Hệ thống pháp luật

Chương 3 Quyết định 462-BYT/QĐ năm 1960 ban hành các bảng thuốc độc A, B và một quy chế quản lý thuốc độc của Bộ trưởng Bộ Y tế

Chương 3:

ĐIỀU KHOẢN CHUNG

Điều 10. - Những điều khoản này chỉ áp dụng cho những chất độc bảng A và B thuốc độc Đông và Tây dùng trong việc điều trị.

Điều 11. - Tất cả những dạng thuốc có chất độc bảng A và B cùng theo một chế độ chung như những thuốc nguyên chất trừ những loại pha chế loãng đã được quy định là miễn độc thì được miễn xếp vào bảng A và B.

Mục A - Chế độ quản lý

Điều 12. - Ở các xí nghiệp dược phẩm, Quốc doanh Y- Dược phẩm, cơ sở điều trị, các cửa hàng thuốc tây, các dược sĩ phải trực tiếp quản lý thuốc độc bảng A và B. Trường hợp dược sĩ đi vắng, thủ trưởng đơn vị có thể chỉ định một dược tá tạm thay dưới sự trách nhiệm trực tiếp của thủ trưởng chuyên môn hoặc người được ủy nhiệm khi thủ trưởng đi vắng. Trong thời gian tạm thay, khi cân thuốc độc A, B cần có thêm một cán bộ chuyên môn khác cùng kiểm soát lại.

Trường hợp những đơn vị không có dược sĩ thì phải chỉ định một dược tá có khả năng để chuyên trách tủ thuốc độc; dược tá này chịu trách nhiệm chính về việc xuất nhập, thừa thiếu sổ sách chứng từ của thuốc. Thủ trưởng chuyên môn (bác sĩ, hoặc y sĩ) của đơn vị phải giúp đỡ dược tá đó trong công tác và cùng trực tiếp chịu trách nhiệm về việc quản lý thuốc độc trong đó trách nhiệm chính của Thủ trưởng là xét duyệt cấp phát thuốc độc để sử dụng cho đúng.

Điều 13. – Đối với những đơn vị không có dược sĩ thì cấm không được pha chế các thuốc có chất độc A, B.

Điều 14. – Các thuốc độc A, B không trực tiếp dùng vào việc điều trị như thuốc hóa nghiệm vi trùng, v.v… thì giữ ở kho và không để ở phòng bào chế.

Điều 15. - Tủ thuốc trực nhật ở các bệnh viện chỉ được để một số tối thiểu thuốc thành phẩm nhất định. Tủ này mỗi khi mở xong phải khóa và niêm lại.

Điều 16. Ở các phòng bào chế, kho thuốc, phòng trực, phòng làm việc của các y, bác sĩ phải treo một bảng hướng dẫn phương pháp chống ngộ độc với những thuốc độc A, B thường gặp.

Điều 17. - Về đông dược thì các lương y có kê đơn kiêm bán thuốc hoặc các người phụ trách chuyên môn các cửa hàng bán thuốc Nam thuốc Bắc chịu trách nhiệm quản lý thuốc độc. Trường hợp không có cán bộ chuyên môn phụ trách cửa hàng thì phải cử người có chuyên môn khá để chuyên trách về thuốc độc.

Mục B. - Chế độ bảo quản và sử dụng

Điều 18.

a) Trên các chai lọ đựng các thuốc độc bảng A và B phải có nhãn như đã quy định cho từng bảng (chương II quy định về nhãn). Đối với những chai lọ đựng thuốc độc A, B nguyên chất ngoài việc ghi xuất nhập ở sổ, còn phải dán thêm một tờ giấy ở ngoài lọ để mỗi lần xuất nhập thuốc thì ghi ngay lên để cho dễ theo dõi.

b) Trong tủ đựng các thuốc độc A, B phải treo một bảng kê các vị thuốc có trong tủ theo thứ tự a, b, c. Trong tủ này cũng như ở phòng pha chế cần có bảng liều tối đa.

c) Khi cân, đong để pha chế thì dược sĩ hoặc người được ủy nhiệm phải đọc kỹ tên thuốc ít nhất là 2 lần trước và sau khi đong hoặc cân, và phải kiểm tra lại quả cân.

d) Đối với thuốc mất nhãn hoặc đã biến chất thì phải xác định lại bằng phương pháp khoa học rồi mới được dùng.

Điều 19. – Nhận thuốc độc A, B cùng một lúc với nhiều thuốc khác thì đơn vị phải lập Hội đồng kiểm kê; nếu số lượng thuốc độc ít nhất thì phải có 2 người cùng kiểm kê.

Nếu khi kiểm kê có thừa, thiếu thuốc độc A, B thì phải ghi số lượng đó vào biên bản toàn bằng chữ, tránh viết bằng con số và gửi kèm theo biên bản các phiếu đóng gói trong hòm thuốc về đơn vị đã cấp để tra cứu.

Lúc nhận thuốc độc A, B về, nếu những chai lọ lẻ hoặc gói lẻ chưa kịp kiểm kê thì cũng phải nhập vào tủ thuốc độc hay khu vực quy định chứ không để lẫn lộn với các thuốc khác.

Điều 20. – Các dụng cụ và chai lọ đựng thuốc độc A, B (Đông và Tây) không được dùng để đựng thức ăn.

Mục C - Chế độ kê đơn và cấp phát

Điều 21. - Được kê đơn thuốc độc A, B phải là bác sĩ, y sĩ làm việc với Nhà nước hoặc được phép hành nghề tư. Đối với thuốc độc A, B cũng như thuốc thường Đông và Tây trên đơn thuốc, người kê phải ghi rõ; cách dùng thuốc, ngày, tháng, tên, địa chỉ của người kê đơn và tên, tuổi, địa chỉ của bệnh nhân. Tên thuốc, tên bệnh phải dùng danh từ thường dùng, không dùng danh từ nước ngoài khi ta đã có danh từ thay thế. Chữ viết phải rõ ràng, dễ đọc, và nếu có liều lượng thuốc độc bảng A thì phải viết cả chữ.

Nếu là thuốc dùng bằng giọt, thì số thuốc phải bằng chữ La mã, và chữ giọt phải viết cả chữ, không được viết tắt là “g”. Đơn không được tẩy xóa, nếu có sửa chữa thì người kê đơn phải xác nhận và ký tên ở dưới.

Điều 22. – Các cửa hàng hoặc đơn vị cấp phát chỉ được bán hoặc cấp phát các thuốc độc A, B nguyên chất hay thành phẩm khi có đơn hợp lệ (như điều 15) của các bác sĩ, y sĩ; nếu là các ngành mua các thuốc đó thì dự trù phải hợp lệ như sau, cửa hàng mới được phép bán: các cơ quan, trường học, xí nghiệp, công, nông, lâm trường lớn, vv… của Trung ương hoặc địa phương muốn mua các thuốc độc A, B nguyên chất hay thành phẩm (không kể thứ đã miễn độc) thì phải làm thành một bản dự trù riêng và xin duyệt tại các Sở, Ty Y tế, nếu là những đơn vị thuộc quyền quản lý của huyện, thì dự trù đó phải được phòng Y tế duyệt. Các bệnh viện, khu điều dưỡng, v.v… thuộc quyền quản lý của Sở, Ty tế nếu muốn mua thuốc độc nói trên tại Quốc doanh y - dược phẩm, thì dự trù đó phải được Sở, Ty y tế duyệt mới được phép mua và Quốc doanh y - dược phẩm mới được bán.

Các Viện nghiên cứu và bệnh viện trung ương trực thuộc Bộ Y tế muốn mua thuốc độc A, B nguyên chất và thành phẩm thì phải làm dự trù riêng và xin duyệt tại Bộ Y tế.

Điều 23. – Đi nhận thuốc độc A, B phải là cán bộ chuyên môn và phải mang theo đủ giấy tờ cần thiết như: giấy ủy nhiệm nhận thuốc độc và dự trù nói trên của đơn vị xin cấp phát và phải chịu trách nhiệm về thuốc đó từ khi nhận cho đến khi nhập kho.

Điều 24. – Khi pha chế theo đơn y, bác sĩ dù là thuốc độc A, B hay là thuốc thường, các cửa hàng phải vào sổ pha chế số thứ tự và ngày pha chế đơn đó; người pha chế phải ghi số, ngày đó và đóng dấu, ký tên lên đơn hoặc là bản sao đơn (nếu là thuốc gây nghiện bảng A) trước khi trả lại cho khách hàng.

Điều 25. – Các chứng từ trên phải lưu trữ trong 3 năm kể từ tháng kê đơn.

Mục D - Chế độ đóng gói

Điều 26. - Việc cấp phát thuốc độc bảng A và B, dược sĩ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Trước khi cấp phát, thuốc độc phải được đóng gói cẩn thận, chai lọ có dán nhãn đúng quy cách, nút gắn xi có in dấu chìm, hộp phải có băng bảo đảm in dấu của các cơ quan cấp phát thuốc.

Quyết định 462-BYT/QĐ năm 1960 ban hành các bảng thuốc độc A, B và một quy chế quản lý thuốc độc của Bộ trưởng Bộ Y tế

  • Số hiệu: 462-BYT/QĐ
  • Loại văn bản: Quyết định
  • Ngày ban hành: 30/08/1960
  • Nơi ban hành: Quốc hội
  • Người ký: Phạm Ngọc Thạch
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Số 45
  • Ngày hiệu lực: 30/08/1960
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
MỤC LỤC VĂN BẢN
MỤC LỤC VĂN BẢN
HIỂN THỊ DANH SÁCH