Hệ thống pháp luật

BỘ TÀI CHÍNH
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 528/BC-BTC

Hà Nội, ngày 03 tháng 10 năm 2025

 

BÁO CÁO

TÌNH HÌNH PHÂN BỔ, GIẢI NGÂN KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ CÔNG 9 THÁNG NĂM 2025; CÁC KHÓ KHĂN VƯỚNG MẮC ẢNH HƯỞNG ĐẾN TIẾN ĐỘ GIẢI NGÂN VỐN ĐẦU TƯ CÔNG NĂM 2025; GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY GIẢI NGÂN VỐN ĐẦU TƯ CÔNG NĂM 2025
 (Tài liệu phục vụ Phiên họp thường kỳ của Chính phủ tháng 9 năm 2025)

Kính gửi: Chính phủ

Căn cứ chương trình Phiên họp thường kỳ tháng 9 năm 2025 của Chính phủ, trên cơ sở báo cáo của các bộ, cơ quan trung ương, địa phương, Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ tình hình phân bổ, giải ngân kế hoạch đầu tư công 9 tháng năm 2025; Các khó khăn vướng mắc ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân vốn đầu tư công năm 2025; Giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công năm 2025 như sau:

I. TÌNH HÌNH PHÂN BỔ, GIẢI NGÂN KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ CÔNG 9 THÁNG NĂM 2025

1. Kế hoạch đầu tư công nguồn NSNN năm 2025

a) Căn cứ quy định Luật Đầu tư công, Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã giao[1] kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2025 cho các bộ, cơ quan trung ương là 884.590,6 tỷ đồng, bao gồm: vốn NSTW là 408.863,3 tỷ đồng (vốn trong nước là 384.273,9 tỷ đồng[2], vốn nước ngoài là 24.589,3 tỷ đồng) và vốn NSĐP là 475.727,3 tỷ đồng. Trong đó, vốn NSTW bố trí cho dự án, nhiệm vụ thuộc 03 Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) là 24.460,1 tỷ đồng[3]. Cụ thể:

- Kế hoạch đầu tư công giao đầu năm 2025 là 825.922,3 tỷ đồng.

- Kế hoạch đầu tư công vốn NSTW năm 2025 được giao bổ sung là 58.663,3 tỷ đồng. Bao gồm: 2.498,286 tỷ đồng vốn CTMTQG; 56.170 tỷ đồng từ nguồn tăng thu NSTW năm 2024.

b) Kế hoạch vốn cân đối NSĐP năm 2025 các địa phương giao tăng so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (theo số liệu cập nhật đến thời điểm báo cáo) là 163.455,4 tỷ đồng.

c) Kế hoạch vốn các năm trước được phép kéo dài tính đến thời điểm báo cáo là 64.795,8 tỷ đồng; trong đó: NSTW là 37.532,8 tỷ đồng[4], NSĐP là 27.263 tỷ đồng.

Như vậy, tổng kế hoạch giao năm 2025 đến thời điểm báo cáo (kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, kế hoạch vốn cân đối địa phương giao tăng, kế hoạch các năm trước chuyển sang) là 1.112.841,7 tỷ đồng.

2. Tình hình phân bổ, giao kế hoạch chi tiết cho các nhiệm vụ, dự án tại các bộ, cơ quan trung ương và địa phương

a) Tính đến hết tháng 9, tổng số vốn đã phân bổ chi tiết là 1.029.648,4 tỷ đồng (bao gồm NSTW là 390.555 tỷ đồng, NSĐP là 639.089,9 tỷ đồng). Nếu không tính kế hoạch vốn cân đối NSĐP các địa phương giao tăng, tổng số vốn đã phân bổ là 866.193 tỷ đồng, đạt 97,9% kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ đã giao.

b) Chưa thực hiện phân bổ chi tiết là 18.397,6 tỷ đồng của 17/42 bộ, cơ quan trung ương và 23/34 địa phương (chiếm 2,1 % kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao). Cụ thể:

(1) 18304,8 tỷ đồng vốn NSTW[5]. Trong đó:

+ Phần lớn vốn NSTW chưa phân bổ do: (i) 11.044 tỷ đồng[6] mới được Thủ tướng Chính phủ giao bổ sung cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương từ nguồn tăng thu NSTW năm 2024 (chiếm 60,3% vốn NSTW chưa phân bổ), (ii) 4.696,8 tỷ đồng đang trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, điều chỉnh giảm kế hoạch đầu tư vốn NSTW năm 2025 của 10 bộ, cơ quan trung ương và 03 địa phương để bổ sung tương ứng cho 03 bộ, cơ quan trung ương và 17 địa phương khác có nhu cầu bổ sung vốn (chiếm 25,7% vốn NSTW chưa phân bổ).

+ 2.564 tỷ đồng chưa phân bổ còn lại chủ yếu do: vốn CTMTQG đã bố trí đủ theo quy mô, đối tượng được phê duyệt, một số địa phương cần rà soát kỹ đối tượng để phân bổ chi tiết; các dự án đã hoàn thành hoặc đã bố trí đủ tổng mức đầu tư không còn nhu cầu sử dụng; các dự án đang hoàn thiện thủ tục đầu tư; do ảnh hưởng của mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, một số dự án do không còn nhu cầu phải dừng thực hiện, đang đề xuất điều chỉnh giảm kế hoạch vốn để tránh lãng phí;...

Bộ Tài chính đang tiếp tục tổng hợp nhu cầu đề xuất điều chỉnh giảm kế hoạch vốn NSTW của các bộ, ngành và địa phương để tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét điều chuyển cho bộ, ngành và địa phương có nhu cầu sử dụng theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 169/CĐ-TTg ngày 21/9/2025 và các quy định pháp luật về đầu tư công.

(2) 92,758 tỷ đồng vốn NSĐP của Cần Thơ do chưa đủ thủ tục đầu tư dự án.

2. Tình hình giải ngân kế hoạch đầu tư công vốn NSNN năm 2025

a) Về giải ngân vốn kế hoạch năm trước kéo dài sang năm 2025:

Giải ngân từ đầu năm đến hết ngày 30/9/2025 là 27.085,1 tỷ đồng, đạt 42% kế hoạch (64.795,8 tỷ đồng).

b) Về giải ngân vốn kế hoạch năm 2025:

- Giải ngân từ đầu năm đến ngày hết 30/9/2025 là 440.402,3 tỷ đồng, đạt khoảng 50% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao; so với cùng kỳ năm 2024 (giải ngân 307.837,7 tỷ đồng, đạt 45,3%) cao hơn 4,5% về tỷ lệ và 132.564,6 tỷ đồng về số tuyệt đối.

Nếu tính trên kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao đầu năm (825.922,3 tỷ đồng), giải ngân đến hết tháng 9 là 53,3% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.

- Kết quả trong 9 tháng năm 2025[7], so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, có 09 bộ, cơ quan trung ương và 17 địa phương có tỷ lệ ước giải ngân đạt từ mức bình quân chung cả nước, bao gồm: Ngân hàng Phát triển; Ngân hàng Chính sách xã hội; Tổng liên đoàn lao động Việt Nam; Văn phòng Trung ương Đảng; Đài Tiếng nói việt Nam; Tập đoàn Điện lực Việt Nam; Bộ Quốc phòng; Tổng công ty đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam; Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Hà Tĩnh; Thanh Hóa; Ninh Bình; Lào Cai; Thái Nguyên; Phú Thọ; Bắc Ninh; Gia Lai; Hải Phòng; Tây Ninh; Nghệ An; Quảng Ngãi; Điện Biên; Thành phố Huế; Quảng Ninh; Lạng Sơn; Đồng Tháp.

Đặc biệt, trong bối cảnh chuyển giao mô hình chính quyền địa phương 02 cấp và ảnh hưởng của điều kiện thời tiết diễn biến đặc biệt bất thường trong các tháng gần đây tại khu vực Bắc Trung bộ và miền núi phía Bắc, một số địa phương đã rất nỗ lực, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành để sớm hoàn thiện công tác kiện toàn, chuyển giao bộ máy tổ chức, khắc phục khó khăn do ảnh hưởng của bão lũ, nỗ lực duy trì tiến độ thực hiện và giải ngân các dự án, đạt tỷ lệ giải ngân 9 tháng trên 60% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, như; Hà Tĩnh (110%), Thanh Hóa (92%), Ninh Bình (91%), Lào Cai (81%), Thái Nguyên (74%),...

Tuy nhiên, có 29 bộ, cơ quan trung ương và 15 địa phương có tỷ lệ ước giải ngân dạt dưới bình quân chung cả nước; bao gồm: Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam; Đài Truyền hình Việt Nam; Bộ Khoa học và Công nghệ; Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; Liên minh Hợp tác xã Việt Nam; Thanh tra Chính phủ; Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Bộ Ngoại giao; Bộ Dân tộc và Tôn giáo; Bộ Y tế; Văn phòng Chính phủ; Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Bộ Công Thương; Hội Nông dân Việt Nam; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Tòa án nhân dân tối cao; Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Thông tấn xã Việt Nam; Đại học Quốc gia Hà Nội; Bộ Tài chính; Bộ Nông nghiệp và Môi trường; Bộ Nội vụ; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Bộ Tư pháp; Bộ Xây dựng; Kiểm toán Nhà nước; Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Lai Châu; Sơn La; Lâm Đồng; Vĩnh Long; Quảng Trị; Khánh Hòa; Cần Thơ; Đắc Lắc; Đồng Nai; An Giang; Cà Mau; Đà Nẵng; Hà Nội; Hưng Yên; TP. Hồ Chí Minh.

- Số giải ngân thực tế từ đầu năm đến ngày hết 30/9/2025 là 440.402,3 tỷ đồng, thấp hơn khoảng 1,4% tương đương với 14 nghìn tỷ đồng so với số ước giải ngân (Bộ Tài chính đã tổng hợp, báo cáo tại buổi họp Thường trực Chính phủ), chủ yếu là do số ước của một số bộ, địa phương chênh lệch nhiều so với thực tế giải ngân. (Chi tiết tại Phụ lục V kèm theo)

(Chi tiết tình hình phân bổ và giải ngân kế hoạch đầu tư công vốn NSNN 9 tháng năm 2025 tại các Phụ lục kèm theo)

II. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG VIỆC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ CÔNG TRONG 9 THÁNG NĂM 2025

Việc đạt được kết quả tiến bộ trong giải ngân đầu tư công là nhờ có sự chỉ đạo, điều hành sát sao, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thông qua các hội nghị thúc đẩy tăng trưởng đầu tư công và nhiều văn bản chỉ đạo đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công ngay từ những tháng đầu năm; sự vào cuộc mạnh mẽ của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương; công tác rà soát, kiểm tra, đôn đốc thường xuyên và kịp thời của các đoàn công tác; đặc biệt, việc giao chỉ tiêu giải ngân đầu tư công làm cơ sở đánh giá thi đua và công tác cải cách thể chế tiếp tục là điểm sáng giúp tháo gỡ nhiều điểm nghẽn trong quy trình triển khai thực hiện các dự án. Cụ thể:

1. Công tác cải cách thể chế liên quan đến đầu tư công tiếp tục được đẩy mạnh, góp phần bảo đảm yêu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kiến tạo, phát triển và tăng trưởng kinh tế; tập trung tháo gỡ vướng mắc, điểm nghẽn về thể chế để thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, trọng tâm là tháo gỡ điểm nghẽn, vướng mắc trong thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công

(1) Để đảm bảo thực chất, hiệu quả, thông suốt, không bị gián đoạn khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp (trong đó có công tác giải ngân vốn đầu tư công), Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo và kịp thời ban hành 28 Nghị định về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền khi triển khai mô hình chính quyền địa phương 02 cấp làm căn cứ cho các bộ, cơ quan trung ương, địa phương tổ chức triển khai thực hiện. Các địa phương cũng đã tập trung rà soát, ban hành kịp thời các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, cụ thể hóa việc thực hiện các Nghị định mới của Chính phủ, đảm bảo tính thống nhất giữa văn bản của trung ương và địa phương, phù hợp với mô hình đơn vị hành chính 02 cấp.

(2) Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 66.4/2025/NQ-CP ngày 21/9/2025 về các cơ chế, chính sách đặc thù nhằm tháo gỡ khó khăn trong triển khai Luật Địa chất và khoáng sản năm 2024; giúp tháo gỡ ngay nhiều khó khăn, vướng mắc có tính chất đặc thù, đặc biệt, cấp bách trong thủ tục hành chính, quy trình cấp phép, điều chỉnh giấy phép khai thác, sử dụng khoáng sản, quy định về không đấu giá quyền khai thác khoáng sản,... nhằm đáp ứng yêu cầu tiến độ cung cấp nguyên vật liệu cho các công trình, dự án, đặc biệt là các công trình, dự án trọng điểm, quan trọng quốc gia.

(3) Nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách về đồng bộ hóa hệ thống pháp luật về đầu tư công, Chính phủ ban hành Nghị định số 254/2025/NĐ-CP ngày 26/9/2025 của Chính phủ quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công[8]; trong đó, sửa đổi các quy định về thanh toán vốn đầu tư công theo hướng phân cấp, phân quyền triệt để cho chủ đầu tư lập đề nghị thanh toán, quản lý tạm ứng vốn theo hợp đồng/dự toán, thu hồi tạm ứng và chịu trách nhiệm toàn diện về tính chính xác của các nội dung kê khai tại hồ sơ thanh toán. Đồng thời, đơn giản hóa hồ sơ, thủ tục, đặc biệt là thủ tục giải ngân cho các dự án khoa học công nghệ, chuyển đổi số (cắt giảm 33% số lượng thủ tục hành chính và ước tính giảm 70% đối với khối lượng văn bản, giấy tờ giao dịch tại cơ quan thanh toán[9]); thời gian thanh toán vốn được rút ngắn từ 3 ngày thành tối đa 2 ngày làm việc, riêng tạm ứng vốn là trong 01 ngày làm việc. Việc cải cách triệt để thủ tục giải ngân được xem là bước đi chiến lược trong quá trình hiện đại hóa quản lý tài chính công, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chi tiêu ngân sách, phù hợp với cơ cấu tổ chức bộ máy Chính phủ, chính quyền địa phương sau khi thực hiện chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và thúc đẩy phát triển bền vững.

(4) Hiện nay, nhằm hoàn thiện thể chế, đảm bảo đồng bộ với các luật đã được Quốc hội ban hành tại kỳ họp thứ 9, Bộ Tài chính đang nghiên cứu, sửa đổi một số Luật để tiếp tục tháo gỡ các điểm nghẽn trong giải ngân vốn đầu tư công, cụ thể:

- Luật Quy hoạch: Trên cơ sở Báo cáo tiếp thu và giải trình ý kiến của Thường trực Chính phủ và Thành viên Chính phủ về Hồ sơ Dự án Luật Quy hoạch (sửa đổi)[10], Bộ Tài chính đã có Báo cáo số 407/BC-BTC ngày 29/8/2025 báo cáo Chính phủ về việc thống nhất mục tiêu, quan điểm xây dựng và nội dung Dự thảo Luật Quy hoạch sửa đổi[11] và tiếp tục có công văn giải trình đối với nội dung góp ý của Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội[12]. Đồng thời, để bảo đảm không làm gián đoạn hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, vùng và các địa phương trong thời gian chưa ban hành Luật Quy hoạch (sửa đổi), Bộ Tài chính đã trình Chính phủ[13] xem xét, ban hành Nghị quyết quy định về xử lý khó khăn, vướng mắc về việc điều chỉnh quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, theo đó, đã đề xuất các chính sách cụ thể nhằm hạn chế tối đa việc phát sinh quy trình, thủ tục điều chỉnh các loại quy hoạch để bổ sung dự án làm kéo dài thời gian, làm ảnh hưởng tiến độ triển khai dự án.

- Luật Quản lý nợ công: để nâng cao hiệu quả công tác huy động và trả nợ công phục vụ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số theo các chủ trương của Đảng, Nhà nước và giải quyết một số vướng mắc thực tế trong quá trình thực thi và quản lý, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý nợ công[14]; theo đó:

+ Bổ sung, sửa đổi các quy định để thực hiện phân cấp, phân quyền đối với quy trình phê duyệt các kế hoạch vay, trả nợ; hoạt động vay, trả nợ nước ngoài của Chính phủ, vay của chính quyền địa phương; bỏ quy định về xây dựng Chương trình quản lý nợ công 3 năm để đảm bảo đồng bộ với Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư công sửa đổi và rút ngắn thời gian tiến hành các quy trình, thủ tục về thỏa thuận, vay nước ngoài;

+ Điều chỉnh các quy định về huy động, sử dụng vốn vay nước ngoài của Chính phủ để đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án sử dụng vốn vay nước ngoài, mở rộng ưu đãi và điều kiện tiếp cận vốn vay nước ngoài;

+ Bổ sung quy định cho phép cấp phát toàn bộ vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ đối với các địa phương chưa đảm bảo cân đối 100% thu - chi ngân sách nhà nước (nhận trợ cấp từ NSTW). Đây là quy định mới có tính “đột phá” để thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ về tăng cường phân cấp, phân quyền đối với các địa phương.

- Ngoài ra, Bộ Tài chính đang trình Chính phủ[15] dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 85/2025/NĐCP ngày 08/4/2025 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đầu tư công[16].

2. Công tác chỉ đạo điều hành kế hoạch đầu tư công năm 2025 được thực hiện quyết liệt, thường xuyên, liên tục, tập trung giải quyết các điểm nghẽn, vướng mắc trong giải ngân vốn đầu tư công

- Tại các phiên họp Chính phủ thường kỳ hằng tháng, đầu tư công là một trong những nội dung trọng tâm được thể hiện trong các Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ; Thường trực Chính phủ đã tổ chức 03 Hội nghị trực tuyến với các bộ, cơ quan trung ương và địa phương để thúc đẩy động lực tăng trưởng đầu tư công; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 08 Chỉ thị, Công điện và nhiều văn bản chỉ đạo đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; gần đây nhất, ngày 21/9/2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện số 169/CĐ-TTg về nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công năm 2025. Thủ tướng Chính phủ đã thường xuyên, liên tục có nhiều chuyến công tác, làm việc với các địa phương để giải quyết vướng mắc, kiến nghị và kiểm tra thực tế địa bàn, đôn đốc triển khai các dự án, công trình quan trọng quốc gia.

- Để đảm bảo công tác chỉ đạo điều hành được thực hiện tập trung, thống nhất và kịp thời có các giải đáp, hướng dẫn, phương án xử lý tổng thể và đồng bộ đối với các nội dung vướng mắc, điểm nghẽn trong giải ngân vốn đầu tư công của từng bộ, cơ quan trung ương và địa phương, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1544/QĐ-TTg ngày 16/7/2025 về việc thành lập các Tổ công tác đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, xây dựng hạ tầng, thúc đẩy tăng trưởng, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công[17].

- Bên cạnh các đoàn công tác của Chính phủ, Bộ Tài chính đã thành lập 06 đoàn công tác hướng dẫn, kiểm tra việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy tại 34 địa phương, làm việc trực tiếp với Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Tài chính và các Sở, ban ngành liên quan, cùng với UBND các xã, phường nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc đến lĩnh vực tài chính - đầu tư công.

3. Vốn đầu tư công được bố trí tập trung hơn, tiếp tục khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, lãng phí; tăng cường quyền tự chủ, chủ động, trách nhiệm của các cấp, các ngành trong lựa chọn, phê duyệt, phân bổ vốn cho dự án cụ thể theo đúng mục tiêu, định hướng phát triển; bảo đảm tính công khai, minh bạch trong công tác phân bổ vốn đầu tư. Vốn NSTW được dồn lực vào các dự án quan trọng quốc gia, dự án đường cao tốc, dự án liên vùng, dự án trọng điểm, tạo ra động lực mới, không gian mới phát triển kinh tế, khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Từ đầu năm 2025 đến nay, cả nước đã hoàn thành 455km, nâng tổng số chiều dài cao tốc đưa vào khai thác lên khoảng 2.476km (dự kiến từ nay đến cuối năm, sẽ phấn đấu hoàn thành thêm khoảng 700km, hướng tới mục tiêu ít nhất 3.000km vào cuối 2025 và 5000 km vào năm 2030); đưa vào khai thác tuyến đường kết nối và nhà ga T3 Cảng Hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất. Ngày 19/8/2025 chào mừng kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng 8 và 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, cả nước đã khởi công thêm 06 dự án cao tốc dài 364km, đặc biệt là khởi công tuyến cao tốc từ Cà Mau đi Đất Mũi là mảnh ghép cuối cùng trên trục Bắc - Nam; khởi công các dự án khu tái định cư phục vụ 2 tuyến đường sắt hết sức quan trọng: Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc Nam và Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; khởi công dự án Đầu tư xây dựng Sân bay Gia Bình,...

4. Vốn đầu tư công đã góp phần thúc đẩy cơ cấu lại đầu tư và cơ cấu lại các ngành, vùng lãnh thổ; cơ bản bảo đảm tương quan hợp lý giữa phát triển kinh tế - xã hội và an sinh xã hội, giữa các ngành, lĩnh vực, các địa phương, vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng khó khăn khác, đồng thời vẫn đảm bảo bố trí vốn cho các vùng kinh tế động lực, cực tăng trưởng. Những dự án hoàn thành đã tạo sự chuyển biến rõ nét về hạ tầng giao thông, nông nghiệp và phát triển nông thôn, quốc phòng, an ninh, công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giai đoạn này.

5. Các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã tăng cường quản lý, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư công theo quy định, thực hiện nghiêm chế độ báo cáo theo định kỳ hằng tháng, thường xuyên cập nhật tình hình thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công, kịp thời tổng hợp các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện để có giải pháp tháo gỡ, đẩy nhanh tiến độ giải ngân. Kỷ luật, kỷ cương trong đầu tư công từng bước được tầng cường, hằng tháng các bộ, cơ quan trung ương và địa phương có tỷ lệ giải ngân dưới mức trung bình cả nước đều tổ chức đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân khách quan, chủ quan, trách nhiệm của các cá nhân có liên quan và người đứng đầu, rút ra bài học kinh nghiệm để triển khai kế hoạch được tốt hơn.

6. Các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã thành lập các Tổ công tác thúc đẩy giải ngân kế hoạch đầu tư vốn NSNN; thường xuyên rà soát, kiểm tra, đôn đốc tiến độ thực hiện dự án, đẩy nhanh tiến độ thi công, tập trung hoàn thiện các thủ tục pháp lý, nghiệm thu khối lượng hoàn thành. Rà soát, đánh giá chi tiết, cụ thể về khả năng giải ngân của từng dự án, đề xuất điều chuyển kế hoạch vốn giữa các dự án chậm giải ngân sang các dự án có tiến độ giải ngân tốt, có nhu cầu bổ sung vốn, cắt giảm kế hoạch vốn của các dự án không có khả năng hoàn thành khối lượng theo chỉ tiêu đặt ra, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng (GPMB), tháo gỡ khó khăn vướng mắc liên quan đến đất đai, tài nguyên. Các thành viên Tổ công tác đặc biệt theo chức năng, nhiệm vụ được giao chủ động rà soát, đôn đốc, phối hợp, hỗ trợ các nhà đầu tư trong quá trình triển khai thực hiện dự án và quyết liệt, chủ động, kịp thời tháo gỡ nhanh nhất những khó khăn, vướng mắc về các thủ tục liên quan thuộc lĩnh vực phân công theo dõi.

III. CÁC KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC ẢNH HƯỞNG ĐẾN TIẾN ĐỘ GIẢI NGÂN VỐN ĐẦU TƯ CÔNG 9 THÁNG NĂM 2025

Đến nay, kết quả giải ngân của nhiều bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã có chuyển biến tích cực, đẩy nhanh tiến độ giải ngân. Tỷ lệ giải ngân chung của cả nước tháng 9 duy trì tốc độ tương đối ổn định so với tháng 8 và tiếp tục vượt tỷ lệ giải ngân cùng kỳ năm ngoái.

Tại Hội nghị thúc đẩy tăng trưởng đầu tư công năm 2025 (lần 3) tổ chức vào ngày 17/9/2025, Bộ Tài chính đã ghi nhận và tổng hợp, báo cáo Chính phủ các khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân kế hoạch đầu tư công các tháng đầu năm. Theo đó, nhiều nguyên nhân đến nay vẫn còn tồn tại, gây khó khăn kéo dài, chưa được khắc phục triệt để, cụ thể như sau:

1. Liên quan đến sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và chuyển sang mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp:

- Một số địa phương (cấp xã) trong giai đoạn đầu chưa kịp thời kiện toàn bộ máy được đầy đủ. Nhiều đơn vị cấp xã không có đủ lãnh đạo, cán bộ có chuyên môn sâu về lĩnh vực phụ trách, đặc biệt không có cán bộ đủ tiêu chuẩn, điều kiện để bổ nhiệm kế toán, kế toán trưởng, dẫn đến nhiều đơn vị không thể mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước nên ảnh hưởng đến hoàn tất thủ tục giải ngân vốn đầu tư công. Tình trạng thiếu cán bộ công chức có kinh nghiệm về công tác giải phóng mặt bằng, quản lý dự án,... ảnh hưởng tới công tác quản lý dự án và giải ngân;

Việc sắp xếp bố trí cán bộ công chức từ các huyện xuống các xã và giữa các xã chưa đồng đều, toàn diện, chưa phủ kín các vị trí chủ chốt, nhất là đối với các xã vùng sâu, vùng xa, dẫn đến một số xã còn lúng túng trong việc tiếp nhận và xử lý khối lượng công việc lớn và mới trong cùng một thời điểm cấp xã vừa tiếp nhận nhiệm vụ của cấp huyện, vừa tiếp nhận thẩm quyền theo phân cấp từ các bộ ngành và của cấp tỉnh thuộc lĩnh vực quản lý đầu tư công;

- Một số công trình, dự án chưa được chuyển giao nhiệm vụ chủ đầu tư, giao nhận hồ sơ chậm do xáo trộn nhân sự; một số địa phương gặp khó khăn trong công tác điều hành và thủ tục chuyển tiếp dự án giữa các cấp.

- UBND cấp xã được giao làm chủ đầu tư một số dự án đầu tư công nhưng không có ban quản lý dự án xây dựng chuyên trách[18];

- Việc thay đổi trong trách nhiệm, quyền hạn, quy trình quản lý dự án tại địa phương do không duy trì cấp huyện và các cơ quan chức năng mới sau sắp xếp, sáp nhập cũng là nguyên nhân làm cho công tác thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, thẩm định thiết kế cơ sở, thẩm định thiết kế xây dựng; công tác nghiệm thu, thanh toán phải kéo dài thời gian xử lý do dự án phải điều chỉnh thiết kế để phù hợp với việc sáp nhập địa giới hành chính; ảnh hưởng đến công tác GPMB các dự án của trung ương và địa phương do các đơn vị cấp huyện là tổ chức chủ chốt triển khai công tác giải phóng mặt bằng (GPMB);...

Để phù hợp với cơ cấu bộ máy sau khi thực hiện sắp xếp, tinh gọn, nhiều dự án của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã tạm dừng khởi công, rà soát để xác định lại sự cần thiết phải đầu tư, điều chỉnh quy mô, phạm vi, tiêu chuẩn định mức dẫn đến chưa tiếp tục bố trí vốn thực hiện dự án để chờ kết quả rà soát; một số dự án do không còn nhu cầu phải dừng thực hiện, đang đề xuất điều chỉnh giảm kế hoạch vốn để tránh lãng phí.

- Ngoài ra, các nội dung về phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau, chưa thống nhất giữa các bộ, ngành; do đó việc triển khai có nơi, có lúc còn chưa đồng bộ[19].

2. Liên quan đến cơ chế chính sách:

Mặc dù các cơ chế chính sách về quản lý đầu tư công đã được sửa đổi, khắc phục trong thời gian qua song cơ chế chính sách vẫn còn một số vướng mắc, vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn của các dự án, như:

- Vướng mắc liên quan đến Luật Đất đai 2024:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 80, điều kiện thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng là phải hoàn thành việc bố trí tái định theo quy định của Luật này, song chưa có quy định bố trí tạm cư hoặc hỗ trợ tiền thuê nhà ở trong trường hợp chờ bố trí tái định cư.

Khoản 7 Điều 111[20] Luật Đất đai quy định người có đất bị thu hồi để thực hiện các dự án xây dựng khu đô thị mới được bố trí vào nhà ở tạm hoặc hỗ trợ tiền thuê nhà ở (tạm cư) khi thực hiện thu hồi đất trong thời gian chờ bố trí tái định cư. Như vậy, các trường hợp dự án khác (như: các dự án đầu tư công khẩn cấp chưa thể thực hiện ngay việc bố trí tái định cư; các dự án phục vụ Hội nghị APEC[21]; dự án thực hiện tái định cư tại chỗ trong phạm vi dự án; dự án mà khu tái định cư được bố trí theo tuyến của công trình chính mà đa số người sử dụng đất đã đồng thuận với việc bố trí tạm cư) sẽ không đủ điều kiện để hỗ trợ tạm cư, làm ảnh hưởng lớn đến tiến độ GPMB của các dự án.

- Vướng mắc về thẩm quyền điều chỉnh kế hoạch vốn giữa các dự án (từ dự án dư vốn sang dự án có nhu cầu sử dụng vốn để đẩy mạnh tiến độ giải ngân) do đang chờ Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư công (sửa đổi theo Luật số 90/2025/QH15[22]) về điều chỉnh thẩm quyền điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025[23]...

3. Liên quan đến công tác tổ chức thực hiện:

- Điều kiện thời tiết diễn biến bất thường, phức tạp trong thời gian qua là nguyên nhân lớn dẫn tới việc thi công các công trình không đảm bảo tiến độ. Hơn 13 địa phương[24] phản ánh khó khăn do chịu ảnh hưởng nặng nề của nhiều cơn bão lớn trong 03 tháng gần đây (riêng tháng 9 là 04 cơn bão liên tiếp, trong đó cơn bão số 10 có phạm vi ảnh hưởng rộng và gây thiệt hại nghiêm trọng nhất), kéo theo nhiều đợt mưa lớn, gây sạt lở, lũ lụt, tác động trực tiếp đến tiến độ thi công các dự án, đặc biệt là các dự án giao thông trọng điểm, do nền đường bị hư hỏng, nước ngập công trường, mạng lưới giao thông bị cản trở, đứt gãy làm chậm tiến độ vận chuyển nguyên vật liệu, điều kiện thi công bất lợi, nguy hiểm cho công nhân,... Các địa phương cần có thời gian để tập trung khắc phục hậu quả sau bão, sớm khôi phục trạng thái thi công ổn định, bình thường.

- Về GPMB: 02 bộ, cơ quan trung ương[25]09 địa phương[26] phản ánh vướng mắc công tác bồi thường, GPMB, chủ yếu khó khăn trong việc xác định giá đất đền bù do chưa đạt được thỏa thuận đối với người dân, chậm bàn giao mặt bằng, xác định nguồn gốc sử dụng đất của các hộ gặp nhiều khó khăn do chuyển nhượng nhiều lần; việc sáp nhập các tỉnh dẫn tới cùng một địa phương song có nhiều bảng giá đất, ảnh hưởng đến việc xây dựng phương án bồi thường GPMB;...

- Về nguyên vật liệu, quy hoạch: 04 bộ, cơ quan trung ương[27]09 địa phương[28] phản ánh vướng mắc do nguồn cung một số nguyên vật liệu hạn chế (đất, cát đắp...) trong khi nhu cầu vật liệu tăng cao, giá nhiều nguyên vật liệu tăng đột biến so với thời điểm mời thầu làm tăng chi phí dự án; mất nhiều thời gian trong lập, phê duyệt, điều chỉnh quy hoạch, đặc biệt là các quy hoạch chi tiết và chỉ giới đường đỏ, do thủ tục phức tạp, chồng chéo giữa các quy hoạch;...

- Về các dự án ODA: 03 bộ, cơ quan trung ương[29]07 địa phương[30] phản ánh vướng mắc liên quan đến quy trình, thủ tục thực hiện và giải ngân dự án ODA, như: (i) đang điều chỉnh, gia hạn thời gian thực hiện, thời gian giải ngân hoặc chưa hoàn thiện các thủ tục ký kết và hiệu lực của Hiệp định vay; (ii) tiến hành các thủ tục đấu thầu chậm (bao gồm cả các gói thầu đấu thầu quốc tế), đang triển khai chuẩn bị ký kết Hợp đồng và xử lý các vướng mắc trong công tác GPMB; (iii) đến hết tháng 7, một số bộ ngành, địa phương vẫn đang ưu tiên tập trung hoàn chứng từ các khoản giải ngân từ tài khoản đặc biệt theo kế hoạch vốn năm 2024.

Khó khăn, vướng mắc tồn tại chủ yếu trong công tác quản lý, điều hành, Tổ chức thực hiện do cả nguyên nhân khách quan, chủ quan. Một số nguyên nhân chủ quan do công tác lãnh đạo, chỉ đạo ở một số bộ, Cơ quan trung ương và địa phương chưa thực sự quyết liệt, sâu sát, thiếu quyết tâm chính trị, chưa phát huy tối đa vai trò của người đứng đầu; năng lực chủ đầu tư, ban quản lý dự án, nhà thầu còn hạn chế. Song, chủ yếu những nguyên nhân khách quan đã ảnh hưởng lớn đến tiến độ giải ngân, như: ảnh hưởng nặng nề của thiên tai bão lũ liên tiếp; quá trình vận hành mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp cần nhiều thời gian để hoàn thiện công tác kiện toàn, tổ chức đại hội các cấp, ổn định lại biến động nhân sự các cấp và thủ tục chuyển tiếp dự án giữa các cấp;...

III. KIẾN NGHỊ

Để triển khai phấn đấu tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công năm 2025 đạt mục tiêu 100% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng cả năm đạt 8,3-8,5%, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương cần nghiêm túc rút kinh nghiệm, triển khai kịp thời, quyết liệt, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công theo chỉ đạo tại Nghị quyết số 273/NQ-CP ngày 09/9/2025 của Chính phủ về phiên họp thường kỳ tháng 8/2025, các công điện số 162/CĐ-TTg ngày 11/9/2025 và số 169/CĐ-TTg ngày 21/9/2025 của Thủ tướng Chính phủ. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính kiến nghị cần triển khai mạnh mẽ hơn nữa một số các biện pháp để nâng cao tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công trong thời gian tới, cụ thể như sau:

(1) Liên quan đến sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và chuyển sang mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp:

- Quyết liệt thực hiện các kết luận, chỉ đạo của cấp có thẩm quyền về việc thực hiện chính quyền 02 cấp; kịp thời xử lý vướng mắc theo thẩm quyền; tổng hợp, báo cáo cấp thẩm quyền xử lý triệt để các khó khăn, vướng mắc, trong đó có việc chuyển giao nhiệm vụ chủ đầu tư dự án, dự án chuyển tiếp giữa các cấp. Khẩn trương kiện toàn bộ máy, kịp thời ổn định nhân sự; có giải pháp sắp xếp, đảm bảo bố trí cán bộ có đủ năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu trong công tác quản lý và triển khai các dự án tại địa phương, nhất là đối với các địa bàn vùng sâu, vùng xa. Đánh giá kỹ việc phân cấp chủ đầu tư dự án cấp xã gắn với nguồn lực và khả năng thực hiện theo đúng Kết luận số 195-KL/TW ngày 26/9/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tình hình, kết quả hoạt động của bộ máy hệ thống chính trị và chính quyền địa phương 02 cấp; thường xuyên kiểm tra, hỗ trợ các xã được giao chủ đầu tư trong việc tổ chức thực hiện các dự án và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công.

- Hiện nay, Bộ Tư pháp đang lấy ý kiến các bộ, cơ quan ngang bộ về Dự thảo Báo cáo kết quả rà soát, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền khi tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp[31]. Đề nghị các bộ, cơ quan ngang bộ tiếp tục nghiên cứu, đánh giá, xác định chính xác các nội dung quy định pháp luật được các cơ quan, địa phương phản ánh có khó khăn, vướng mắc cần xử lý và kịp thời đề xuất phương án xử lý tối ưu, khả thi; chịu trách nhiệm về nội dung tồn tại, vướng mắc liên quan đến phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền khi tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp thuộc phạm vi lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, ngành mình.

(2) Liên quan đến tháo gỡ vướng mắc về cơ chế, chính sách:

- Bộ Tài chính kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường khẩn trương hoàn thành việc trình cấp có thẩm quyền ban hành Nghị quyết để tháo gỡ vướng mắc trong thi hành Luật Đất đai 2024 cho các dự án đầu tư công khẩn cấp, các dự án phục vụ Hội nghị APEC (cho phép hỗ trợ tạm cư cho hộ gia đình, cá nhân đủ điều kiện bố trí tái định cư trong thời gian chờ bố trí tái định cư theo quy định tại khoản 7, Điều 111, Luật Đất đai năm 2024).

- Các bộ, cơ quan ngang bộ tiếp tục rà soát, tổng hợp các vướng mắc trong cơ chế chính sách liên quan đến giải ngân đầu tư công theo chức năng nhiệm vụ để báo cáo, đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, kịp thời tháo gỡ.

(3) Liên quan đến công tác tổ chức triển khai:

- Tiếp tục xác định giải ngân vốn đầu tư công là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu. Phát huy hơn nữa vai trò người đứng đầu các Bộ, cơ quan, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo và Tổ chức thực hiện, kịp thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc theo thẩm quyền hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền giải quyết. Phân công cụ thể lãnh đạo, cán bộ phụ trách từng dự án, cá thể hóa trách nhiệm để làm cơ sở đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ. Lập kế hoạch giải ngân chi tiết cho từng dự án và kiểm soát tiến độ theo từng tuần, tháng, quý. Tập trung đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, tiến độ thi công, tháo gỡ kịp thời các khó khăn vướng mắc về đất đai, tài nguyên...

- Khẩn trương phân bổ ngay kế hoạch vốn đã được giao nhưng đến nay chưa phân bổ chi tiết (bao gồm cả vốn từ nguồn tăng thu NSTW năm 2024 và vốn CTMTQG) theo quy định. Thường xuyên rà soát, đánh giá tình hình giải ngân đối với từng dự án, xác định rõ tồn tại, yếu kém ở từng khâu để có giải pháp kịp thời xử lý; phân loại dự án theo mức độ giải ngân (tốt, chậm, không có khả năng giải ngân...) để kịp thời điều chuyển vốn nội bộ từ các dự án giải ngân chậm sang các dự án giải ngân tốt và có nhu cầu bổ sung vốn theo quy định.

- Đối với các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm trong lĩnh vực giao thông vận tải: Bộ Xây dựng và các địa phương chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, nhà thầu tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, dự án, bù tiến độ bị chậm trong các tháng đầu năm, chủ động, tích cực thực hiện các nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao tại báo cáo số 493/TB-VPCP ngày 18/9/2025[32] của Văn phòng Chính phủ để phấn đấu hoàn thành ít nhất 3000km cao tốc, trên 1.000km đường bộ ven biển và các dự án lớn như Cảng hàng không quốc tế Long Thành trong năm 2025. Đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị đầu tư một số dự án đường sắt quan trọng, nhất là tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, các tuyến đường sắt kết nối Việt Nam - Trung Quốc. Rà soát quy định pháp luật để phân cấp, phân quyền tối đa cho các địa phương trong quản lý, đầu tư các tuyến đường cao tốc, quốc lộ, không làm phát sinh thêm thủ tục hành chính.

- Đối với công tác nghiệm thu, thanh toán: Các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương triển khai thực hiện Nghị định số 254/2025/NĐ-CP ngày 26/9/2025 của Chính phủ, phát huy tối đa những quy định mới về phân cấp, phân quyền, rút gọn thủ tục, đơn giản hồ sơ thanh toán để giải ngân vốn đầu tư công đúng quy định; lập hồ sơ thanh toán ngay đối với khối lượng hoàn thành đã được nghiệm thu tránh dồn vào thời điểm cuối năm, góp phần đẩy nhanh tiến độ và hoàn thành mục tiêu giải ngân vốn đầu tư công năm 2025.

- Đối với vướng mắc về nguyên vật liệu: Các bộ, cơ quan trung ương và địa phương chủ động, khẩn trương Tổ chức thực hiện các nội dung, chính sách quy định tại Nghị quyết số 66.4/2025/NQ-CP ngày 21/9/2025. Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì tổng hợp, xử lý các vấn đề liên quan; phối hợp với các bộ, ngành liên quan kịp thời theo dõi, hướng dẫn nhằm tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện Nghị quyết.

- Đối với vốn ODA: Cơ quan chủ quản, chủ dự án rà soát, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án; khẩn trương hoàn thành quy trình điều chỉnh thủ tục đầu tư, công tác đấu thầu, ký kết hợp đồng và vướng mắc trong công tác GPMB; khẩn trương hoàn thành các thủ tục giới thiệu chữ ký, tài khoản với nhà tài trợ nước ngoài; tổng hợp gửi đơn rút vốn đối với các khoản đã kiểm soát chi về Bộ Tài chính để gửi nhà tài trợ nước ngoài.

- Đối với các CTMTQG: Các chủ chương trình (Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Dân tộc và Tôn giáo) rà soát khó khăn, vướng mắc, kiến nghị của các bộ, cơ quan trung ương, địa phương trong quá trình giải ngân vốn của 03 CTMTQG, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan để kịp thời xử lý theo chức năng, nhiệm vụ được giao; báo cáo cấp có thẩm quyền đối với các nội dung vượt thẩm quyền.

(4) Tiếp tục phát huy vai trò của 08 Tổ công tác theo phân công tại Quyết định số 1544/QĐ-TTg ngày 16/7/2025 của Thủ tướng Chính phủ để tăng cường kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ vướng mắc về giải ngân đầu tư công tại các bộ, cơ quan, địa phương, nhất là đối với các bộ, cơ quan, địa phương có mức phân bố vốn lớn nhưng tốc độ giải ngân chậm.

(5) Về chế độ báo cáo: Nghiêm túc chấp hành chế độ báo cáo tình hình thực hiện, thanh toán vốn đầu tư công theo Thông tư số 37/2025/TT-BTC ngày 12/6/2025 của Bộ Tài chính, trong đó đảm bảo nội dung về thời gian thực hiện, biểu mẫu báo cáo; chế độ báo cáo tuần theo Công điện số 169/CĐ-TTg ngày 21/9/2025; báo cáo các Tổ công tác theo quy định tại Quyết định số 1544/QĐ-TTg ngày 16/7/2025 (các bộ, cơ quan trung ương và địa phương thuộc đối tượng kiểm tra có tỷ lệ giải ngân dưới mức trung bình của cả nước); nghiêm túc thực hiện cập nhật đầy đủ thông tin dữ liệu trên Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư công theo quy định. Trong đó, đề nghị các bộ, cơ quan trung ương và địa phương lưu ý phối hợp chặt chẽ với Kho bạc Nhà nước khu vực để cập nhật kịp thời số liệu giải ngân, đảm bảo chính xác, phục vụ công tác điều hành, chịu trách nhiệm toàn diện về số liệu giải ngân báo cáo Bộ Tài chính.

Trên đây là báo cáo tình hình phân bổ, giải ngân kế hoạch đầu tư công 9 tháng năm 2025; Các khó khăn vướng mắc ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân vốn đầu tư công năm 2025; Giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công năm 2025. Bộ Tài chính kính báo cáo Chính phủ./.

 


Nơi nhận:
- Như trên;
- Thủ tướng Chính phủ;
- Các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Văn phòng Chính phủ;
- Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội;
- Bộ TC: Lãnh đạo Bộ, các đơn vị thuộc Bộ (bản điện tử);
- Lưu: VT, Vụ PTHT.

KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG




Đỗ Thành Trung

 

FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN

 



[1] Tại các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: số 1508/QĐ-TTg ngày 04/12/2024; số 154/QĐ-TTg ngày 04/12/2024; số 1148/QĐ-TTg ngày 13/06/2025; số 1411/QĐ-TTG ngày 29/6/2025; số 1566/QĐ-TTg ngày 19/7/2025; số 134/QĐ-TTg ngày 19/7/2025.

[2] Vốn trong nước nguồn NSTW bao gồm: 269.465,9 tỷ đồng từ nguồn kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025; 114.808 tỷ đồng từ nguồn tăng thu NSTW năm 2021, 2022, 2023, 2024.

[3] Hủy dự toán 944,866 tỷ đồng vốn CTMTQG theo Nghị quyết số 165/NQ-CP ngày 09/6/2025 của Chính phủ về bổ sung dự toán chi đầu tư phát triển, kế hoạch đầu tư nguồn NSNN năm 2025 cho các địa phương thực hiện 03 CTMTQG và Nghị quyết số 196/NQ-CP ngày 27/6/2025 của Chính phủ về xử lý vốn đầu tư còn tại nguồn NSNN năm 2025 của các CTMTQG.

[4] Trong đó: 15.823,86 tỷ đồng vốn NSTW được cho phép kéo dài tại văn bản số 7067/BTC-TH ngày 23/5/2025 của Bộ Tài chính về thông báo kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch đầu tư công vốn NSTW năm 2024 sang năm 2025.

[5] Bao gồm: 16.850,6 tỷ đồng vốn trong nước và 1.454,2 tỷ đồng vốn nước ngoài.

[6] Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Xây dựng, Đại học quốc gia Hà Nội, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Đồng Nai, Quảng Trị.

[7] Đánh giá trên cơ sở kế hoạch, đề xuất điều chỉnh giảm kế hoạch đầu tư vốn NSTW năm 2025 đã trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định và không bao gồm kế hoạch vốn mới được giao bổ sung.

[8] Thay thế Nghị định số 99/2021/NĐ-CP và Điều 6 Nghị định số 125/2025/NĐ-CP

[9] Rút gọn và đơn giản hóa thành phần hồ sơ thanh toán từ Hợp đồng/Dự toán/Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thành các Bảng tổng hợp thông tin; giảm bớt các chỉ tiêu yêu cầu tại Bảng xác định giá trị khối lượng, Bảng kê giá trị khối lượng công việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; lược bỏ một số thành phần hồ sơ không cần thiết.

[10] Báo cáo số 406/BC-BTC ngày 29/8/2025.

[11] Về việc bổ sung quy hoạch chi tiết ngành vào phạm vi điều chỉnh của Luật Quy hoạch; sửa đổi, bổ sung quy định về hệ thống quy hoạch, mối quan hệ và xử lý mâu thuẫn giữa các quy hoạch; rà soát, sửa đổi Danh mục quy hoạch ngành; phân cấp, phân quyền trong hoạt động quy hoạch gắn với cơ chế kiểm tra, giám sát; hoàn thiện hệ thống quy hoạch, đơn giản hóa trình tự, thủ tục;...

[12] Công văn số 14930/BTC-QLQH ngày 25/9/2025

[13] Tờ trình số 514/TTr-BTC ngày 23/8/2025

[14] Tờ trình số 664/TTr-BTC ngày 25/9/2025

[15] Tờ trình số 506/TTr-BTC ngày 21/8/2025

[16] Nội dung cụ thể như:

- Sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp với quy định của Luật Đầu tư công (được sửa đổi, bổ sung tại Luật số 90/2025/QH15), Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi), Luật Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và Luật Công nghiệp công nghệ số;

- Bổ sung các nội dung Luật sửa 8 Luật giao Chính phủ quy định chi tiết (ngoài cốc nội dung của Luật số 58/2024/QH15), bao gồm: (i) Trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ (dự án nhà máy điện hạt nhân); (ii) Hạn mức để thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn;

- Bãi bỏ quy định về cấp huyện để phù hợp với tổ chức mô hình chính quyền địa phương 02 cấp;

- Bổ sung nội dung phân quyền, phân cấp:

(i) Phân cấp từ Thủ tướng Chính phủ cho Bộ Tài chính trong việc thông báo và điều chỉnh danh mục dự án sử dụng vốn NSTW trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn của các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương Việc giao kế hoạch vốn đầu tư trung hạn nguồn NSTW vẫn cần có danh mục dự án làm công cụ cần thiết để quản lý số lượng dự án và bảo đảm phù hợp với nguyên tắc, tiêu chí, định mức và ưu tiên sử dụng vốn NSTW để đầu tư trong từng giai đoạn, thực hiện vai trò chủ đạo của NSTW, tránh dàn trải, lãng phí. Việc phân cấp này cơ bản cũng phù hợp với chỉ đạo của Thường trực Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 4358/VPCP-KTTH ngày 18/5/2025.

(ii) Phân cấp từ Thủ tướng Chính phủ cho các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương trong việc giao chi tiết và điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư trung hạn nguồn NSTW cho các dự án cụ thể do Bộ, cơ quan trung ương và địa phương mình quản lý trong danh mục dự án sử dụng vốn NSTW được Bộ Tài chính thông báo.

- Nội dung cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính: cắt giảm các thủ tục liên quan đến các nội dung phân cấp nêu trên.

[17] Trên cơ sở các hợp nhất các tổ công tác đã được thành lập theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 435/QĐ-TTg ngày 22/4/2023, số 853/QĐ-TTg ngày 17/7/2023; số 387/QĐ-TTg ngày 24/2/2025 và Quyết định số 523/QĐ-TTg ngày 06/3/2025.

[18] Một số địa phương thuộc địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc.

[19] Theo báo cáo số 7122/BC-BNV ngày 26/8/2025 của Bộ Nội vụ về tình hình thực hiện Nghị quyết số 154/NQ-CP, số 226/NQ-CP và tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 năm 2025.

[20] “7. Người có đất ở bị thu hồi để thực hiện dự án đầu tư xây dựng khu đô thị thì được bồi thường bằng đất ở, nhà ở tại chỗ; trong thời gian chờ bố trí tái định cư được bố trí vào nhà ở tạm hoặc hỗ trợ tiền thuê nhà ở; thời gian và mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định phù hợp với thực tế tại địa phương. Trường hợp thu hồi Đất ở để thực hiện các mục đích khác thì được bồi thường bằng đất ở, nhà ở tại chỗ nếu tại khu vực thu hồi đất có quỹ đất, quỹ nhà tái định cư. Ưu tiên vị trí thuận lợi cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng Đất ở kết hợp với kinh doanh dịch vụ, người có đất thu hồi là người có công với cách mạng. Có cơ chế thưởng đối với người có đất thu hồi bàn giao mặt bằng trước thời hạn theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh."

[21] Theo báo cáo của tỉnh An Giang, 02/13 dự án, công trình thu hồi đất phục vụ APEC là dự án khu đô thị đáp ứng các điều kiện theo quy định và tổ chức được ngay công tác lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Đối với 11 dự án, công trình còn lại không phải là dự án đầu tư xây dựng khu đô thị, UBND tỉnh đã ban hành lệnh khẩn cấp thực hiện 08/11 dự án; đã thực hiện thủ tục kêu gọi nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt 03/11 dự án. Hiện nay, 11 dự án này chưa thể thực hiện thủ tục lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do UBND đặc khu Phú Quốc không có nền tái định cư để bố trí cho các hộ bị thu hồi đất đủ điều kiện bố trí tái định cư và hiện cũng không đủ điều kiện hỗ trợ tạm cư.

[22] Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Hải quan, Luật Thuế giá trị gia, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công.

[23] Điểm d khoản 32 Điều 7 Luật số 90/2025/QH15: "5. Người đứng đầu Bộ, cơ quan trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm vốn ngân sách trung ương do cấp mình quản lý trong trường hợp không thay đổi tổng mức vốn trung hạn và hàng năm đã được cấp có thẩm quyền quyết định."

[24] Gồm: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Tuyên Quang, Lào Cai, Lạng Sơn, Lai Châu, Thái Nguyên, Điện Biên, Sơn La, Quảng Ninh...

[25] Gồm: Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Đài Tiếng nói Việt Nam.

[26] Gồm: Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Sơn La, Hưng Yên, Quảng Trị, Tây Ninh, Vĩnh Long, Cần Thơ.

[27] Gồm: Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Y tế, Bộ Dân tộc và Tôn giáo

[28] Gồm: Cao Bằng, Lai Châu, Phú Thọ, Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Lâm Đồng, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp.

[29] Gồm: Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ, Bộ Xây dựng, Bộ Y tế.

[30] Gồm: Hà Nội, Phú Thọ, Vĩnh Long, Cà Mau, Lào Cai, Hà Tĩnh, Thanh Hóa.

[31] Công văn số 5279/BTP-PLHSHC ngày 27/8/2025.

[32] Thông báo Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính - Trưởng Ban Chỉ đạo tại Phiên họp lần thứ 20 Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông vận tải (Phiên họp thứ 19).

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Báo cáo 528/BC-BTC về tình hình phân bổ, giải ngân Kế hoạch đầu tư công 9 tháng; các khó khăn vướng mắc ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân vốn đầu tư công; giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công năm 2025 (tài liệu phục vụ phiên họp thường kỳ của Chính phủ tháng 9 năm 2025) do Bộ Tài chính ban hành

  • Số hiệu: 528/BC-BTC
  • Loại văn bản: Báo cáo
  • Ngày ban hành: 03/10/2025
  • Nơi ban hành: Bộ Tài chính
  • Người ký: Đỗ Thành Trung
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 03/10/2025
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
Tải văn bản