Điều 57 Quyết định 603-BLN năm 1963 ban hành quy trình tạm thời về khai thác gỗ của Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp ban hành
Điều 57: -Những cá nhân, tổ chức khai thác tích cực thi hành quy trình này sẽ được khen thưởng thích đáng tuỳ theo thành tích công tác.
Ban hành kèm theo quyết định số 603-B ngày 24 tháng 8 năm 1963
Quyết định 603-BLN năm 1963 ban hành quy trình tạm thời về khai thác gỗ của Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp ban hành
- Số hiệu: 603-BLN
- Loại văn bản: Quyết định
- Ngày ban hành: 24/08/1963
- Nơi ban hành: Quốc hội
- Người ký: Nguyễn Tạo
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 33
- Ngày hiệu lực: 08/09/1963
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
MỤC LỤC VĂN BẢN
- Điều 1. Nay ban hành kèm theo quyết định này bản “quy trình tạm thời về khai thác gỗ” áp dụng cho tất cả các khu rừng của Nhà nước mở cho khai thác.
- Điều 2. Các ông Cục trưởng cục Khai thác, trưởng ty lâm nghiệp, Giám đốc lâm trường trực thuộc Tổng Cục lâm nghiệp chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
- Điều 3. Căn cứ vào điều kiện thiên nhiên, tình hình rừng và kỹ thuật lâm nghiệp nước ta hiện nay, tạm thời quy định áp dụng hai phương thức khai thác là chặt trắng và chặt chọn.
- Điều 4. Chặt trắng áp dụng chủ yếu cho những rừng nghèo gỗ cần chặt hết cây để trồng lại rừng. Có thể áp dụng chặt trắng cho một số rừng cây đặc sản lấy tái sinh nhân tạo là chủ yếu.
- Điều 5. Chặt chọn áp dụng cho những rừng còn tương đối nhiều gỗ, phải bãi cây để giữ lại một số loại chủ yếu đủ tiêu chuẩn làm cây gieo giống, loại trừ những cây sâu bệnh, cong queo, nhằm đảm bảo yêu cầu tái sinh rừng tốt và cải thiện tổ thành của rừng. Sản lượng khai thác không được quá 30% trữ lượng của rừng. Đối với những rừng quá già tỷ lệ cây thành thục nhiều, hoặc trường hợp đặc biệt thì sản lượng khai thác có thể tăng thêm sau khi được duyệt.
- Điều 6. Sản lượng khai thác hàng năm của các khu rừng không được vượt quá sản lượng khai thác đã tính toán và đã được duyệt. Trường hợp cá biệt tính toán chưa sát hoặc để đáp ứng nhu cầu đột xuất về gỗ cần phải khai thác vượt quá sản lượng đã được duyệt thì phải báo cáo và được Tổng Cục lâm nghiệp cho phép.
- Điều 7. Theo nguyên tắc thì chỉ được đốn chặt rừng khi đã đến tuổi khai thác. Trong điều kiện nay chưa định được tuổi khai thác cho từng loại cây và chưa quy hoạch được toàn bộ rừng thì tạm thời quy định như sau:
- Điều 8. Các khu rừng giao cho lâm trường khai thác phải có quy hoạch và phải được khai thác theo đúng bản quy hoạch đã xây dựng cho khu rừng đó.
- Điều 9. Ở những khu rừng đã có quy hoạch chính thức thì việc khai thác phải theo đúng quy hoạch chính thức.
- Điều 10. Quyền hạn duyệt các quy hoạch tạm thời quy định như sau:
- Điều 11. Cấp có thẩm quyền duyệt quy hoạch tạm thời có thể cho phép tiến hành khai thác trước khi hoàn thành quy hoạch trong một thời gian không quá ba tháng.
- Điều 12. Trước ngày 31 tháng 5 mỗi năm, các lâm trường, công trường phải làm xong kế hoạch khai thác của năm sau và đề nghị giao khoảnh khai thác. Việc giao khoảnh khai thác cho năm sau phải làm xong chậm nhất là ngày 30 tháng 6 năm trước.
- Điều 13. Nơi đã có quy hoạch chính thức hay tạm thời thì theo đúng quy hoạch và kế hoạch khai thác, trưởng hạt hoặc trạm theo chỉ thị của trưởng ty lâm nghiệp đứng ra giao khoảnh khai thác cho lâm trường quy mô nhỏ và công trường trong phạm vi ty. Giám đốc lâm trường quy mô lớn và trung bình uỷ nhiệm cho cán bộ phụ trách quản lý rừng giao khoảnh khai thác hàng năm cho bộ phận khai thác.
- Điều 14. Khi cắt khoảnh khai thác để giao, cán bộ giao khoảnh phải thực hiện các việc sau đây:
- Điều 15. Để định giá trị cho các khoảnh đã giao, cán bộ giao khoảnh phải tiến hành điều tra trữ lượng, do đường kính ngang ngực của từng cây bắt đầu từ cây có đường kính 12 cm trở lên, phân thành từng cấp đường kính, tính thể tích gổ trên khoảnh khai thác. Khi đo đếm cây không được dùng dao, rìu vạc vỏ cây để đánh dấu.
- Điều 16. Khi giao nhận khoảnh khai thác, cán bộ giao khoảnh và đại diện bộ phận khai thác phải đến tại chỗ xác nhận:
- Điều 17. Khi giao khoảnh khai thác, cán bộ giao khoảnh cấp giấy phép khai thác, và chuyển hồ sơ có liên quan đến khoảnh khai thác cho bộ phận khai thác. Bắt đầu từ khi nhận khoảnh, bộ phận khai thác có thể tiến hành các công tác chuẩn bị quy định dưới đây:
- Điều 18. Khi đã tiếp nhận khoảnh khai thác, các công tác chuẩn bị sau đây phải được tiến hành.
- Điều 19. Việc chuẩn bị khai thác là trách nhiệm của:
- Điều 20. Trừ trường hợp chặt trắng, tất cả các khoảnh khai thác trước khi giao nhận phải bài cây. Những cây chừa lại làm giống phải đánh dấu riêng bằng sơn hoặc bằng một phương pháp nào không làm hại đến thân cây.
- Điều 21. Bộ phận quản lý rừng chịu trách nhiệm bài cây. Cán bộ kỹ thuật quản lý rừng phải trực tiếp đến tại chỗ tiến hành bài cây. Bộ phận khai thác tại các cơ sở sản xuất nơi đó có trách nhiệm cung cấp nhân lực, phương tiện cần thiết cho việc bài cây.
- Điều 22. Kỳ hạn khai thác là một năm kể từ ngày 1 tháng giêng đến ngày 31 tháng 12 của năm được khai thác.
- Điều 23. Kỳ hạn phải vận xuất hết gỗ đã chặt ra khỏi khoảnh khai thác là ngày 15 tháng giêng năm sau. Riêng từ Thanh Hoá trở vào, ở những nơi tái sinh rừng bằng trồng cây nếu vụ thu là vụ trồng chủ yếu thì kỳ hạn vận xuất có thể gia hạn thêm…
- Điều 24. Trong các lâm trường, công trường phải thực hiện nguyên tắc khai thác đến đâu tu bổ đến đấy.
- Điều 25. Trước khi khai thác từ 3 đến 6 tháng phải chặt phát dây leo, bụi rậm trên toàn diện tích nếu khai thác theo phương thức chặt trắng hoặc chặt chọn lấy ra trên 20 mét khối kể cả cành ngọn trên 1 ha. Nếu chặt chọn lấy dưới 20 mét khối kể cả cành ngọn trên 1 ha thì chỉ phải phát dây leo, cây bụi chung quanh gốc cây sẽ chặt trong một phạm vi rộng ít nhất bằng tán lá cây đó, ngoài ra sẽ luỗng phát theo từng ô đường kính từ 5 đến 10m rải rác trên diện tích khai thác gần nơi có cây gieo hạt.
- Điều 26. Trừ những rừng có mục đích kinh doanh về tre, nứa, phải diệt trừ nứa trong những rừng kinh doanh gỗ.
- Điều 27. Sau khi đã tận dụng làm gỗ, củi, đốt than, cành nhánh nhỏ bỏ lại rừng phải thu dọn để đảm bảo tái sinh thiên nhiên.
- Điều 28. Phải tra dậm ở những rừng sau khi khai thác có nhiều khoảng trống lớn hơn trên 100 mét vuông hoặc rừng thiếu cây gieo giống tự nhiên.
- Điều 29. Bộ phận quản lý rừng có nhiệm vụ kiểm tra công việc khai thác, tu bổ và bảo vệ rừng của bộ phận khai thác trong quá trình khai thác. Nếu thấy bộ phận khai thác có những việc làm vi phạm quy trình, bộ phận quản lý rừng cần nhận xét kịp thời, yêu cầu bộ phận khai thác sửa chữa. Nếu đã được báo rồi mà bộ phận khai thác vẫn cố ý không sửa chữa, thì bộ phận quản lý rừng sẽ báo cáo lên cấp trên và đề nghị cách xử lý thích đáng.
- Điều 30. Trong vòng một tháng sau khi chặt hạ vận xuất xong trên một khoảnh, bộ phận khai thác phải tiến hành kiểm tra lại toàn bộ diện tích và bổ khuyết những thiếu sót nếu có, sau đó báo cáo cho bộ phận quản lý rừng biết và hai bên cùng nhay định ngày kiểm tra.
- Điều 31. Các khu rừng giao cho các tổ sơn tràng khai thác phải có quy hoạch sơ bộ và phân thành khoảnh khai thác có ranh giới rõ ràng. Trường hợp không có điều kiện để tổ chức thành khoảnh khai thác, thì phân cho mỗi tổ sơn tràng một khu vực nhất định để khai thác.
- Điều 32. Trong trường hợp rừng chưa được quy hoạch sơ bộ thì dựa vào đặc điểm thiên nhiên của địa hình (đường dông, khe suối, đường cái) để định ranh giới khu vực khai thác phân cho từng tổ sơn tràng. Cần chú ý chọn thế nào để gỗ khai thác trong một khu vực có thể đem ra tập trung tại một số bãi gỗ nhất định, không lẫn với gỗ khai thác ở khu vực bên cạnh.
- Điều 33. Khi khu rừng đã có quy hoạch sơ bộ và phân khoảnh cho khai thác thì việc giao khoảnh khai thác cho tổ sơn tràng cũng theo như thủ tục áp dụng cho các lâm trường, công trường.
- Điều 34. Cán bộ của bộ phận quản lý rừng có trách nhiệm đến tại chỗ để giao khu vực khai thác cho từng tổ sơn tràng, đồng thời cấp giấy phép khai thác cho mỗi tổ trong đó có ghi rõ ranh giới khu vực và địa điểm đã chỉ định làm bãi gỗ.
- Điều 35. Tuỳ từng trường hợp, bộ phận quản lý rừng sẽ quy định có bài cây hay không. Nếu có bài cây thì chỉ được chặt những cây đã đánh dấu cho chặt. Nếu không có bài cây thì chỉ được chặt những cây đủ kích thước tối thiểu đã được quy định ở điểm 2 điều 7.
- Điều 36. Không được khai thác ra ngoài phạm vi đã được phép.
- Điều 39. Để tiết kiệm gỗ, gốc cây phải chặt thấp. Những cây còn sức đâm chồi, phải sửa gốc.
- Điều 40. Không được chặt cây non. Phải bảo vệ và tránh làm gẫy cây con. Trong khi chặt hạ phải ngã cây theo chiếu ít cây con.
- Điều 41. Trong việc cắt khúc phải chấp hành nghiêm chỉnh chế độ sử dụng gỗ:
- Điều 42. Phải triệt để tận dụng cành ngọn. Tuỳ điều kiện tiêu thụ, vận xuất, vận chuyển từng nơi, lâm trường đề nghị việc phân loại các khu vực về phương diện tận dụng gỗ trình Tổng Cục lâm nghiệp duyệt ( thông qua Uỷ ban hành chính tỉnh). Mức độ sử dụng cành ngọn trong các khu vực quy định như sau:
- Điều 43. Để tiết kiệm gỗ, cần cải tiến lối đẽo bịn.
- Điều 44. Tổ trưởng sản xuất, tổ trưởng sơn tràng phải đích thân đến hướng dẫn việc cắt khúc và đích thân chịu trách nhiệm về việc chấp hành chế độ sử dụng gỗ trong khi cắt khúc.
- Điều 45. Lao gỗ phải theo những quy định sau đây:
- Điều 46. Chỉ được kéo lết ở những nơi dốc nhiều, đường lầy, khai thác hết sức phân tán và chỉ được áp dụng cho các cự ly ngắn không quá một giới hạn sẽ quy định riêng cho từng địa phương.
- Điều 47. Gỗ, củi đã khai thác phải tập trung ở bãi gỗ nhất định và phải:
- Điều 48. Gỗ mang tới bãi tập trung phải đo và đánh dấu trước khi vận chuyển đi nơi khác. Trên cây gỗ phải ghi rõ bằng dấu chìm hoặc một phương pháp khác cho rõ ràng và bền lâu những ký hiệu sau đây:
- Điều 49. Phải đặt kế hoạch vận chuyển gỗ cho khớp với kế hoạch khai thác. Trước mùa, thuận lợi cho việc vận chuyển phải chuẩn bị mọi phương tiện và lực lượng để tranh thủ thời vụ. Gỗ không được để ở các bãi tập trung quá một thời hạn là một tháng.
- Điều 50. Tìm mọi biện pháp để vận chuyển bằng đường thuỷ vì cước phí rẻ. Chỉ những trường hợp sau đây mới được vận chuyển bằng đường bộ.
- Điều 51. Để sử dụng các phương tiện vận chuyển một cách hợp lý; nay quy định những trường hợp được dùng ô-tô hoặc các phương tiện cơ giới để vận chuyển gỗ như sau:
- Điều 52. Các tổ chức khai thác vận chuyển và phân phối gỗ phải chấp hành nghiêm chỉnh chế độ bảo quản gỗ chống mối mọt, mục và nứt nẻ.
- Điều 53. Các kho bến phải có kế hoạch và chuẩn bị đầy đủ phương tiện để bảo quản gỗ chống bão lũ.
- Điều 54. Để thực hiện được đúng những mục đích nói ở điều 1, quy trình này cần được phổ biến sâu rộng tới toàn thể cán bộ, công nhân, sơn tràng và phổ biến rộng rãi trong nhân dân, ở những nơi có rừng. Trong chương trình học của các trường lâm nghiệp cao, trung, sơ cấp, các lớp huấn luyện ngắn ngày cho cán bộ công nhân khai thác phải đưa bản quy trình này vào chương trình giảng dạy và huấn luyện.
- Điều 55. Giám đốc lâm trường, Quản đốc công trường và cán bộ phụ trách bộ phận khai thác chịu trách nhiệm về toàn bộ công việc khai thác của đơn vị phụ trách và về những vụ vi phạm quy trình của công nhân trong đơn vị mình.
- Điều 56. Những vụ vi phạm quy trình này sẽ tuỳ từng trường hợp mà xử lý theo điều 13 “điều lệ tạm thời khai thác gỗ củi” ban hành kèm theo Nghị định số 596–TTg ngày 3-10-1955 của Thủ tướng Chính phủ hoặc điều 14 Nghị định 10–CP ngày 26-4-1960 của Hội đồng Chính phủ quy định chế độ tiết kiệm gỗ.
- Điều 57. Những cá nhân, tổ chức khai thác tích cực thi hành quy trình này sẽ được khen thưởng thích đáng tuỳ theo thành tích công tác.