Hệ thống pháp luật

Khoản 4 Điều 1 Thông tư 48-TBXH-1985 hướng dẫn Nghị định 236-HĐBT-1985 sửa đổi chế độ, chính sách về thương binh và xã hộ do Bộ Thương binh và xã hội ban hành

4. Việc giải quyết những khoản phụ cấp khác ngoài lương hưu:

Trường hợp công nhân, viên chức và quân nhân nghỉ hưu có hưởng các khoản phụ cấp khác (như phụ cấp thương tật, phụ cấp vì mắc bệnh nghề nghiệp, phụ cấp vì có hành động dũng cảm mà bị thương) thì được giải quyết theo quy định đối với thương binh và người bị tai nạn lao động, bị bệnh nghề nghiệp. Riêng khoản phụ cấp cho người nghỉ hưu là thương binh hạng 1 mà cần có người phục vụ trong sinh hoạt thì được tiếp tục thực hiện theo mức trợ cấp mới.

TRỢ CẤP THƯƠNG TẬT

I. VIỆC ĐỊNH LẠI CÁC HẠNG THƯƠNG TẬT

1. Điều 6 của Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng quy định thương binh được xếp thương tật theo 4 hạng.

Tiêu chuẩn của 4 hạng thương tật theo quy định cụ thể của Bộ Y tế và Bộ Thương binh và xã hội.

2. Tiêu chuẩn thương tật 4 hạng thay thế cho hai loại tiêu chuẩn 6 hạng và 8 hạng trước đây và được áp dụng thống nhất cho tất cả thương binh của các thời kỳ.

II. TRỢ CẤP THƯƠNG TẬT

1. Với thương binh ở diện hưởng lương, mức trợ cấp và căn cứ để tính trợ cấp đã được quy định rõ tại Điều 7 của Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.

2. Với thương binh ở diện hưởng sinh hoạt phí, Điều 7 của Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng quy định trợ cấp được tính trên mức ấn định là 250 đồng; trên cơ sở đó, mức cụ thể xem phụ lục số 1.

Trường hợp đặc biệt có mức sinh hoạt phí cao hơn 250 đồng thì được lấy mức đó làm cơ sở tính trợ cấp thương tật (điều này áp dụng cho cả trường hợp tính trợ cấp bệnh binh và trợ cấp quân nhân phục viên).

3. Những trường hợp bị thương nhẹ, có tỷ lệ thương tật từ 5% đến 20%, được trợ cấp một lần như quy định tại Điều lệ tạm thời về các chế độ đãi ngộ quân nhân ban hành bằng Nghị định số 161-CP ngày 30-10-1964, Nghị định số 08/NĐ-76 của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ngày 17-6-1976 và Thông tư liên Bộ Quốc phòng - Công an - Nội vụ số 104-LB-QP ngày 12-4-1965. Cụ thể, tuỳ theo tỷ lệ mất sức lao động, thương binh loại A và thương binh loại B được trợ cấp một lần một khoản tiền bằng từ 1 đến 3 tháng lương chính khi bị thương cộng với phụ cấp thâm niên (nếu có); xem phụ lục số 2.

Người không có lương được lấy mức ấn định 250 đồng làm cơ sở tính trợ cấp.

III. MỘT SỐ PHỤ CẤP NGOÀI TRỢ CẤP THƯƠNG TẬT

Về Điều 8 của Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng nay hướng dẫn cụ thể như sau:

1. Thương binh hạng 1 được nuôi dưỡng ở gia đình, phường, xã, ngoài trợ cấp thương tật hàng tháng còn được phụ cấp thêm khoản tiền 70 đồng cho người phục vụ. Khoản tiền này thay cho khoản phụ cấp hàng tháng cho người phục vụ quy định tại Thông tư số 24-TBXH ngày 19-3-1984 của Bộ Thương binh và xã hội.

2. Thương binh hạng 1 được nuôi dưỡng ở gia đình, phường, xã được cấp một lần một khoản tiền để mua sắm những phương tiện sinh hoạt cần thiết. Khoản tiền này được tính theo giá trị một số vật dụng được quy định như sau: 1 giường đôi, và 1 tủ con để đầu giường bằng loại gỗ nhóm 4, 1 màn đôi sợi bông, 1 chiếu đôi, 1 chậu rửa mặt bằng sắt tráng men hoặc nhựa, 1 bộ ấm chén trà nội địa.

Những vật dụng nói trên tính theo giá của từng địa phương trong từng thời gian, nhiều nhất không vượt quá số tiền ấn định tạm thời là 1.500 đồng.

3. Thương binh có hành động dũng cảm mà bị thương, khi về gia đình được phụ cấp ưu đãi một lần bằng:

- 2 tháng lương, gồm lương chính và phụ cấp thâm niên (nếu có) khi bị thương.

- 500 đồng nếu thương binh thuộc diện hưởng sinh hoạt phí khi bị thương.

Quy định trên đây của Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng thay cho quy định phụ cấp ưu đãi nói ở Điều 15 Điều lệ tạm thời về các chế độ đãi ngộ quân nhân ban hành kèm theo Nghị định số 161-CP ngày 30-10-1964 và ở điểm 3, Điều 4, Nghị định số 08-NĐ-76 ngày 17-6-1976.

- Những thương binh có hành động dũng cảm mà bị thương đã được xác nhận trước đây, đã về gia đình (kể cả thương binh hưởng lương hưu hoặc hưởng chế độ bệnh binh, chế độ trợ cấp mất sức lao động) thì kể từ ngày ban hành Nghị định số 236-HĐBT thôi không hưởng trợ cấp hàng tháng và chuyển sang hưởng phụ cấp ưu đãi một lần theo quy định tại Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.

4. Thực hiện việc chăm sóc chung đời sống các thương binh, nếu có thương binh hạng 4 về gia đình cư trú ở thành phố, thị xã gặp nhiều khó khăn về sinh sống hoặc gặp khó khăn đột xuất thì Giám đốc Sở Thương binh và xã hội xem xét cụ thể từng trường hợp, có thể quyết định trợ cấp khó khăn một lần hoặc nhiều lần với mức từ 20 đến 30 đồng một tháng cho một người.

IV. TÍNH LẠI TRỢ CẤP THƯƠNG TẬT CHO NHỮNG THƯƠNG BINH ĐÃ ĐƯỢC XÁC NHẬN TRƯỚC NGÀY 1-9-1985

Theo Điều 9 của Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, thương binh đã được xác nhận trước ngày Nghị định có hiệu lực thì chuyển sang xếp hạng thương tật theo quy định ở Điều 6 và căn cứ vào mức lương cũ khi bị thương chuyển đổi sang mức lương mới cùng thang bậc lương để tính lại trợ cấp thương tật.

Nay hướng dẫn cụ thể như sau:

1. Hai Bộ Y tế - Thương binh và Xã hội đã thống nhất ý kiến về việc xếp lại 8 hạng và 6 hạng thương tật trước đây sang 4 hạng như sau:

a. Các hạng 8/8, 7/8, đặc biệt/6 và 1/6 cũ được chuyển sang xếp hạng 1 mới.

b. Các hạng 6/8, 5/8 và 2/6 được chuyển sang xếp hạng 2 mới c. Các hạng 4/8, 3/8 và 3/6 được chuyển sang xếp hạng 3 mới

d. Các hạng 2/8, 1/8, 4/6 và 5/6 được chuyển sang xếp hạng 4 mới.

Riêng với các thương binh hạng 6/8 đang hưởng chế độ nuôi dưỡng tại trại hay tại gia đình nay xếp hạng 2 vẫn giữ các chế độ đang hưởng.

2. Việc chuyển đổi mức lương và tính lại trợ cấp thương tật được thực hiện như sau:

a. Đối với những thương binh hưởng lương thì căn cứ vào mức lương cũ khi bị thương chuyển đổi sang mức lương mới ở cùng thang bậc lương cộng với phụ cấp thâm niên (nếu có) để tính lại trợ cấp thương tật theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng và theo hướng dẫn nói tại mục II, chương nói về trợ cấp thương tật của Thông tư này.

b. Đối với thương binh chống Pháp khi bị thương là cán bộ từ trung đội trưởng trở lên, trước đây hưởng trợ cấp thương tật như thương binh thuộc diện hưởng sinh hoạt phí thì nay được căn cứ vào chức vụ khi bị thương chuyển đổi sang mức lương mới của cấp quân hàm tương đương (xem phụ lục số 3) để tính lại trợ cấp thương tật.

c. Đối với thương binh thuộc diện hưởng sinh hoạt phí thì được tính lại trợ cấp thương tật trên mức lương thống nhất là 250 đồng.

3. Những thương binh trước đây đã được xếp hạng 6/8 nếu về gia đình đã hưởng khoản phụ cấp hàng tháng 80 đ (tiền cũ) vì cần người phục vụ (theo Thông tư 24-TBXH ngày 19-3-1984) nay được cấp hàng tháng với mức 70 đồng (tiền mới).

4. Đối với những người bị thương trước ngày 1-9-1985 nhưng sau ngày đó mới giám định thương tật và được xác nhận là thương binh, cách tính trợ cấp như sau:

a. Khoảng thời gian trước ngày 1-9-1985: được xếp theo tiêu chuẩn 8 hạng; trợ cấp áp dụng theo chế độ và cách tính toán đang thực hiện trước khi ban hành Nghị định số 236-HĐBT.

b. Khoảng thời gian từ 1-9-1985 trở về sau được trợ cấp theo quy định mới: Căn cứ vào tỷ lệ mất sức lao động do thương tật, xếp theo 4 hạng thương tật và tính trợ cấp theo chế độ mới, được quy định tại Điều 7 của Nghị định số 236-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.

Thông tư 48-TBXH-1985 hướng dẫn Nghị định 236-HĐBT-1985 sửa đổi chế độ, chính sách về thương binh và xã hộ do Bộ Thương binh và xã hội ban hành

  • Số hiệu: 48-TBXH
  • Loại văn bản: Thông tư
  • Ngày ban hành: 30/09/1985
  • Nơi ban hành: Quốc hội
  • Người ký: Song Hào
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Số 22
  • Ngày hiệu lực: 15/10/1985
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra