Hệ thống pháp luật

Chương 1 Nghị định 175-CP năm 1961 ban hành điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước do Hội đồng Chính phủ ban hành

Chương 1:

NGUYÊN TẮC CHUNG

Điều 1. – Kế toán là công việc tính toán và ghi chép bằng con số để phản ảnh, theo dõi, phân tích tình hình và kết quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh, sử dụng vốn của Nhà nước dưới các hình thức tiền, hiện vật và thời gian lao động, chủ yếu là dưới hình thức tiền.

Do đó, kế toán có tác dụng rất lớn đối với việc kế hoạch hóa và quản lý nền kinh tế quốc dân; kế toán là công việc rất cần thiết để bảo đảm sự phát triển không ngừng của nền kinh tế tài chính xã hội chủ nghĩa.

Điều 2. – Nhiệm vụ của kế toán là:

1. Tính toán, ghi chép, phản ảnh chính xác số thực có, tình hình luân chuyển, tình hình giữ gìn, sử dụng các loại vật tư và vốn bằng tiền.

2. Thông qua việc tính toán và ghi sổ kế toán mà kiểm tra tình hình chấp hành ngân sách, kế hoạch sản xuất, kế hoạch thu chi tài vụ, kỷ luật thu nộp, thanh toán, kiểm tra việc giữ gìn và sử dụng các loại vật tư và vốn bằng tiền; phát hiện và ngăn ngừa kịp thời những hành động tham ô lãng phí, vi phạm chính sách, chế độ, kỷ luật kinh tế tài chính.

3. Cung cấp các số liệu, tài liệu giúp cho việc kiểm tra và phân tích tình hình tài vụ, phục vụ cho việc tăng cường quản lý kinh tế tài chính, phục vụ cho công tác lập và theo dõi thực hiện các kế hoạch sản xuất và thu chi tài vụ, phục vụ cho công tác thống kê.

Ngoài những nhệm vụ chung nói trên,

Kế toán ở các đơn vị thuộc ngành quản lý xí nghiệp có thêm các nhiệm vụ:

- Tính toán, phản ảnh chính xác giá thành sản phẩm, phí lưu thông theo đúng chế độ đã quy định.

- Tính toán, phản ảnh chính xác kết quả tài vụ.

- Tính toán chính xác và đôn đốc thanh toán kịp thời các khoản lợi nhuận, khấu hao và các khoản phải thu, nộp khác cho ngân sách Nhà nước.

- Thông qua việc tính toán, ghi sổ mà kiểm tra tình hình chấp hành chế độ hạch toán kinh tế.

Kế toán ở các đơn vị thu chi dự toán có thêm các nhiệm vụ:

- Ghi chép, phản ảnh chính xác số vốn được Nhà nước cấp, tình hình sử dụng vốn Nhà nước.

- Thông qua việc tính toán và ghi sổ mà kiểm tra tình hình chấp hành dự toán.

- Ghi chép, phản ảnh chính xác và đôn đốc nộp đúng thời hạn các số thu vào ngân sách Nhà nước.

Điều 3. – Bất kỳ cơ quan, tổ chức nào có hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc sử dụng vốn của Nhà nước đều phải ghi chép kế toán. Những cơ quan, tổ chức được coi là đơn vị kế toán phải tổ chức bộ máy kế toán theo đúng những điều quy định trong điều lệ này.

Những đơn vị kế toán là:

- Những xí nghiệp, cơ quan, tổ chức thi hành chế độ hạch toán kinh tế hoặc chưa thi hành chế độ hạch toán kinh tế nhưng được Nhà nước cấp vốn để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân;

- Những đơn vị dự toán được Nhà nước cấp vốn để chi tiêu về hành chính sự nghiệp;

- Bộ Tài chính là đơn vị kế toán tổng dự toán trung ương, các cơ quan Tài chính khu, tỉnh, thành phố là đơn vị kế toán tổng dự toán địa phương.

Đơn vị kế toán cấp cơ sở gồm:

- Thuộc về ngành quản lý xí nghiệp: các xí nghiệp, công trường, nông trường quốc doanh, các công ty, các cửa hàng v.v… đã thi hành chế độ hạch toán kinh tế hoặc chưa thi hành chế độ hạch toán kinh tế nhưng được Nhà nước cấp vốn để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân.

- Thuộc về ngành quản lý hành chính sự nghiệp: các cơ quan, các tổ chức có sử dụng vốn của Nhà nước ở cơ sở (như đã quy định trong điều lệ về quản lý kinh phí hành chính, sự nghiệp).

Đơn vị kế toán cấp chủ quản gồm;

- Thuộc về ngành quản lý xí nghiệp: các Bộ và các cơ quan ngang Bộ, các Ty, Sở chuyên môn thuộc các ngành quản lý xí nghiệp.

- Thuộc về ngành quản lý hành chính sự nghiệp: ở trung ương là các đơn vị dự toán cấp I như các Bộ và các cơ quan ngang Bộ, ở địa phương là các Ủy ban hành chính khu, tỉnh, huyện, các Ty, Sở chuyên môn, các cơ quan Công an, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân khu, tỉnh, huyện.

Ngoài những đơn vị cấp cơ sở, dưới đơn vị kế toán cấp chủ quản, những ngành nào có những tổ chức như Cục, Tổng cục trực thuộc Bộ hoặc các đơn vị trung gian được cấp vốn để thực hiện kế hoạch kinh tế tài chính, thì những cơ quan, tổ chức này cũng coi là một đơn vị kế toán, và gọi là đơn vị kế toán cấp trung gian.

Dưới đơn vị kế toán cấp cơ sở nếu có những tổ chức, những bộ phận trực thuộc, thì các bộ phận này phải ghi chép kế toán theo yêu cầu của đơn vị kế toán cấp cơ sở nhưng không phải là một đơn vị kế toán.

Điều 4. – Các đơn vị kế toán phải tùy yêu cầu của công tác mà tổ chức bộ máy kế toán: tổ, phòng hoặc vụ kế toán. Tổ chức kế toán chịu trách nhiệm tiến hành công việc kế toán trong đơn vị, chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ và kiểm tra công việc kế toán của các đơn vị kế toán cấp dưới và các bộ phận thu mua, sản xuất, tiêu thụ, kho, quỹ v.v… trong đơn vị kế toán.

Để đảm bảo công tác kế toán phát huy được đầy đủ tác dụng của nó, tổ, phòng, vụ kế toán nên xây dựng thành tổ chức riêng biệt của đơn vị kế toán và không kiêm nhiệm công tác tài vụ, trừ trường hợp tình hình hoạt động chưa đòi hỏi phải có một tổ chức riêng phụ trách về tài vụ, thì tổ chức kế toán có thể kiêm nhiệm công tác tài vụ và gọi là tổ, phòng hoặc vụ kế toán tài vụ.

Điều 5. – Công tác kế toán phải bảo đảm yêu cầu: chính xác, kịp thời, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu.

Phương pháp ghi sổ kế toán áp dụng chung cho các ngành, các cấp là phương pháp ghi sổ kép. Tuy nhiên đối với một số đơn vị mà hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc tài vụ ít, quy mô nhỏ, yêu cầu quản lý đơn giản, thì Bộ chủ quản có thể cho phép dùng phương pháp ghi sổ đơn.

Điều 6. – Mọi hoạt động có liên quan đến tiền, đến tài sản của tất cả các bộ phận trong đơn vị kế toán đều phải có chứng từ hợp lệ nghĩa là đúng với sự thực, đúng với thể lệ và chế độ của Nhà nước. Các chứng từ đều phải qua tổ chức kế toán để kiểm tra và ghi sổ.

Mọi khoản ghi trong sổ sách kế toán bắt buộc phải có chứng từ gốc xác minh.

Mọi lệnh thu chi tiền và mọi lệnh xuất nhập vật tư ngoài kế hoạch của đơn vị đều phải có chữ ký của thủ trưởng đơn vị đều phải có chữ ký của thủ trưởng đơn vị (hoặc người được ủy quyền bằng văn bản) và của kế toán trưởng (quy định ở chương III). Các báo biểu kế toán, các bản kê số liệu và các bảng trích lục sổ sách kế toán, ngoài chữ ký của thủ trưởng đơn vị phải có chữ ký của kế toán trưởng. Bản sao các báo biểu kế toán và bản sao các tài liệu khác về kế toán phải do kế toán trưởng kiểm tra và ký. Thiếu chữ ký của kế toán trưởng, các tài liệu nói trên đều coi là không có giá trị và không được dùng.

Điều 7. – Tất cả các bộ phận và cán bộ, công nhân viên trong đơn vị kế toán, có liên quan đến công việc kế toán đều có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời cho công việc kế toán những chứng từ, tài liệu giải thích cần thiết giúp cho việc ghi sổ kế toán và lập báo cáo kế toán theo yêu cầu và mẫu quy định của bộ phận kế toán.

Điều 8. – Nền kinh tế quốc dân ngày càng phát triển, yêu cầu và phạm vi công tác kế toán ngày càng mở rộng và phức tạp đòi hỏi năng lực kế toán ngày một cao.

Để đảm bảo cán bộ kế toán có đủ năng lực cần thiết, Bộ Tài chính cùng các Bộ, các cơ quan ngang Bộ…, các Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành, căn cứ vào tính chất quan trọng, quy mô hoạt động và yêu cầu quản lý của từng loại đơn vị kế toán để nghiên cứu tiêu chuẩn chính trị, văn hóa và nghiệp vụ của từng loại cán bộ kế toán trình Thủ tướng Chính phủ xét duyệt.

Các đơn vị kế toán phải bố trí cán bộ có đủ năng lực đúng theo tiêu chuẩn sẽ quy định, tránh đổi cán bộ kế toán làm việc khác, nhằm tạo điều kiện cho cán bộ kế toán tích lũy kinh nghiệm, không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ.

Điều 9. – Cán bộ kế toán tuyệt đối không được kiêm việc giữ quỹ, giữ kho và việc tiếp liệu.

Điều 10. – Mỗi khi thay đổi cán bộ trong bộ máy kế toán phải thực hiện việc bàn giao giữa cán bộ cũ và cán bộ mới: cán bộ cũ phải bàn giao cho cán bộ mới tất cả công việc kế toán bao gồm: sổ sách, chứng từ kế toán và các tài liệu khác, tình hình vào sổ, các công việc đương giải quyết và chưa giải quyết v.v…

Cán bộ mới chịu trách nhiệm về công việc làm của mình kể từ ngày nhận việc. Cán bộ cũ vẫn chịu trách nhiệm về công việc trong thời gian mình phụ trách.

Điều 11. – Bộ Tài chính có trách nhiệm ban hành các chế độ kế toán chung như chế độ kế toán công nghiệp, chế độ kế toán kiến thiết cơ bản, chế độ kế toán cung tiêu, chế độ kế toán vật liệu, chế độ kế toán ngân sách v.v…

Các Bộ chủ quản có trách nhiệm ban hành các chế độ kế toán riêng cho từng ngành: nông trường, thương nghiệp, lâm nghiệp, giao thông vận tải, bưu điện, ngân hàng v.v…, sau khi các chế độ ấy đã được Bộ Tài chính xét duyệt.

Căn cứ vào các chế độ, thể lệ chung của Nhà nước, các Ủy ban hành chính địa phương có thể ban hành các chế độ kế toán thích hợp với tình hình, đặc điểm của địa phương mình, áp dụng trong các xí nghiệp thuộc quyền quản lý của địa phương mình.

Các mẫu báo biểu kế toán của tất cả các chế độ kế toán, khi ban hành phải có sự đồng ý bằng văn bản của Tổng cục Thống kê trung ương.

Điều 12. – Bộ Tài chính có trách nhiệm quy định thống nhất các mẫu sổ sách và chứng từ kế toán dự toán, kế toán hành chính, sự nghiệp.

Các Bộ chủ quản xí nghiệp có trách nhiệm quy định thống nhất các mẫu sổ sách và chứng từ kế toán xí nghiệp thuộc ngành mình và phải được Bộ Tài chính đồng ý trước khi ban hành.

Điều 13. – Mỗi khi thành lập một đơn vị mới về sản xuất, kinh doanh, kiến thiết cơ bản, sự nghiệp hay hành chính, đơn vị mới thành lập phải tổ chức bộ máy kế toán, gồm đủ số cán bộ kế toán tđúng theo tiêu chuẩn quy định, và chuẩn bị đủ sổ sách, giấy in cần thiết rồi mới được nhận vốn và bắt đầu công việc chi tiêu.

Công tác kế toán cấp trên trực tiếp có trách nhiệm giúp đỡ đôn đốc và kiểm tra đơn vị mới thực hiện điều quy định trên.

Điều 14. – Kế toán tiền phải lấy “đồng” làm đơn vị. Ngoại tệ phải quy ra tiền Việt Nam theo giá hối đoái chính thức của Ngân hàng Nhà nước để ghi sổ, đồng thời phải ghi số ngoại tệ trong sổ quỹ.

Điều 15. – Niên độ kế toán bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 đến ngày 31 tháng 12 mỗi năm. Trước khi niên độ kế toán kết thúc, phải chuẩn bị đầy đủ sổ sách và giấy in cho năm tới.

Nghị định 175-CP năm 1961 ban hành điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước do Hội đồng Chính phủ ban hành

  • Số hiệu: 175-CP
  • Loại văn bản: Nghị định
  • Ngày ban hành: 28/10/1961
  • Nơi ban hành: Quốc hội
  • Người ký: Phạm Văn Đồng
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Số 45
  • Ngày hiệu lực: 12/11/1961
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
MỤC LỤC VĂN BẢN
MỤC LỤC VĂN BẢN
HIỂN THỊ DANH SÁCH