa có tuyên truyền quảng bá tới đông đảo người dân, đồng thời cũng cần nhận thấy rằng việc giới thiệu, thuyết minh tại di tích còn nghèo nàn, không thu hút khách tham quan.

Các di tích khảo cổ học hầu như không thu hút được khách du lịch. Cho dù đây là loại hình di tích khá “kén” người tham quan, đòi hỏi phải có trình độ hiểu biết nhất định nhưng thực tế việc giới thiệu loại hình di tích này tới người tham quan còn ít và đơn sơ.

Tại nhiều di tích cách mạng, mặc dù được đầu tư tu bổ lớn nhưng kinh phí dành cho hoạt động giới thiệu, trưng bày về di tích còn thấp.

d. Chưa có sự nỗ lực cam kết của chính quyền địa phương để bảo vệ khu vực vùng đệm di tích

Nhiều di tích hiện nay đã được lập quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích, làm cơ sở cho việc triển khai các hoạt động phát triển du lịch, tuy nhiên trên thực tế vẫn chưa nhận được những nỗ lực của chính quyền địa phương ví dụ như trong việc cấp vốn, giải tỏa đất đai. Chính vì vậy, tại di tích vẫn chưa có bãi đỗ xe nằm ngoài khu vực bảo vệ di tích.

Một vấn đề khác ở di tích trong quá trình quản lý bảo tồn và phát triển du lịch đó là những khó khăn trong quản lý bảo vệ khu vực vùng đệm. Do những điều kiện lịch sử trước đây, nhiều di tích được khoanh vùng bảo vệ rất hẹp, gây khó khăn cho việc phát triển du lịch ở di tích. Để phát triển du lịch ở đây, cần có những diện tích phù hợp để xây dựng các công trình phụ trợ cũng như hạ tầng phục vụ khách tham quan.

Thiếu sự phối hợp liên ngành còn thể hiện ở chỗ hoạt động du lịch được triển khai còn thiếu sự phối hợp với nhà quản lý di tích. Ở một số điểm di tích, các hướng dẫn viên không nhắc nhở hoặc hướng dẫn khách du lịch không đi lại hoặc động chạm vào hiện vật. Các dự án tu bổ di tích thường không có sự tham gia của bên du lịch để có thể biến di tích sau quá trình đầu tư thành một điểm đến du lịch.

Tuy nhiên, nhiều di tích hiện nay còn chưa được khai thác tốt, do điều kiện cơ sở hạ tầng yếu kém, điều kiện tiếp cận các di tích còn rất khó khăn. Bên cạnh đó, tình trạng các di tích hiện nay cũng không được tốt. Ngoại trừ những di tích lớn đã có tiếng còn lại đa số các di tích chưa được quan tâm đúng mức. Tình trạng xâm phạm di tích vẫn tiếp diễn. Hầu như chưa có nơi nào thực hiện đúng chỉ giới bảo vệ di tích theo Luật Di sản văn hóa.

3.3. Nguy cơ tác động đến di tích do công tác tổ chức, quản lý các hoạt động khai thác du lịch

3.3.1. Thay đổi cơ cấu sử dụng đất

Để phục vụ nhu cầu của khách du lịch, xây dựng hệ thống hạ tầng, đã xuất hiện hiện tượng chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở các di tích. Tại một số di tích, khu vực cảnh quan bị phá hủy để xây dựng bãi đỗ xe, đường giao thông hoặc các công trình phụ trợ cho hoạt động du lịch.

3.3.2. Sai lệch trong trùng tu di tích

Sự phát triển nhanh chóng của du lịch đã dẫn tới hiện tượng bùng nổ các hoạt động trùng tu tu bổ di tích. Do thiếu kiến thức về di tích và các nguyên tắc bảo tồn di tích, đã làm sai lệch và hư hại di tích. Nhiều di tích được tu bổ nhằm mục đích phục vụ du lịch, không quan tâm tới bảo vệ các giá trị của di tích, chỉ chú trọng vào xây dựng các công trình phụ trợ phục vụ khách tham quan, đặc biệt ở các ngôi chùa.

Nhận thức được giá trị kinh tế của các di tích thông qua phát triển du lịch, nhiều địa phương đã tự đầu tư để tôn tạo khôi phục hoặc xây mới các công trình tôn giáo tín ngưỡng, phục hồi lễ hội. Công việc này không được thực hiện bởi các cơ quan chuyên môn, không tuân thủ các quy trình, nguyên tắc của trùng tu di tích. Hậu quả là sử dụng các vật liệu không phù hợp, chất lượng thi công kém, từ đó làm sai lệch các giá trị của di tích.

3.3.3. Phát triển du lịch không theo quy hoạch làm cho cảnh quan di tích bị hủy hoại

Để thuận lợi cho việc tham quan di tích, các công trình phụ trợ phục vụ tham quan được bổ sung, xây mới, làm cho không gian cảnh quan của di tích bị thay đổi, các di tích cũng được tu bổ với mục đích to đẹp hơn. Tác động tích cực của hoạt động này là tạo cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ tốt khách tham quan, nâng cao giá trị khu di tích. Một số công trình được xây dựng trên quỹ đất trống, ít làm ảnh hưởng tới cảnh quan chung. Tuy nhiên, việc mở rộng các công trình phụ trợ này cũng có những tác động tiêu cực như thay đổi cơ cấu sử dụng đất, làm ảnh hưởng tới cảnh quan. Cùng với đó là các giá trị lịch sử, thẩm mỹ được lưu truyền lại trong các thành phần di tích đã bị mất đi. Hậu quả lâu dài của việc này sẽ là làm giảm giá trị của di tích, giảm sức hấp dẫn của nguồn tài nguyên du lịch.

3.3.4. Thương mại hóa các giá trị văn hóa

Cùng với phát triển du lịch, hàng loạt hoạt động dịch vụ phục vụ khách du lịch cũng phát triển ở các di tích, làm ảnh hưởng tới tính tôn nghiêm của di tích.

Tại các di tích, các gian hàng bán đồ lưu niệm được bố trí khắp nơi, cùng với đó là hiện tượng chèo kéo khách du lịch đã làm ảnh hưởng tới khách du lịch cũng như cảnh quan chung của di tích.

3.4.5. Giảm không gian thiêng ở các di tích

Tại các di tích tôn giáo tín ngưỡng, khách du lịch với những trang phục không phù hợp, thiếu hiểu biết về các tôn giáo, chụp ảnh với đèn flash… đã làm ảnh hưởng tới không gian linh thiêng của di tích. Lượng khách du lịch ngày càng tăng gây áp lực lớn lên các di tích và công trình kiến trúc vốn rất cổ và dễ bị hư hại. Áp lực này là một trong các nguyên nhân chính gây ra sự xuống cấp nghiêm trọng của các di tích. Tuy chưa phải là nghiêm trọng nhưng hiện tượng rác thải, tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường, tiếng ồn…. cũng đã xuất hiện làm giảm tính linh thiêng của không gian thờ tự tại các di tích.

4. Thực trạng các mô hình kết nối hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh với phát triển du lịch

Thời gian qua, tỉnh Lạng Sơn đã đầu tư khai thác và phát triển một số loại sản phẩm du lịch chính như sau:

- Du lịch gắn với văn hóa:du lịch tâm linh, tham quan di tích lịch sử, nghiên cứu tìm hiểu văn hóa, lối sống của đồng bào các dân tộc sinh sống tại các địa phương. Với nhiều món ngon nổi tiếng, tiêu biểu như: Bánh cuốn trứng, lợn quay, vịt quay, khau nhục, bánh ngải, bánh Cao Sằng…. để phát triển sản phẩm du lịch thưởng thức ẩm thực xứ Lạng cho khách du lịch.

- Du lịch gắn với các cửa khẩu:du lịch tham quan mua sắm, du lịch quá cảnh, du lịch công vụ, du lịch MICE (hội nghị, hội thảo, hội chợ, triển lãm)...

- Du lịch gắn với sinh thái- nghỉ dưỡng: tham quan hang động, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng trên núi kết hợp du lịch thể thao- mạo hiểm, du lịch nông nghiệp, du lịch vui chơi giải trí cuối tuần...

- Du lịch cộng đồng: Du lịch ẩm thực, du lịch lễ hội….

- Du lịch lễ hội gắn với nghề thủ công truyền thống:đây là những địa điểm tham quan, trải nghiệm cho du khách, đồng thời cũng là nơi giới thiệu các mặt hàng sản xuất của các làng nghề truyền thống trong tỉnh và các mặt hàng lưu niệm, quà tặng, giới thiệu ẩm thực… cho khách du lịch.

Các mô hình kết nối với hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh là nguồn tài nguyên du lịch đều dựa trên những hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng cấp Quốc gia hay cấp tỉnh, hình thành các điểm du lịch, các tuyến du lịch và cụm du lịch.

4.1. Khai thác du lịch tại các điểm di tích

Với những đặc trưng riêng, các điểm du lịch đã thu hút được lượng lớn khách (cả nội địa và quốc tế), đặc biệt các điểm du lịch trong địa bàn thành phố Lạng Sơn và vùng phụ cận. Cơ sở vật chất các điểm này tương đối tốt, hơn nữa giao thông lại rất thuận lợi. Ngoài các cảnh do thiên nhiên ban tặng còn có nhiều công trình do con người tạo ra như cổng vào động, cầu vượt suối trong động, đền, chùa...Được xây dựng và tu sửa tạo thêm sức hút cho khách, thêm vào đó các hoạt động ăn uống, chụp ảnh khá phong phú là điều kiện tốt thu hút nhân dân và khách du lịch trong và ngoài nước, tiêu biểu là các điểm như: Đến Bắc Lệ, Đền Chầu Lục, khu di tích Đống Lâm (huyện Hữu Lũng), Khu di tích lịch sử Chi Lăng, hang Gió (huyện Chi Lăng); Khu di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh - núi Nàng Tô Thị và Thành cổ Nhà Mạc, Chùa Tiên, giếng Tiên, chùa Thành (chùa Diên Khánh), đền Kỳ Cùng, đền Tả Phủ, Nhà số 8 Kỳ Lừa, Đoàn Thành (Thành phố Lạng Sơn), chùa Bắc Nga, đền Mẫu Đồng Đăng (huyện Cao Lộc), Khu di tích khởi nghĩa Bắc Sơn (huyện Bắc Sơn), di chỉ khảo cổ hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Kéo Lèng thuộc (huyện Bình Gia)...và các điểm di tích khác.

4.2. Khai thác du lịch các cụm điểm di tích

Hoạt động tuyến du lịch tại Lạng Sơn khá đa dạng và phong phú về các loại hình du lịch, trong đó có các tuyến hoạt động rất hiệu quả:

4.2.1. Các tuyến du lịch nội tỉnh

- Tuyến nội thành phố Lạng Sơn (Khu di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh, núi Tô Thị, Thành Nhà Mạc, đền Kỳ Cùng, chùa Tiên...): chiều dài lộ trình khoảng 10 km. Đối tượng du lịch là các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử văn hóa, nghệ thuật ẩm thực. Điểm lưu trú là thành phố Lạng Sơn. Đây là tuyến được nhiều người lựa chọn do phương tiện phù hợp, thời gian thăm quan ngắn, các điểm du lịch rất đặc trưng cho “Xứ Lạng”.

- Tuyến Lạng Sơn - Đồng Đăng - Cửa khẩu Hữu Nghị-Cửa khẩu Tân Thanh: chiều dài lộ trình khoảng 30 km. Đối tượng du lịch là các công trình văn hóa, công trình kiến trúc, thương mại, nghệ thuật ẩm thực. Điểm lưu trú là thị trấn Đồng Đăng. Đây là tuyến du lịch có tiềm năng phát triển, thu hút khách du lịch trong nước và cả khách nước ngoài. Vào mùa lễ hội có rất nhiều khách du lịch Trung Quốc tham gia tuyến du lịch này.

- Tuyến du lịch Lạng Sơn-Mẫu Sơn: chiều dài lộ trình khoảng 30 km. Đối tượng du lịch là các thắng cảnh nghỉ dưỡng, giải trí, nghệ thuật ẩm thực, văn hóa dân tộc. Điểm lưu trú là khu du lịch Mẫu Sơn. Các loại hình du lịch ở đây như du lịch leo núi, du lịch mạo hiểm. Tuyến du lịch này thu hút một lượng lớn khách du lịch trong nước và khách du lịch quốc tế từ Trung Quốc, các nước ASEAN.

- Tuyến Lạng Sơn-Chi Lăng: chiều dài lộ trình khoảng 36 km. Đối tượng du lịch là danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa. Điểm lưu trú là thị trấn Đồng Mỏ. Từ Lạng Sơn sẽ đến thăm hang Gió, Ải Chi Lăng... và được thưởng thức các loại trái cây đặc sản như na, hồng, mận...

4.2.2. Khai thác hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh thành cụm du lịch

Tại Lạng Sơn đã hình thành và phát triển một số cụm du lịch như:

- Cụm du lịch thành phố Lạng Sơn và các vùng phụ cận. Cụm du lịch này có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với du lịch Lạng Sơn mà còn đối với tiểu vùng du lịch miền Đông Bắc.

- Cụm du lịch Bình Gia-Bắc Sơn: điểm nổi bật của cụm du lịch này là nền văn hóa và cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, di tích Thẩm Khuyên, Thẩm Hai. Tuy vậy, hiện nay việc khai thác du lịch tại cụm này còn nhiều hạn chế. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho du lịch còn thấp kém, đội ngũ các bộ quản lý và tổ chức hoạt động du lịch còn thiếu và yếu về năng lực chuyên môn, công tác quảng bá du lịch còn chưa được đầu tư.

- Cụm Chi Lăng và vùng phụ cận: nét nổi bật của cụm du lịch này là mật độ các điểm du lịch khá dày, riêng khu di tích Chi Lăng đã có 46 điểm, đồng thời lại phân bố tập trung ở ven quốc lộ 1A nên tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác.Hiện nay, việc khai thác du lịch ở cụm này còn nhiều hạn chế, hiệu quả còn thấp.

Các tour du lịch đến Lạng Sơn đều là những tour mang tính chất lặp đi lặp lại, không có sự đổi mới. Du khách đến Lạng Sơn chủ yếu là khách nội địa, tham quan mua sắm tại chợ Đông Kinh, chợ Kỳ Lừa, chợ cửa khẩu Tân Thanh (Văn Lãng), chợ Đồng Đăng (Cao lộc) sau đó mới trở lại tham quan các điểm du lịch và mua sắm tại thành phố. Tuy nhiên, qua thời gian những tour du lịch như trên đã trở nên quen thuộc và khó để thu hút du khách đến nhiều lần.

Do sản phẩm du lịch các mô hình chưa liên kết tốt, cùng với hệ thống cơ sở kỹ thuật du lịch địa phương còn yếu do vậy vẫn chưa lưu giữ thời gian khách du lịch lưu trú lâu hơn do vậy nguồn thu của du lịch chưa tương xứng với lượng khách đến tham quan. Ngoài ra sản phẩm du lịch của các địa phương khai thác du lịch còn đơn điệu, thiếu các điểm đến hấp dẫn, độc đáo. Do đó, hoạt động du lịch còn mang tính mùa vụ. Lượng khách quốc tế so với tổng số khách du lịch còn ít. Mức chi tiêu bình quân của mỗi du khách còn thấp, thời gian lưu trú ngắn. Sản phẩm du lịch của Lạng Sơn còn tồn tại một số vấn đề sau:

- Sản phẩm du lịch chủ yếu vẫn dựa vào các giá trị truyền thống đã định hình, ít có sản phẩm du lịch mới, sáng tạo và khác biệt.

- Trên địa bàn các địa phương còn thiếu các dịch vụ gia tăng như những khu vui chơi giải trí, mua sắm và các dịch vụ giải trí về đêm...

- Thiếu trung tâm tổ chức sự kiện hiện đại để tổ chức các hội nghị, hội thảo, triển lãm, hội chợ lớn trong nước và quốc tế.

- Các sản phẩm lưu niệm thủ công của người dân bản địa sản xuất có chất lượng thấp và chưa phù hợp với khách du lịch.

- Suy giảm và mai một bản sắc văn hóa các dân tộc.

Phần thứ hai

QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN, TÔN TẠO, PHÁT HUY GIÁ TRỊ HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA VÀ DANH LAM THẮNG CẢNH TỈNH LẠNG SƠN

I. QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC

1. Quan điểm

- Trên cơ sở những đánh giá thực trạng của hệ thống di tích nhằm đề ra các giải pháp cụ thể bảo đảm phù hợp, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm theo từng giai đoạn.

- Ngân sách Nhà nước chỉ ưu tiên đầu tư đối với hạng mục kiến trúc gốc của di tích (trừ các di tích quốc gia đặc biệt, các di tích thuộc loại hình di tích cách mạng). Ưu tiên di tích đang xuống cấp và xuống cấp nghiêm trọng cần bảo tồn ngay, đầu tư tập trung cho các di tích nằm trong các cụm, tuyến du lịch; Phát huy nguồn lực xã hội để phát triển các khu du lịch, đầu tư hệ thống hạ tầng, các hạng mục phụ trợ trong di tích.

- Bảo tồn, tôn tạo di tích phải tôn trọng lịch sử, khoa học và gắn với cảnh quan môi trường, sinh thái; ngăn chặn tình trạng lấn chiếm đất đai và xây dựng các công trình không phù hợp trong các khu vực bảo vệ của di tích. Thực hiện đồng thời và tạo lập sự hài hòa việc bảo tồn, tôn tạo với việc phát huy giá trị di tích. Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích.

- Bảo tồn và phát huy giá trị di tích phải gắn liền các yếu tố vật thể, phi vật thể. Bảo vệ di sản cần phải dựa trên quan điểm cân bằng với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, trong đó cần lấy giá trị văn hóa, lịch sử làm động lực để phát triển kinh tế xã hội và ngược lại phát triển kinh tế xã hội là nguồn lực để bảo tồn, tôn tạo các di sản văn hóa.

2. Nguyên tắc

Thứ nhất:có thái độ trân trọng đối với các yếu tố nguyên gốc và các bộ phận của di tích được bổ sung sau này nhưng có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học và thẩm mỹ.

Thứ hai: lập hồ sơ, nghiên cứu liên ngành để có sự hiểu biết cặn kẽ, đúng đắn về di tích về các mặt: giá trị lịch sử văn hóa, tình trạng bảo tồn, tình trạng kỹ thuật, hoàn cảnh lịch sử, đặc thù văn hoá ở địa phương trước khi xây dựng các dự án bảo tồn, tu bổ tôn tạo, quy hoạch đầu tư phát triển du lịch.

Thứ ba:các giải pháp tu bổ cần được trao đổi rộng rãi, lấy ý kiến của các nhà nghiên cứu ở các ngành khoa học có liên quan, nhân chứng lịch sử, quần chúng nhân dân để có thể lựa chọn được giải pháp tối ưu nhất.

Thứ tư:có giải pháp hữu hiệu để tăng cường tuổi thọ, độ bền vững của di tích, đảm bảo các điều kiện cần thiết để di tích có thể tồn tại lâu dài ở dạng nguyên gốc: Từ hình dáng, kết cấu kiến trúc, màu sắc, đường nét trang trí mỹ thuật đến vật liệu xây dựng v.v...

Thứ năm (đối với các di tích kiến trúc cần tu bổ, phục hồi):

- Chỉ tiến hành tu bổ, phục hồi di tích khi có cơ sở cứ liệu khoa học chính xác (tài liệu viết, bản vẽ kiến trúc, ảnh chụp, bản dập v.v...). Những thành phần mới phục hồi phải phù hợp và hài hòa với khung cảnh, môi trường khu vực di tích. Trong công tác bảo tồn, tu bổ di tích, luôn quán triệt phương châm sử dụng tối đa vật liệu và công nghệ truyền thống; phần mới bổ sung trong quá trình tu bổ phải có “dấu hiệu” để phân biệt với bộ phận nguyên gốc của di tích;

- Quá trình tu bổ di tích phải được triển khai dưới sự giám sát thường xuyên của các cơ quan liên quan và nghiêm ngặt của cộng đồng cư dân nơi có di tích; các đơn vị tư vấn, thẩm tra, thi công, đơn vị tư vấn giám sát phải có đầy đủ điều kiện, năng lực theo quy định của pháp luật;

- Việc tiến hành đầu tư tu bổ di tích chỉ thực hiện khi công tác bảo quản, gia cố, gia cường di tích không còn hiệu quả và chủ đầu tư có cam kết huy động đủ nguồn lực xã hội hóa;

- Trên cơ sở danh mục di tích xuống cấp của đề án và điều kiện thực tế, các địa phương, tổ chức, cá nhân được giao quản lý di tích (chủ đầu tư) trình cấp có thẩm quyền cho phép lập dự án tu bổ, tôn tạo di tích (thực hiện theo Nghị định số 166/2018/NĐ-CP của Chính phủ). Các di tích đã được đầu tư sẽ không được xem xét hỗ trợ trừ trường hợp thiên tai, hỏa hoạn...

Thứ sáu (đối với các di tích lịch sử có những hạng mục được tôn tạo, xây dựng):

Đối với di tích là công trình xây dựng, địa điểm gắn với các sự kiện lịch sử thì phạm vi khu vực bảo vệ I phải bảo đảm phản ánh những diễn biến tiêu biểu của sự kiện lịch sử, những công trình lưu niệm gắn với danh nhân liên quan đến di tích đó.

Thứ bảy (đối với các di tích khảo cổ học): đối với di tích là địa điểm khảo cổ thì phạm vi khu vực bảo vệ I phải bảo đảm giữ nguyên trạng toàn bộ phạm vi khu vực đã phát hiện và các di vật, địa hình, cảnh quan có liên quan trực tiếp tới môi trường sinh sống của chủ thể đã tạo nên địa điểm khảo cổ đó.

Thứ tám (đối với các danh lam thắng cảnh): bảo tồn môi trường tự nhiên, việc tôn tạo cảnh quan của danh lam thắng cảnh không làm ảnh hưởng đến những giá trị nguyên gốc. Xây dựng các giải pháp, mô hình để phát huy giá trị của danh lam thắng cảnh, có sự liên kết với với các di tích trong khu vực.

Thứ chín: có thể xây dựng những công trình phù hợp phục vụ cho việc phát huy giá trị di tích nhưng không làm ảnh hưởng tới kiến trúc, cảnh quan thiên nhiên và môi trường sinh thái của di tích. Việc xác định và xây dựng các công trình phục vụ việc tôn tạo, bảo vệ và phát huy giá trị di tích được thực hiện theo nguyên tắc sau:

- Việc xác định di tích có khu vực bảo vệ I được áp dụng trong trường hợp di tích đó nằm trong khu vực dân cư hoặc liền kề các công trình xây dựng mà không thể di dời. Đối với di tích gồm nhiều công trình xây dựng, địa điểm phân bố trên phạm vi rộng thì phải xác định khu vực bảo vệ I cho từng công trình xây dựng, địa điểm;

- Việc xây dựng các công trình ở khu vực bảo vệ II nhằm tôn tạo và phát huy giá trị di tích đối với di tích cấp tỉnh phải có sự đồng ý bằng văn bản của Chủ tịch UBND tỉnh, đối với di tích quốc gia và quốc gia đặc biệt phải có sự đồng ý bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.

Thứ mười: vật liệu sử dụng đối với công tác bảo quản, tu bổ, phục hồi tại di tích phải tuân theo các quy chuẩn hiện hành: Tiêu chuẩn TCVN 12185-2017, bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích kiến trúc nghệ thuật - thi công và nghiệm thu kết cấu gỗ; TCVN 12603-2018, , bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích kiến trúc nghệ thuật - thi công và nghiệm thu phần nề ngõa.

II. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu tổng quát

- Xác định và thực hiện hiệu quả các quan điểm, nguyên tắc trong bảo tồn, phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh tỉnh Lạng Sơn. - Đề ra những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể trong công tác bảo tồn, tu bổ, tôn tạo đối với từng loại hình di tích. Giữ gìn nguyên vẹn và đầy đủ các di tích đã và đang được xếp hạng, không để xuống cấp, tổn thất hoặc bị huỷ hoại.

- Tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức, phát huy các giá trị của di tích trong việc giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa và truyền thống văn hiến của dân tộc cho nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ nhằm huy động mọi nguồn lực của toàn xã hội cùng tham gia bảo tồn và phát huy giá trị hệ di tích trên địa bàn tỉnh.

- Xác định thứ tự ưu tiên thực hiện các giải pháp đối với từng loại hình trong các giai đoạn thực hiện đề án

2. Mục tiêu cụ thể

2.1. Giai đoạn 2021-2025

Tập trung ưu tiên cho công tác quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ và cấp quyền sử dụng đất cho các di tích đã xếp hạng các cấp (quốc gia đặc biệt, quốc gia, cấp tỉnh); tu bổ, tôn tạo một số di tích xuống cấp nghiêm trọng, trong đó:

- Quy hoạch: 86 di tích

- Khoanh vùng bảo vệ, cắm mốc: 119 di tích,

- Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: 179 di tích,

- Bảo quản, tu bổ, phục hồi: 46 lượt di tích(tu bổ 31 lượt di tích, tôn tạo 15 lượt di tích)1.

2.2. Giai đoạn 2026-2030

Tiếp tục triển khai thực hiện công tác quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ, cấp giâý chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các di tích đã xếp hạng và nằm trong danh mục kiểm kê di tích đã được phê duyệt; xây dựng dự án tôn tạo, xây mới, phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh, trong đó:

- Quy hoạch: 54 di tích,

- Khoanh vùng bảo vệ, cắm mốc: 183 di tích,

- Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: 208 di tích,

- Bảo quản, tu bổ, phục hồi: 220 lượt di tích(tu bổ 166 lượt di tích, tôn tạo 54 lượt di tích)2.

III. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRONG CÔNG TÁC BẢO TÔN, TU BỔ DI TÍCH VÀ DANH LAM THẮNG CẢNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN

1. Nhiệm vụ cơ bản

1.1. Tiếp tục bổ sung hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho công tác bảo tồn, phát huy giá trị hệ thống di tích trên địa bàn tỉnh

- Xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách trong công tác bảo tồn, tu bổ di tích tạo cơ sở pháp lý, phân định rõ trách nhiệm cho chính quyền từ tỉnh đến cơ sở để chủ động trong xây dựng kế hoạch, phương án huy động nguồn lực đầu tư nhằm triển khai công tác bảo tồn, tu bổ di tích theo một quy trình, kế hoạch thống nhất chung trong toàn tỉnh, tránh tình trạng tự phát, tùy tiện, không đảm bảo quy trình ở các địa phương.

- Xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách đặc thù để thu hút, khuyến khích sự quan tâm, đầu tư từ các nguồn lực xã hội, tạo sự đột phá trong hoạt động bảo tồn và phát huy hệ thống di tích trên địa bàn tỉnh.

1.2.Nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý nhà nước sự phối hợp của các tổ chức, cá nhân và vai trò trách nhiệm của cộng đồng trong công tácbảo tồn, phát huy giá trị di tích.

- Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về di tích từ cấp tỉnh đến cơ sở theo hướng đồng bộ, chuyên nghiệp, hiệu lực và hiệu quả, đáp ứng yêu cầu quản lý, đặc biệt là việc phân cấp quản lý di tích theo quy định hiện hành gắn với nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu chính quyền các cấp trong tổ chức triển khai, quản lý hoạt động di tích.

- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về di tích. Đẩy nhanh việc cụ thể hoá chủ trương, quan điểm của Đảng thành chương trình, hoạt động cụ thể, sát thực tiễn. Xác định rõ những chiến lược và giải pháp lãnh đạo, quản lý phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực và địa bàn cụ thể nhằm quán triệt, nâng cao nhận thức, vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền, sự phối hợp thống nhất của các ngành, tổ chức đoàn thể và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn hoá để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn và phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh.

- Bổ sung, hoàn thiện các quy định, quy chế về quản lý hoạt động di tích; tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi khuyến khích sự tham gia của toàn xã hội, đặc biệt là nhân dân trong hoạt động quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích.

1.3. Phát triển nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích từ tỉnh đến cơ sở đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

- Tăng cường công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ quản lý nhà nước về di sản văn hóa cấp tỉnh đến cơ sở; bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực quản lý, chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng tác nghiệp cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành di sản văn hóa;

- Tạo điều kiện để các cán bộ trực tiếp tham gia quản lý các dự án; các tổ chức, cá nhân có nhu cầu, đáp ứng đầy đủ yêu cầu, điều kiện tham gia và được cấp chứng chỉ, chứng nhận hành nghề tu bổ di tích để đáp ứng những nhu cầu đặc thù, mang tính chuyên ngành trong hoạt động bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích theo quy định hiện hành.

1.4. Khai thác sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí nhà nước và các nguồn lực xã hội trong hoạt động quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch một cách bền vững

- Kết hợp ngân sách Nhà nước và huy động tối đa nguồn xã hội hóa để thực hiện công tác bảo tồn, tôn tạo di tích trên phạm vi toàn tỉnh; gắn đầu tư bảo tồn, tu bổ di tích với bảo vệ, quản lý khai thác và phát huy giá trị các di tích với phát triển du lịch bền vững, quảng bá, giới thiệu vùng đất, con người và văn hóa Lạng Sơn với các địa phương trong cả nước và bạn bè quốc tế;

- Đối với các di tích quốc gia đặc biệt, di tích quốc gia có giá trị về lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật được đầu tư tu bổ, chống xuống cấp từ nguồn ngân sách của tỉnh, các địa phương và xã hội hóa kết hợp với nguồn hỗ trợ của Trung ương;

- Đối với các di tích khảo cổ học cần lập quy hoạch khoanh vùng bảo vệ, có những biện pháp ngăn chặn tình trạng lấn chiếm, sử dụng sai mục đích từ đó gìn giữ được các giá trị và có kế hoạch khai thác đúng với giá trị vốn có của nó.

- Đối với các di tích, danh lam thắng cảnh có khả năng phát huy giá trị và khai thác tiềm năng du lịch cần có định hướng, lập quy hoạch, khoanh vùng để từ đó có thể triển khai tốt các hoạt động dịch vụ du lịch phát triển tiềm năng của di tích, thúc đẩy kinh tế xã hội trên địa bàn.

1.5. Tuyên truyền gắn với đổi mới, nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng, bảo tồn và phát huy các di tích trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt trong thanh thiếu niên

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực di sản văn hóa, để nâng cao nhận thức của cán bộ, người dân về văn hoá là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

- Từng bước đẩy lùi, khắc phục tư tưởng bao cấp trong các cấp chính quyền cơ sở, đặc biệt là nhân dân đối với với việc bảo vệ và tu bổ, tôn tạo di tích. Coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục và lâu dài có ý nghĩa then chốt, tạo sự đột phá trong nhận thức và hành động đối với công tác bảo tồn di sản văn hóa dân tộc trong thời kỳ mới.

1.6. Đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại, hợp tác khu vực, quốc tế và ứng dụng thành tựu khoa học trong hoạt động bảo tồn.

- Đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao văn hóa nhằm thúc đẩy việc hợp tác giao lưu, trao đổi về văn hóa truyền thống với các tỉnh, thành trong cả nước và quốc tế, việc ứng dụng công nghệ thông tin, các thành tựu khoa học, kỹ thuật hiện đại vào việc quản lý, bảo tồn di sản văn hóa dân tộc nhằm giữ gìn các yếu tố nguyên gốc, bản sắc, đặc trưng riêng của từng di tích và nâng tầm các giá trị nổi bật của di tích.

2. Giải pháp cơ bản

2.1. Giải pháp về công tác tham mưu, lãnh đạo, chỉ đạo; xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách

- Đảm bảo tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp trong việc đầu tư bảo tồn, tu bổ di tích. Trên cơ sở các mục tiêu, nhiệm vụ của Đề án xem xét đưa các chỉ tiêu thực hiện cụ thể vào Nghị quyết của các cấp ủy Đảng, kế hoạch nhà nước của các cấp chính quyền để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo. Coi nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên vừa có tính chiến lược lâu dài, vừa trọng tâm, cấp bách, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị và đảm bảo trật tự an toàn xã hội.

- Căn cứ vào đặc điểm, tình hình của địa phương, trên cơ sở đảm bảo hài hòa, tương thích với Luật di sản văn hóa; các văn bản hướng dẫn thi hành kèm theo; các quy định khác của pháp luật có liên quan đến hoạt động quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích tập xây dựng, hoàn thiện các cơ chế chính sách về đầu tư, huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực xã hội hóa trong và ngoài nước để động viên, khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia hỗ trợ các dự án đầu tư bảo tồn, tu bổ di tích; chính sách đối với những người có công bảo vệ và trùng tu di tích;....và các cơ chế, chính sách liên quan khác.

- Thực hiện các chính sách ­ưu đãi về mặt bằng, thuế, vốn, tín dụng, đào tạo nhân lực... để thu hút đầu tư phát triển các khu du lịch; xây dựng những mô hình du lịch trọng điểm kết hợp giữa các yêu tố tiềm năng như: danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, cụm di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích khảo cổ học.

2.2. Giải pháp về đầu tư, huy động các nguồn lực xã hội hóa

a. Về đầu tư

Tiếp tục quan tâm, đầu tư cho văn hóa tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI), Kết luận số 76/KL/TW ngày 4/6/2020 của Bộ Chính trị theo hư­ớng đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm làm cơ sở kích thích hoạt động bảo tồn, phát huy giá tri di tích.

- Đầu tư xây dựng đồng bộ, hệ thống các điểm, khu di tích đặc trưng, tiêu biểu của thành "bảo tàng ngoài trời", quần thể công trình quy mô lớn để hình thành các sản phẩm văn hóa - du lịch mang tính đặc trưng, thương hiệu tạo sự đột phá, sức hấp dẫn nhân dân và du khách trong và ngoài nước. Đây là một hướng đầu tư hết sức quan trọng, sẽ tạo nên sự thay đổi về chất trong hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di tích. Các dự án ưu tiên đầu tư đã được xác định, việc đầu tư tu bổ, tôn tạo đồng bộ các khu di tích này sẽ tạo nên sự chuyển biến về “chất”, tạo nên những sản phẩm văn hóa - du lịch đặc thù, có khả năng cạnh tranh, thu hút hấp dẫn du khách đến với Lạng Sơn.

- Đầu tư phục dựng, bảo tồn phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể và không gian văn hóa gắn liền với di tích. Đây không chỉ là hoạt động tạo nên sức sống, linh hồn của di sản trong tiềm thức của nhân dân và du khách trong hành trình tham quan, trải nghiệm mà còn là hoạt động giáo dục trực quan, sinh động nhằm làm cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu và nắm rõ hơn nội dung, giá trị, về các nhân vật, sự kiện lịch sử tại di tích.

- Đầu tư cho công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: Đây là một lĩnh vực đầu tư rất quan trọng, đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong quá trình giao lưu, hội nhập khu vực và quốc tế.

b. Huy động các nguồn lực xã hội hóa

- Xây dựng, hoàn thiện các cơ chế chính sách, các chế độ ưu đãi (về mặt bằng, vốn, tín dụng, đào tạo nhân lực, miễn giảm thuế theo quy định của pháp luật...) nhằm huy động, khuyến khích sự đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội và các tổ chức, cá nhân dư­ới các hình thức khác nhau tham gia bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh gắn với phát triển kinh tế, xã hội, du lịch, dịch vụ, tạo sinh kế nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân địa phương.

- Quan tâm xây dựng các chương trình giáo dục về xã hội hóa hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa. 

+ Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về di sản văn hóa trong mọi tầng lớp nhân dân với nội dung đa dạng, có chiều sâu , kết hợp với các hình thức phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng, từng vùng miền, dân tộc. Nhất là những vấn đề đã và đang thu hút được sự quan tâm của dự luận xã hội, như quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; khai thác, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể, phi vật thể gắn với phát triển du lịch…với mục tiêu ngày càng nâng cao nhận thức và thu hút được sự tham gia tích cực của toàn xã hội, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ có hiệu quả của dư luận xã hội đối với sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Mặt khác, cần tích cực phổ biến các mô hình xã hội hóa hoạt động tốt để làm cơ sở học tập, nhân rộng. Tôn vinh và có hình thức khen thưởng xứng đáng đối với các tổ chức, cá nhân điển hình trong các hoạt động xã hội hóa, nhằm thiết thực động viên và tạo một phong trào rộng khắp. 

+ Tuyên truyền, vận động, phát huy vai trò của các nghệ nhân, chủ thể văn hóa, người có uy tín, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong việc xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp cư dân cư, tự nguyện tham gia việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh và thuận lợi cho phát triển kinh tế cũng như các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa. Nhờ thế, chúng ta có thể thu hút các nguồn lực, các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước tham gia bảo tồn bền vững kho tàng di sản văn hóa, đồng thời trực tiếp sáng tạo, cung cấp và phổ biến các sản phẩm (loại hàng hóa đặc biệt) có chất lượng cao thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa đa dạng của công chúng.

- Huy động, quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội hóa để bảo tồn, phát huy giá trị di tích nói riêng, hệ thống di sản văn hóa nói chung trên cơ sở định hướng của nhà nước.

+ Nghiên cứu, ban hành chính sách quản lý và sử dụng các nguồn tài chính từ xã hội hóa. Ban hành quy chế hoặc hướng dẫn việc tiếp nhận, quản lý, sử dụng tài sản, công đức tại di tích và hoạt động lễ hội theo định hướng ưu tiên sử dụng phần lớn các nguồn thu từ xã hội hóa phục hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản đảm bảo công khai, minh bạch; phân công, phân nhiệm và xác định rõ quyền, trách nhiệm giữa các tổ chức, cá nhân liên quan, tránh sự chồng chéo hoặc đùn đẩy trách nhiệm.

+ Đẩy mạnh chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa theo phương thức “nhà nước và nhân dân cùng làm” nhằm tạo sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân trong việc tham gia đóng góp tâm huyết, công sức, tiền của, trí tuệ công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích.

+ Đẩy mạnh việc vận động các cơ quan, tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài tài trợ các chương trình, dự án bảo tồn và phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch. Thông qua các chương trình hợp tác quốc tế, đẩy mạnh việc giới thiệu, quảng bá văn hóa, đất nước và con người Xứ Lạng để tranh thủ, tận dụng được sự giúp đỡ về khoa học, kỹ thuật, tài chính cũng như kinh nghiệm từ các chuyên gia quốc tế trong lĩnh vực này.

2.3. Giải pháp về đào tạo phát triển nguồn nhân lực

- Cần khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện để các cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn, hướng dẫn viên tham dự các lớp nghiệp vụ về bảo tồn di tích và kỹ năng chuyên môn (quản lý quy hoạch, quản lý và thẩm định các dự án bảo quản, tu bổ phục hồi di tích; nghiệp vụ bảo tồn di tích; nghiên cứu chuyên sâu, chuyên đề, thuyết minh, giới thiệu về di sản; hướng dẫn tổ chức các hoạt động văn hóa tại di tích...) do các đơn vị trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức. Tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức về di sản văn hóa cho các cán bộ, nhân viên phòng văn hóa thông tin cấp huyện; cán bộ văn hóa xã, ban quản lý di tích các cấp, đặc biệt là ở cơ sở.

- Các cấp quản lý cần hỗ trợ một phần từ ngân sách để hỗ trợ cán bộ nâng cao trình độ đào tạo (trên đại học về chuyên ngành di sản và các lĩnh vực liên quan) cả ở trong và ngoài nước; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nhân lực, đặc biệt tập trung vào đội ngũ quản lý, hướng dẫn viên, lao động nghiệp vụ bậc cao nhằm hỗ trợ định hướng phát triển sản phẩm có chất lượng cao; thực hiện việc chuyển giao công nghệ quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực quản lý để từng bước tiếp quản nhiệm vụ quản lý theo hướng cao cấp; chú trọng nâng cao nhận thức về văn hóa lịch sử, bảo vệ môi trường, kỹ năng giao tiếp đối với đội ngũ lao động trực tiếp phục vụ khách du lịch. Tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp, chính quyền địa phương, các cơ sở đào tạo nghiệp vụ du lịch.

- Quan tâm chú trọng việc đẩy mạnh hợp tác với cơ quan giáo dục, hướng dẫn doanh nghiệp, cộng đồng tham gia bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của di tích. Khuyến khích phát triển các nghề truyền thống; bảo tồn và phát huy các di sản - văn hóa phi vật thể của địa phương, bảo vệ tài nguyên và môi trường và bảo đảm an ninh, quốc phòng.

- Có chính sách ưu đãi trọng dụng cán bộ chất lượng cao ở nơi khác về Lạng Sơn làm việc; sử dụng và có chế độ đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài, chuyên gia và nghệ nhân, chủ thể văn hóa hoạt động trong lĩnh vực di sản trên địa bàn để thu hút đội ngũ này cho mục tiêu quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di tích nhằm đáp ứng yêu cầu trước mắt và chuẩn bị cho lâu dài trong công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị trên địa bàn tỉnh trong xu thế hội nhập toàn cầu.

- Xây dựng đề án vị trí việc làm theo năng lực và yêu cầu công tác chuyên môn. Những vị trí chuyên môn cần tuyển dụng những cán bộ được đào tạo đúng vị trí công tác, có kinh nghiệm, yêu nghề và đảm bảo tỉnh ổn định, lâu dài tránh điều động, luân chuyển công tác với những vị trí này.

2.4. Giải pháp trong công tác quản lý nhà nước; hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ và sự phối hợp của các tổ chức, cá nhân trong công tácbảo tồn, phát huy giá trị di tích.

2.4.1. Về công tác quản lý nhà nước

- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý và phát huy giá trị di tích.Xác định rõ trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, đảm bảo nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích. Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương thực hiện đúng quy định pháp luật những hoạt động liên quan đến công tác quản lý và các hoạt động văn hóa tín ngưỡng tại di tích.

- Tăng cường, đẩy mạnh phân cấp quản lý, đổi mới, phương thức cơ chế, chính sách, chế độ quản lý di tích trên địa bàn tỉnh vừa đảm bảo tính thống nhất toàn diện chung vừa tạo sự linh hoạt, chủ động của cơ sở trong công tác quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di tích.

- Chỉ đạo các sở, ngành, đơn vị liên quan hướng dẫn các huyện thành phố thực hiện việc quản lý nhà nước, đặc biệt là công tác bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích, khoanh vùng bảo vệ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho di tích theo đúng chức năng, thẩm quyền. Thường xuyên rà soát, kiện toàn Ban quản lý di tích các cấp và bộ phận thường trực giúp việc ban quản lý theo quy định để chủ động nắm bắt giải quyết dứt điểm các công việc theo nhiệm vụ phân cấp quản lý ngay ở cơ sở.

- Tăng cường, đẩy mạnh công tác quy hoạch, khoanh vùng, bảo vệ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ; công tác kiểm kê, rà soát, phân loại, lập hồ sơ xếp hạng di tích theo đúng tiêu chí và các quy trình quy định, tránh dàn trải, cào bằng để tạo lập hành lang cơ sở pháp lý cho công tác quản lý, phân cấp quản lý di tích xếp hạng; quản lý hoạt động tín ngưỡng tại di tích và cơ sở tín ngưỡng theo quy định hiện hành, phù hợp với chủ trương đổi mới phương thức quản lý di tích trên địa bàn tỉnh. Đồng thời xây dựng, hình thành một hệ thống hồ sơ mang tính tổng quan, khoa học để phục vụ các hoạt động nghiên cứu, quản lý và đầu tư bảo tồn, phát huy giá trị của các di tích.

- Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học về di tích và bảo tồn di tích nhằm xây dựng các luận cứ khoa học để các cơ quan quản lý hoạch định chiến lược, cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch bảo tồn di tích. Các công việc cụ thể đã đang và cần được quan tâm tiến hành như: lập và lưu trữ hồ sơ khoa học về di tích; nghiên cứu khoa học chuyên ngành bảo tồn di tích, tổ chức các hội thảo khoa học có giá trị thực tiễn; đề xuất các tiêu chuẩn, quy phạm, định mức kinh tế - kỹ thuật, quy trình công nghệ và kỹ thuật bảo tồn di tích, bảo quản, phục chế hiện vật…

Hình 7: Sơ đồ về mối quan hệ giữa các đối tượng liên quan đến di tích

- Nâng cao hiệu quả quản lý, tạo sự kết nối và phân định rõ nhiệm vụ của ba lực lượng: người quản lý, nhà chuyên môn và người sử dụng, để cho mỗi bên liên quan nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm/nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong công cuộc giữ gìn, bảo vệ di tích, từ đó thiết lập cơ chế quản lý hữu hiệu.

+ Người quản lý ban hành các quyết định, chính sách đối với việc bảo vệ và sử dụng di tích, đồng thời tạo điều kiện, giao nhiệm vụ cho các nhà chuyên môn trong công tác bảo tồn di tích và tiếp nhận các tư vấn, kiến nghị từ phía các nhà chuyên môn.

+ Nhà chuyên môn thực thi các công tác bảo tồn và nghiên cứu bảo tồn, đồng thời giúp người sử dụng nhận thức rõ giá trị di tích.

+ Người sử dụng trực tiếp chăm sóc, bảo vệ di tích và cung cấp các thông tin cần thiết cho người quản lý và nhà chuyên môn, cũng như hỗ trợ các đối tượng này trong nhiệm vụ chung. Giải quyết tốt mối quan hệ này là chìa khóa để quản lý di tích một cách hiệu quả.

- Phân biệt, nắm và thực hiện hiệu quả nhiệm vụ là quản lý di tích và quản lý chất lượng bảo tồn, tu bổ di tích để có chỉ đạo, định hướng cho phù hợp.

+ Quản lý di tích bao gồm quản lý các công việc bảo vệ di tích (bảo quản định kỳ mang tính chất phòng ngừa, gia cố, tu sửa nhỏ), quản lý các hoạt động của di tích (sử dụng, phát huy giá trị di tích).

+ Quản lý chất lượng bảo tồn, tu bổ di tích tiến hành khi di tích có nhu cầu trùng tu tôn tạo qui mô lớn, bao gồm các công việc lựa chọn đơn vị tư vấn, thi công; thẩm định, phê duyệt dự án trùng tu và nghiệm thu kết quả trùng tu.

- Xác định rõ quy mô, chức năng, tính chất văn hóa, loại hình di tích, vị trí, phạm vi quản lý để xây dựng mô hình, phương thức quản lý hài hòa, phù hợp đối với từng di tích trên cơ sở tuân thủ các qui định chung của trung ương, của tỉnh để đảm bảo tính khả thi, tạo sự chủ động linh hoạt trong việc đưa ra các phương hướng, giải pháp cụ thể trong quản lý, bảo vệ di tích.

Quản lý di tích là các công trình tôn giáo, tín ngưỡng (công trình công cộng) đang sử dụng:

+ Phối hợp, thống nhất với chủ sở hữu/người sử dụng xây dựng nội qui về các hoạt động trong sử dụng và hoạt động văn hóa tín ngưỡng/tham quan du lịch tại di tích, trên cơ sở tạo điều kiện cho việc bảo tồn, phát huy giá trị di tích.

+ Tổ chức phân định không gian phù hợp cho các hoạt động đồng thời diễn ra tại di tích: hoạt động của chủ quản; hoạt động tham quan, nghiên cứu di tích; hoạt động hành lễ... Nhằm tạo điều kiện để các hoạt động có thể diễn ra thuận lợi, không ảnh hưởng lẫn nhau nhưng đồng thời lại bổ trợ cho nhau trong bối cảnh chung tại di tích, đảm bảo sự an toàn cho các yếu tố gốc và phát huy các giá trị vốn có của di tích.

+ Hướng dẫn chủ sở hữu/người sử dụng các kiến thức/kỹ năng bảo quản, bảo vệ di tích (chăm sóc thường xuyên), tổ chức các hoạt động văn hóa tín ngưỡng đúng tính chất, chức năng của di tích.Quản lý, bảo vệ các công trình kiến trúc, điêu khắc, đồ thờ, tượng thờ, bài trí nội thất di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia tại di tích.Không tùy tiện thay đổi, bổ sung các nội dung hoạt động trong di tích, làm sai lệch hình ảnh/giá trị vốn có của di tích.

+ Thiết lập cơ chế đối thoại: tạo điều kiện để người sử dụng, người quản lý và nhà chuyên môn có nhiều cơ hội trao đổi về các vấn đề liên quan đến di tích, để các bên có thể thể hiện nguyện vọng, nhu cầu, mong muốn… nhằm đạt tới sự đồng thuận trong việc bảo tồn lâu dài những giá trị của di tích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng.

Quản lý di tích là sự phức hợp của nhiều ngành quản lý

Do phần lớn di tích có tính chất phức tạp (về chức năng, tính chất văn hóa, tín ngưỡng, vị trí, quy mô…), giá trị di tích cũng do nhiều yếu tố cấu thành (văn hóa, lịch sử, kiến trúc, cảnh quan…) nên nhiều di tích cùng một lúc chịu sự quản lý trực tiếp, gián tiếp hay từng phần của nhiều cơ quan, ban ngành khác nhau. Do vậy để tránh sự chồng chéo, phức tạp, đạt hiệu quả cao nhất trong công tác phối hợp quản lý, cần xác định vị trí, vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của từng đơn vị trong hệ thống đồng quản lý. Xây dựng và thống nhất cơ chế phối hợp trong công tác quản lý di tích về nội dung quản lý, thẩm quyền quản lý; đồng thời cần lập kế hoạch hoạt động và rà soát định kỳ theo năm/quý(khớp nối giữa các chương trình hoạt động văn hóa tín ngưỡng, kế hoạch tu sửa bảo dưỡng định kỳ, dự án tu bổ, tôn tạo) nhằm tránh tối đa các chồng chéo, vướng mắc gây ảnh hưởng lẫn nhau.

2.4.2. Nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng, hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ; về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích

- Quản lý chất lượng hoạt động bảo tồn tu bổ di tích là một hoạt động nghề nghiệp có tính chuyên ngành, không phải là quản lý hành chính hay sự vụ. Vì vậy đòi hỏi năng lực, tính chuyên nghiệp của tổ chức, cá nhân đảm nhận trách nhiệm này (bao gồm các chủ đầu tư, ban quản lý dự án, các đơn vị chức năng của trung ương và địa phương có chức năng, thẩm quyền thẩm định, phê duyệt dự án, thiết kế bảo tồn trùng tu…). Bởi vậy, muốn nâng cao chất lượng bảo tồn di tích, cần nâng cao năng lực của các tổ chức, cá nhân quản lý chất lượng hoạt động bảo tồn, tu bổ di tích; thành lập các đơn vị, bộ phận chuyên trách nhiệm vụ này để đáp ứng các yêu cầu chuyên ngành đối với từng loại hình di tích, đảm bảo tính nguyên gốc của di tích, không làm biến đổi những yếu tố cấu thành của di tích, sai lệch các giá trị và đặc điểm vốn có của di tích.

- Quản lý chất lượng hoạt động bảo tồn tu bổ di tích phải được thực hiện đồng bộ, xuyên suốt từ khâu lựa chọn chủ đầu tư, đơn vị thực hiện đến các bước thẩm định, phê duyệt, giám sát, nghiệm thu sản phẩm, đánh giá chất lượng bảo tồn.

+ Việc lựa chọn đơn vị thực hiện nhất thiết phải căn cứ vào năng lực và phương án, giải pháp thực hiện cụ thể đối với di tích cần bảo tồn, tu bổ, sau đó mới xem xét đến vấn đề giá thành.

+ Đơn vị, cá nhân thực hiện giám sát dự án bảo tồn nhất thiết phải đủ năng lực đánh giá chất lượng sản phẩm, quá trình thực hiện, nhất là đối với các nội dung chuyên ngành. Kiên quyết loại bỏ việc giám sát hình thức, chủ yếu là đảm bảo đúng thủ tục trên văn bản giấy tờ.

- Quản lý chất lượng hoạt động bảo tồn tu bổ di tích phải dựa trên một hệ thống qui chuẩn, tiêu chuẩn được xây dựng riêng cho ngành bảo tồn di tích. Tuy nhiên, chúng ta chưa có quy chuẩn, tiêu chuẩn chuyên ngành tu bổ di tích nào, đây hiện là một khiếm khuyết lớn của ngành. Do vậy, bên cạnh việc áp dụng quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng, cần phải xây dựng các quy chuẩn, tiêu chuẩn mang tỉnh đặc thù, chuyên ngành riêng trong hoạt động bảo tồn tu bổ di tích để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đề ra.

- Thiết lập cơ chế và hệ thống quản lý hữu hiệu quan trọng hơn thanh tra, kiểm tra trong quản lý chất lượng hoạt động bảo tồn tu bổ di tích. Bởi những sai lầm trong quá trình thực thi bảo tồn tu bổ di tích là không thể cứu vãn được. Các giá trị lịch sử, văn hóa của di tích một khi đã bị xâm hại, mất mát thì không thể vãn hồi. Do vậy, nhiệm vụ quan trọng của quản lý di tích là không để xảy ra sai sót trong quá trình thực hiện trùng tu. Nếu sai sót đã xảy ra thì việc thanh kiểm tra chỉ mang tính chất xử phạt (cá nhân, đơn vị vi phạm), không thể lấy lại được các giá trị đã mất.

Bên cạnh những giải pháp trên để nâng cao chất lượng hoạt động bảo tồn tu bổ di tích, trong giai đoạn hiện nay cần tập trung vào các vấn đề chính sau:

- Coi trọng việc nghiên cứu, khảo sát di tích làm cơ sở cho việc lập sự án thiết kế, cần có các qui định cụ thể, đầy đủ hơn về nội dung này; có cơ chế phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nghiên cứu, khảo sát trước khi tiến hành tu bổ cũng như trong cả quá trình tu bổ nếu cần thiết; nâng cao năng lực đội ngũ thực thi việc nghiên cứu, khảo sát di tích.

- Nâng cao chất lượng dự án, thiết kế bảo tồn tu bổ di tích: qui định cụ thể chi tiết những yêu cầu của một dự án, thiết kế tu bổ, trong đó tăng cường nội dung phân tích, đánh giá về di tích và các vấn đề liên quan dựa trên kết quả khảo sát, nghiên cứu; thực hiện các thuyết minh dự án, thiết kế đầy đủ làm cơ sở cho người thực hiện (qui định hiện nay trong ngành không theo phương thức một đơn vị vừa thiết kế vừa thi công (như lẽ ra công tác bảo tồn tu bổ di tích cần phải như vậy), vì vậy hồ sơ thiết kế càng cần phải chi tiết để phục vụ công tác thi công).

- Bảo tồn, tu bổ di tích là phải giải quyết tổng thể các vấn đề kiến trúc, bài trí nội thất, cảnh quan môi trường, các yếu tố phi vật thể gắn với di tích. Tuy nhiên hiện nay, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, người làm dự án, thiết kế tu bổ khi lập phương án chỉ tập trung chủ yếu vào vấn đề kiến trúc. Do vậy, cần nâng cao nhận thức, xác định nhiệm vụ, đặt ra những yêu cầu cụ thể, đồng thời tạo điều kiện để người làm dự án, thiết kế thực hiện được một sản phẩm hoàn chỉnh.

- Cần chú ý việc lập hồ sơ chi tiết quá trình can thiệp vào di tích, tu bổ di tích. Đây là hồ sơ khoa học hết sức quan trọng để lưu trữ lâu dài, phục vụ việc tìm hiểu, nghiên cứu, giới thiệu di tích và công tác tu bổ di tích sau này. Việc lập hồ sơ chi tiết quá trình thi công tu bổ cần được đưa vào qui định pháp lý (không phải chỉ là hồ sơ hoàn công như hiện nay)

- Hết sức thận trọng và kỹ lưỡng trong việc quyết định chủ trương, thẩm định, phê duyệt các chương trình, dự án bảo tồn, tu bổ, phát huy giá trị di tích để tránh những xu hướng lệch lạc trong tu bổ di tích như đã nêu ở trên.

2.4.3. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, nhân dân trong việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích.

- Chú trọng nâng cao vai trò của các tổ chức, nhân dân trên địa bàn, đặc biệt là vai trò giám sát, phản biện xã hội ở cơ sở trong công tác quản lý, bảo vệ, phát huy giá di tích.

- Quan tâm xây dựng và nhân rộng các mô hình ban quản lý/người đại diện di di tích ở cơ sở để huy động quần chúng nhân dân tham gia đóng góp tâm huyết, công sức, tiền của, trí tuệ, thời gian, kinh nghiệm... vào các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích theo chiều hướng xã hội hóa sâu rộng trên cơ sở quản lý và định hướng của Nhà nước.

2.5. Giải pháp về tuyên truyền, giáo dục, xúc tiến, quảng bá xây dựng thương hiệu

- Tuyên truyền sâu rộng chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực di sản văn hóa bằng nội dung nội dung và hình thức phù hợp với từng địa bàn, dân tộc. Quan tâm, thực hiện có hiệu quả công tác phối hợp với các cơ quan báo chí, phát thanh truyền hình ở trung ương, địa phương; khai thác tận dụng, hiệu quả, đúng quy định các phương tiện thông tin, đại chúng, các trang mạng xã hội nhằm tuyên truyền, giáo dục, quảng bá các giá trị di tích.

- Chú trọng tuyên truyền, giáo dục cho cho nhân dân, du khách trong và ngoài tỉnh, đặc biệt là cho học sinh viên, các thế hệ trẻ của tỉnh về truyền thống yêu nước, tinh thần cách mạng, giá trị di tích lịch sử…Qua đó, giáo dục thế hệ trẻ hiểu hơn, sống có trách nhiệm hơn trong sự nghiệp bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh.

- Quan tâm xây dựng bộ máy tổ chức hoạt động xúc tiến, quảng bá xây dựng thương hiệu có năng lực và chuyên nghiệp để xây dựng kế hoạch, liên kết đối tác và thực hiện các hoạt động xúc tiến quảng bá, bảo đảm việc thu hút đầu tư được thực hiện thống nhất, liên tục và hiệu quả; xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch xúc tiến quảng bá cho các khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh trong kế hoạch xúc tiến quảng bá du lịch chung của tỉnh; xây dựng bộ nhận diện thương hiệu cho từng khu, điểm danh lam thắng cảnh đi liền với việc phát triển hệ thống ấn phẩm, vật phẩm quảng bá, quảng cáo tấm lớn, ký hiệu... có thiết kế thống nhất, thể hiện nhất quán các giá trị thương hiệu và bộ nhận diện thương hiệu; nghiên cứu sản xuất các vật phẩm lưu niệm, sản vật địa phương làm đại diện thương hiệu du lịch. Tổ chức các hoạt động kinh doanh hàng hóa lưu niệm và sản vật gắn với quảng bá, xây dựng hình ảnh.

- Tăng cường hợp tác với các cơ quan, đơn vị truyền thông trong việc quảng bá, tiếp thị, tập trung giới thiệu rộng rãi hệ thống di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh của tỉnh dưới góc độ tài nguyên du lịch văn hoá cho du khách trong và ngoài tỉnh thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các ấn phẩm quảng cáo, tập gấp, sách hướng dẫn, các cuộc hội chợ, triển lãm... nhằm tìm kiếm các cơ hội giao lưu, hợp tác về văn hóa, xúc tiến quảng bá, đào tạo nhân lực, hỗ trợ tài chính và kinh nghiệm bảo tồn và phát huy di tích từ hợp tác trong và ngoài nước.

2.6. Giải pháp về đối ngoại, hợp tác khu vực, quốc tế và ứng dụng thành tựu khoa học trong hoạt động bảo vệ, phát huy giá di tích

2.6.1. Về đối ngoại, hợp tác khu vực, quốc tế

 a. Giao lưu hợp tác trong nước

 Tiếp tục duy trì, thực hiện công tác ký kết, giao lưu, hợp tác với các tỉnh thành trong nước tiêu biểu là Hà Nội, TP Hồ Chí Minh; các tỉnh đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh trong khu vực Việt Bắc như: Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn... trong hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di tích gắn với xây dựng các sản phẩm văn hóa - du lịch thông qua việc triển khai thực hiện chương trình “du lịch qua những miền di sản Việt Bắc”; thực hiện chương trình, thỏa thuận hợp tác giữa Lạng Sơn với các tỉnh thành trong khu vực trên nhiều lĩnh vực, phương diện trong đó có di sản văn hóa...Qua đó tăng cường mối quan hệ giao lưu, học tập giữa các tỉnh, đồng thời, góp phần thu hút khách du lịch, các nhà đầu tư đến tham gia liên kết, đầu tư phát triển các điểm, khu di tích, du lịch - dịch vụ trên địa bàn.

b. Giao lưu hợp tác quốc tế

Tăng cường, đẩy mạnh các hoạt động thỏa thuận giao lưu hợp tác với các địa phương ở các nước trong và ngoài khu vực như: Nga, Pháp, Hàn Quốc... Đặc biệt là với Quảng Tây - Trung Quốc tiếp tục được quan tâm thông qua cơ chế Uỷ ban công tác liên hợp giữa 04 địa phương của Việt Nam (Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Quảng Ninh) với Quảng Tây - Trung Quốc bằng nhiều hình thức, phong phú ở nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau.Trong đó, tập trung chú trọng giao lưu, nghiên cứu, tìm hiểu về văn hóa, lịch sử truyền thống của cộng đồng các dân tộc, thám sát, khai quật khảo cổ; giao lưu, học tập trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể, phi vật thể; ứng dụng khoa học công nghệ quản lý; liên kết đào tạo phát triển nguồn nhân lực hình thành các chuyên gia trong lĩnh vực quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích...và các nội dung liên quan khác.

2.6.2. Về ứng dụng thành tựu khoa học trong hoạt động bảo vệ, phát huy giá di tích

Việc ứng dụng khoa học, thành tựu công nghệ để bảo tồn, phát huy và phát triển giá trị văn hóa, hội nhập quốc tế về văn hóa là xu hướng tất yếu, phù hợp với xu thế thời đại. Do vậy cần quan tâm đầu tư, ứng dụng khoa học, công nghệ để xây dựng quy trình xử lý, bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; xây dựng hệ thống trưng bày và thuyết minh tương tác trong bảo tàng; ứng dụng công nghệ quét và in 3D được sử dụng để phục chế, nhân bản, sản xuất các hiện vật, di sản ứng dụng công nghệ vào quy trình xử lý, bảo quản hiện vật trong bảo tàng; xây dựng cơ sở dữ liệu ngành di sản văn hóa...và các công nghệ tiên tiến khác một cách khoa học, hệ thống để làm cơ sở, căn cứ phục vụ công tác quản lý, bảo vệ lâu dài. Đồng thời kết nối với phần mềm phần mềm quản lý di sản của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, phần mềm ứng dụng du lịch thông minh; Website du lịch;xây dựng ứng dụng trên nền trang mạng (website) để sử dụng, khai thác hiệu quả trong công tác nghiên cứu, tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu di sản.

3. Nhiệm vụ, giải pháp mang tính chuyên ngành cụ thể đối với từng loại hình di tích

3.1. Nhiệm vụ, giải pháp chuyên ngành tổng thể

3.1.1. Nhiệm vụ

- Xây dựng kế hoạch bảo tồn di tích vật thể, phi vật thể nhằm mục tiêu: Xây dựng kế hoạch tổng thể về bảo tồn, tôn tạo, tu bổ, nghiên cứu phục dựng các di tích, di sản văn hóa;Bảo tồn di sản hiện còn, nghiên cứu giải pháp bảo tồn, tôn tạo hoặc phục dựng một số di tích tiêu biểu; tiếp tục mở rộng nghiên cứu để tìm ra các giá trị di sản còn tiềm ẩn;tây dụng các công trình trực tiếp liên quan công tác bảo tồn; Làm đẹp cảnh quan, liên kết cảnh quan, làm nổi bật vẻ đẹp di tích;cải tạo chỉnh trang môi trường di tích;Bảo tồn các giá trị phi vật thể gắn với không gian di tích; khai thác sử dụng song song quá trình bảo tồn.(Nội dung thực hiện:đánh giá, phân loại, để phân bổ vốn bảo tồn, nghiên cứu phục dựng, trùng tu, tôn tạo; khai thác, sử dụng, bảo trì hệ thống di sản vật thể, hệ thống khu sinh thái gắn liền với các hoạt động của cộng đồng trông nom di tích. Các khu vực khai thác di sản cần có quy chế chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm giữa ba bên: chính quyền, nhà đầu tư và cộng đồng liên quan).

- Xác định phương hướng chung đối với việc bảo tồn, tu bổ, phục hồi di tích của toàn khu vực quy hoạch; danh mục các đối tượng di tích bảo tồn, tu bổ, phục hồi và mức độ bảo tồn, tu bổ, phục hồi đối với từng hạng mục di tích; nguyên tắc và giải pháp cơ bản đối với việc bảo tồn, tu bổ, phục hồi di tích.

- Khoanh vùng bảo tồn, xác định quy mô, phạm vi, mức độ và các tiêu chí bảo tồn, khai thác. Xây dựng kế hoạch tu bổ, tôn tạo các hạng mục công trình trong khu di tích.

- Đưa ra các giải pháp tổng quan cho các vấn đề bảo tồn, tôn tạo và khai thác giá trị di sản trên cơ sở phân tích hiện trạng di tích lịch sử, các tài liệu, số liệu liên quan, các chuyên ngành và các đề tài nghiên cứu khác.

- Đề xuất khai thác các di sản văn hóa, thắng cảnh thiên nhiên vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trên cơ sở coi bảo tồn di sản là nhiệm vụ trung tâm, phát triển kinh tế xã hội là quan trọng nhằm tăng thêm sức hấp dẫn cho di sản và chủ động ngăn ngừa những hoạt động xâm hại di sản.

3.1.2.Giải pháp

- Nghiên cứu thu thập tài liệu, khảo sát đo đạc địa hình, khảo sát thám sát, khảo sát,vẽ, ghi hiện trạng kiến trúc cảnh quan, chụp ảnh, tổng hợp các dữ liệu của di tích. Học tập kinh nghiệm các đồ án quy hoạch tương tự ở trong nước và ngoài nước; phân tích, tổng hợp các giá trị văn hoá lịch sử của mỗi di tích và khu vực. Phân loại, đánh giá, xác định vai trò, vị trí, giá trị lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, mức độ quan trọng của di tích. Đề ra các giải pháp quy hoạch, kiến trúc, kỹ thuật xây dựng, công nghệ bảo tồn, tôn tạo phù hợp với từng địa điểm di tích và từng hệ thống di tích.

Đối với các di tích có đủ điều kiện lập hồ sơ: tổ chức lập hồ sơ đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xếp hạng di tích theo quy định.

Đối với di tích chưa được quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ di tích: xác lập quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích, định hướng không gian kiến trúc cảnh quan phù hợp với tính chất, đặc thù di tích. Phân chia các khu vực bảo vệ I, II của di tích. Bảo vệ được những yếu tố gốc của di tích hoặc hiện trạng có giá trị (di tích kiến trúc, hiện vật gốc; thành phần mới được tu bổ, phục dựng).Đồng thời từng bước hình thành một khu vực hoàn chỉnh, đồng bộ về cảnh quan kiến trúc, không gian kiến trúc, kỹ thuật hạ tầng (phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng Việt Nam hiện hành, phù hợp với cấu trúc nội dung bảo tồn và hình thái hoạt động của di tích, trước mắt và lâu dài).

Đối với các di tích đã được quy hoạch đã được xếp hạng (nếu đáp ứng đủ yêu cầu, điều kiện): Tiến hành xây dựng phương án khoanh vùng bảo vệ di tích, cắm mốc giới, các thủ tục cấp quyền sử dụng đất cho di tích theo quy định

- Định hướng phát triển các công trình hạ tầng kỹ thuật(bao gồm công trình giao thông, cấp điện, chiếu sáng công cộng và các công trình khác) được xác định theo quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành. Đây là những hạng mục công trình cần thiết cho việc khai thác, vận hành và phát huy giá trị của di tích. Cụ thể là:

+ Hệ thống giao thông: điều tra khảo sát, phân tích và đánh giá hiện trạng mạng lưới giao thông trong địa bàn và khả năng kết nối với di tích; xác lập mạng lưới giao thông kết nối di tích với khu vực và phương án tổ chức giao thông thuận tiện tới các điểm di tích, danh lam thắng cảnh cận kề theo những tuyến du lịch.

+ Hệ thống cấp điện: điều tra khảo sát, phân tích và đánh giá hiện trạng cấp điện; Dự báo nhu cầu sử dụng điện năng cho di tích theo các chỉ tiêu kỹ thuật và chỉ tiêu xây dựng.

+ Hệ thống cấp, thoát nước và vệ sinh môi trường:điều tra, khảo sát, phân tích, đánh giá hiện trạng cấp, thoát nước và vệ sinh môi trường; dự báo lượng chất thải theo các chỉ tiêu kỹ thuật và tiêu chuẩn xây dựng khi các điểm di tích đưa vào vận hành khai thác. Xác định biện pháp thu gom chất thải.

3.2. Nguyên tắc, nhiệm vụ, giải pháp tu bổ đối với từng loại hình di tích

3.2.1. Nguyên tắc

- Duy trì, đảm bảo sự tồn tại lâu dài di tích, bảo tồn tối đa các thành phần nguyên gốc cấu thành di tích

- Cần có một sự chẩn đoán chính xác về những nguyên nhân gây hư hại đến bộ khung kết cấu và các cấu kiện gỗ.

- Tu bổ cần hạn chế càng nhiều càng tốt sự can thiệp vào các chi tiết của các thành phần trong di tích. Mọi sự can thiệp khi cần thiết không làm giảm, thay đổi những đặc điểm cơ bản và những giá trị vốn có của di tích. Ưu tiên bảo quản gia cường sau đó mới đến tu bổ, phục hồi và tôn tạo.

- Các thành phần thay thế, bổ sung phải được phân biệt với các thành phần nguyên gốc tránh sự nhầm lẫn của thế hệ sau.

- Mọi quyết định về tu bổ cần phải có những căn cứ xác thực không ảnh hưởng việc tu bổ sau này, tuyệt đối không thực hiện trên các giả thuyết.

- Tu bổ đối với các thành phần trong di tích là một công tác mang tính khoa học liên quan đến các vấn đề lịch sử, nghệ thuật…không tương đồng với sửa chữa. Công tác tu bổ phải thực thi trên cơ sở những nghiên cứu, khảo sát, phân tích, đánh giá toàn diện. Lập hồ sơ đầy đủ về các thành phần kiến trúc trước khi can thiệp, trong quá trình thực hiện và hồ sơ hoàn công (sau tu bổ).

- Trong tu bổ, ưu tiên sử dụng các vật liệu, chất liệu truyền thống, các quy trình và kỹ thuật thi công truyền thống. Việc sử dụng các vật liệu, kỹ thuật mới khi cần thiết phải có giải pháp không làm ảnh hưởng đặc điểm, giá trị vốn có của di tích.

3.1.2. Giải pháp

a. Đối với những di tích có giá trị, còn tương đối nguyên vẹn

- Việc tu bổ cần được áp dụng các giải pháp kỹ thuật truyền thống trên cơ sở nguyên tắc khoa học của bảo tồn di tích. Công tác tu bổ ưu tiên và chú trọng bảo quản, giữ gìn, gia cố, tu sửa để tăng cường tuổi thọ trên cơ sở tôn trọng những đặc điểm nghệ thuật hiện có hoặc vốn có của các thành phần kiến trúc. Mọi đặc điểm về chất liệu, hình dáng các bộ phận trên các thành phần kiến trúc được tôn trọng và duy trì trong tu sửa hoặc phục hồi thành tố. Các thành phần được cân chỉnh, gia cường, tu sửa trên cơ sở các giải pháp vá chắp, gắn nối, cố giữ tối đa các thành phần nguyên gốc, đặc biệt là các họa tiết trang trí. Ưu tiên gia cố kỹ thuật không lộ liễu để giữ lại tối đa các thành phần nguyên gốc. Trên cơ sở đó ưu tiên các giải pháp bảo quản các thành phần kiến trúc, trong trường hợp có các hư hỏng cục bộ thì mới tính đến phương án thay thế từng phần.

- Các di tích ở tỉnh Lạng Sơn cần phải được tiến hành bảo quản theo chế độ định kỳ ngắn hạn, dài hạn và chống xuống cấp di tích. Đây là công việc khó, đòi hỏi cao về kỹ thuật chuyên môn và phải có sự đổi mới thường xuyên để kiểm soát, phát hiện kịp thời những hư hỏng, có kế hoạch bảo quản, giữ gìn, gia cố, tu sửa kịp thời với quan điểm luôn chọn tu sửa nhỏ. Ưu tiên cứu vãn tính nguyên gốc, tránh tình trạng làm thay đổi biến dạng di tích.

- Việc tu bổ định kỳ hàng năm được tiến hành từ việc xây dựng kế hoạch, báo cáo trình duyệt và triển khai thực hiện kế hoạch tu bổ sau khi được phê duyệt, điều quan trọng hơn là tu bổ, bảo dưỡng, bảo quản nhưng đảm bảo tính nguyên trạng của chúng.

- Gia cường thể chất của vật liệu ở di tích, như gỗ bị mục nát hoặc bị phong hóa (rỗng ruột, ăn mòn bởi thời gian, côn trùng, rêu mốc). Do vậy, các biện pháp ngăn ngừa và xử lý chống mối mọt, nấm mốc cần phải được thực hiện rộng rãi, hầu như trở thành điều bắt buộc ở các dự án bảo tồn di tích.

- Bảo quản là một giải pháp ưu tiên, cùng với trùng tu hạn chế là hai lựa chọn hàng đầu để đạt được mục tiêu bảo tồn nguyên vẹn các di tích. Các biện pháp bảo quản ưu việt ở chỗ có thể phòng ngừa và ngăn chặn sự xuống cấp cho di tích mà không làm chúng bị biến đổi, ngoài ra còn có thể tiết kiệm về chi phí tu bổ.

Cần hạn chế sự can thiệp vào di tích, chỉ can thiệp khi cần thiết, nhưng không làm thay đổi những đặc điểm cơ bản và những giá trị vốn có của di tích. Ưu tiên bảo quản, gia cường sau đó mới đến tu bổ phục hồi và tôn tạo, cố gắng chỉ loại bỏ, thay thế từng chi tiết buộc phải thay.

b. Đối với những di tích bị xuống cấp, cần gia cố, thay thế từng phần

- Những di tích bị xuống cấp một phần, giải pháp đầu tiên cần quan tâm là xử lý bảo quản đối với những thành phần kiến trúc bị hư hỏng bề mặt. Quy trình và phương pháp bảo quản tương tự như đã trình bày ở mục trên.

- Đối với những cấu kiện trên vì mái bị hư hỏng ở bề mặt, nhưng vết hư hại này ở mức độ nhỏ, chưa ảnh hưởng đến khả năng chịu lực của cấu kiện, cần phải xác định phần cấu kiện bị hư hỏng, đục bỏ phần bị hư hỏng khỏi cấu kiện chính, cần tính toán kết cấu để xác định vị trí nối an toàn và chọn cấu tạo mối nối có hiệu quả cao (cả về chịu lực lẫn giữ gìn hoa văn chạm khắc, dấu tích lịch sử). Vật liệu gia cố không được kém bền so với vật liệu gốc.

+ Gia cố cấu kiện:bao gồm những giải pháp và thủ pháp thuần túy kỹ thuật, sử dụng các chất liệu và vật liệu cùng các cấu trúc hiện đại nhằm giữ cho di tích (toàn phần hoặc từng phần) khỏi sụp đổ. Có 2 giải pháp gia cố là gia cố tạm thời và gia cố vĩnh cửu.

Gia cố tạm thời là: chống đỡ từng phần và toàn phần để ngăn cho di tích khỏi sụp đổ, trong khi chờ kinh phí đầu tư hoặc sự can thiệp cơ bản.

Gia cố vĩnh cửu: là việc thiết lập những cấu trúc gia cường nền móng, gia cường các kết cấu chịu lực bằng các giải pháp kỹ thuật, chủ ý làm khác biệt với kỹ thuật xây dựng của bản thân di tích.

Đối với các di tích kiến trúc gỗ ở Lạng Sơn, chủ yếu áp dụng biện pháp gia cố tạm thời (chống đỡ từng phần hay làm hệ giằng không gian).

+Thay thế từng phần cấu kiện: Việc thay mới từng cấu kiện trong vì mái mà không cần hạ giải như câu đầu, xà nách, con rường.

c. Đối với những di tích bị xuống cấp nghiêm trọng cần hạ giải để tu bổ

- Giải pháp bảo quản các cấu kiện của các di tích sau khi hạ giải:

Trước khi tiến hành hạ giải di tích cần có những biện pháp bảo quản cấu kiện như xây dựng nhà che nhằm làm tăng độ bền và ngăn chặn giảm thiểu các tác nhân gây hại, mà không ảnh hưởng đến chất lượng của các cấu kiện gỗ dùng trong các công trình kiến trúc. Điều kiện trước khi xử lý bảo quản cấu kiện gỗ;

+ Các cấu kiện nguyên gốc di tích được tiến hành bảo quản phải được lập hồ sơ hiện trạng.

+ Các cấu kiện phải được vệ sinh bề mặt và loại bỏ hoàn toàn phần hư hỏng.

+ Có phương án bảo quản phù hợp với yêu cầu bảo quản cụ thể.

+ Các loại hợp chất dùng bảo quản phải nằm trong danh mục cho phép sử dụng của cơ quan chức năng.

Thông thường, việc xử lý bảo quản cấu kiện sau khi được hạ giải được thực hiện bằng hai phương pháp là phương pháp ngâm tẩm và phương pháp phun quét.

Xử lý bảo quản cấu kiện bằng phương pháp ngâm tẩm: Phương pháp ngân tẩm là ngâm cấu kiện gỗ trong dung dịch chất bảo quản để chất này ngấm vào trong thớ gỗ.

Xử lý bảo quản cấu kiện bằng phương pháp phun/quét: Phương pháp phun/quét lên bề mặt cấu kiện thường sử dụng trong trường hợp các cấu kiện quá lớn và không có điều kiện thực hiện phương pháp ngâm tẩm như câu đầu, xà đùi, xà nách...

d. Đối với các thành phần di tích bị xuống cấp nghiêm trọng cần hạ giải

- Hạ giải các cấu kiện gỗ:

Điều kiện trước khi hạ giải:

+ Công trình đã được lập hồ sơ hiện trạng với đầy đủ thông tin và được gắn ký hiệu phù hợp với hồ sơ hiện trạng

+ Có phương án hạ giải thích hợp đối với từng loại cấu kiện

+ Có vị trí tập kết, bảo quản cấu kiện đủ tiêu chuẩn

+ Tất cả các thành phần kỹ thuật liên quan (điện, nước...) phải được dỡ bỏ.

Yêu cầu trong quá trình hạ giải: hạ giải cần thực hiện theo phương án đã được xác định và phải đảm bảo yêu cầu sau:

+ Neo giữ tạm thời cấu kiện cần hạ giải trước khi tháo dỡ các liên kết của cấu kiện.

+ Tháo dỡ các mối liên kết phải lưu ý đến cấu tạo của liên kết đó, tuyệt đối không làm đứt gãy.

+ Các cấu kiện hư hỏng nặng phải được gia cố tạm để đảm bảo toàn vẹn khi hạ giải.

+ Trước khi tác động vào cấu kiện phải bọc lót bằng vật liệu mềm.

+ Nhân công thực hiện phải có trình độ chuyên môn phù hợp.

+ Trong quá trình hạ giải nếu phát hiện những vấn đề mới hoặc sau khác so với hồ sơ hiện trạng phải tạm dừng hạ giải và báo với những người có trách nhiệm để xử lý.

+ Trong quá trình hạ giải phải được giám sát, ghi nhận đầy đủ bằng hồ sơ.

- Yêu cầu đối với vận chuyển khi hạ giải:

+ Xây dựng phương án vận chuyển phù hợp

+ Tránh va chạm mạnh khi vận chuyển.

- Yêu cầu về sắp xếp bảo quản cấu kiện sau hạ giải:

+ Chuẩn bị vị trí, không gian sắp xếp cấu kiện một cách phù hợp.

+ Các cấu kiện phải được xếp riêng biệt, không đặt chồng lên nhau và phải thuận tiện cho việc tìm kiếm, tiếp cận xử lý.

+ Đánh giá tình trạng cấu kiện và đề ra biện pháp bảo quản phù hợp và có phương án bảo vệ cấu kiện sau khi hạ giải.

Căn cứ vào tình trạng hư hỏng, khả năng chịu lực của từng loại xà được đánh giá lại sau khi hạ giải để đưa ra những biện pháp tu bổ phù hợp. Về cơ bản có các biện pháp tu bổ, phục hồi đối với cấu kiện xà như sau:

- Tu bổ, phục hồi cấu kiện gỗ

Trình tự thi công:

+ Xử lý các phần bị hỏng trên các cấu kiện gốc

+ Sơ chế vật liệu tu bổ

+ Xử lý bảo quản, gia cường tính năng của cấu kiện

+ Liên kết các phần thay thế với cấu kiện

+ Gia công, chế tác phần thay thế với cấu kiện gốc

+ Sàm đóng hoàn thiện cấu kiện.

Các biện pháp thi công, tu bổ di tích

+ Biện pháp thay cốt cấu kiện: Đây là biện pháp xử lý đối với các cấu kiện bị tiêu tâm, mục lõi nhưng lớp vỏ bên ngoài còn tốt. Tuy nhiên, tùy vào từng mức độ hư hỏng lõi cụ thể mà có thể thay một phần cốt hoặc thay hoàn toàn cốt (thay cốt ốp mang).

Hình 8: Biện pháp thay cốt cấu kiện

+ Biện pháp thay mộng cấu kiện:là biện pháp xử lý đối với các cấu kiện bị mục, đứt mộng nhưng cấu kiện cơ bản còn tốt. Đây là hư hỏng khá phổ biến ở cấu kiện do các mộng thường khá nhỏ, về cơ bản khi các cấu kiện (xà, kẻ, bẩy, con rường, câu đầu...) đã hỏng mộng thì phải thay toàn bộ mộng, nhưng căn cứ vào thực trạng của cấu kiện mà có thể thay mộng giữ lại dạ hoặc không giữ dạ. Thay mộng giữ dạ các cấu kiện áp dụng đối với cấu kiện chỉ hỏng mộng nhưng dạ cấu kiện còn tốt, mục đích giữ lại phần dạ cấu kiện phía dưới cốt mộng. Thay mộng không giữ dạ áp dụng với cấu kiện bị hỏng mộng và hỏng cả phần dạ. Cách tạo mộng trên cấu kiện cũ và cốt mộng mới tương tự như trên, nhưng chỉ khác là không giữ lại phần dạ.

+ Biện pháp vá bề mặt các cấu kiện:đây là biện pháp tu bổ áp dụng với những cấu kiện bị hư hỏng bề mặt. Vết hư hại này ở mức độ nhỏ, chưa ảnh hưởng nhiều đến khả năng chịu lực của cấu kiện. Biện pháp tu bổ này chủ yếu khôi phục hình thức kiến trúc của cấu kiện.

+ Biện pháp nối cấu kiện: đây là biện pháp tu bổ áp dụng với những cấu kiện bị hư hỏng phần thân. Vết hư hại này ở mức độ lớn, ảnh hưởng nhiều đến khả năng chịu lực của cấu kiện. Biện pháp tu bổ này chủ yếu khôi phục hình thức kiến trúc của cấu kiện.

+ Biện pháp xử lý cấu kiện bị nứt: do tính chất của vật liệu, các cấu kiện gỗ thường bị nứt dọc theo thớ. Ở mức độ nhỏ, nó ảnh hưởng đến tính mỹ thuật của cấu kiện, nhưng nếu không xử lý kịp thời vết nứt có thể phát triển làm suy giảm khả năng chịu lực của cấu kiện.

+ Biện pháp xử lý cấu kiện bị hư hỏng hoàn toàn:những cấu kiện không có trang trí thì tạo hình đúng như cấu kiện cũ, tạo liên kết với cột, xử lý bảo quản rồi lắp dựng.Các thành phần trang trí chạm khắc là đối tượng của sự hư hỏng, mất mát, khi tu sửa thành phần này cầm tuân thủ nguyên tắc giữ gìn tối đa ngay cả khi bị hư hỏng bề mặt. Trường hợp bị mục nát, mối mọt không còn rõ những nét chạm, thì mới phục hồi. Có hai trường hợp là: khi phục hồi trang trí, cần tạo hình khối, đường nét chính theo đúng phong cách nghệ thuật của trang trí cũ, song chi tiết có thể lược bớt nhằm mục đích phân biệt để tránh nhầm lẫn với các thành phần gốc.

3.3. Nguyên tắc, nhiệm vụ, giải pháp tôn tạo, xây mới di tích

Với thực trạng các di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, việc đưa ra các giải pháp trong công tác tôn tạo, xây mới các di tích có tình trạng kỹ thuật và bảo tồn ở nhóm này là hết sức phức tạp. Việc đưa ra giải pháp phải dựa vào từng nhóm đối tượng cụ thể để có cách ứng xử cho phù hợp.

Tôn tạo và xây mới trên một số di tích tỉnh Lạng Sơn là việc xây dựng, sửa chữa lại những thành phần kiến trúc đã bị mất, hoặc bổ sung thêm những thành phần, hạng mục kiến trúc mới nhằm đáp ứng các nhu cầu của di tích và làm cho di tích có khả năng phát huy giá trị, phát triển tiếp nối trong tương lai. Cần phải xác định đúng các hoạt động và có có những nguyên tắc rõ ràng trong các bước can thiệp.

3.3.1. Nguyên tắc

- Bảo tồn, duy trì các giá trị lịch sử và nghệ thuật trong mọi trường hợp phải được đặt ra là nhiệm vụ số một.

- Tôn tạo, xây mới di tích không được phá vỡ không gian tự nhiên.

- Những dự án tôn tạo, xây mới cần được thẩm xét bởi các chuyên gia có kinh nghiệm và phê duyệt bởi các cơ quan quản lý ngành.

- Thi công tôn tạo di tích cần sử dụng nghệ nhân và thợ lành nghề chuyên môn hóa, sử dụng các cán bộ kỹ thuật chuyên môn vận hành và giám sát quá trình thi công.

- Áp dụng những tiêu chuẩn, định mức trong thi công và các chuẩn mực đặc thù trong công tác nghiệm thu.

- Công tác lập hồ sơ trong suốt quá trình tôn tạo di tích phải được coi trọng: đây là tài liệu quý giá phục vụ cho việc nghiên cứu và tu bổ di tích sau này.

- Không thể đánh đồng tôn tạo di tích với các hoạt động xây dựng khác. Không thể giao công việc tôn tạo di tích vào tay những nhà thầu, những người không có hoặc thiếu hiểu biết về di sản văn hóa và bảo tồn

3.3.2. Giải pháp

a. Đối với di tích kiến trúc nghệ thuật và di tích có công trình kiến trúc:

Bên cạnh việc triển khai thực hiện các giải pháp như: quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào quy mô, tính chất, thực trạng của từng di tích áp dụng các biện pháp cụ thể sau:

- Di tích bị hư hỏng hoàn toàn

Trước mắt tập trung vào các giải pháp tổng thể bao gồm:

+ Nghiên cứu thu thập tài liệu, khảo sát đo đạc địa hình, khảo sát thám sát, đánh giá hiện trạng, chụp ảnh, tổng hợp các dữ liệu của di tích. Đề ra các giải pháp quy hoạch, kiến trúc, kỹ thuật xây dựng, tôn tạo phù hợp với từng địa điểm di tích. Xây dựng phương án xây dựng, tôn tạo di tích trình các cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt.

+ Đối với các di tích có đủ điều kiện lập hồ sơ đề nghị xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa thì Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lạng Sơn tổ chức lập hồ sơ đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xếp hạng di tích theo quy định.

+ Đối với di tích chưa được quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ di tích: xác lập quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích, định hướng không gian kiến trúc cảnh quan phù hợp với tính chất, đặc thù di tích. Bảo vệ được những yếu tố gốc của di tích hoặc hiện trạng có giá trị (di tích kiến trúc, hiện vật gốc; thành phần mới được tu bổ, phục dựng).

+ Đối với các di tích đã được quy hoạch, đã được xếp hạng có thể tiến hành xây dựng phương án khoanh vùng bảo vệ di tích, cắm mốc giới.

+ Tiến hành các thủ tục cấp quyền sử dụng đất cho di tích.

Đối với những di tích có giá trị và đủ điều kiện để tiến hành tôn tạo, xây dựng thì có thể tiến hành các bước thực hiện dự án tôn tạo di tích theo đúng trình tự quy định.

-Di tích đã được tôn tạo và xây mới nhằm duy trì chức năng thờ tự

Giải pháp này tập trung vào các di tích đã bị xuống cấp và xuống cấp nghiêm trọng đã được tôn tạo, xây mới trong thời gian gần đây với mục đích duy trì chức năng thờ tự.

Mục tiêu đầu tư tôn tạo các hạng mục công trình trên nguyên tắc đảm bảo và phát huy giá trị chân thực của di tích, đáp ứng yêu cầu quản lý sử dụng. Giải pháp được đưa ra đó là phải đảm bảo nguyên tắc phục dựng tôn tạo trên nền móng cũ hiện nay, toàn bộ công trình làm theo kiểu kiến trúc truyền thống. Quy hoạch khuôn viên không làm vỡ cảnh quan môi trường sinh thái khu vực.

Giải pháp đưa ra trước mắt tập trung vào các giải pháp tổng thể bao gồm:

+ Nghiên cứu thu thập tài liệu, khảo sát đo đạc địa hình, khảo sát thám sát, đánh giá hiện trạng, chụp ảnh, tổng hợp các dữ liệu của di tích. Đề ra các giải pháp quy hoạch, kiến trúc, kỹ thuật xây dựng, tôn tạo phù hợp với từng địa điểm di tích. Xây dựng phương án xây dựng, tôn tạo di tích trình các cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt.

+ Đối với các di tích có đủ điều kiện lập hồ sơ đề nghị xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa thì Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lạng Sơn tổ chức lập hồ sơ đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xếp hạng di tích theo quy định.

+ Đối với di tích chưa được quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ di tích:Xác lập quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích, định hướng không gian kiến trúc cảnh quan phù hợp với tính chất, đặc thù di tích. Bảo vệ được những yếu tố gốc của di tích hoặc hiện trạng có giá trị (di tích kiến trúc, hiện vật gốc; thành phần mới được tu bổ, phục dựng).

+ Đối với các di tích đã được quy hoạch, đã được xếp hạng có thể tiến hành xây dựng phương án khoanh vùng bảo vệ di tích, cắm mốc giới.

+ Tiến hành các thủ tục cấp quyền sử dụng đất cho di tích. Đối với những di tích có giá trị và đủ điều kiện để tiến hành tôn tạo, xây dựng thì có thể tiến hành các bước thực hiện dự án tôn tạo di tích theo đúng trình tự quy định. Ưu tiên công trình chính của di tích, trong đó:

+ Giữ nguyên trục, hướng, vị trí của di tích, bảo tồn tối đa các thành phần gốc có giá trị, loại bỏ các thành phần làm biến dạng và sai lệch di tích.

+ Cải tạo cảnh quan, khuôn viên của di tích.

+ Bổ sung các thành phần còn thiếu đối với loại hình di tích, các hạng mục phụ trợ.

- Di tích đã được tôn tạo, xây mới theo phong cách kiến trúc, vật liệu truyền thống

Cần giữ nguyên hiện trạng của di tích, bảo tồn tối đa các thành phần gốc có giá trị, loại bỏ các thành phần làm biến dạng và sai lệch di tích. Phục hồi bổ sung các thành phần đã mất hoặc còn thiếu trên cơ sở dấu tích và bố cục truyền thống với phong cách phù hợp, sử dụng vật liệu truyền thống, áp dụng công nghệ hiện đại.

Các thành phần bổ sung trên nguyên tắc hình thức kiến trúc cổ truyền… Hình dáng họa tiết hoa văn trang trí phải phù hợp với di tích. Tu bổ tôn tạo bằng công nghệ và vật liệu truyền thống. Tiến hành bảo quản di tích ngay trong quá trình thi công tu bổ… Nguyên tắc tôn tạo phục hồi di tích: Ngoài việc tu bổ, khôi phục các thành phần vốn có của di tích, cần bổ sung làm phong phú thêm các hạng mục của di tích, nâng cao tầm vóc của di tích.

Tôn tạo cảnh quan sân vườn, đường đi lối lại, cây xanh, chiếu sáng…làm tăng thêm vẻ đẹp và giá trị của di tích. Tôn tạo cảnh quan di tích cần hòa nhập với cảnh quan chung, hạn chế tôn tạo theo lối công viên hóa di tích.

Các công trình phụ trợ như nhà bếp, nhà vệ sinh, có thể làm bằng kết cấu hiện đại, nhưng hình thức không sai lệch so với di tích, bố trí vào những vị trí vừa tiện cho sinh hoạt vừa không làm ảnh hưởng đến cảnh quan chung.

Giải pháp tôn tạo kết hợp với phục hồi từng phần gồm khôi phục những thành phần bị mất và loại bỏ những thành phần bổ sung xa lạ với di tích.

Việc khôi phục những thành phần bị mất chỉ được thực hiện với 2 điều kiện là: Nếu điều này thật sự cần thiết; Có đầy đủ những cơ sở xác thực tại chỗ cho việc làm này.

Những phần việc nêu trên là loại bỏ những nguyên nhân có thể dẫn tới sự sụp đổ của di tích và sự cải thiện tình trạng kỹ thuật của nó.

- Di tích đã được tôn tạo và xây mới theo phong cách truyền thống bằng vật liệu hiện đại

Giải pháp đối với những di tích đã được tôn tạo, xây mới bằng vật liệu hiện đại luôn vấp phải nhiều vấn đề, nhiều câu hỏi được đặt ra: quan điểm khôi phục lại các thành phần đã mất của di tích như thế nào? Hay việc quy hoạch lại các hạng mục xây mới nên thực hiện như nào để di tích vừa đáp ứng được các nhu cầu đương đại mà không phá vỡ cấu trúc tổng thể hoặc làm suy giảm giá trị của di tích? Vấn đề lựa chọn phương án thiết kế như nào để đem lại hiệu quả tốt nhất…

Trên thực tế hoạt động khôi phục, xây mới tại các di tích không còn nguyên vẹn đã, đang diễn ra và là một nhu cầu thiết yếu của cộng đồng.

Không thể phủ nhận được hiệu quả của việc khôi phục và xây mới ở nhiều di tích, bởi nó đã đem lại cho di tích không chỉ là khôi phục lại hình ảnh di tích trong lịch sử mà còn đem lại các giá trị văn hóa xã hội, bởi khả năng thích nghi và phát triển tiếp nối của di tích trong bối cảnh đương đại, tương lai.

Trước thực trạng trên, giải pháp đối với di tích đã được tôn tạo và xây mới theo phong cách truyền thống bằng vật liệu hiện đại là:

- Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị di tích.

- Tập trung định hướng các giải pháp tổng thể liên quan đến các vấn đề: quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ và cấp quyền sử dụng đất cho di tích.

Quy mô công trình phải phù hợp với di tích, phù hợp với cảnh quan di tích, không phá vỡ môi trường tự nhiên xung quanh.

- Loại bỏ những hạng mục không phù hợp với kiến trúc tổng thể công trình, không sử dụng những vật liệu không phù hợp (mái tôn, mái fibro xi măng…)

- Cải tạo cảnh quan, cây xanh, mặt nước. Hạn chế những mô típ trang trí, các hiện vật bài trí trong di tích có trang trí không đồng nhất với trang trí trong di tích, không giống các hiện vật đã có trong di tích người Việt.

- Đẩy mạnh các hoạt động khai thác tiềm năng, kết nối với những di tích khác, kết nối với các khu danh lam thắng cảnh để phát triển du lịch.

(Xem phụ lục số 19 - Giải pháp bảo tồn và ưu tiên thứ tự đầu tư đối với di tích thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật và di tích có công trình kiến trúc)

b. Đối với di tích lịch sử cách mạng

Di tích lịch sử cách mạng có vai trò quan trọng trong việc giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc đối với mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ. Trong nhiều năm qua công tác bảo quản, tu bổ các di tích lịch sử cách mạng và địa điểm ghi dấu nơi diễn ra sự kiện lịch sử cách mạng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã được quan tâm kịp thời. Song đến nay vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, ảnh hưởng không nhỏ đến di tích và chưa phát huy hết giá trị vốn có của di tích.

Đối với các di tích lịch sử cách mạng, ưu tiên trên hết việc bảo tồn nguyên trạng, bởi di tích là chứng nhân lịch sử, chúng bảo lưu những dữ liệu lịch sử, nhiều khi duy nhất. Từ đó ưu tiên các giải pháp và các kỹ thuật bảo quản hiện trạng, không tạo nên những sự biến đổi làm nghèo, làm sai và làm giả những gì là gốc… Di tích lịch sử cách mạng thường tồn tại qua nhiều thời gian, bởi vậy khi tiến hành dự án tôn tạo phải chú ý tính liên tục về mặt phát triển lịch sử, văn hóa, tính kế thừa và tiếp biến văn hóa ở di tích đó. Đồng thời cũng cần phải nghiên cứu cẩn trọng, với sự am hiểu sâu sắc và tinh tế để gỡ bỏ đi những yếu tố thời sau thêm vào không phù hợp, làm sai lệch giá tri, tính chất của di tích.

Các hoạt động tôn tạo có ý nghĩa đặc biệt. Trước tiên tôn tạo được hiểu như sự tái tạo môi trường cảnh quan truyền thống vốn có của di tích, sau đó là sự tạo lập những điều kiện đảm bảo cho di tích tồn tại lâu dài, đồng thời tạo lập những điều kiện để người khách tham quan hưởng thụ đầy đủ hơn vẻ đẹp của di tích.

Tôn tạo, phát huy giá trị các di tích lịch sử cách mạng ở đây tập trung định hướng các giải pháp tổng thể đối với các loại hình di tích: hang, núi, địa điểm, bãi tập… (không bao gồm các di tích kiến trúc).

- Thứ tự ưu tiên:

+ Ưu tiên thứ nhất: cải thiện điều kiện và môi trường tồn tại của di tích;

+ Ưu tiên thứ 2: khôi phục không gian cảnh quan vốn có;

+ Ưu tiên thứ 3: tạo điều kiện cho việc quan sát và tham quan di tích;

+ Ưu tiên thứ 4: hình thành những cơ sở phù hợp phục vụ du khách;

- Giải pháp cụ thể:

+ Tập trung đầu tư xây dựng và thực hiện quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích.

+ Cải tạo môi trường cảnh quan di tích. Tổ chức không gian cảnh quan cây xanh theo từng tuyến, từng vùng, từng khu vực cụ thể.

+ Đề xuất sơ bộ về cấu trúc, nguyên tắc tổ chức không gian trên cơ sở danh mục các hạng mục công trình cần đầu tư xây dựng trong khu vực di tích.Khu vực này ưu tiên công trình dịch vụ du lịch, xây mới các công trình kiến trúc nhưng có kiểm soát về kiến trúc, quy mô, màu sắc và mật độ xây dựng.

+ Xây dựng kế hoạch đầu tư xây mới, cải tạo chỉnh trang các hệ thống hạ tầng xã hội, kỹ thuật và sản xuất trong địa bàn khu di tích. Nội dung thực hiện cụ thể:

Với hạ tầng xã hội:

• Xây dựng, nâng cao chất lượng mạng lưới công trình và không gian công cộng.

• Tạo điều kiện xã hội hóa công tác xây dựng mạng lưới công trình du lịch, đón tiếp, thương mại, dịch vụ.

• Vận hành, bảo trì, quản lý di tích.

Với hạ tầng kỹ thuật:

• Xây dựng hệ thống giao thông bộ, bến bãi, hạ tầng đầu mối và hạ tầng đi theo các tuyến giao thông.

• Lắp đặt hệ thống thiết bị truyền tin, quảng cáo trên các tuyến tham quan.

• Xây dựng hệ thống giao thông nội bộ.

• Vận hành, bảo trì các hệ thống hạ tầng kỹ thuật.

- Xây dựng hệ thống tuyên truyền, giới thiệu giá trị di tích

- Tăng cường tiềm lực phát triển du lịch, dịch vụ trong Khu di tích

+ Tập huấn cho các bộ quản lý, thuyết minh viên

+ Lắp đặt hệ thống thông tin, truyền tin, tra cứu

+ Nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện tuyến tham quan

- Quan tâm chú trọng thực hiện tốt công tác an ninh trật tự, vệ sinh, môi trường, xây dựng cảnh quan tại các di tích.

- Chú trọng việc đẩy mạnh hợp tác với cơ quan giáo dục về bảo tồn di tích đồng thời hướng dẫn doanh nghiệp, cộng đồng tham gia bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống và bảo vệ di tích.

- Khuyến khích phát triển các nghề truyền thống; bảo tồn và phát huy các di sản - văn hóa phi vật thể của địa phương.

Bên cạnh những giải pháp trên cần chú trọng đến vấn đề bảo vệ tài nguyên và môi trường và bảo đảm an ninh, quốc phòng trong thực hiện các dự án trong quy hoạch đã được duyệt.

Đối với các di tích lịch sử cách mạng có các hiện vật trưng bày tập trung thực hiện những nội dung cơ bản là: Bảo quản, tu sửa và phục hồi hiện vật; Phục chế các hiện vật. Phát động các hoạt động nhằm sưu tầm, hiến tặng các hiện vật phục vụ công tác trưng bày, phát huy giá trị di tích.

3.4. Giải pháp bảo vệ, quản lý, phát huy giá trị đối với các di tích khảo cổ học

- Tiếp tục điều tra, khảo sát phát hiện, tiến hành thăm dò thám sát các di tích khảo cổ học trên toàn địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Đặc biệt ưu tiên khảo sát vùng đất nằm trong dự án xây dựng trong khu di tích hang động. Tiếp tục khai quật các di chỉ khảo cổ ở Lạng Sơn nhằm có một cái nhìn toàn diện, nghiên cứu một cách có hệ thống các di tích tiền - sơ sử Lạng Sơn. Cần tiến hành nghiên cứu một cách cố hệ thống về vùng đất này, để cố một cái nhìn chân xác, khoa học, đầy đủ hơn. Nghiên cứu, lập hồ sơ đánh giá các giá trị của di tích trong đó tập trung đánh giá các giá trị lịch sử, văn hóa của di tích khảo cổ, đánh giá các kết quả thu được sau lần khai quật.

- Bảo tồn cảnh quan môi trường di tích lịch sử văn hóa, khai thác tổng thể giá trị di tích, có kế hoạch bảo vệ giữ gìn di tích. Đối với các di tích đã được xếp hạng tiến hành xây dựng phương án khoanh vùng bảo vệ di tích, cắm mốc giới.

- Trường hợp xét thấy địa điểm khảo cổ có đủ điều kiện lập hồ sơ đề nghị xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa thì Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lạng Sơn tổ chức lập hồ sơ đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xếp hạng di tích khảo cổ theo quy định.

- Tăng cường công tác giáo dục một cách toàn diện trong nhân dân về văn hóa khảo cổ, về các di tích tiền - sơ sử tại Lạng Sơn. Giúp người dân hiểu rõ, đúng đắn hơn về những di vật, di tích tiền sử trên địa bàn họ đang sống. Đồng thời tiến hành tuyên truyền pháp luật bảo vệ di tích, về ý nghĩa, giá trị khoa học của các di vật lịch sử, di tích văn hóa, để giúp người dân hiểu và tự giác tham gia công tác phát hiện, bảo vệ di tích, ngăn chặn kịp thời các hành động phá hoại di sản văn hóa dân tộc. Một biện pháp tuyên truyền hữu hiệu nữa là nên tổ chức trưng bày tại chỗ kết quả của các cuộc khai quật, từ đó người dân sẽ hiểu biết nhanh hơn, rõ hơn vế các di sản văn hóa của địa phương mình sinh sống. Bên cạnh đó cần có những khuyến khích động viên, khen thưởng kịp thời những người dân có ý thức phát hiện bảo vệ di sản văn hóa cũng như nghiên cứu xử lý những ai cố tình xâm phạm, phá hủy di tích.

- Cần mở rộng hợp tác giữa các bảo tàng tỉnh với nhau, giữa địa phương và trung ương, giữa địa phương với các tổ chức quốc tế. Thông qua hợp tác, trao đổi kinh nghiệm là điều kiện nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, đào tạo cán bộ nhằm phục vụ tốt hơn, có hiệu quả hơn sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ mới.

- Phân cấp quản lý bảo vệ và khai thác di tích khảo cổ một cách hợp lý giữa các cấp và các ngành. Xây dựng phương án bảo vệ, quản lý, phát huy giá trị địa điểm khảo cổ đã được thăm dò, khai quật:

+ Áp dụng các biện pháp bảo quản các phế tích kiến trúc, di vật và các dấu vết khảo cổ khác mà không thể di dời.

+ Đối với các di tích khảo cổ đã tiến hành khai quật tiến hành lấp hố khai quật đến cao độ mặt bằng khu đất trước khi thăm dò, khai quật. Đối với những hang khảo cổ có thể dọn dẹp toàn bộ khu vực bề mặt nền, lắp đặt hành lang, rào ngăn cách (đối với những hang thấp dưới chân núi, hang không sử dụng vào mục đích dân sinh). VD: di tích khảo cổ Hang Làng Loi (huyện Hữu Lũng) đã được khai quật vào những năm 1924, 1998, 2006 và đã được lấp cát nhưng rất sơ sài, trong hang còn ngổn ngang đất đá và một vài hiện vật (rào chắn, gậy gộc, bộ kiệu…). Cần xây dựng phương án bảo quản các vị trí khai quật, khu vực phát lộ các tầng địa chất, nền và vách hang bám nhiều vỏ ốc… lắp đặt hành lang, rào ngăn cách bảo vệ và ngăn cách không gian.

Trường hợp cần giữ nguyên hiện trạng hố khai quật để phục vụ cho việc nghiên cứu, trưng bày về địa điểm khảo cổ cần xây dựng phương án bảo tồn các thành phần trong di tích khảo cổ, phương án bảo quản các di vật trong khu vực khảo cổ và phương án khai thác, vận hành để phát huy tốt giá trị di tích.

- Cắm mốc giới đánh dấu vị trí hố khai quật và đặt biển chỉ dẫn về địa điểm khảo cổ. Biển chỉ dẫn ghi rõ tên địa điểm khảo cổ, năm khai quật, kinh độ, vĩ độ của hố khai quật. Biển chỉ dẫn cần thiết kế về hình thức, quy mô cho thống nhất đối với tất cả các di tích khảo cổ học. Vị trí lắp đặt biển chỉ dẫn phải được nghiên cứu cho phù hợp với không gian cảnh quan chung của di tích, không làm ảnh hưởng đến khu vực bảo vệ I và phải thuận tiện cho người tham quan dễ đọc, dễ quan sát.

- Định hướng phát triển các công trình hạ tầng kỹ thuật(bao gồm công trình giao thông, cấp điện, chiếu sáng công cộng và các công trình khác) được xác định theo quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành. Đây là những hạng mục công trình cần thiết cho việc khai thác, vận hành và phát huy giá trị của di tích khảo cổ học.

Hệ thống giao thông:

Điều tra khảo sát, phân tích và đánh giá hiện trạng mạng lưới giao thông trong địa bàn và khả năng kết nối với di tích. Xây dựng tuyến giao thông thuận lợi phục vụ công tác tham quan, khảo sát và nghiên cứu. Phần lớn các di tích khảo cổ học là hang (28/36 di tích) nằm trên lưng chừng núi, việc xây dựng tuyến giao thông phải đảm bảo an toàn, phù hợp với cảnh quan và không làm ảnh hưởng đến các yếu tố gốc của di tích.

Xác lập mạng lưới giao thông kết nối di tích với khu vực và phương án tổ chức giao thông thuận tiện tới các điểm di tích, danh lam thắng cảnh cận kề theo những tuyến du lịch.

Hệ thống cấp điện:điều tra khảo sát, phân tích và đánh giá hiện trạng cấp điện.Dự báo nhu cầu sử dụng điện năng cho di tích theo các chỉ tiêu kỹ thuật và chỉ tiêu xây dựng.

Hệ thống cấp, thoát nước và vệ sinh môi trường.

Điều tra, khảo sát, phân tích, đánh giá hiện trạng cấp, thoát nước và vệ sinh môi trường.Dự báo lượng chất thải theo các chỉ tiêu kỹ thuật và tiêu chuẩn xây dựng khi các điểm di tích đưa vào vận hành khai thác.

Xác định biện pháp thu gom chất thải. Đặc biệt lưu ý với những di tích khảo cổ nhưng cũng hiện có công trình giao thông chạy xuyên qua như hang Thẩm Khoách (huyện Bình Gia) cần áp dụng các biện pháp bảo vệ vệ sinh môi trường nghiêm ngặt, tránh hư hại tới tầng văn hóa và hiện trạng kỹ thuật của hang.

(xem Phụ lục số 20 - Giải pháp bảo tồn đối với các di tích khảo cổ học)

3.5. Định hướng, giải pháp bảo vệ, quản lý, phát huy giá trị đối với hệ thống danh lam thắng cảnh.

a. Định hướng về quản lý, phát huy giá trị hệ thống danh lam thắng cảnh để phát triển du lịch

- Cần phải có quy hoạch tổng thể phát triển du lịch và những định hướng, mục tiêu, giải pháp mang tính tổng quát, bên cạnh đó mỗi cụm điểm du lịch cần có quy hoạch chi tiết xác định rõ các phân khúc chức năng và các dự án đầu tư theo thứ tự ưu tiên phù hợp với nhu cầu. Song song với quy hoạch ngành, cần tiến hành các định hướng bảo vệ môi trường theo lãnh thổ trong đó xác định các khu vực cần bảo vệ nghiêm ngặt, khu vực tập trung phát triển du lịch, khu vực hạn chế các hoạt động du lịch...

- Quan tâm xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói chung, các huyện thành phố trên địa bàn từng huyện, thành phố nói riêng trong đó lấy những giá trị đặc trưng về cảnh quan thiên nhiên, vùng đất con người Xứ Lạng là nền tảng, là tiền đề, cơ sở để xây dựng, hình thành các sản phẩm du lịch mang tính đặc thù, bền vững; là nòng cốt trong việc định vị hình ảnh, xây dựng thương hiệu du lịch Lạng Sơn bên cạnh các yếu tố về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực... và các thành tố liên quan khác để thu hút, hấp dẫn các các doanh nghiệp, các nhà đầu có đủ tâm, đủ tầm, tiềm lực, kinh nghiệm...đến với Lạng Sơn.

- Cùng với việc lập hồ sơ xếp hạng di tích các cấp, nghiên cứu, lựa chọn các di tích nói chung, loại hình di tích là danh lam - thắng cảnh nói riêng đáp ứng đủ các tiêu chí theo quy định để triển khai thực hiện các quy trình, thủ tục lập hồ sơ công nhận là điểm, khu du lịch địa phương, trình Thủ tướng chính phủ công nhận điểm, khu du lịch quốc gia tạo tiền đề, cơ sở, căn cứ pháp lý để đầu tư, phát triển; thực hiện các hoạt động xúc tiến huy động các nguồn lực xã hội trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch tại địa phương.

- Phối hợp với các bộ, ngành, trung ương, các tổ chức phi chính phủ, các chuyên gia, các nhà khoa học trong và ngoài nước tiến hành nghiên cứu, rà soát xác định giá trị quần thể khu vực núi đá vôi, hệ thống hang động, sông, hồ - thuộc các huyện Bắc Sơn, Bình Gia, Văn Quan, Chi Lăng, Hữu Lũng...(khu vực tự nhiên có ranh giới địa lý, hành chính rõ ràng, chứa đựng một tập hợp các di sản địa chất tầm cỡ quốc tế, có cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ, có bản sắc văn hóa độc đáo, sản vật nổi tiếng, có giá trị giáo dục, khoa học, thẩm mỹ, cùng các giá trị khác đa dạng về sinh học, khảo cổ, lịch sử, văn hóa, xã hội...) để trình các bộ, ngành trung ương xem xét trình Thủ tướng Chính phủ cho phép lập hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận là công viên địa chất toàn cầu. Qua đó tạo bước đột phá, tăng cường hợp tác quốc tế, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, du lịch - dịch vụ một cách bền vững; từng bước hiện thực hóa mục tiêu “phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn” của địa phương trong thời gian tới.

- Xây dựng chiến lược kế hoạch quản lý các hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh gắn với phát triển du lịch. Xây dựng các mô hình gắn kết hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh với phát triển du lịch.

- Phải có những kế hoạch, chương trình và các hoạt động cụ thể nhằm khai thác, sử dụng và bảo tồn hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh kết nối với phát triển du lịch một cách bền vững và hiệu quả. Cụ thể những biện pháp đó là việc bảo vệ, tôn tạo, nâng cấp các di tích; Cần giáo dục phổ biến rộng rãi trong toàn cộng đồng ý thức thực hiện tốt Luật Di sản văn hóa; nâng cao ý thức cộng đồng về tầm quan trọng của công tác bảo tồn di tích phục vụ phát triển du lịch; Tăng cường thông tin về lý luận về việc quảng bá, bảo tồn di sản để nâng cao kiến thức, trách nhiệm và tình cảm đối với các di tích lịch sử - văn hóa trong toàn xã hội. Tiếp tục phát huy vai trò của quần chúng Nhân dân trong việc bảo vệ các di tích.

- Xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch mang dấu ấn đặc trưng của tỉnh phục vụ du khách tại các hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh trên địa bàn thành phố Lạng Sơn. Có kế hoạch xây dựng chiến lược về sản phẩm, tạo sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn, đa dạng, chú trọng xây dựng sản phẩm du lịch chuyên đề.

- Du lịch Lạng Sơn phát triển chắc chắn sẽ góp phần gìn giữ và làm tăng các giá trị cảnh quan di tích, các giá trị văn hoá của tỉnh trong nước và quốc tế. Đặc biệt giá trị về nền văn hoá các dân tộc thiểu số Đông Bắc, về quần thể di tích của Xứ Lạng là những di sản văn hoá được cần tiếp tục được giữ gìn, bảo tồn và phát huy thông qua việc khai thác hoạt động trị du lịch.

b. Giải pháp

Để thực hiện tốt công tác bảo vệ, quản lý, phát huy giá trị đối với hệ thống danh lam thắng cảnh, bên cạnh những giải pháp chung đối với di tích, cần có các giải pháp mang tính đặc thù như sau:

- Xây dựng các kế hoạch, chương trình, mục tiêu nhằm bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, bảo vệ hệ sinh thái đặc biệt tại các khu danh lam thắng cảnh. Bảo vệ cảnh quan thiên nhiên là việc bảo tồn và duy trì hình thái, thành phần, cấu trúc, chức năng quan trọng của cảnh quan thiên nhiên. Trong đó, bảo tồn và duy trì hình thái của cảnh quan thiên nhiên là hoạt động bảo tồn và duy trì phong cảnh, vẻ đẹp, hình dạng đặc thù và sự hài hòa trong không gian của cảnh quan. Bảo tồn và duy trì các thành phần của cảnh quan thiên nhiên là hoạt động bảo tồn và duy trì các yếu tố tự nhiên tạo thành cảnh quan (địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng, sinh vật). Bảo tồn và duy trì cấu trúc của cảnh quan thiên nhiên là hoạt động bảo tồn và duy trì cấu trúc đứng, cấu trúc ngang và cấu trúc thời gian của cảnh quan. Bảo tồn và duy trì chức năng cảnh quan là bảo tồn và duy trì các chức năng của hệ sinh thái tự nhiên tạo thành cảnh quan.

+ Xây dựng kế hoạch khai thác tài nguyên ở mức độ thấp. Đối với những khu vực đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến không gian cảnh quan cần khai thác du lịch và không gian bao quanh di tích tuyệt đối không được khai thác.

+ Xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên, có những định hướng phát triển các khu cảnh quan tự nhiên, cảnh quan nhân tạo. Tiến hành trồng rừng hàng năm ở những khu vực phù hợp và xây dựng các kế hoạch, chỉ tiêu đối với các địa phương có diện tích đất trồng rừng trong không gian của danh lam thắng cảnh. Nghiên cứu các loài, giống cây phù hợp với thổ nhưỡng và khí hậu khu vực, ưu tiên các giống cây gỗ quý có tuổi đời dài.

+ Thực hiện tốt các công tác về phòng, chống cháy rừng. Lắp biển báo hiệu, cảnh báo mức độ nguy cơ cháy tại các vị trí phù hợp. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục người dân về phòng chống cháy rừng.

+ Bảo vệ và cải tạo cảnh quan hai bên bờ sông, suối. Xây dựng kế hoạch nạo vét lòng sông, khơi thông dòng chảy.

- Nghiên cứu, rà soát các di tích nói chung, di tích thuộc loại hình danh lam - thắng cảnh nói chung có khả năng đáp ứng tiêu chí để triển khai thực hiện các quy trình thủ tục công nhận là điểm du lịch địa phương

- Tôn tạo các hạng mục công trình trong khu vực

+ Trên cơ sở nhu cầu thực tế của mỗi khu vực có thể tính toán xây dựng các hạng mục công trình phụ trợ, các công trình dịch vụ phục vụ công tác vận hành, khai thác giá trị của danh lam thắng cảnh và phát triển du lịch. Các công trình này phải nằm ngoài khu vực I hoặc không ảnh hưởng đến giá trị nguyên gốc của di tích, danh lam thắng cảnh. Cần nghiên cứu về quy mô, hình dáng, màu sắc và hướng công trình cho phù hợp.

+ Các công trình phù trợ đã có nhưng chưa phù hợp cần có phương án cải tạo lại. Các công trình tự phát do người dân trong khu vực xây dựng nên ảnh hưởng đến cảnh quan chung thì xây dựng phương án dỡ bỏ, di rời (VD: Các khu lều bán hang tại khu danh thắng Đồng Lâm do dân địa phương dựng lên để phục vụ du khách nằm ngay trung tâm thung lũng).

- Cải tạo môi trường trong khu vực

Môi trường nước: Chất lượng nước ở các sông, hồ, suối có vai trò lớn tới môi trường chung của toàn khu. Tuy không phải đối tượng cụ thể có giá trị văn hoá hay lịch sử, nhưng mặt nước đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái, cảnh quan và kết nối các khu vực. Vì vậy việc duy trì chất lượng nước được coi là một trong những quan tâm hàng đầu. Cấm các hoạt động phát triển trong khu vực hồ, sông, suối giảm tối thiểu các tác động về môi trường, góp phần bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên và cảnh quan.

Môi trường không khí: Các khu vực tiếp giáp với tuyến giao thông với lượng phương tiện qua lại nhiều đã xuất hiện mức độ ô nhiễm không khí và tiếng ồn do khí thải và tiếng động cơ. Do vậy cần tính toán kỹ đến các giải pháp giảm thiểu tiếng ồn, bụi bẩn gây ô nhiễm đến môi trường không khí.

Rác thải: Rác thải là vấn đề lớn khi các khu danh lam thắng cảnh đã đi vào hoạt động khai thác du lịch. Do vậy cần xây dựng phương án lắp đặt hệ thống thu gom rác thải, lắp đặt trên toàn tuyến tham quan và tại những nơi tập trung đông người. Tổ chức công tác thu gom, tập kết và xử lý rác thải.

- Các giải pháp nâng cấp, cải tạo hạ tầng kỹ thuật

Xây dựng hoàn thiện đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật: tính toán quy hoạch giao thông có mạng lưới đường theo cấp hạng đúng quy chuẩn, đảm bảo các chỉ tiêu kỹ thuật và nhu cầu sử dụng về giao thông và bãi đỗ, tạo điều kiện giao thông thuận lợi, thông suốt; Thiết kế quy hoạch hệ thống thoát nước trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội và môi trường, đảm bảo các quy định của pháp luật về QHXD và môi trường, đảm bảo các chức năng thoát nước theo quy chuẩn, thoát nước nhanh chóng không gây ngập úng cục bộ; Hệ thống cấp điện được đấu nối với hệ thống cấp điện khu vực và chịu sự điều phối của Trung tâm điều độ quốc gia, đáp ứng đầy đủ nhu cầu năng lượng điện cho hiện tại và sau nhiều năm sau; Hệ thống cấp nước phù hợp với sơ đồ cấp nước của quy hoạch vùng, quy hoạch chung của địa phương đảm bảo việc bảo vệ và sử dụng tổng hợp các nguồn nước về chất lượng và nhu cầu theo quy chuẩn.

c. Đề xuất các mô hình

- Xây dựng các mô hình gắn kết hệ thống di tích và danh lam thắng cảnh để phát triển du lịch

Đây là mô hình đã được áp dụng ở nhiều địa phương trên cả nước và đã đạt được nhiều thành công nhất định, đáp ứng được nhu cầu của du khách thập phương. Ở Lạng Sơn đã có những mô hình định hình khá rõ nét, VD: cụm di tích Hang Soong Boong, danh thắng Đồng Lâm và bên cạnh đó đã có khu du lịch sinh thái cộng đồng Hữu Liên (Di tích lịch sử - Danh lam thắng cảnh - Khu di tích sinh thái); cụm di tích khảo cổ học Linh địa Mẫu Sơn, danh lam thắng cảnh Mẫu Sơn(Di tích khảo cổ học - Danh lam thắng cảnh)…

Đối với mô hình hình này cần quy hoạch nhằm định hướng tổ chức không gian cảnh quan, hạ tầng kỹ thuật; bảo đảm kết nối hài hòa, đồng bộ với cảnh quan, môi trường xung quanh, với quy hoạch vùng và các quy hoạch khác có liên quan.Nội dung nhiệm vụ lập quy hoạch cần xác định yêu cầu nghiên cứu, khảo sát; đánh giá điều kiện tự nhiên, hiện trạng kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, cơ sở hạ tầng xã hội, đánh giá các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể tại địa phương (sinh hoạt văn hóa, lễ hội truyền thống, phong tục tập quán…) và các nguồn lực phát triển khác trên địa bàn. Bên cạnh đó, quyết định đưa ra nội dung đánh giá tổng thể hiện trạng phân khu chức năng của khu danh lam thắng cảnh, tình hình đầu tư các dự án bảo tồn, tu bổ các điểm di tích, các dự án có liên quan, các dự án hỗ trợ phát huy giá trị di tích trong vùng nghiên cứu từ các nguồn vốn đầu tư khác nhau trong giai đoạn nghiên cứu lập quy hoạch; đánh giá kết quả, hiệu quả đầu tư các dự án, các khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân làm cơ sở đề xuất các giải pháp quy hoạch. Ngoài ra, việc lập quy hoạch nhằm một số nội dung khác như: đánh giá mối liên hệ giữa bảo tồn di tích, di sản văn hóa phi vật thể và phát triển du lịch tại khu vực nghiên cứu quy hoạch; Đảm bảo việc phát triển du lịch nhưng không ảnh hưởng đến giá trị hiện hữu của di tích.

Bảo tồn và phát huy giá trị các di tích kết hợp với khai thác tiềm năng của các danh lam thắng cảnh trên cơ sở phát triển du lịch về nguồn, du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái và tăng cường mối liên hệ vùng văn hóa trong bảo tồn và phát huy giá trị các di tích. Các hình thức tham quan trải nghiệm và du lịch cộng đồng chưa được triển khai một cách bài bản trong địa bàn. Xuất phát từ thực tiễn nêu trên cũng như xu thế tham quan mới của khách tham quan hiện nay là muốn được trải nghiệm thực tế và thâm nhập cuộc sống thực tế của đồng bào các dân tộc trong vùng. Trong thời gian trước mắt để phát huy giá trị các danh lam thắng cảnh trên cơ sở khai thác những thế mạnh từ tài nguyên văn hóa, đời sống cộng đồng trong khu vực phục vụ cho tham quan trải nghiệm và du lịch cộng đồng. Đồng thời công tác quảng bá mô hình du lịch này cũng đóng vai trò quan trọng, việc này cần được thực hiện sau khi các Ban Quản lý đạt được sự thống nhất với chính quyền và cộng đồng, Ban sẽ phối hợp với các đơn vị du lịch trong và ngoài tỉnh cũng như các cơ quan truyền thông báo chí tiến hành quảng bá mô hình du lịch này đồng thời xây dựng các tua (tour), tuyến tham quan du lịch trải nghiệm.

Xây dựng phương án cải tạo, nâng cấp và phát triển các công trình hạ tầng kỹ thuật (bao gồm công trình giao thông, cấp điện, chiếu sáng công cộng và các công trình khác) được xác định theo quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành. Đưa ra các giải pháp kết nối giao thông, tạo lập và phân tuyến tham quan cho phù hợp. Đảm bảo kết nối liên tục, khép kín các hoạt động tham quan, du lịch, không ảnh hưởng tới cảnh quan của môi trường tự nhiên và di tích. Các giải pháp này phải đáp ứng được yêu cầu hiện tại và lâu dài phục vụ việc khai thác, vận hành.

Tạo lập không gian tham quan, hưởng thụ, giải trí kết hợp nhiều loại hình dịch vụ trong khu vực như: phố ẩm thực, chợ đêm, biểu diễn các loại hình văn hóa dân gian hiện có trên địa bàn… để quảng bá hình ảnh con người, bản sắc văn hóa, ẩm thực, sản phẩm địa phương đến du khách trong nước và quốc tế.

- Khai thác, kết nối các điểm, cụm di tích và danh lam thắng cảnh tạo thành các tuyến du lịch:

+ Bên cạnh mô hình gắn kết các điểm di tích với danh lam thắng cảnh như trên có thể xây dựng các tuyến hình thành bởi các điểm di tích, cụm di tích vàdanh lam thắng cảnh tạo thành một sản phẩm du lịch. Xây dựng bản đồ di sản để kết nối, hệ thống hóa và phân tuyến thành một hệ thống tổng thể.

+ Tiến hành các mô hình thử nghiệm ở một số điểm, tuyến tiêu biểu có các di tích, danh lam thắng cảnh, các hệ sinh thái và các khu du lịch cộng đồng. Từ các mô hình thí điểm này nhân rộng ra các điểm khác. Có phương án vừa khai thác, phối kết hợp các mô hình, vừa bảo vệ và phát huy giá trị của di tích, danh lam thắng cảnh.

+ Khai thác tiềm năng du lịch trên địa bàn và phát huy những giá trị văn hóa, nghệ thuật dân gian, ẩm thực, sản phẩm nông sản hàng hóa địa phương. Xây dựng phương án hình thành các khu thương mại du lịch, trạm dừng chân, chợ đêm, điểm du lịch văn hóa trên các tuyến.

Đề xuất một số tuyến kết nối các điểm, cụm di tích và danh lam thắng cảnh như sau:

+ Tuyến du lịch Thành phố Lạng Sơn (Cụm di tích nằm dọc sông Kỳ Cùng): Đền Mẫu Thoải - Đền Cửa Đông - Đền Cô bé Thượng Ngàn - Đền Cửa Bắc - Đền Cửa Tây - Chùa Thành - Đền Kỳ Cùng - Bến Đá Kỳ Cùng. Trên tuyến này có thể xây dựng phương án du lịch trên sông, cập bến tại di tích.

+ Tuyến du lịch tại Hữu Lũng: Đền Công đồng Bắc Lệ - Đền Quan Giám Sát - Di tích Soong Boong - danh thắng Đồng Lâm - Khu Sinh Thái cộng đồng Hữu Liên.

+ Tuyến du lịch Thành phố Lạng Sơn - Bình Gia (Thác nước Đăng Mò - Hang Thẩm Khuyên - Hang Thẩm Hai - Hang Kéo Lèng - Hang Thẩm Khoách - Đền Trần Hưng Đạo) - Bắc Sơn (Cụm DT quốc gia đặc biệt Bắc Sơn - Thung lũng hoa Bắc Sơn - Làng du lịch Văn hóa Quỳnh Sơn - Suối Mỏ Mắm - núi Nà Lay) - Chi Lăng (Đền Cô Chín - Khu di tích Quốc gia đặc biệt Chi Lăng).

+ Tuyến du lịch tại Chi Lăng: Nhà trưng bày Chiến thắng Chi Lăng - Lũy Ải - Đền Quan Trấn Ải - Đền Chầu Bát - Đền Cô Chín - Đền Chầu Mười - Hang Gió (Khu di tích Quốc gia đặc biệt Chi Lăng).

- Tiếp tục phát huy những tour du lịch truyền thống:

+ Du lịch mua sắm tại các khu cửa khẩu và trung tâm thành phố Lạng Sơn: động Nhất, Nhị, Tam Thanh, Chợ Kỳ Lừa, núi Phai Vệ, Thành cổ Lạng Sơn, chợ Đông Kinh, núi Mẫu Sơn... Đây là tuyến được nhiều người lựa chọn do phương tiện phù hợp, thời gian thăm quan ngắn, các điểm du lịch rất đặc trưng cho “Xứ Lạng”.

+ Tuyến Lạng Sơn - Đồng Đăng - Cửa khẩu Hữu Nghị - Cửa khẩu Tân Thanh: Đây là tuyến du lịch có tiềm năng phát triển, thu hút khách du lịch trong nước và cả khách nước ngoài. Vào mùa lễ hội có rất nhiều khách du lịch Trung Quốc tham gia tuyến du lịch này.

Phần thứ ba

NHU CẦU, CƠ CẤU NGUỒN KINH PHÍ, PHÂN KỲ ĐẦU TƯ VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

I. NHU CẦU, CƠ CẤU NGUỒN KINH PHÍ, PHÂN KỲ ĐẦU TƯ

1. Nhu cầu kinh phí

Để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ bảo tồn tôn tạo và phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn theo Đề án đã đề ra, dự kiến tổng nhu cầu kinh phí đầu tư cho cả giai đoạn 2021 - 2030 là:440.136triệu đồng.

Bảng 10: Bảng nhu cầu kinh phí thực hiện  quy hoạch, khoanh vùng và tu bổ, tôn tạo di tích

Đơn vị tính: Triệu đồng

TT

Nội dung

Kinh phí thực hiện

1

Quy hoạch di tích

70.000

2

Khoanh vùng bảo vệ di tích

36.240

3

Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho di tích

3.096

4

Tu bổ, bảo quản, phục hồi di tích

330.800

Tổng

440.136

2. Cơ cấu nguồn kinh phí và phân kỳ đầu tư

2.1. Cơ cấu kinh phí

Kinh phí đầu tư bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn sử dụng từ nguồn ngân sách trung ương, ngân sách của tỉnh, ngân sách của địa phương, huy động xã hội hóa, các thành phần kinh tế, tài trợ của các tổ chức, cá nhân và các nguồn vốn hợp pháp khác.

- Ngân sách trung ương: hỗ trợ khoảng 8,8%, tập trung cho hoạt động bảo quản, tu bổ, phục hồi hệ thống di tích quốc gia đặc biệt, quốc gia.

- Ngân sách tỉnh:hỗ trợ khoảng 14,13%, tập trung cho quy hoạch di tích quốc gia đặc biệt; khoanh vùng, bảo vệ cắm mốc giới các di tích và cân đối, hỗ trợ đầu tư tu bổ, tôn tạo các di tích cấp quốc gia trọng điểm trên cơ sở các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

- Ngân sách cấp huyện:hỗ trợ khoảng 17,34 %, tập trung cho quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ, cắm mốc giới các di tích, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho toàn bộ di tích trên địa bàn.

- Nguồn xã hội hóa và các nguồn hợp pháp khác: hỗ trợ khoảng 59,74% tập trung đầu tư tu bổ, tôn tạo, bảo quản tu bổ định kỳ, hạ giải từng phần, hạ giải tu bổ, tôn tạo các công trình xây dựng mới...

Tổng kinh phí dự kiến thực hiện đề án trong cả giai đoạn 2021 - 2030 là: 440.136triệu đồng. Trong đó:

- Kinh phí nhà nước: 177.156 triệu đồng, chiếm 40,27 %(trong đó, ngân sách trung ương: 36.800 triệu đồng, ngân sách tỉnh 62.220 triệu đồng, ngân sách địa phương 76.336 triệu đồng):

- Kinh phí xã hội hóa:262.980 triệu đồng (chiếm 59,74%).

2.2. Phân kỳ đầu tư

Trên cơ sở cơ cấu kinh phí trên, đồng thời căn cứ vào khả năng nguồn lực huy động trong từng giai đoạn, danh mục phân kỳ đầu tư và kinh phí thực hiện sẽ được cụ thể hóa trong kế hoạch đầu tư trung hạn, kế hoạch đầu tư công và dự toán ngân sách hàng năm. Cụ thể theo từng giai đoạn như sau:

2.2.1. Giai đoạn 2021-2025:

Dự kiến 159.352 triệu đồng (trong đó, ngân sách trung ương 17.000 triệu đồng, ngân sách tỉnh 22.800 triệu đồng, ngân sách địa phương 45.816 triệu đồng, xã hội hóa 73.736 triệu đồng). Tập trung ưu tiên cho công tác quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ và cấp quyền sử dụng đất cho các di tích đã xếp hạng các cấp (quốc gia đặc biệt, quốc gia, cấp tỉnh); tu bổ, tôn tạo một số di tích xuống cấp nghiêm trọng.

2.2.2. Giai đoạn 2026-2030:

Dự kiến 280.784 triệu đồng (trong đó ngân sách trung ương 21.600 triệu đồng, ngân sách tỉnh 39.420 triệu đồng, ngân sách địa phương 30.520 triệu đồng, xã hội hóa 189.244 triệu đồng). Tiếp tục triển khai thực hiện công tác quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ, cấp giâý chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các di tích đã xếp hạng và nằm trong danh mục kiểm kê di tích đã được phê duyệt; xây dựng dự án tôn tạo, xây mới, phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh.

Bảng 11: Bảng phân bổ kinh phí theo từng giai đoạn

Đơn vị tính: Triệu đồng

Giai đoạn

Tổng kinh phí

Nguồn vốn huy động

Ngân sách trung ương

Ngân sách tỉnh

Ngân sách địa phương

Xã hội hóa

2021-2025

159.352

17.000

22.800

45.816

74.236

2026-2030

280.784

21.600

39.420

30.520

189.244

TỔNG CỘNG

440.136

38.600

62.220

76.336

262.980

Tỷ tệ (%)

100%

8,8%

14,13%

17,34%

59,74%

( Chi tiết tại Phụ lục số 21, 22, 23, 24, 25 )

II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

- Là cơ quan đầu mối, chủ trì, phối hợp với các sở, ngành liên quan tham mưu, đề xuất cho UBND tỉnh trong việc chỉ đạo thực hiện đề án; giúp UBND tỉnh theo dõi, nắm tình hình và đôn đốc các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị trên địa bàn toàn tỉnh tổ chức triển khai các nhiệm vụ được phân công theo đề án đề ra.

- Hàng năm, căn cứ nguồn vốn đầu tư, khả năng kinh phí huy động xã hội hóa, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, UBND các huyện thành phố khảo sát, đánh giá cụ thể thực trạng xuống cấp của di tích trong Danh sách nêu trên, xây dựng kế hoạch tu bổ, chống xuống cấp di tích trình UBND tỉnh xem xét, quyết định. Phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính tham mưu UBND tỉnh bố trí vốn ngân sách hàng năm để triển khai thực hiện Đề án;

Đối với di tích xuống cấp không nằm trong Danh sách di tích Đề án phê duyệt mà cần được đầu tư tu bổ cấp thiết, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch báo cáo UBND tỉnh xem xét, quyết định;

- Tùy tình hình thực tế và khả năng cân đối của ngân sách, có thể điều chỉnh số lượng di tích, kinh phí hỗ trợ cho mỗi di tích phù hợp, nhưng không vượt quá tổng mức đầu tư tu bổ, chống xuống cấp di tích hàng năm theo quy định của Đề án. Đối với những nội dung phát sinh trong quá trình thực hiện Đề án, báo cáo UBND quyết định;

- Định kỳ kiểm tra, đánh giá việc thực hiện công tác bảo tồn, tu bổ và phát huy giá trị các di tích trên địa bàn tỉnh theo quy định của Đề án, báo cáo UBND tỉnh và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; tham mưu UBND tỉnh định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện Đề án.

2. Sở Kế hoạch và Đầu tư

Phối hợp với các sở, ngành liên quan, hàng năm tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh bố trí nguồn các nguồn lực, vốn đầu tư; tham mưu xây dựng phương án xã hội hóa thực hiện các nhiệm vụ của Đề án.

3. Sở Tài chính

Thẩm định dự toán kinh phí do các cơ quan, đơn vị liên quan xây dựng, cản cứ khả năng ngân sách tham mưu cho cấp có thẩm quyền bố trí ngân sách nhà nước theo phân cấp để thực hiện theo quy định.

Hướng dẫn việc quản lý và sử dụng, quyết toán kinh phí thực hiện Đề án theo quy định.

4. Sở Xây dựng

Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch khảo sát, thẩm định hồ sơ thiết kế đảm bảo đúng quy trình, quy định của Luật Di sản văn hóa và các văn bản pháp luật về xây dựng.

5. Sở Tài nguyên và Môi trường

- Chủ trì, phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các sở, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố tham mưu việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để làm cơ sở trình UBND tỉnh xem xét thu hồi, giao đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các di tích trên địa bàn tỉnh theo quy định.

- Tham mưu xây dựng, ban hành các quy định đối với việc xác định địa giới và cắm mốc địa giới các khu vực bảo vệ di tích, hướng dẫn các quy trình, thủ tục liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các di tích; việc lập và xác nhận vào bản đồ khoanh vùng bảo vệ di tích.

- Phối hợp với các sở, ngành liên quan và Uỷ ban nhân dân các huyện thành phố trong việc đầu tư khoa học, công nghệ tiên tiến để bảo vệ môi trường bền vững tại di tích; xây dựng, triển khai các dự án bảo vệ môi trường tại các di tích; hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác vệ sinh môi trường tại các điểm di tích trên địa bàn tỉnh.

6. Sở Khoa học và Công nghệ

Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng và chỉ đạo thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh.

7. Sở Nội vụ

Chủ trì, phối hợp với Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch và các sở, ngành liên quan; Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố tham gia xác định biên chế, vị trí việc làm; tổ chức đào tạo bồi dưỡng, xây dựng các chế độ, chính sách tôn vinh, khen thưởng đối với đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh văn hoá nói chung, di sản văn hóa nói riêng.

8. Sở Ngoại vụ

- Chủ trì phối hợp với các sở, ngành, đơn vị liên quan tham mưu cho tỉnh mời và đón tiếp các Đoàn công tác của cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam; tùy viên văn hóa các nước, các tổ chức quốc tế về văn hóa, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài đến thăm, tìm hiểu tiềm năng văn hóa, du lịch và xúc tiến giao lưu, hợp tác về văn hóa, du lịch. Tích cực vận động các nguồn lực từ nước ngoài đầu tư, tài trợ cho các chương trình, dự án bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.

- Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức các hoạt động ngoại giao văn hóa nhằm quảng bá, giới thiệu về nội dung, giá trị của hệ thống di tích trên địa bàn và không gian văn hóa liên quan trong và ngoài nước.

9. Sở Giáo dục và Đào tạo

Phối hợp với Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch chỉ đạo thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giới thiệu về di sản văn hoá của tỉnh; xây dựng các chương trình và biên soạn tài liệu giảng dạy ngoại khóa phù hợp với từng cấp học, tổ chức các hình thức thích hợp để học sinh, sinh viên nâng cao kiến thức về lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, di sản văn hoá dân tộc, chăm sóc giữ gìn, bảo vệ di tích, tham quan bảo tàng và các thiết chế văn hoá; lựa chọn đ­ưa một số trò chơi, trò diễn dân gian, các làn điệu dân ca, dân vũ vào ch­ương trình giảng dạy tại nhà tr­ường.

10. Sở Thông tin và Truyền thông

Thực hiện các nhiệm vụ, chức năng liên quan tới quản lý thông tin, tuyên truyền trên mạng xã hội và các phương tiện thông tin, đại chúng về hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.

11. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh

Chủ trì, phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các sở, ngành liên quan và UBND các huyện, thành phố xử lý các vấn đề phát sinh liên quan đến hệ thống di tích do quốc phòng quản lý; di tích nằm trên đất quốc phòng, khu vực phòng thủ quân sự địa phương, khu vực, quốc gia theo quy định.

12. Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh, Báo Lạng Sơn

Phối hợp với Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, UBND các huyện, thành phố và những đơn vị liên quan triển khai những nội dung có liên quan tăng cường công tác quảng bá, tuyên truyền về việc bảo tồn, phát huy giá trị giá trị hệ thống di tích trên tỉnh Lạng Sơn qua các phương tiện thông tin, đại chúng.

13. Đề nghị Mặt trận Tổ quốc

Phối hợp chỉ đạo các tổ chức đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc các cấp tích cực tuyên truyền, vận động các tổ chức và nhân dân tham gia thực hiện Đề án. Tăng cường hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc trong quá trình triển khai thực hiện Đề án nói riêng, công tác bảo tồn di sản văn hoá nói chung.

14. Các sở, ngành, đoàn thể khác của tỉnh; các hội, liên hiệp hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của tỉnh

- Tổ chức tuyên truyền quán triệt, phổ biến về quan điểm, nội dung, nhiệm vụ của Đề án, đồng thời vận động, cán bộ, đảng viên, hội viên tích cực tham gia thực hiện Đề án và các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa do cấp ủy, chính quyền các cấp từ tỉnh đến cơ sở phát động, tổ chức thực hiện.

- Căn cứ chức năng, nhiệm vụchủ động xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Đề án tại cơ quan, đơn vị, địa phương đảm bảo thiết thực, hiệu quả những nội dung có liên quan trong Đề án; tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo, giải quyết những việc có liên quan trong Đề án theo chức năng nhiệm vụ được giao. Định kỳ báo cáo kết quả thực hiện các nội dung, nhiệm vụ gửi về Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổng hợp, báo cáo UBND tỉnh.

 15. UBND các huyện, thành phố

 - Đưa nội dung thực hiện đề án vào chương trình phát triển kinh tế, xã hội hằng năm để chỉ đạo các cơ quan, đơn vị địa phương thực hiện bằng chương trình, hoạt động, việc làm, kết quả và sản phẩm cụ thể phù hợp với yêu cầu, tình hình, điều kiện thực tế tại địa phương;

- Căn cứ Danh sách di tích Đề án phê duyệt, tình hình xuống cấp của di tích và điều kiện thực tế của địa phương, hàng năm bố trí ngân sách và hướng dẫn các xã, phường, thị trấn lập Dự án, Báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư tu bổ, chống xuống cấp di tích đối với di tích xếp hạng cấp tỉnh trên địa bàn, đề nghị Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thẩm định, thỏa thuận;

- Thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với hệ thống di tích trên địa bàn; tuyên truyền sâu rộng chính sách, pháp luật của nhà nước về bảo vệ, chăm sóc, phát huy giá trị di tích;

- Chỉ đạo các xã, phường, thị trấn bố trí ngân sách đối ứng và huy động xã hội hoá để thực hiện tu bổ, chống xuống cấp di tích đối với các di tích Đề án phê duyệt; có trách nhiệm tham gia quản lý việc thực hiện các dự án tu bổ, chống xuống cấp di tích của các xã, phường, thị trấn đúng mục đích và hiệu quả;

- Xây dựng kế hoạch tu bổ, chống xuống cấp di tích và phát huy giá trị di tích hàng năm, 05 năm trên địa bàn; định kỳ sơ kết, đánh giá tình hình thực hiện gửi Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổng hợp, báo cáo UBND tỉnh.

 

KẾT LUẬN

Lạng Sơn với nhiều đặc điểm về lịch sử, văn hóa, địa lý, tự nhiên cùng với sự đa dạng về hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng trong vùng đã hình thành nên hệ thống di tích đa dạng, phong phú và hội tụ đầy đủ các loại hình với hệ thống di chỉ khảo cổ gắn liền với nền văn hóa Mai Pha và nền văn hóa Bắc Sơn rực rỡ với dấu tích đặc biệt tiêu biểu về thủa bình minh của lịch sử đất nước góp phần quan trọng để làm sáng tỏ luận điểm “Việt Nam là một trong những chiếc nôi của loài người” như: Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Kéo Lèng, Phai Vệ...;với các di tích có giá trị lịch sử - văn hóa, khoa học tiêu biểu; những danh thắng nổi tiếng, những công trình có giá trị phục vụ cho việc tham quan, nghiên cứu, học tập của đông đảo các tầng lớp Nhân dân tỉnh Lạng Sơn và trong cả nước như: Khu di lịch sử chi Lăng, Đoàn Thành, Khu di tích khởi nghĩa Bắc Sơn, Bó Củng, Lũng Vài, Đường số 4 anh hùng, khu di tích Nhị Tam Thanh - Núi Tô Thị - Thành Nhà Mạc…và các loại hình di tích khác.

Bên cạnh đó, cùng với rất nhiều di vật, hiện vật, cổ vật có giá trị thuộc nhiều loại hình (chuông đồng, bia đá, sắc phong, tượng thờ,…)với đặc thù là một tỉnh miền núi, dân tộc thiểu số có truyền thống lịch sử, văn hóa, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán đặc trưng, tính nối kết cộng đồng cao, chi phối mạnh đến đời sống dân cư. Là vùng đất gắn liền với quá trình đấu tranh bảo vệ biên cương Tổ quốc, nơi đón nhận các dòng thiên di của các cư dân từ Nam Trung Quốc vào Việt Nam và các dòng lưu quan, lưu dân người Việt đến Lạng Sơn thông qua chế độ “phiên thần thế tập, chế độ lưu quan” của các các triều đại phong kiến Việt Nam từ thời Lý, Trần đến thời Lê Sơ, Nguyễn. Nên từ xưa đến nay Lạng Sơn đã trở thành nơi giao thoa, giao lưu, tiếp biến văn hóa, văn minh của nhiều tộc người. Điều này dẫn đến bên cạnh các yếu tố bản địa các di tích thuộc loại hình kiến trúc - nghệ thuật là cơ sở, tín ngưỡng như: đình, đền, chùa, miếu, nghè... ở Lạng Sơn không chỉ mang những đặc điểm chung của những di tích tôn giáo, tín ngưỡng của người Việt ở Bắc bộ từ việc chọn vị trí, hướng, quy mô mặt bằng, bố cục các hạng mục đến cấu trúc bộ khung gỗ và các mảng chạm khắc trang trí có giá trị nghệ thuật cao. Mà còn có sự kế thừa, dung hợp, ảnh hưởng các giá trị của Phật giáo, Nho Giáo, Đạo giáo; tín ngưỡng dân gian truyền thống người Việt, người Hoa (Minh Hương) và một số dân tộc khác. Do vậy, tính “đa thần” và “hỗn dung tôn giáo” được thể hiện khác rõ trong các di tích và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Lạng Sơn. Biểu hiện rõ nhất của đặc điểm này là ở chỗ hầu hết các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo đều phối thờ hoặc kết hợp nhiều đối tượng thờ: Phật, Thánh, Mẫu... trong cùng một không gian nhất định theo thể thức như: “Tiền Phật, hậu Thánh”, “Tiền Thánh hậu Phật”.

Song song với đó các lễ hội truyền thống; các nghi thức nghi lễ, các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống...gắn liền các lớp tín ngưỡng phong phú, đa dạng từ tín ngưỡng sùng bái/tôn sùng tự nhiên; sùng bái/tôn sùng linh vật, linh thú, động vật; sùng bái/thờ cúng tổ tiên, tổ nghề; tín ngưỡng phồn thực tôn sùng/sùng bái sự sinh sản; tín ngưỡng thờ Mẫu, tôn sùng Mẫu, các nữ thần, tứ mẫu; tín ngưỡng thờ/tôn sùng danh nhân, anh hùng dân tộc, người có công với quê hương đất nước với những con người đã trở nên bất tử, còn vang danh muôn đời ở hậu thế như: Ngô Thì Sỹ, Đại Huề, Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Tri…và các văn nhân, võ tướng khác.

Tất cả đã tạo nên một một xứ Lạng ngày nay với bề dày lịch sử văn hóa truyền thống lâu đời, hiện hữu và tiềm ẩn các giá trị văn hóa hết sức phong phú và đa dạng về cả giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể; mang đậm nét đặc trưng riêng được coi là một trong những tiểu vùng văn hóa tiêu biểu của vùng Đông Bắc nói riêng và cả nước nói chung.Không chỉ có giá trị trong công tác giáo dục tri thức, hình thành nhân cách con người nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của tỉnh đã và đang phát huy vai trò, tiềm năng, thế mạnh của mình trong việc quảng bá hình ảnh quê hương Xứ Lạng, phát triển kinh tế du lịch, thu hút du khách, các nhà đầu tư đến Lạng Sơn tìm hiểu khám phá và lựa chọn cơ hội đầu tư.

Tuy nhiên, mặc dù giá trị của hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh của tỉnh đã được nghiên cứu, khẳng định trên nhiều thành tố từ giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, nghệ thuật quân sự đến giá trị về địa chất, địa mạo, không gian, cảnh quan...Nhưng cùng với thời gian và khí hậu khắc nghiệt, cùng sự mất cân bằng, thiếu hài hòa, đồng bộ và những ảnh hưởng, tác động, khó khăn thách thức giữa bảo tồn di sản và khai thác phát triển du lịch - dịch vụ; kinh tế - xã hội. Đặc biệt là việc thiếu hành lang, cơ sở pháp lý, định hướng, hoạch định công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa mang tính vĩ mô, chiến lược lâu dài đề ra quan điểm, phương hướng, lộ trình, phương thức triển khai thực hiện để hiện thực hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước từ đó tác động đến vị trí, vai trò, mục tiêu, bản chất trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, cùng nhận thức còn hạn chế của một bộ phận nhân dân nên đã làm cho hệ thống di tích của tỉnh dần bị hư hỏng, xuống cấp, đứng trước những nguy cơ bị xâm hại bởi yếu tố môi trường, khí hậu cũng như các tác nhân xã hội khác làm mất đi đặc trưng, giá trị vốn có của di sản.

Trước thực trạng đó, việc xây dựng, phê duyệt, ban hành đề án“Bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2021 - 2030”là vô cùng cần thiết và mang tính chiến lược lâu dài nhằm nâng cao vai trò của nhà nước trong công tác bảo tồn di sản văn hóa ở Lạng Sơn. Nội dung của Đề án phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như các nhiệm vụ trọng tâm trong bảo tồn và phát triển văn hóa của tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn 2021 - 2030. Kết quả của đề án sẽ là cơ sở khoa học quan trọng cho việc xây dựng các kế hoạch, nhiệm vụ trùng tu, tôn tạo các di tích và các dự án quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ cho các khu di tích, cụm di tích trọng điểm của tỉnh Lạng Sơn trong những năm tiếp theo.Qua đó, góp phần khai thác, phát huy hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của hệ thống di tích trên địa bàn tỉnh, thúc đầy phát triển du lịch, dịch vụ và kinh tế - xã hội cho địa phương./.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Bảng phân bố di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Phụ lục 2: Bảng phân bố số lượng các loại hình di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Phụ lục 3: Số lượng các loại hình di tích chia theo chức năng

Phụ lục 4: Phân bố số lượng các loại hình di tích theo chức năng trên địa bàn từng huyện, thành phố của tỉnh Lạng Sơn

Phụ lục 5: Tình trạng xếp hạng di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Phụ lục 6: Danh mục thống kê các di tích đã xếp hạng và nằm trong danh mục kiểm kê trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Phụ lục 7, 8: Tình trạng kỹ thuật của di tích kiến trúc đình, đền/miếu/nghè, chùa trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Phụ lục 9: Tình trạng bảo tồn yếu tố gốc của các di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Phụ lục 10:Tình trạng bảo tồn yếu tố gốc của các loại hình di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Phụ lục 11: Danh sách di tích khảo cổ học trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Phụ lục 12: Bảng Thống kê bia đá tại các di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Phụ lục 13: Bảng Thống kê sắc phong tại các di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Phụ lục 14: Thực trạng quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ, cấp quyền sử dụng đất cho di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Phụ lục 15: Thực trạng xâm phạm, lấn chiếm di tích tỉnh Lạng Sơn

Phụ lục 16: Thực trạng bảo tồn, tu bổ di tích

Phụ lục 17: Thực trạng sử dụng di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Phụ lục 18: Thực trạng sử dụng của các loại hình di tích

Phụ lục 19: Giải pháp bảo tồn và ưu tiên thứ tự đầu tư đối với di tích thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật và di tích có công trình kiến trúc

Phụ lục 20: Giải pháp bảo tồn đối với các di tích khảo cổ học

Phụ lục 21: Bảng dự kiến nhu cầu kinh phí và lộ trình thực hiện quy hoạch di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2021 - 2030

Phụ lục 22: Bảng dự kiến nhu cầu kinh phí và lộ trình thực hiện khoanh vùng bảo vệ di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2021 - 2030

Phụ lục 23: Bảng dự kiến nhu cầu kinh phí và lộ trình thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2021 - 2030

Phụ lục 24: Bảng dự kiến nhu cầu kinh phí và lộ trình thực hiện tu bổ, tôn tạo di tích trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2021 - 2030

Phụ lục 25: Bảng tổng hợp dự kiến nhu cầu, cơ cấu kinh phí thực hiện Đề án “Bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2021-2030”.

 

 

 



1 Tu bổ, tôn tạo di tích thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật và di tích có kiến trúc 42 lượt di tích; tu bổ tôn tạo di tích thuộc loại hình lịch sử, khảo cổ, danh lam thắng cảnh 04 lượt di tích (chi tiết xem thêm phụ lục 19 và 23).

2 Tu bổ, tôn tạo di tích thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật và di tích có kiến trúc 210  lượt di tích; tu bổ tôn tạo di tích thuộc loại hình lịch sử, khảo cổ, danh lam thắng cảnh 10 lượt di tích (chi tiết xem thêm phụ lục 19 và 23).