Hệ thống pháp luật

BỘ VĂN HOÁ-TỔNG CỤC HẢI QUAN
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 3007/TTLT

Hà Nội , ngày 26 tháng 10 năm 1985

 

THÔNG TƯ LIÊN TỊCH  

CỦA BỘ VĂN HOÁ - TỔNG CỤC HẢI QUAN SỐ 3007/TTLTNGÀY 26 THÁNG 10 NĂM 1985 VỀ VIỆC PHỐI HỢP KIỂM TRA VÀ QUẢN LÝ XUẤT NHẬP KHẨU VĂN HOÁ PHẨM

Căn cứ Nghị định số 100-CP ngày 1-6-1966 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý xuất nhập khẩu văn hoá phẩm;
Căn cứ Nghị định số 139-HĐBT ngày 20-10-1984 của Hội đồng Bộ trưởng quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức cục Hải quan;
Căn cứ Điều lệ Hải quan do Hội đồng Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 3-CP ngày 27-2-1960;
Liên bộ Bộ Văn hoá - Tổng cục Hải quan ra Thông tư này để phân rõ trách nhiệm, quyền hạn của hai ngành trong việc phối hợp kiển tra và quản lý xuất nhập khẩu văn hoá phẩm, quy định một số thể lệ xuất nhập khẩu văn hoá phẩm để các cơ quan, đoàn thể (kể cả các cơ quan nước ngoài) ở Trung ương và các địa phương và cá nhân (kể cả người nước ngoài) có văn hoá phẩm xuất nhập khẩu thực hiện.

I. TRÁCH NHIỆM, QUYỀN HẠN CỦA NGÀNH VĂN HOÁ VÀ NGÀNH HẢI QUAN TRONG VIỆC CHO PHÉP XUẤT, NHẬP KHẨU VĂN HOÁ PHẨM

1. Ngành văn hoá:

Căn cứ Nghị định số 100-CP ngày 1-6-1966 của Hội đồng Chính phủ, ngành văn hoá có trách nhiệm thống nhất tổ chức quản lý xuất nhập khẩu văn hoá phẩm. Cụ thể là:

- Ban hành các văn bản quy định danh mục văn hoá phẩm được phép và không được phép xuất nhập khẩu;

- Nhanh chóng kiện toàn lực lượng để có đủ cán bộ có mặt thường xuyên ở các cửa khẩu, các trạm giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu, các bưu cục ngoại dịch để phối hợp với cán bộ hải quan làm nhiệm vụ kiểm tra và quản lý văn hoá phẩm xuất nhập khẩu.

- Theo luật lệ hiện hành, cấp giấy phép xuất nhập khẩu những văn hoá phẩm không ghi trong kế hoạch xuất nhập khẩu của Nhà nước (trước đây thường gọi là văn hoá phẩm xuất nhập khẩu phi mậu dịch).

2. Ngành hải quan:

Căn cứ Nghị định số 139-HĐBT ngày 20-10-1984 của Hội đồng Bộ trưởng, ngành hải quan có trách nhiệm:

- Phối hợp cùng ngành văn hoá tại các cửa khẩu, các trạm giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu, các bưu cục ngoại dịch kiểm tra và quản lý văn hoá phẩm xuất nhập khẩu dưới các hình thức; mang theo người, không mang theo người, gửi trong bưu phẩm, bưu kiện hoặc gửi kèm với hàng hoá, hành lý khác.

- Chỉ cho xuất hay nhập các loại văn hoá phẩm theo đúng giấy phép của cơ quan văn hoá cấp (đối với văn hoá phẩm không ghi trong kế hoạch xuất nhập của Nhà nước) hoặc của Bộ Ngoại thương cấp (đối với văn hoá phẩm ghi trong kế hoạch xuất nhập của Nhà nước).

- Trong trường hợp văn hoá phẩm không phù hợp với giấy phép hợp lệ, hoặc vi phạm thể lệ xuất nhập khẩu văn hoá phẩm, thì hải quan cửa khẩu không cho xuất hay nhập mà phải lập biên bản tạm giữ để chờ xử lý.

- Nếu ở cửa khẩu nào ngành văn hoá không có lực lượng thì hải quan thay thế hoàn toàn.

II. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC VỀ QUAN HỆ CÔNG TÁC GIỮA HAI NGÀNH

1. Trên cơ sở phối hợp giữa các ngành liên quan, công tác quản lý và kiểm tra văn hoá phẩm xuất nhập khẩu phải bảo đảm chặt chẽ, chu đáo, phải phân biệt văn hoá phẩm được phép xuất nhập khẩu với văn hoá phẩm không được phép xuất nhập khẩu: văn hoá phẩm lành mạnh với văn hoá phẩm phản động, đồi truỵ, lạc hậu.

2. Để bảo đảm thực hiện được nguyên tắc chung, cần thực hiện những nguyên tắc cụ thể dưới đây:

- Mỗi ngành làm đúng chức năng Nhà nước đã giao cho ngành đó.

- Từng ngành xây dựng quy chế làm việc của mình, chủ động đề ra việc phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau trong công tác ở cơ sở và các cấp trên.

- Tạo những điều kiện thuân lợi cho nhau để cùng hoàn thành nhiệm vụ.

- Trong quá trình tiến hành công tác, nếu có những ý kiến khác nhau thì bàn bạc tìm biện pháp giải quyết thích hợp. Trong trường hợp không đi đến nhất trí thì cán bộ của từng ngành phải báo cáo lên cấp trên của ngành mình để xin ý kiến.

III. MỘT SỐ THỂ LỆ XUẤT NHẬP KHẨU VĂN HOÁ PHẨM

Các cơ quan, đoàn thể và cá nhân có văn hoá phẩm xuất nhập khẩu phải thực hiện những quy định sau đây:

1. Kê khai, kiểm tra, cấp giấy phép xuất nhập văn hoá phẩm.

a) Mọi văn hoá phẩm xuất hoặc nhập đều phải làm đầy đủ thủ tục hải quan tại các cửa khẩu (hoặc ở địa điểm của cơ quan Nhà nước không phải là cửa khẩu được cơ quan hải quan công nhận theo quy chế riêng của Tổng cục Hải quan).

b) Những văn hoá phẩm xuất khẩu mà theo quy định phải xin phép cơ quan văn hoá thì các cơ quan, đoàn thể, cá nhân có văn hoá phẩm xuất khẩu phải kê khai và xuất trình với cơ quan văn hoá. Sau khi kiểm tra và cấp giấy phép, cơ quan văn hoá tiến hành niêm phong những văn hoá phẩm được phép xuất khẩu để cơ quan Hải quan làm thủ tục hải quan. Khi tiến hành làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu, cán bộ hải quan vẫn có thể kiểm tra lại những gói văn hoá phẩm đã niêm phong nói trên theo chức năng của mình.

c) Đối với những văn hoá phẩm nhập khẩu theo quy định phải xin phép cơ quan văn hoá, mà không có giấy phép và những văn hoá phẩm chưa rõ nội dung, thì cán bộ Hải quan cùng với cán bộ văn hoá ở cửa khẩu kiểm tra. Nếu thấy cần tạm giữ để xem xét thì cùng lập biên bản để chuyển cho cán bộ văn hoá lưu giữ và chịu trách nhiệm trước người chủ có văn hoá phẩm nhập khẩu.

Trong trường hợp này, cán bộ văn hoá phải có giấy biên nhận trong đó ghi rõ địa điểm, ngày hẹn người có văn hoá phẩm đến để giải quyết.

Sau khi đã kiểm tra, xử lý cơ quan văn hoá thông báo bằng văn bản kết quả cụ thể các trường hợp với cơ quan Hải quan cấp tỉnh, thành phố, đặc khu.

d) Các cơ quan, đoàn thể, cá nhân (kể cả các cơ quan mà người nước ngoài) có văn hoá phẩm xuất nhập khẩu cần kiểm tra nội dung đều phải nộp lệ phí theo Quyết định số 558-VH/QĐ ngày 22-3-1985 của Bộ Văn hoá.

2. Thủ tục hải quan.

Người có văn hoá phẩm xuất nhập khẩu mà theo quy định phải xin phép cơ quan Văn hoá phải:

a) Xuất trình giấy phép xuất nhập khẩu văn hoá phẩm với cơ quan Hải quan để được tiếp cấp giấy phép xuất nhập khẩu hàng phi mậu dịch.

b) Sau khi được cơ quan Hải quan cấp giấy phép, phải xuất trình với hải quan cửa khẩu.

c) Khai báo và xuất trình văn hoá phẩm xuất nhập khẩu để hải quan kiểm tra.

d) Chấp hành mọi quyết định xử lý của hải quan cửa khẩu như nộp thuế (nếu vượt quá tiêu chuẩn được miễn thuế), tịch thu văn hoá phẩm (nếu là loại văn hoá phẩm không được phép xuất nhập khẩu) v.v...

Đối với văn hoá phẩm được phép xuất nhập khẩu, khi xuất nhập khẩu vượt quá tiêu chuẩn được miễn thuế, nếu đương sự không có đủ tiền nộp thuế thì không được xuất (nếu là văn hoá phẩm xuất), phải giữ để tái xuất (nếu là văn hoá phẩm nhập).

3. Xử lý các hành vi vi phạm thể lệ xuất nhập khẩu văn hoá phẩm và giải quyết tang vật phạm pháp.

a) Mọi hành vi vi phạm thể lệ xuất nhập khẩu văn hoá phẩm đều bị xử lý theo Nghị định số 100-CP ngày 1-6-1966 của Hội đồng Chính phủ, Điều lệ Hải quan do Hội đồng Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 3-CP ngày 27-2-1960 và pháp luật hiện hành.

b) Các hành vi vi phạm thể lệ xuất nhập khẩu văn hoá phẩm do cơ quan Hải quan phát hiện trong khi làm thủ tục tại cửa khẩu thì thuộc quyền xử lý của cơ quan Hải quan.

Đối với văn hoá phẩm xuất nhập khẩu phạm pháp tạm giữ để chờ xử lý thì do hải quan cửa khẩu chịu trách nhiệm bảo quản.

c) Các loại sách báo, tranh ảnh phản động, đồi truỵ, do hải quan cửa khẩu bắt giữ, sau khi ra quyết định tịch thu thì Hải quan tỉnh, thành phố, đặc khu gửi ngay về Tổng cục Hải quan, Bộ Văn hoá, Bộ Nội vụ mỗi thứ một bản kèm theo biên bản phạm pháp và quyết định xử lý tịch thu. (Nếu chỉ có một bản thì gửi về Tổng cục Hải quan để Tổng cục chuyển cho Bộ Văn hoá hoặc cho Bộ Nội vụ tuỳ theo văn hoá phẩm có nội dung phản động hoặc đồi truỵ như đã nói trong Thông tư Liên Bộ Văn hoá - Nội vụ số 855-TT/LB ngày 12-4-1984).

Số còn lại phải tổ chức tiêu huỷ ngay, có lập biên bản và có đại diện của các cơ quan công an, văn hoá cấp tỉnh, thành phố, đặc khu cùng ký.

d) Các loại phim chiếu bóng, băng ghi hình, băng cát sét có nội dung phản động, đồi truỵ, do hải quan cửa khẩu bắt giữ phải niêm phong ngay. Sau khi ra quyết định xử lý tịch thu, thì Hải quan tỉnh, thành phố, đặc khu phải gửi ngay về Tổng cục Hải quan, Bộ Nội vụ, Bộ Văn hoá mỗi thứ một bản kèm theo biên bản phạm pháp và quyết định xử lý tịch thu. (Nếu chỉ có một bản thì gửi về Tổng cục Hải quan để Tổng cục chuyển cho Bộ Văn hoá hoặc cho Bộ Nội vụ như nói ở điểm c để xử lý).

Trong khi chờ đợi ý kiến quyết định của Tổng cục Hải quan, Giám đốc Hải quan tỉnh, thành phố, đặc khu phải bảo quản chu đáo, nghiêm cấm sử dụng dưới bất cứ hình thức nào, kể cả cho các cơ quan khác mượn.

đ) Các loại đồ cổ xuất khẩu trái phép sau khi lập biên bản phạm pháp, thì trong khi chờ xử lý, hải quan cửa khẩu phải chuyển giao ngay cho cơ quan văn hoá cấp tỉnh, thành phố, đặc khu bảo quản. Việc chuyển giao tang vật phạm pháp phải lập biên bản và niêm phong chu đáo.

IV. KHOẢN THI HÀNH

1. Định kỳ hàng năm, thủ trưởng hai ngành Văn hoá, Hải quan ở Trung ương và các địa phương có cửa khẩu họp một lần để kiểm điểm đánh giá công việc phối hợp và giải quyết những vấn đề do tình hình mới đặt ra.

2. ở các cửa khẩu chưa có cán bộ văn hoá, cán bộ hải quan đảm nhiệm việc kiểm tra và quản lý văn hoá phẩm xuất nhập khẩu.

Đối với văn hoá phẩm cần giữ lại để kiểm tra thì cán bộ hải quan lập biên bản và kịp thời thông báo cho cơ quan văn hoá địa phương cử người đến nhận và xử lý.

3. Thông tư này có hiệu lực từ ngày ký. Các quy định trước đây về quan hệ phối hợp giữa hai ngành Văn hoá và Hải quan trong việc kiểm tra và quản lý xuất nhập khẩu văn hoá phẩm trái với Thông tư này đều bãi bỏ.

Nguyễn Tài

(Đã ký)

Trần Văn Phác

(Đã ký)

 

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Thông tư 3007/TTLT năm 1985 về việc phối hợp kiểm tra và quản lý xuất nhập khẩu văn hoá phẩm do Bộ Văn hoá; Tổng cục Hải quan ban hành

  • Số hiệu: 3007/TTLT
  • Loại văn bản: Thông tư liên tịch
  • Ngày ban hành: 26/10/1985
  • Nơi ban hành: Bộ Văn hoá, Tổng cục Hải quan
  • Người ký: Nguyễn Tài, Trần Văn Phác
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: Kiểm tra
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
Tải văn bản