BỘ CÔNG NGHIỆP NHẸ Số:133-BCNN/KH | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA ******* Hà Nội ngày 13 tháng 03 năm 1961 |
Kính gửi: | Các ông Giám đốc các xí nghiệp, Công trường và các cơ quan thuộc |
Bộ quy định thể thức thi hành điều lệ tạm thời về việc lập kế hoạch, hạch toán, thống kê giá thành và phí lưu thông của Hội đồng Chính phủ ban hành theo Nghị định số 43-CP ngày 16 tháng 09 năm 1960 có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1961 để các xí nghiệp, công trường và các cơ quan thuộc Bộ triệt để thi hành:
MỤC ĐÍCH YÊU CẦU CỦA CHẾ ĐỘ LẬP KẾ HOẠCH, HẠCH TOÁN VÀ THỐNG KÊ GIÁ THÀNH CỦA SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP
Quản lý giá thành là tìm mọi biện pháp tiết kiệm lao động quá khứ và lao động sống nhằm mục đích hạ giá thành. Việc tính giá thành từng loại sản phẩm công nghiệp có mục đích:
- Làm cơ sở cho việc quy định giá bán buôn chỉ đạo.
- Để lập kế hoạch và tính giá thành của toàn bộ sản phẩm thương phẩm;
- Để xác định tốc độ tăng giảm giá thành sản phẩm công nghiệp có thể so sánh được trong công tác kế hoạch và thống kê
Mục đích lập kế hoạch giá thành để dự tính trước giá thành của các loại sản phẩm, định ra tiểu chuẩn cần thiết về nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, động lực tiền lương và các chi phí khác tính, vào giá thành của mỗi loại sản phẩm đó, làm cho việc dùng sức người sức của và tiền tệ đều có tiêu chuẩn nhất định và việc sử dụng được hợp lý, giúp ích cho các xí nghiệp tự kiểm tra được các hoạt động kinh tế - sản xuất của mình, nhờ đó giảm bớt và chấm dứt lãng phí, thực hành tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành là nguồn gốc quan trọng trong việc mở rộng tái sản xuất xã hội chủ nghĩa, tăng thêm tích lũy vốn trong ngành công nghiệp, thực hiện nhu cầu căn bản của chế độ hạch toán kinh tế, đồng thời đảm bảo nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.
Chính vì mục đích đó mà chế độ lập kế hoạch, thống kê và hạch toán giá thành của sản phẩm công nghiệp không ngừng được cải tiến.
Hội đồng Chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về việc lập kế hoạch, hạch toán, thống kê giá thành và phí lưu thông có hiệu lực thi hành từ 01-01-1961 nhằm mục đích:
1. Giúp ích cho việc cải tiến sự lãnh đạo của xí nghiệp trong công tác quản lý giá thành và lập kế hoạch giá thành được khoa học, đơn giản, gọn, dễ phát hiện vấn đề, làm cho việc phấn đấu hạ giá thành có trọng tâm, trọng điểm, giảm nhẹ khó khăn cho công tác quản lý;
2. Giảm bớt công việc cho cán bộ quản lý làm nhanh, tốt, chính xác trong khi lập kế hoạch, thống kê và hạch toán giá thành có quy định rõ ràng nguyên tắc, phương pháp, quan niệm thống nhất, do đó công tác lập kế hoạch, tính giá thành và phí tổn sản xuất được nhanh chóng, dễ dàng, làm cho cán bộ quản lý có điều kiện tập trung vào phục vụ sản xuất tốt hơn, giám đốc tình hình chấp hành kế hoạch giá thành, kiểm tra việc giảm giá thành, phát hiện ra những nhân tố nào làm cho giá thành cao, tìm ra nguyên nhân trong quá trình chấp hành kế hoạch và lực lượng tiềm tàng trong nội bộ xí nghiệp căn cứ vào tiêu chuẩn các khoản chi phí giá thành do Nhà nước quy định.
3. Làm cho quần chúng công nhân dễ dàng tham gia quản lý kế hoạch giá thành, kiểm tra giá thành thực tế và đấu tranh hạ giá thành một cách có hiệu quả.
4. Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch, thống kê và hạch toán giá thành được chính xác, hợp lý và dễ so sánh giá thành sản phẩm cùng một loại của xí nghiệp này với xí nghiệp khác có cơ sở quy định thống nhất.
5. Loại trừ những nhân tố không tham gia quá trình sản xuất ra khỏi giá thành của sản phẩm công nghiệp nhằm giảm bớt khó khăn cho xí nghiệp trong việc hoàn thành nhiệm vụ hạ giá thành của Nhà nước và của Bộ, nhất là đối với những nhân tố khách quan trên sức người mà xí nghiệp không có khả năng khắc phục được như là: trợ cấp kinh phí công đoàn, Đảng và Đoàn thanh niên, chi phí chuyên gia, bệnh viện, cấp dưỡng, giữ trẻ, thuế,vv…
Chúng ta đều biết rằng yêu cầu của công tác quản lý sản xuất – kinh doanh đòi hỏi phải hạch toán sản xuất và tính giá thành, bởi vì trong kế hoạch sản xuất, kế hoạch giá thành là khâu chính. Vì thế, nếu không có hạch toán sản xuất rành mạch và tính giá thành chính xác thì không thể quản lý xí nghiệp công nghiệp được tốt.
Với mục đích yêu cầu trên, chế độ lập kế hoạch, hạch toán và thống kê giá thành mới do Hội đồng Chính phủ ban hành lần này sẽ có tác dụng nêu lên mục tiêu phấn đấu hạ giá thành và phương hướng cố gắng quản lý sản xuất kinh doanh của xí nghiệp được tốt hơn, chính xác hơn và hợp lý hơn bất cứ một chế độ lập kế hoạch, hạch toán và thống kê giá thành nào từ trước đến nay.
Lập kế hoạch, hạch toán và thống kê giá thành của sản phẩm công nghiệp, càng chính xác và hợp lý thì công tác quản lý giá thành càng trở thành nội dung trung tâm của hạch toán kinh tế trong các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta.
I. NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VỀ VIỆC LẬP VÀ XÉT DUYỆT KẾ HOẠCH
GIÁ THÀNH CỦA SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP
Khi lập và xét duyệt kế hoạch giá thành và phí lưu thông của các xí nghiệp phải dựa trên cơ sở tài liệu dưới đây làm căn cứ:
1. Phải căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước về sản xuất, kiến thiết cơ bản và lưu thông hàng hóa, về cung cấp vật tư, lao động tiền lương, vv…
2. Phải căn cứ vào những tiêu chuẩn về sử dụng thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, động lực và lao động do Ủy ban kế hoạch Nhà nước hoặc Bộ quy định.
3. Phải căn cứ vào những tiêu chuẩn về chế độ chỉ tiêu hành chính do Hội đồng Chính phủ hoặc cơ quan được Hội đồng Chính phủ quy định.
(Chương 1, điều 4 trong điều lệ tạm thời theo Nghị định số 43/CP ngày 16-09-1960 của Hội đồng Chính phủ).
A. Chi phí không được tính vào giá thành sản xuất công nghiệp:
Không được tính vào giá thành của sản phẩm công nghiệp 2 loại chi phí dưới đây:
Loại 1: - Chi phí cho các công việc không có tính chất sản xuất công nghiệp.
Loại 2: - Chi phí cho các sản phẩm không tính vào giá trị tổng sản lượng công nghiệp.
Nội dung chi tiết của từng loại chi phí trên như sau:
Loại 1. Chi phí cho các công việc không có tính chất sản xuất công nghiệp.
Không được tính vào giá thành của sản phẩm công nghiệp những chi phí cho các công việc không có tính chất sản xuất công nghiệp như sau:
Một là: Những chi phí cho công việc thuộc về xây lắp công trình kiến thiết cơ bản và sữa chữa lớn tài sản cố định gồm có:
1. Giá trị công việc xây dựng cơ bản và lắp đặt thiết bị và máy móc sản xuất do công nhân viên sản xuất công nghiệp làm không được tính vào giá thành của sản phẩm mà phải lấy ở vốn kiến thiết cơ bản để chi.
Nếu là xây dựng công trình phúc lợi tập thể hoặc bổ sung các sự nghiệp văn hóa và phúc lợi cho cán bộ, công nhân viên như: nhà ở, bệnh viện, vườn trẻ, nhà gửi trẻ, nhà ăn, câu lạc bộ và những xây dựng về văn nghệ, thể dục, thể thao thì do quỹ xí nghiệp (quỹ tiền thưởng xí nghiệp) chi. Những khoản chi này có thể chiếm 50% của quỹ tiền thưởng (Quỹ xí nghiệp). Số tiền chi vào khoản trên là thêm ngoài kế hoạch đã được duyệt y của mỗi xí nghiệp.
- Nếu cần xây dựng những xí nghiệp phúc lợi tập thể với quy mô lớn mà khả năng mỗi xí nghiệp không làm nổi thì sau khi được các xí nghiệp đồng ý và được Bộ trưởng duyệt y, Bộ có thể tập trung sử dụng một phần quỹ tiền thưởng của xí nghiệp “quỹ xí nghiệp”, nhưng số tiền thưởng xí nghiệp tập trung cả năm không được quá 20% của quỹ xí nghiệp “ quỹ tiền thưởng của xí nghiệp” đã được trích.
Nếu là chi về thiết bị an toàn lao động và thiết bị sản xuất nhằm tăng cường hơn nữa việc bảo vệ tính mạng, cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân và tăng thêm thiết bị sản xuất của xí nghiệp ngoài những việc mà Bộ đã quy định được trích vào vốn kiến thiết cơ bản ra để chi tiêu thì do quỹ xí nghiệp chi (quỹ tiền thưởng của xí nghiệp chi). Những chi phí vào thiết bị này chiếm độ 20% của quỹ xí nghiệp.
Hoặc là chi vào kinh phí chuyên dùng nếu là những khoản chi phí về cải tiến kỹ thuật, xây dựng mới, an toàn lao động và kiến thiết linh tinh (kỹ, tân, lao, linh). Những khoản chi này là ngoài kế hoạch và trong trường hợp quỹ xí nghiệp không đủ để chi (thiết bị an toàn và thiết bị sản xuất không được chi quá 20% của quỹ xí nghiệp). Do đó, trên 20% thì những khoản chi thêm về kỹ tân lao linh sẽ lấy vào kinh phí chuyên dùng.
Chú ý: Một số xí nghiệp đã lẫn lộn cải tiến kỹ thuật với sửa chữa thường xuyên. Do đó, có tình trạng những chi phí về cải tiến kỹ thuật đáng lẽ phải chi vào kinh phí chuyên dùng và không được tính vào giá thành của sản phẩm mới đúng, nhưng tài vụ kế toán của xí nghiệp lại quan niệm là sửa chữa thường xuyên lấy ở vốn lưu động để chi và tính vào giá thành của sản phẩm là sai, nay cần bổ khuyết.
2. Sửa chữa lớn tài sản cố định (Nhà cửa công trình kiến trúc, máy móc sản xuất, phương tiện vận tải và các tài sản cố định khác trong sản xuất và ngoài sản xuất) chi vào vốn sửa chữa lớn (lấy ở ngân hàng tiền gửi về vốn sửa chữa lớn tài sản cố định).
- Hai là: Chi phí về công việc vận tải cho cơ quan bên ngoài; vận tải cho ngành xây dựng cơ bản; vận tải cho sửa chữa lớn công trình kiến trúc trong xí nghiệp:
Không được tính vào giá thành của sản phẩm công nghiệp, mà phải:
1. Thu tiền ở vốn kiến thiết cơ bản để chi về công việc vận tải cho ngành xây dựng cơ bản;
2. Thu tiền của cơ quan bên ngoài để chi về công việc vận tải cho cơ quan bên ngoài;
3. Thu tiền ở vốn sửa chữa lớn (vốn khấu hao để sửa chữa lớn tài sản cố định) để chi về công việc vận tải cho sửa chữa lớn công trình kiến trúc trong xí nghiệp.
- Ba là: Chi phí nghiên cứu thí nghiệm (ngoài việc nghiên cứu thí nghiệm để xác định quy cách, phẩm chất sản phẩm của xí nghiệp được tính vào giá thành.).
Không được tính vào giá thành của sản phẩm công nghiệp, mà phải:
1. Thu tiền của cơ quan bên ngoài hoặc Bộ chủ quản xí nghiệp để chi về những công việc nghiên cứu, thí nghiệm, thiết kế, làm cho cơ quan bên ngoài, hoặc làm cho Bộ chủ quản xí nghiệp.
2. Lấy ở kinh phí chuyên dùng để chi về những công việc nghiên cứu chế thử sản phẩm mới (chỉ được kể những sản phẩm mới mà xí nghiệp chưa sản xuất bao giờ).
Những chi phí về phổ biến kinh nghiệm tiên tiến, cải tiến tổ chức sản xuất và cải tiến kỹ thuật cũng lấy ở kinh phí chuyên dùng để chi, mà không được tính vào giá thành sản phẩm.
Loại 2. Chi phí cho các sản phẩm không nằm trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp.
Trong xí nghiệp, ngoài việc sản xuất sản phẩm chính (sản xuất chính), xí nghiệp còn có những sản xuất phụ như là: sản xuất những phụ tùng để sửa chữa và thay thế, những công cụ mô hình và bán thành phẩm tự chế để dùng trong nội bộ xí nghiệp đều không được tính vào giá trị tổng sản lượng của sản phẩm chính. Do đó các loại của chi phí sản xuất (nguyên liệu, vật liệu mua ngoài dùng trong quá trình sản xuất; nhiên liệu và động lực mua ngoài dùng trong quá trình kỹ thuật công nghiệp: tiền lương của công nhân sản xuất, vv…)của những sản phẩm tự chế đó thuộc vào sản xuất phụ đều không được tính vào giá thành của sản phẩm chính, mà phải:
1. Lấy ở vốn sửa chữa lớn để chi về việc sản xuất những sản phẩm tự chế dùng vào sửa chữa lớn tài sản cố định.
2. Lấy ở vốn lưu động của xí nghiệp để chi về việc sản xuất những sản phẩm tự chế để dự trữ trong kho của xí nghiệp.
- Khi nào xuất kho dự trữ những sản phẩm tự chế ấy ra dùng vào sản xuất chính thì lúc đó mới được tính vào giá thành của sản phẩm chính.
Trường hợp xuất kho dự trữ những sản phẩm tự chế ấy ra dùng cho công việc sửa chữa lớn tài sản cố định của xí nghiệp thì lúc đó phải thu tiền vốn sửa chữa lớn về giá trị của những sản phẩm tự chế đó để hoàn lại vốn lưu động (chi phí sản xuất phụ do vốn lưu động chi ra, cho nên nay phải thu về).
Những chi phí không được tính vào kế hoạch giá thành nhưng được tính vào giá thành thực tế khi hạch toán và thống kê giá thành gồm có 5 loại:
Loại 1. Chi phí trong quá trình áp dụng kỹ thuật không thích hợp.
Loại 2. Thiệt hại về sản phẩm hỏng.
Loại 3.Thiệt hại về đâm đổ và bồi thường của ngành vận tải của xí nghiệp.
Loại 4. Thiệt hại về ngừng sản xuất.
Loại 5. Các thiệt hại khác do khuyết điểm chủ quan của xí nghiệp gây nên.
Các loại chi phí kể trên thuộc vào loại chi phí sản xuất hầu hết là do việc quản lý kinh doanh của xí nghiệp còn thiếu sót cần khắc phục và xóa bỏ, nên trong kế hoạch giá thành và phí lưu thông không được ghi, nhưng trên thực tế vẫn còn vướng mắc những thiếu sót ấy thì vẫn được tính vào giá thành khi hạch toán thống kê.
Phân tích chi tiết các loại chi phí trên như sau:
Loại 1. Chi phí trong quá trình áp dụng kỹ thuật không thích hợp.
Loại 2. Thiệt hại về sản phẩm hỏng:
Sản phẩm hỏng hay phế phẩm là những thành phẩm, bán thành phẩm sản xuất ra không đúng quy cách, phẩm chất, tiêu chuẩn kỹ thuật và mẫu hàng đã quy định cho sản phẩm đó và không thể sử dụng được theo công dụng chính của nó. Có thể định nghĩa một cách giản đơn, sản phẩm hỏng là sản phẩm không đúng quy cách phẩm chất và không có giá trị sử dụng như một sản phẩm thương phẩm theo đúng công dụng chính của nó.
Những sản phẩm hỏng (phế phẩm) muốn sử dụng được thì phải mất thêm chi phí sửa chữa lại.
Thiệt hại về sản phẩm hỏng bao gồm:
1. Giá trị của tất cả sản phẩm hỏng do sản xuất loại ra.
2. Những phí tổn về sửa chữa sản phẩm hỏng kể trên.
Những sản phẩm hỏng phát hiện ra trong quá trình sản xuất chia ra 2 loại:
1. Sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được.
2. Sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được.
Giá trị thiệt hại về sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được và không thể sửa chữa được như sau:
1. Giá trị thiệt hại về sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được bao gồm:
- Giá trị vật liệu và bán thành phẩm;
- Tiền lương dùng vào việc sửa chữa những sản phẩm hỏng;
- Phân bổ một phần kinh phí phân xưởng thích hợp.
(nhưng phải trừ khoản bồi thường do người đã làm hỏng phải trả (nếu có)).
Còn giá thành của bản thân sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được thì không tính là phí tổn để sửa chữa phế phẩm.
Không phân bổ quản lý xí nghiệp vào sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được).
2. Giá trị thiệt hại sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được:
Tức là những sản phẩm hư hỏng hoàn toàn không thể sửa chữa được hay “phế phẩm không thể sửa chữa được thì không được tính vào giá trị tổng sản lượng công nghiệp.
Đối với phế phẩm không thể sửa chữa được thì xí nghiệp phải thu nhặt và đánh giá vật phế phẩm đó xem như phế liệu. Giá trị còn lại của phế phẩm được xem như phế liệu thì phải hạch toán giảm thiệt hại về sản phẩm hỏng.
Giá trị thiệt hại bao gồm toàn bộ chi phí trong quá trình sản xuất trừ đi (-) giá trị thu hồi được.
Khi tính giá trị sản phẩm hỏng do cơ quan tiêu thụ bên ngoài phát hiện thì cũng chia ra 2 loại:
1. Đối với sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được thì phần thiệt hại bao gồm chi phí về sửa chữa sản phẩm hỏng cho người tiêu thụ.
2. Đối với sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được, chi phí về sản phẩm hỏng bao gồm:
Giá thành công xưởng của sản phẩm, (a)
+ (Cộng với) Chi phí về đổi hàng mới, (b)
+ (Cộng với) Tiền chuyên chở đi về của sản phẩm, (c).
Muối xác định số thiệt hại về sản phẩm hỏng (TH) thì phải:
Lấy giá thành công xưởng (a) cộng với (+) chi phí về đổi hàng mới và tiền chuyên chở đi về (b + c)
Rồi trừ đi (-) số tiền thu thực tế do người có lỗi bồi thường, hoặc cơ quan cung cấp bồi thường (B) vì cung cấp nguyên nhiên vật liệu kém phẩm chất nên gây tình trạng sinh ra sản phẩm hỏng.
TH = {a + (b + c)} – B.
Nếu phát hiện trong thời kỳ báo cáo thì điều chỉnh ngay trong báo cáo.
Nếu phát hiện sau thời kỳ báo cáo thì chờ đến sáu tháng hay toàn năm sẽ điều chỉnh sau.
Trong trường hợp xí nghiệp sản xuất sản phẩm không đúng phẩm chất quy cách của kỹ thuật quy định thì không được ghi vào sản lượng hay giá trị tổng sản lượng, do đó không được tính là đơn vị sản phẩm để phân bổ vào giá thành (theo bản giải thích giá thành sản phẩm công nghiệp quốc doanh kèm theo công văn số 619-CTK/CN ngày 29-08-1960 của Cục Thống kê trung ương, điểm 4, trang 8).
Nói chung, khoản thiệt hại về sản phẩm hỏng và chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng đó thì được tính vào giá thành thực tế ở khoản mục “Thiệt hại về sản phẩm hư hỏng trong sản xuất ”, nhưng tuyệt đối không được tính vào “Kế hoạch giá thành ”.
- Đối với những sản phẩm hỏng (phế phẩm) xảy ra trong sản xuất thì cần phải truy cứu trách nhiệm, hoặc do máy móc thiết bị không tốt, hoặc do công nhân làm hỏng, hoặc do người cung cấp nguyên vật liệu không đúng phẩm chất để gây ra hư hỏng. Tùy trường hợp cụ thể mà xét người có trách nhiệm phải đền bù một số phần thiệt hại, hoặc cải tiến máy móc để tránh thiệt hại.
- Đối với các ngành đúc, nhiệt điện, thủy tinh và một số xí nghiệp mới sản xuất thì những thiệt hại về sản phẩm hỏng trong quá trình sản xuất được tính vào kế hoạch giá thành một tỷ lệ nhất định do Ủy ban kế hoạch Nhà nước quy định để xí nghiệp có hướng phấn đấu để giảm dần tỉ lệ phế phẩm (sản phẩm hỏng). Bộ sẽ quy định tỉ lệ phế phẩm cho từng xí nghiệp có sản xuất cơ khí chế tạo dụng cụ, máy móc được phép tính vào giá thành thực tế nhằm mục đích hạn chế thiệt hại về phế phẩm. Trường hợp xí nghiệp nào vượt mức tỉ lệ phế phẩm của Bộ quy định thì phải báo cáo cho Bộ xét duyệt.
Thiệt hại về sản phẩm hỏng không được tính vào kế hoạch giá thành, nhưng được tính vào giá thành thực tế khi hạch toán và thống kê.
Những thiệt hại về sản phẩm hỏng hay phế phẩm sau khi đã được Ủy ban kế hoạch Nhà nước xét duyệt các tỉ lệ phế phẩm ghi vào kế hoạch giá thành và Bộ xét duyệt tỉ lệ phấn đấu giảm tỉ lệ phế phẩm nhằm hạ giá thành thực tế thì đều được ghi vào khoản mục “Thiệt hại về sản phẩm hỏng” trong giá thành công xưởng.
3. Nguyên tắc phân bổ thiệt hại về sản phẩm hỏng trong sản xuất như sau:
1. Căn cứ vào những nguyên nhân do phòng Kiểm tra kỹ thuật phát hiện, phòng Tài vụ kế toán của xí nghiệp phải tính toán thiệt hại về phế phẩm (sản phẩm hỏng) phân bổ cho từng phân xưởng, từng sản phẩm, từng khoản mục chi phí, hoặc phân bổ cho từng cá nhân gây ra sản phẩm hỏng và tính vào phân xưởng làm hỏng phải chịu.
2. Trường hợp vì không tìm ra nguyên nhân do phân xưởng nào làm hỏng thì ghi thiệt hại cho phân xưởng sản xuất chính phải chịu.
3. Trong khi hạch toán, thiệt hại về sản phẩm hỏng được ghi vào khoản mục “Thiệt hại về sản phẩm hỏng”, tức là không được tính lẫn lộn vào những khoản chi phí về vật liệu, tiền lương và các khoản mục khác,
4. Trong trường hợp xí nghiệp sản xuất ra sản phẩm mà chất lượng kém hơn chất lượng đã ghi trong kế hoạch và có thể bán ra được, nhưng số thu nhập về tiêu thụ sản phẩm đó sẽ ít hơn tổng số chi phí sản xuất của sản phẩm ấy thì không được tính vào sản lượng và giá trị tổng sản lượng của xí nghiệp. Những chi phí sản xuất của các sản phẩm đó cũng không được tính vào phí tổn sản xuất của xí nghiệp, mà được ghi vào kết quả thu chi tài vụ của xí nghiệp.
5. Những xí nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng thì được phép tính số thiệt hại về sản phẩm hỏng vào giá trị sản phẩm đang chế tạo dở dang tại xưởng (giá trị tại phế phẩm) nếu như số thiệt hại đó có tính vào một đơn đặt hàng nhất định mà chưa sản xuất xong.
6. Đối với sản phẩm của phân xưởng sản xuất chính nhưng do phân xưởng sản xuất phụ hoặc các phân xưởng khác của xí nghiệp làm hỏng thì vẫn ghi số thiệt hại về sản phẩm hỏng đó cho phân xưởng sản xuất chính.
7. Thiệt hại về sản phẩm hỏng phát hiện ra trong nội bộ xí nghiệp thì bất cứ là phát hiện ở đâu trong xí nghiệp cũng vẫn tính vào phân xưởng làm hỏng.
8. Những sản phẩm hỏng do người tiêu thụ bên ngoài phát hiện thì xí nghiệp sản xuất ra sản phẩm hỏng sẽ chịu trách nhiệm ghi vào phần chi của mình vào tháng mà xí nghiệp đó nhận được giấy phát hiện sản phẩm hỏng của người tiêu thụ (Thành phẩm đã bán cho người tiêu thụ nay phát hiện ra làm hàng hư hỏng hay sản phẩm hỏng tức là phế phẩm). Những thiệt hại về sản phẩm hỏng đó sẽ tính cho phân xưởng làm hỏng, sau khi tìm ra nguyên nhân.
Trường hợp không tìm ra nguyên nhân thì những thiệt hại về sản phẩm hỏng do người tiêu thụ phát hiện tính cho phân xưởng sản xuất chính phải chịu như đã nói ở nguyên tắc 2 đã nói ở trên.
Giá trị thiệt hại về sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được cho người tiêu thụ phát hiện gồm có: giá thành công xưởng của sản phẩm hỏng + (cộng với) những phí tổn về đổi hàng mới và phí tổn chuyên chở vận tải của sản phẩm hỏng đó.
Nếu là sản phẩm có thể sửa chữa lại được thì thiệt hại gồm có: phí tổn về đổi hàng mới và chuyên chở vận tải + (cộng với) những phí tổn về sửa chữa sản phẩm hỏng đó cho người tiêu thụ.
9. Để xác định số thiệt hại về sản phẩm hỏng (phế phẩm) phát hiện ở trong nội bộ xí nghiệp cũng như phát hiện bên ngoài phân bổ vào giá thành của sản phẩm, cách tính giá trị thiệt hại sản phẩm hỏng đó như sau (TH):
Lấy số phí tổn về sửa chữa sản phẩm hỏng (P)
Cộng với (+) giá trị sản phẩm hỏng phát hiện trong xí nghiệp hay ngoài xí nghiệp (G)
Trừ đi (-) giá trị của sản phẩm có thể sử dụng được (S) và số tiền thực tế do người có lỗi phải đền (L) hoặc tổng số tiền thực tế do người cung cấp phải bồi thường (B) do cung cấp vật liệu hoặc bán phế phẩm kém phẩm chất, nên gây ra tình trạng sản phẩm hỏng:
TH = (P+G) – (S+L hoặc B).
- Trong trường hợp nguyên nhân thiệt hại về sản phẩm hỏng do người cung cấp vật liệu hoặc bán thành phẩm gây ra thì sau khi người cung cấp đã công nhận khuyết điểm hoặc cơ quan trọng tài đã chứng thực thì sẽ lấy tổng số tiền do người cung cấp bồi thường trừ đi (-) số tiền thiệt hại về sản phẩm hỏng của xí nghiệp.
- Việc trừ tiền của công nhân, cán bộ kỹ thuật và nhân viên gây ra sản phẩm hỏng (phế phẩm) để bù lại số thiệt hại đó sẽ do Nhà nước quy định.
10. Đối với số thiệt hại về sản phẩm sản xuất ra trong thời kỳ trước, nhưng bây giờ không còn sản xuất nữa, mà đến nay người tiêu thụ mới phát hiện là sản phẩm hỏng thì thiệt hại đó phải tính vào giá thành của loại sản phẩm tương tự đang sản xuất.
Nếu trong thời kỳ báo cáo hiện tại mà không sản xuất những loại sản phẩm tương tự như thế thì phân bổ cho toàn bộ sản phẩm thương phẩm chịu theo phương pháp phân bổ quản lý phí xí nghiệp.
11. Đối với những sản phẩm hoặc công việc đó có đảm bảo nếu như hỏng trước thời hạn đảm bảo đó thì những phí tổn về sửa chữa trong trường hợp này cũng tính như là thiệt hại về sản phẩm hỏng.
Loại 3. Thiệt hại về đâm đổ và bồi thường của ngành vận tải của xí nghiệp.
Không được tính vào kế hoạch giá thành, nhưng được ghi vào giá thành thực tế (ô-tô vận tải của xí nghiệp đâm vào tường làm đổ tường của bên ngoài phải bồi thường).
Loại 4. - Thiệt hại về ngừng sản xuất:
- Không được tính vào giá thành khi lập kế hoạch (trừ loại xí nghiệp sản xuất theo mùa thì được tính vào giá thành kế hoạch).
- Nhưng được tính vào giá thành thực tế khi hoạch toán và thống kê.
- Thiệt hại về ngừng sản xuất do 3 nguyên nhân:
1. Do nguyên nhân bên ngoài (do cơ quan khác gây nên);
2. Do nguyên nhân bên trong (do bản thân xí nghiệp gây nên);
3. Do hỏa hoạn thiên tai,
Cụ thể như sau:
1. Nguyên nhân bên ngoài:
Những thiệt hại về ngừng sản xuất do nguyên nhân bên ngoài tức là do cơ quan khác gây nên thì:
- Không được tính vào giá thành của sản phẩm.
- Nhưng được ghi vào lỗ của xí nghiệp.
Thí dụ: các cơ quan bên ngoài không cung cấp đủ điện để chạy máy, hoặc không cung cấp đủ nguyên vật liệu để sản xuất, nhiên liệu để đốt lò, hoặc không cung cấp đúng thời hạn hợp đồng thì không được tính vào giá thành kế hoạch, nhưng được tính vào giá thành thực tế của sản phẩm và ghi riêng vào khoản mục “thiệt hại về ngừng sản xuất ” trong giá thành công xưởng.
2. Do nguyên nhân bên trong:
Những thiệt hại về ngừng sản xuất do nguyên nhân bên trong tức là do bản thân xí nghiệp gây nên không được ghi vào kế hoạch giá thành.
Những thiệt hại này do công tác quản lý của nội bộ xí nghiệp gây nên, do đó khi hạch toán, được ghi vào giá thành thực tế của sản phẩm sản xuất ra (ghi vào khoản mục thiệt hại về ngừng sản xuất trong giá thành công xưởng).
3. Do hỏa hoạn thiên tai:
Những thiệt hại về ngừng sản xuất do hỏa hoạn (cháy nhà) thiên tai (bão lụt, vv…) thì không được tính vào giá thành của sản phẩm (giá thành kế hoạch và giá thành thực tế đều không được tính vào), nhưng được ghi vào lỗ của xí nghiệp.
4. Tổng số thiệt hại vì ngừng sản xuất gồm có:
Một là: Tổng số tiền lương chính thực tế phải trả cho công nhân trong thời gian ngừng sản xuất.
Nguyên tắc trả lương trong những trường hợp ngừng sản xuất như sau:
Trường hợp thứ nhất: Ngừng sản xuất vì điều kiện thời tiết hoặc thiên tai:
Khi mưa bão, lụt lũ, hỏa hoạn, không thể tiếp tục sản xuất được thì cấp phụ trách sẽ điều động công nhân viên làm việc khác. Nếu không bố trí được công việc khác thì sẽ tuyên bố cho công nhân viên tạm nghỉ. Trong thời gian tạm nghỉ, công nhân viên được trả lương:
- 80% lương trong 7 ngày đầu.
- 70% lương từ ngày thứ 8 trở đi.
Trường hợp nếu cấp phụ trách chưa tuyên bố mà công nhân viên tự ý bỏ việc thì xem như nghỉ việc không có lý do chính đáng không có lương.
Trường hợp thứ hai: Ngừng sản xuất vì khuyết điểm của xí nghiệp.
Đều xem là do khuyết điểm của xí nghiệp những trường hợp phải tạm ngừng sản xuất như: vì mất điện, hỏng máy không sửa kịp, thiếu nguyên vật liệu, thừa nhân công, ứ đọng hàng hóa do kế hoạch không sát.
Những ngày ngừng sản xuất như vậy sẽ trả:
- 100% lương trong 3 ngày đầu.
- 80% lương từ ngày thứ 4 trở đi.
Trường hợp thứ ba: Ngừng sản xuất vì phạm kỷ luật.
Trường hợp một bộ phận hay cả xí nghiệp phải tạm ngừng sản xuất vì một hành động vi phạm kỷ luật của một vài cá nhân gây nên (ví dụ: máy đương chạy bỏ đi nơi khác để hỏng máy, đứt điện, hoặc làm những việc chưa được cấp phụ trách đồng ý) thì những người đã vi phạm kỷ luật không được trả lương trong thời gian ngừng sản xuất, ngoài ra còn phải đưa ra hội đồng kỷ luật.
Những người khác bắt buộc phải ngừng sản xuất và nghỉ việc thì được trả 100% lương trong 3 ngày đầu, 80% lương từ ngày thứ 4 trở đi.
Đối với những trường hợp ngừng sản xuất trên:
- Trong những ngày đầu cấp phụ trách nên cố gắng bố trí những công việc tạm thời cho công nhân viên làm. Nếu không có việc thì tổ chức cho học tập chính trị hay nghiệp vụ. Những ngày làm công việc tạm thời hay học tập đều được trả lương.
- Nếu xét thấy trong khoản 10 ngày chưa có thể trở lại sản xuất được thì cấp phụ trách đơn vị phải thỉnh thị ngay cấp trên để tìm ra biện pháp giải quyết. Trong trường hợp không giải quyết được mà phải tạm ngừng, sản xuất một thời gian dài thì có thể chuyển công nhân viên đến công tác ở một đơn vị khác hoặc phải nghỉ việc tạm thời. Trường hợp nghỉ việc như vậy thì không trả lương nữa mà sẽ ấn định một khoản trợ cấp đặc biệt nhằm giúp đỡ một phần cho công nhân viên.
(Thông tư 27/LĐ-TT ngày 15-10-1958 của Bộ Lao động hiện hành).
Hai là: Giá trị nhiên liệu và động lực sử dụng trong thời gian ngừng sản xuất.
Ba là: Một phần kinh phí phân xưởng và quản lý phí xí nghiệp phân bổ cho thiệt hại vì ngừng sản xuất phải chịu:
5. Tiền phạt do cơ quan cung cấp bên ngoài trả vì đã vi phạm hợp đồng thì không được trừ vào số thiệt hại vì thời gian chết do ngừng sản xuất, mà phải tính vào quản lý phí xí nghiệp.
6. Những thiệt hại vì ngừng sản xuất nếu không thể trực tiếp phân bổ vào giá thành của sản phẩm theo 2 phương pháp:
Một là: Nếu do nguyên nhân bên trong thì theo phương pháp phân bổ kinh phí phân xưởng như sau:
- Phân bổ theo từng khoản về bảo quản, sử dụng thiết bị, chi phí chung cho toàn phân xưởng (trong đó có phí tổn để bảo quản, sử dụng máy móc thiết bị).
- Hoặc là phân bổ theo tỉ lệ với số giờ chạy máy.
- Hoặc là phân bổ theo số ngày công của công nhân sản xuất, hoặc theo tiền lương chính của công nhân sản xuất.
Chú thích: đối với những phí tổn chung của toàn phân xưởng thì cần tính vào giá thành của phân xưởng nào đã trực tiếp sản xuất ra sản phẩm đó.
Trường hợp nếu trong nội bộ phân xưởng sản xuất nhiều loại sản phẩm, hoặc nhiều ban, tổ sản xuất thì tùy theo tính chất sản xuất mà tiến hành phân bổ tỉ lệ với số giờ chạy máy hoặc với tiền lương chính của công nhân sản xuất.
Vì tính chất sản xuất của từng loại xí nghiệp công nghiệp khác nhau, vì đặc điểm khác nhau của từng ngành nên không thể áp dụng một phương pháp phân bổ thống nhất cho tất cả các xí nghiệp được mà mỗi ngành sản xuất có thể áp dụng một phương pháp phân bổ riêng, có chiếu cố đến đặc điểm và trình độ kế hoạch, hạch toán và thống kê giá thành của từng ngành sản xuất đó, nhưng phải được Bộ cho phép.
Trên đây là mấy phương pháp chủ yếu trong việc phân bổ kinh phí phân xưởng trong thời gian ngừng sản xuất.
Còn nhiều phương pháp khác để phân bổ kinh phí phân xưởng theo chế độ kế toán Nhà nước do Bộ Tài chính ban hành có giải thích rõ ở trang 101.
Hai là: Nếu do nguyên nhân bên ngoài thì phân bổ những thiệt hại vì ngừng sản xuất theo phương pháp phân bổ quản lý xí nghiệp như sau:
Quản lý phí xí nghiệp phân bổ cho:
1. Phân xưởng sản xuất chính sản xuất ra thành phẩm, bán thành phẩm, kể cả phân xưởng chế biến sản phẩm phụ bằng phế liệu.
2. Phân xưởng sản xuất phụ đối với công việc làm cho bên ngoài cũng như để thỏa mãn nhu cầu kiến thiết cơ bản, sửa chữa lớn, công trình phục vụ công cộng, nhu cầu về văn hóa và sinh hoạt của xí nghiệp.
Chú ý: Trong quản lý phí xí nghiệp bao gồm chi phí sản xuất, chi phí sản xuất như là tiền phạt, tiền bồi thường mà xí nghiệp phải trả vì vi phạm hợp đồng vận tải, hoặc cung cấp nguyên vật liệu, thiệt hại, hư hỏng, mất vật liệu, mất sản phẩm, vv… Cho nên khi phân bổ chi phí sản xuất vào giá thành thực tế của sản phẩm thì cần phải trừ đi các khoản tiền phạt, tiền bồi thường vì vi phạm hợp đồng kinh tế mà xí nghiệp thu được của các cơ quan khác và số sản phẩm, vật liệu thừa ra sau khi kiểm kê ở các kho và phân xưởng.
Trường hợp xí nghiệp thu khoản tiền phạt, tiền bồi thường vi phạm hợp đồng mà tỷ lệ nhiều hơn số tiền nộp phạt phải chi ra thì số tiền bội thu đó không được phân bổ để giảm những chi phí phi sản xuất, mà ghi vào lỗ của xí nghiệp.
7. Thiệt hại về ngừng sản xuất chia ra 2 loại:
Một là: Thiệt hại về ngừng sản xuất trong kế hoạch đối với các xí nghiệp sản xuất theo mùa như: rượu, nước đá, chè, thuốc lá, đường, ép dầu, vv… thì được tính vào kế hoạch giá thành khi lập kế hoạch, nhưng phải được Bộ chủ quản quy định.
Khi hạch toán thì được tính trước vào giá thành thực tế các tháng trong năm về những thiệt hại ngừng sản xuất dự toán trong kế hoạch.
Hai là: Thiệt hại về ngừng sản xuất ngoài kế hoạch thì không được tính vào kế hoạch giá thành khi lập kế hoạch, nhưng phải được ghi vào giá thành thực tế đã nói ở trên đối với các xí nghiệp sản xuất không phải theo mùa.
Về thời gian thì việc ngừng sản xuất có thể chia ra làm 3 trường hợp:
- Ngừng sản xuất dưới 1 tiếng đồng hồ.
- Ngừng từ 1 tiếng đồng hồ trở lên nhưng dưới 1 ca làm việc (dưới 8 tiếng đồng hồ),
- Ngừng từ 1 ca hay 8 tiếng đồng hồ trở lên.
Về không gian thì có thể ngừng sản xuất toàn xí nghiệp hay ở từng bộ phận của xí nghiệp (các phân xưởng, các tổ sản xuất, vv…).
Ngừng sản xuất là một hiện tượng không tốt trong sản xuất, cần tích cực đấu tranh chống hiện tượng đó, để có cơ sở đấu tranh chống hiện tượng không tốt đó thì phải biết được trong mỗi tháng, thời gian ngừng sản xuất toàn xí nghiệp và ngừng sản xuất từng bộ phận là bao lâu. Chẵng những thế mà còn phải tính ra bằng số tiền thiệt hại do ngừng sản xuất gây nên để đánh giá được mức độ của thiệt hại đó.
Đứng về phía thống kê thời gian ngừng sản xuất, thì bất luận thời gian ngừng sản xuất dài hay ngắn, ngừng toàn xí nghiệp hay từng bộ phận, đều phải ghi số giờ chết để thống kê.
Nhưng để đơn giản bớt công việc hạch toán, Bộ quyết định căn cứ vào thời gian chết mà sắp xếp ngừng sản xuất thành 2 loại:
- Ngừng sản xuất dưới 1 tiếng đồng hồ.
- Ngừng sản xuất từ 1 tiếng đồng hồ trở lên.
Một là: Ngừng sản xuất dưới 1 tiếng đồng hồ:
Nếu ngừng sản xuất dưới 1 tiếng đồng hồ thì dù là ngừng toàn xí nghiệp, hay từng bộ phận và do nguyên nhân bên trong hay bên ngoài đều không cần tính ra tiền của thiệt hại đó để ghi vào sổ kế toán. Nhưng nếu do nguyên nhân bên ngoài thì có giá trị thiệt hại đó. Trị giá như thế nhằm mục đích chiểu theo hợp đồng kinh tế đã ký kết mà đòi người có trách nhiệm phải bồi thường số thiệt hại đó.
Hai là: Ngừng sản xuất từ 1 tiếng đồng hồ trở lên:
Trường hợp ngừng sản xuất từ 1 tiếng đồng hồ trở lên thì tính vào giá thành thực tế của sản phẩm và ghi vào khoản mục “Thiệt hại vì ngừng sản xuất ” vô luận là ngừng sản xuất ở một bộ phận của phân xưởng, ở một phân xưởng hay ở nhiều phân xưởng và do bên ngoài hay bên trong gây ra.
Loại 5. Các thiệt hại khác do khuyết điểm chủ quan của xí nghiệp gây nên:
Các khoản thiệt hại khác do khuyết điểm chủ quan của xí nghiệp gây nên như là: Thiệt hại do bị phạt lưu kho, lưu bãi, vi phạm hợp đồng, nợ quá hạn và những thiệt hại do hao hụt quá mức quy định Nhà nước đều không được tính vào kế hoạch giá thành, nhưng được tính vào giá thành thực tế khi hạch toán và thống kê.
Cụ thể như sau:
1. Thiệt hại về tiền nộp phạt và tiền lãi do nợ quá hạn.
a) Tiền nộp phạt:
Các khoản tiền nộp phạt về lưu kho bãi, để toa xe và các phương tiện vận tải khác đỗ quá thời gian quy định, tiền bốc dỡ hàng chậm ở các bến tàu và ga, không thi hành đúng các hợp đồng đã ký kết với các nơi như: chậm giao hàng, chậm thanh toán, vv…
Tiền phạt, tiền bồi thường, vi phạm hợp đồng, phải trả hoặc nhận được do không hoàn thành hợp đồng cung cấp, tiêu thụ, do không thanh toán kịp thời, vv… tức là do không nghiêm chỉnh chấp hành các điều cam kết trong các điều khoản của hợp đồng đã ký kết đều không được tính vào kế hoạch giá thành, nhưng được tính vào giá thành thực tế khi hạch toán, ghi vào quản lý phí phi sản xuất (ngoài kế hoạch) trong quản lý phí xí nghiệp, giá thành công xưởng.
b)Lãi do nợ quá hạn:
Là tiền lợi tức trả ngân hàng do vay vốn ngân hàng quá kỳ hạn mà chưa thanh toán, kể cả vay ngân hàng trong định mức và ngoài định mức, cũng tính vào quản lý phí phi sản xuất như trên.
2. Thiệt hại do hao hụt quá mức quy định của Nhà nước.
Những thiệt hại do hao hụt quá mức quy định của Nhà nước như là:
a) Hao hụt và thiếu ở kho nguyên liệu vật liệu và thành phẩm, qua định mức (ngoài kế hoạch) hoặc không phát hiện được người gây nên khuyết điểm;
Hoặc do hao hụt tự nhiên vì lý do thời tiết như bốc hơi, vải co giản, bông ẩm, thuốc lá ẩm quá tỉ lệ hao hụt luật định (freinte légale).
Nếu thiếu do hao hụt thì ghi vào khoản mục:
Thiệt hại trong quản lý phí phi sản xuất như trên.
Nếu thiếu quá tỉ lệ hao hụt trên và do thủ kho gây nên khuyết điểm thì thủ kho phải bồi thường.
Nếu thiếu kho ngoài định mức mà không phát hiện được người gây ra thiếu hụt đó thì cũng tính vào quản lý phí xí nghiệp. Nếu thừa kho thì giảm bớt quản lý phí xí nghiệp (quản lý phí phi sản xuất).
Trường hợp thiếu dưới 50% của tỉ lệ quy định thì tính vào quản lý phí xí nghiệp. Thí dụ tỉ lệ quy định là 2% hao hụt tối đa (tỉ lệ hao hụt luật định) nghĩa là cứ 100kg thì được hao hụt nhiều nhất là 2kg chỉ còn 98 ki lô là hợp lý. Nhưng xí nghiệp hao hụt 2kg800 chỉ còn 97kg200 tức là đã hao hụt quá mức quy định 1ki lô hay dưới 50% (50% tỉ lệ của hao hụt).
Nếu hao hụt trên 50% thì dù hao đến 4 ki lô của tỉ lệ quy định không quá 2kg thì lập biên bản báo cáo lên Bộ để Bộ tùy trường hợp mà xét duyệt hoặc có những biện pháp giải quyết hợp lý.
Trong trường hợp này, nếu có lý do chính đáng và được Bộ cho phép sau khi thỏa thuận với Bộ Tài chính thì xí nghiệp được phép ghi vào lỗ và trừ vào lãi của xí nghiệp hoặc bằng cách giảm vốn lưu động, hoặc được Bộ Tài chính cấp vốn lưu động bổ sung.
- Nếu xét không có lý do chính đáng thì xí nghiệp sẽ phải bồi thường bằng cách trừ dần vào lương của cán bộ chịu trách nhiệm.
- Trường hợp thừa dưới 30% của tỉ lệ quy định thì sẽ giảm bớt quản lý phí xí nghiệp.
- Nếu thừa trên 30% của tỉ lệ quy định thì xí nghiệp cũng phải báo cáo lên Bộ để Bộ có thể hoặc cho vào lãi, hoặc tăng vốn lưu động của xí nghiệp, tùy theo khả năng mà tài chính của xí nghiệp và tình hình thực hiện kế hoạch tích lũy của Nhà nước mà Bộ cùng với Bộ Tài chính có thể quy định được.
b) Nguyên vật liệu và thành phẩm hư hỏng trong kho mà không tìm ra người khuyết điểm, trong trường hợp được cấp trên cho phép (Giám đốc chứng nhận).
c) Các chi phí khác về quản lý chi phí sản xuất như là tiền than phát không cho công nhân viên, điện phát không, vv…
Có 3 loại chi phí dưới đây được tính vào giá thành kế hoạch và giá thành thực tế:
1. Hao hụt tự nhiên và hao hụt do tính chất của từng ngành:
Những hao hụt của một số nguyên vật liệu, thành phẩm và hao hụt do tính chất của từng ngành như: điện, đúc, thủy tinh, vv… được tính vào kế hoạch giá thành theo tỉ lệ nhất định do Ủy ban kế hoạch Nhà nước và Bộ chủ quản quyết định tùy theo từng loại sản phẩm hoặc từng loại xí nghiệp.
2. Chi phí trong thời gian ngừng sản xuất của những xí nghiệp sản xuất theo mùa: Được tính vào giá thành khi lập kế hoạch, nhưng phải được Bộ chủ quản quy định.
3. Lương công nhân ốm đau nghỉ việc một thời gian ngắn (số ngày, Nhà nước quy định sau):
a) Trong thời hạn: - Tiền lương của công nhân ốm đau nghỉ việc trong thời gian Nhà nước quy định thì vẫn do quỹ tiền lương chi và được tính vào kế hoạch giá thành.
b) Quá thời hạn – Quá thời hạn quy định thì số tiền lương ấy do quỹ bảo hiểm lao động chi và được tính vào kế hoạch giá thành.
D. Chi phí do nguồn vốn khác đài thọ:
Các chi phí do các nguồn vốn khác dưới đây đài thọ thì không được lấy ở vốn lưu động để chi, không được tính vào giá thành khi lập kế hoạch, hạch toán và thống kê (không được tính vào kế hoạch giá thành cũng như không được hạch toán vào giá thành thực tế).
a) Do ngân sách Nhà nước đài thọ:
1. Trợ cấp 2% kinh phí công đoàn:
Bộ tài chính sẽ cấp phát cho Tổng công đoàn bằng cách:
- Các xí nghiệp, công trường vẫn tiếp tục trích 2% trên tổng mức tiền lương của toàn xí nghiệp để nộp cho Tổng công đoàn như hiện nay, nhưng có khác một điểm là không được tính vào giá thành như trước, mà sẽ do ngân sách Nhà nước đài thọ. Xí nghiệp, công trường coi như tạm ứng cho Bộ Tài chính và Bộ Tài chính sẽ hoàn lại dưới hình thức cho phép xí nghiệp được trích vào lãi đã nộp cho Tổng công đoàn, tránh tình trạng lấy vốn sản xuất ra để nộp cho Tổng công đoàn và một mặt khác lại phải vay vốn ngân hàng để sản xuất và phải trả lãi thì không hợp lý.
- Đối với các xí nghiệp không có lãi, hoặc bị lỗ thì hàng tháng phải lập kế hoạch xin cấp bù lỗ để lấy tiền nộp 2% trợ cấp kinh phí công đoàn cho Tổng công đoàn. Trường hợp Bộ Tài chính chưa kịp cấp phát ngay trong tháng đó thì chỉ được phép lấy ở vốn lưu động tạm ứng cho Bộ Tài chính vay để nộp trước cho Tổng công đoàn trong những ngày đầu tháng (từ ngày 1 đầu tháng đến ngày 10 theo quy định hiện hành). Tuyệt đối không được vay lãi ngân hàng để nộp kinh phí công đoàn cho Tổng công đoàn và không được tính vào giá thành số tiền lãi đó. Nếu có trường hợp bất đắc dĩ phải vay để đảm bảo hoạt động của công đoàn thì phải được Bộ và Bộ Tài chính cho phép và tiền lãi trả ngân hàng được trừ vào lãi, hoặc ghi vào lỗ và xin cấp bù lỗ như đã nói ở trên, chứ không được tính vào quản lý phí xí nghiệp trong giá thành của sản phẩm sản xuất ra.
Từ đầu năm 1960, nhiều xí nghiệp khi trích nộp 2% kinh phí công đoàn cho Tổng công đoàn vẫn tạm ghi nợ vào tài khoản 101 – “các khoản phải thu và phải trả” thì nay phải kết chuyển vào lỗ lãi của năm 1961, coi đó là 1 khoản do ngân sách Nhà nước cấp thêm cho Tổng công đoàn ngoài 2% kể trên đã được Bộ Tài chính đồng ý (hạch toán tháng 3 năm 1961 sẽ ghi: Nợ TK 109 – “lãi nộp trước vào ngân sách” (tiểu khoản 109.1 – “lãi nộp trước về năm nay”). Có TK 101 –“ các khoản phải thu và phải trả”.
Các chi phí về giáo dục, văn hóa, thể dục, thể thao và các chi phí khác do sự nghiệp hoạt động của Công đoàn thì do quỹ của Công đoàn chi theo đúng quy định của Hội đồng Chính phủ (Nghị định 43-CP kèm điều lệ tạm thời về kế hoạch và hạch toán giá thành từ 01-01-1961). Công đoàn phải lập dự trù đề nghị Tổng công đoàn cấp kinh phí cho số tiền chênh lệch giữa số tiền thu tiền học của học viên với số tiền chi về tiền lương trả cho giáo viên trong quý I – 1961 để có tiền hoàn lại vốn lưu động của xí nghiệp để sản xuất. Tuyệt đối không được thanh toán vào tài khoản 109 – “lãi nộp trước vào ngân sách” như đối với 2% kinh phí nộp cho Tổng công đoàn kể trên. Do đó, kể từ tháng 04-1961 trở đi, khoản chi này sẽ nằm trong kế hoạch thu chi tài vụ hàng tháng của Công đoàn do Công đoàn lập để gửi Tổng công đoàn xét duyệt và cấp kinh phí.
Các xí nghiệp, công trường vẫn có trách nhiệm giúp đỡ phương tiện làm việc cho Công đoàn.
2. Chi phí về hoạt động của Đảng và Đoàn thanh niên lao động:
Các kinh phí của Đảng ủy xí nghiệp và Đoàn thanh niên lao động trong xí nghiệp, công trường sẽ không tính vào giá thành, mà do ngân sách Nhà nước trực tiếp cấp phát theo dự toán ngân sách của Đảng và Đoàn Thanh niên lao động. Các đoàn thể này có thể thông qua ngân sách địa phương các tỉnh, thành phố, khu, cấp phát cho các cơ sở đoàn thể trong các xí nghiệp, công trường.
Các khoản chi do quỹ của Đảng ủy xí nghiệp và Đoàn Thanh niên lao động đài thọ gồm có:
1. Tiền lương của cán bộ chuyên trách của Đảng và Đoàn Thanh niên lao động trong xí nghiệp, công trường.
2. Các chi phí về hành chính của Đảng và Đoàn Thanh niên lao động như: văn phòng phí, dầu đèn, công tác phí, hội nghị phí, sửa chữa dụng cụ, phương tiện, vật rẻ tiền mau hỏng, vv…
(Quy định của Ủy ban không kế hoạch Nhà nước số 2687-UB/TC ngày 25-11-1960).
Chú thích: Tiền lương và các khoản phụ cấp của số cán bộ nói trên do Ngân sách Nhà nước thông qua cơ quan tài chính của Đảng và Đoàn Thanh niên mà đài thọ. Đảng ủy và ban chấp hành Đoàn thanh niên ở các xí nghiệp, cơ quan lập dự toán đề nghị cấp ủy Đảng và Đoàn thanh niên ở khu, thành, tỉnh xét duyệt và cấp phát.
Còn các phương tiện làm việc và ăn ở như nhà cửa, bàn ghế, giường tủ, máy điện thoại, xe cộ, vv.. thì chính quyền các xí nghiệp, cơ quan tùy hoàn cảnh của từng nơi mà có trách nhiệm cung cấp và quản lý.
(Trích Thông tư số 19-TT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ngày 10-03-1961 quy định về kinh phí công tác Đảng và Đoàn thanh niên lao động).
Những tài sản đó vẫn là tài sản của xí nghiệp, công trường, cho nên khấu hao vẫn tính vào giá thành sản phẩm hay giá thành công trình.
3. Chi phí về bệnh viện:
Trong điều lệ tạm thời kèm theo Nghị định số 43-CP ngày 16-09-1960 của Hội đồng Chính phủ, điều 8 quy định về chi phí bệnh viện do ngân sách Nhà nước đài thọ và không tính vào giá thành và phí lưu thông.
Theo tinh thần Hội nghị Liên bộ Y tế - Tài chính – Công nghiệp – Lao động và Ủy ban kế hoạch Nhà nước cuối năm 1960 đã thống nhất hướng giải quyết như sau:
- Về nguyên tắc: Các bệnh viện do Bộ Y tế quản lý.
Các xí nghiệp, công trường không được phép tổ chức bệnh viện và kinh doanh về bệnh viện.
Đối với những xí nghiệp, công trường nào hiện nay đã có bệnh viện, bệnh xá thì sẽ phải bàn giao cho Bộ Y tế hoặc Sở Y tế địa phương phụ trách quản lý. Các chi phí về bệnh viện sẽ do kinh phí sự nghiệp của Bộ Y tế hoặc cơ quan Y tế địa phương đài thọ như là: tiền lương trả cho bác sĩ, y sĩ, y tá, nhân viên phục vụ thuốc men theo chế độ quy định của Bộ Y tế, vv…
(Quy định số 2687-UB/TC ngày 25-11-1960 của Ủy ban kế hoạch Nhà nước).
Chú thích: Vì Bộ Y tế và các cơ quan y tế địa phương hiện nay chưa có đủ khả năng tiếp thu và quản lý tất cả các bệnh viện, bệnh xá của các xí nghiệp, công trường, cho nên để giải quyết khó khăn đó, Bộ đã thống nhất với Bộ Tài chính cho phép những xí nghiệp nào đã có bệnh viện, bệnh xá rồi, trong khi chờ đợi bàn giao tạm thời vẫn tiếp tục quản lý thì những chi phí về bệnh viện do nguồn vốn kinh doanh sự nghiệp ngoài công nghiệp cấp phát, cũng như các kinh doanh ngoài công nghiệp khác của xí nghiệp tổ chức và quản lý như là: kinh doanh về nhà ở, quán ăn lao động, kinh doanh về nhà giữ trẻ, kinh doanh về nhà tắm, là những kinh doanh thường xuyên có thu, có chi, có lỗ, lãi theo chế độ hạch toán của Bộ Tài chính hiện hành.
Vì vậy, chi phí về bệnh viện không được tính vào giá thành của sản phẩm công nghiệp khi lập kế hoạch, hạch toán và thống kê.
Hướng giải quyết trong tương lai, khi nào Bộ Y tế đảm nhận quản lý các bệnh xá, bệnh viện, nhà hộ sinh, phòng khám bệnh, trạm cấp cứu mà xí nghiệp đã tự động tổ chức và quản lý từ trước đến nay thì lúc đó ở mỗi xí nghiệp, công trường chỉ được phép mua sắm một tủ thuốc nhỏ gồm có một số thuốc nhất định như là thuốc chữa bệnh thông thường, thuốc phòng bệnh, bông, băng, thuốc đỏ, vv… để cấp cứu khi xảy ra tai nạn lao động, trước khi đưa đến bệnh viện hay bệnh xá nhằm mục đích phục vụ kịp thời cho bệnh nhân, không làm trở ngại cho sản xuất đối với những xí nghiệp, công trường ở xa bệnh viện, trạm cấp cứu của cơ quan y tế địa phương. Như vậy, lúc đó những chi phí cho tủ thuốc nhỏ được tính vào giá thành của sản phẩm công nghiệp (kinh phí phân xưởng và quản lý phí xí nghiệp).
4. Thiệt hại về hỏa hoạn thiên tai và các chi phí để thanh toán những hậu quả do hỏa hoạn thiên tai gây nên:
Những thiệt hại về hỏa hoạn thiên tai và các chi phí để thanh toán những thiệt hại do hỏa hoạn thiên tai gây nên sẽ do ngân sách Nhà nước đài thọ bằng 2 cách:
1. Hoặc là giảm vốn Nhà nước.
2. Hoặc là được ghi vào lỗ của xí nghiệp sau khi được Bộ Tài chính duyệt y.
Cần nhận thức thế nào là hoạn thiên tai:
Hỏa hoạn thiên tai là những thiệt hại do bão lụt, lửa, sấm sét gây ra một cách bất ngờ quá khả năng ngăn ngừa của các xí nghiệp, gây thiệt hại, hư hỏng mất mát nguyên vật liệu, thành phẩm, tài sản cố định, vv… của xí nghiệp. Thiệt hại về thiên tai còn bao gồm tất cả những chi phí về tiền lương, vật liệu có liên quan đến việc thanh toán những hậu quả của thiên tai (trường hợp sau khi thiên tai xảy ra).
Nếu do mưa gió bình thường mà vì thiếu sót hay thiếu chuẩn bị, thiếu trách nhiệm bảo quản của xí nghiệp nên xảy ra thiệt hại đến tài sản của xí nghiệp thì không gọi là thiên tai được.
Để phân biệt trường hợp nào là thiên tai, trường hợp nào là không phải thiên tai thì mỗi xí nghiệp có bị thiệt hại và muốn coi đó là thiệt hại do thiên tai gây nên thì xí nghiệp phải thành lập một hội đồng gồm có đại biểu của Ủy ban hành chính địa phương, Ban Giám đốc xí nghiệp, Công đoàn xí nghiệp, Phòng kế hoạch, Phòng kỹ thuật và Phòng Tài vụ của xí nghiệp. Hội đồng này có nhiệm vụ xét từng trường hợp cụ thể, điều tra nghiên cứu sự thiệt hại để có ý kiến kết luận, cuối cùng lập biên bản rõ ràng gửi về Bộ và Bộ Tài chính xét duyệt. Chỉ khi nào Bộ đồng ý với kết luận ghi ở biên bản và có ý kiến xét duyệt ghi vào biên bản thì xí nghiệp mới được dùng biên bản này làm chứng từ thi mới được ghi vào khoản thiệt hại do thiên tai gây ra vào lỗ của xí nghiệp. Cần phân biệt các trường hợp cụ thể:
1. Thiệt hại về vốn lưu động thì tính vào lỗ, thiệt hại về tài sản cố định thì giảm vốn Nhà nước (vốn cố định) nếu tài sản cố định đó không cần phải sửa chữa lại…
2. Chi phí để dọn dẹp sửa sang lại chỗ làm việc sau khi xảy ra thiên tai thì tính vào lỗ của xí nghiệp.
3. Chi phí để sửa chữa phục hồi lại tài sản cố định bị hư hỏng thì tùy theo từng trường hợp mà giải quyết như sau:
- Nếu chỉ trên cơ sở cũ mà sửa chữa lại những chỗ hư hỏng thì những chi phí sửa chữa được tính vào lỗ.
- Nếu tài sản cố định (TSCĐ) bị thiệt hại nặng phải tháo dỡ cái cũ để xây dựng lại cái mới thì xí nghiệp không được tự ý làm lại mà phải đề nghị Bộ duyệt chủ trương xây dựng lại.
5. Thiệt hại về đơn đặt hàng không có giá trị:
Người đặt hàng nửa chừng hủy bỏ đơn đặt hàng: tuy họ phải bồi thường một số tiền theo quy định trong hợp đồng, nhưng số tiền đó chưa đủ để bù đắp tất cả các khoản chi mà xí nghiệp phải bỏ ra để chi về đơn đặt hàng đó. Số tiền bội chi đó được chuyển vào lỗ của xí nghiệp.
6. Thiệt hại về nợ khó đòi:
Người mắc nợ xí nghiệp theo nhận xét của xí nghiệp không thể thu hồi lại được vì người mắc nợ đi mất không rõ địa chỉ ở đâu, người mắc nợ chết, hoặc vì lý do đặc biệt nào đó người mắc nợ không đủ khả năng tiếp tục trả nợ được nữa thì xí nghiệp lập một bản kê đề nghị Bộ xét cho chuyển vào lỗ của xí nghiệp. Tuy nhiên sau khi được Bộ duyệt y cho vào lỗ, xí nghiệp vẫn chưa được phép xóa tên và số tiền của những người mắc nợ đó (trừ trường hợp người mắc nợ đã chết) mà còn phải lưu lại một thời gian là 10 năm để sau này khi nào xét thấy những người mắc nợ đó có khả năng trả được thì xí nghiệp có nhiệm vụ tiếp tục thu hồi số nợ này. Tiền thu được đó sẽ chuyển vào lãi tức là thu hồi những khoản nợ khó đòi trước đây đã chuyển vào lỗ.
7. Thiệt hại về hàng hóa bị mất cắp:
Ngay sau khi xảy ra những thiệt hại trên đây, xí nghiệp phải lập biên bản báo cáo tình hình cụ thể về Bộ trong đó nêu rõ số thiệt hại tính thành tiền, nguyên nhân xảy ra sự thiệt hại, truy nguyên người chịu trách nhiệm, vv… rồi gửi biên bản về Bộ. Bộ sẽ nghiên cứu thẩm tra rồi tùy từng trường hợp cụ thể xét duyệt cho vào lỗ hoặc bắt người gây ra sự thiệt hại phải bồi thường.
8. Chi phí bảo quản xí nghiệp trong thời gian tạm ngừng sản xuất:
Trong trường hợp một phân xưởng hay toàn xí nghiệp phải tạm ngừng sản xuất vì thiếu nguyên vật liệu hoặc do một lý do nào khác thì tất cả những chi phí bảo quản xí nghiệp trong thời gian này được gửi vào lỗ của xí nghiệp sau khi được Bộ xét duyệt và Hội đồng Chính phủ hoặc Thường vụ Hội đồng Chính phủ chuẩn y.
9. Chi phí về y tế vệ sinh nếu chi vượt quá số được trích:
- Trường hợp chi hết:
- Trường hợp nếu những chi phí thực tế về y tế vệ sinh vượt quá số được trích làm quỹ y tế của xí nghiệp thì phần còn thiếu đó được ghi vào lỗ của xí nghiệp, nhưng phải được Bộ xét duyệt và có ý kiến của Bộ Tài chính tham gia mới được thanh toán.
- Trường hợp còn thừa quỹ y tế chưa chi hết:
Khi quyết toán hàng năm, nếu xí nghiệp chưa chi hết quỹ thì phần còn thừa đó sẽ chuyển vào lãi hoàn lại cho ngân sách Nhà nước.
10. Chi cho các sự nghiệp phúc lợi:
- Trường hợp chênh lệch thiếu thì thanh toán vào lỗ ngoài kinh doanh do ngân sách Nhà nước chịu.
- Trường hợp chênh lệch thừa thì chuyển vào lãi hoàn lại ngân sách Nhà nước.
11. Khấu hao các sự nghiệp phúc lợi:
Tiền khấu hao các sự nghiệp phúc lợi như nhà ăn, nhà ở, vườn trẻ, mua sắm dụng cụ dùng cho nhà ăn, nhà ở phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
b) Do kinh phí sự nghiệp của Bộ chủ quản chịu:
1. Tiền lương và chi phí chuyên gia:
Nguyên tắc là các chuyên gia công tác cho xí nghiệp thuộc Bộ thì do kinh phí sự nghiệp của Bộ đài thọ tiền lương và các chi phí cho chuyên gia không tính vào giá thành của sản phẩm công nghiệp.
Ngoài tiền lương và chi phí chuyên gia kể trên, xí nghiệp được chi vào vốn lưu động và tính vào giá thành của sản phẩm (quản lý phí xí nghiệp) các khoản chi về đón tiếp theo đúng chế độ đón tiếp chuyên gia nước ngoài do Phủ Thủ tướng ban hành như: Tiếp xúc ban đầu, làm việc hàng ngày, quả kỷ niệm, vv… đều không được trừ vào tiêu chuẩn sinh hoạt phí hàng tháng của chuyên gia.
Cụ thể là:
Ngân sách Nhà nước đài thọ bằng kinh phí sự nghiệp để trả lương của chuyên gia và các chi phí cho chuyên gia, cụ thể là những chi phí về phục vụ như nhà ở, người nấu ăn, người phục vụ với chuyên gia và những chi phí giặt giũ. Tất cả những chi phí này đều do kinh phí sự nghiệp thuộc ngân sách Nhà nước chi. Do đó không tính vào giá thành của sản phẩm công nghiệp.
Xí nghiệp chỉ được chi tiêu về đón tiếp chuyên gia theo chế độ của Nhà nước hiện hành và tính vào quản lý phí xí nghiệp trong giá thành công xưởng.
Cá biệt còn có một số xí nghiệp, tính đến 31-12-1960, chưa phân bổ hết chi phí chuyên gia trong năm 1960 và các năm trước thì nay được phép kết chuyển vào tài khoản 190 - lỗ lãi của năm 1961 (tiểu khoản lỗ thuộc những năm trước).
Phiên dịch thuộc vào biên chế của xí nghiệp, cho nên tiền lương và tất cả chi phí cho phiên dịch đều do xí nghiệp đài thọ và tính vào giá thành (quản lý phí xí nghiệp). Những phiên dịch do xí nghiệp tạm tuyển theo nhu cầu nhất thời để phục vụ chuyên gia đều thuộc vào chi phí chuyên gia do Ngân sách Nhà nước đài thọ.
2. Chi phí về đào tạo cán bộ:
1. Kinh phí sự nghiệp của Bộ đài thọ những chi phí về đào tạo cán bộ trong những trường hợp:
Một là: Bộ mở lớp ở Hà nội, hay mở lớp tại xí nghiệp, hoặc tại một nơi khác để đáp ứng nhu cầu chung của các xí nghiệp thuộc Bộ.
Hai là: Gửi cán bộ, công nhân viên đi tham quan, thực tập ở nước ngoài và cán bộ công nhân viên đi học ở các trường nghiệp vụ dài hạn đã ghi trong kế hoạch được Bộ duyệt y.
2. Xí nghiệp đài thọ và tính vào giá thành trong những trường hợp:
Một là: Thợ già kèm thợ trẻ. Thợ trẻ vừa làm vừa học.
Hai là: Xí nghiệp mở các lớp để bổ túc nghiệp vụ hoặc đào tạo công nhân viên nhằm đáp ứng nhu cầu của xí nghiệp. Lớp có thể mở với hình thức tập trung, hoặc học sinh vừa làm vừa học, hoặc học ngoài giờ (lớp nghiệp dư). Những chi phí này gồm có tiền lương trả cho học sinh trong thời gian đi học được tính vào giá thành (quản lý phí xí nghiệp). Xí nghiệp đào tạo công nhân để bổ sung thường xuyên vào số lượng công nhân trong xí nghiệp.
c) Do quỹ Công đoàn chi: Các khoản chi do quỹ công đoàn chi gồm có:
1. Tiền lương: Của cán bộ chuyên trách công tác công đoàn, cán bộ công đoàn đi học, cán bộ công đoàn thay thế.
2. Tiền lương: Hoặc phụ cấp trả cho giáo viên dạy văn hóa.
3. Tiền lương: Của cán bộ nhân viên làm công tác thể dục, thể thao, giữ câu lạc bộ.
4. Các chi phí về văn hóa quần chúng như: công tác tuyên truyền, cổ động, vui khỏe, nghệ thuật, báo chí, tủ sách, văn hóa, huấn luyện.
5. Các chi phí về thể dục, thể thao như: mua sắm dụng cụ, tổ chức các cuộc thi về thể dục, thể thao.
6. Chi phí về sinh hoạt đời sống của đoàn viên như: thăm hỏi đoàn viên hoặc gia đình khi ốm đau, hoạn nạn, vv..
7. Chi phí về hành chính của công đoàn như: văn phòng phí, dầu đèn, công tác phí, hội nghị phí, sửa chữa dụng cụ, phương tiện, vật rẻ tiền mau hỏng, vv…
(Quy định của Ủy ban kế hoạch Nhà nước số 2687-UB/TC ngày 25-11-1960).
d) Do quỹ xã hội đài thọ:
Quỹ xã hội (hiện nay là quỹ phụ cấp ngoài lương) chỉ dùng cho những khoản dưới đây được tính vào giá thành theo tỉ lệ trích trong phạm vi 10% (mười phần trăm) trên tổng mức tiền lương của toàn xí nghiệp như hiện hành:
1. Chi phí về bảo hiểm lao động bao gồm:
1. Trợ cấp thai sản:
Tiền bồi dưỡng, tiền mua tã lót, tiền trợ cấp mất sữa, tiền lương trong thời gian nghỉ đẻ quá chế độ (nếu nghỉ đẻ đúng chế độ tức là trong phạm vi 2 tháng thì vẫn do quỹ tiền lương đài thọ. Quá 2 tháng trở đi thì mới do quỹ bảo hiểm lao động chi), tiền trợ cấp khi sẩy thai của nữ cán bộ, công nhân viên chức của xí nghiệp, công trường.
2. Trợ cấp ốm đau:
- Tiền lương sau thời gian quỹ lương thôi trả (tức là tiền lương trong thời gian nghỉ quá quy định của Nhà nước).
3. Phụ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp.
4. Trợ cấp cho cán bộ công nhân già yếu mất sức lao động (mất khả năng lao động).
Khi cán bộ công nhân già yếu mất sức lao động không còn làm việc được nữa thì về nghỉ, xí nghiệp cấp tiền hưu trí lấy ở quỹ bảo hiểm lao động (trong quỹ xã hội) để chi. Trong khi chưa có chế độ hưu trí của Nhà nước thì áp dụng Thông tư số 613/TTg ngày 07-01-1960 của Phủ Thủ tướng.
Đối với những cán bộ, công nhân già yếu mất sức lao động đáng lẽ phải về hưu trí, nhưng chưa về, còn ở xí nghiệp thì xí nghiệp phải trả lương và bố trí cho làm công việc nhẹ thì số tiền đó chi vào quỹ tiền lương và tính vào giá thành theo nguyên tắc làm việc ở đâu thì tính vào nơi đó chịu. Thí dụ nếu là công tác ở phân xưởng sản xuất chính thì tính vào giá thành của sản phẩm chính chịu.
Nếu có trường hợp hiệu suất lao động của họ thấp hơn số tiền lương của họ lĩnh thì xí nghiệp thành lập một hội đồng trong đó có đại biểu công đoàn xác định được giá trị của hiệu suất công tác của họ rồi phân chia số tiền lương ấy ra hai phần:
- Phần ngang với giá trị hiệu suất lao động, tính vào quỹ tiền lương chuyển vào giá thành.
- Phần chênh lệch có tính chất phụ cấp thì tính vào quỹ bảo hiểm lao động (trong quỹ xã hội) của xí nghiệp.
Trường hợp xí nghiệp có cán bộ công nhân viên nằm bệnh viện hay trại an dưỡng thì số tiền trả cho họ không phải là tiền lương nữa, mà vẫn là trợ cấp phải tính vào quỹ bảo hiểm lao động (trong quỹ xã hội).
2. Chi phí về y tế - vệ sinh:
Những chi phí về y tế, vệ sinh và phòng bệnh thì xí nghiệp được trích theo tỉ lệ nhất định để lập quỹ y tế và do Giám đốc xí nghiệp quản lý. Xí nghiệp chỉ được tính vào giá thành tỉ lệ nhất định đó khi lập kế hoạch, hạch toán và thống kê giá thành.
Bộ giao trách nhiệm cho Vụ lao động tiền lương nghiên cứu các tỉ lệ y tế, vệ sinh thích hợp cho từng xí nghiệp để Bộ ban hành sớm. Các xí nghiệp phải gửi báo cáo cụ thể về tình hình chi tiêu về y tế, vệ sinh trong năm 1960 và có dự kiến đề nghị tỉ lệ thích hợp.
Nội dung chi phí về y tế vệ sinh gồm có:
1. Viện phí và tiền bồi dưỡng trợ cấp cho công nhân viên chức hiện đang công tác tại xí nghiệp.
2. Thuốc chữa bệnh và phòng bệnh thông thường trong xí nghiệp.
3. Tiền lương của y tá hoặc tiền phụ cấp cho người làm công tác cấp cứu, cho thuốc thông thường.
4. Dụng cụ y tế (dụng cụ thông thường).
Chú thích: chi phí về y tế, vệ sinh trên đây không bao gồm chi phí về bệnh viện, bệnh xá, trạm xá, phòng khám bệnh đã giải thích ở trên.
3. Trợ cấp xã hội:
Nội dung trợ cấp xã hội gồm có:
1. Chi phí cho vườn trẻ
- Tiền lương cho người giữ trẻ;
- Chi phí mua sắm dụng cụ vườn trẻ sau khi đã thu tiền của bố mẹ các cháu đóng góp để chi vào các khoản chi tiêu trên còn thiếu.
2. Trợ cấp gia đình khó khăn.
3. Trợ cấp con (Theo tỉ lệ quy định của Nhà nước).
Về chi phí cho vườn trẻ và gia đình khó khăn:
Bộ sẽ quy định một tỉ lệ nhất định. Xí nghiệp tự quản lý tỉ lệ quy định và kết hợp với quỹ xí nghiệp (quỹ tiền thưởng) để chi tiêu về 2 khoản này. Riêng về trợ cấp con. Bộ sẽ điều phối quỹ trợ cấp con. Xí nghiệp chỉ ghi một tỉ lệ nhất định do Bộ quy định để tính vào giá thành của sản phẩm.
e) Do kinh phí của kỷ niệm hoặc kinh phí triển lãm chi:
Những chi phí làm mô hình cho kỷ niệm hoặc cho triển lãm thì do kinh phí của kỷ niệm hoặc kinh phí của triển lãm chịu và không được tính vào giá thành.
g) Do các nguồn vốn khác chịu ngoài các nguồn vốn trên:
Các chi phí dưới đây không thuộc quỹ xã hội và do các nguồn thu khác chịu:
1. Chi phí về nhà ăn bao gồm: Tiền lương của cấp dưỡng, tiền mua sắm thêm bát đĩa, dụng cụ, nhà ăn.
Các chi phí về nhà ăn kể trên do nguồn thu do công nhân viên đóng góp. Số chênh lệch thu và chi về nhà ăn sẽ được ghi vào lãi hoặc lỗ về kinh doanh ngoài công nghiệp.
2. Chi phí về nhà ở như: tiền thuê nhà, tiền điện, nước mua sắm vật rẻ tiền mau hỏng cho các nhà ở do nguồn thu của công nhân viên đóng góp.
Chênh lệch giữa thu và chi sẽ được ghi vào lãi hoặc lỗ về kinh doanh ngoài công nghiệp.
3. Chi phí về câu lạc bộ như: tiền lương của người trông nom câu lạc bộ, sách vở, báo chí, trang trí câu lạc bộ do quỹ công đoàn chi.
4. Chi phí về văn hóa như: tiền lương hoặc tiền phụ cấp cho giáo viên dạy văn hóa, tiền điện, phấn viết, tài liệu, sách giáo khoa do nguồn thu của công nhân viên đóng góp và kinh phí của công đoàn chi.
5. Chi phí về thể dục thể thao do quỹ công đoàn chi.
6. Chi phí về nhà nghỉ mát: Nếu là nhà nghỉ mát chung cho các cơ quan và xí nghiệp thì do Tổng công đoàn chi. Nếu là nhà nghỉ mát riêng của xí nghiệp thì do quỹ xí nghiệp chi.
Chú thích: các khoản trên đây không tính vào giá thành.
7. Riêng về khấu hao (khấu hao cơ bản và khấu hao về sửa chữa lớn) và phí tổn sửa chữa lớn thường xuyên các công trình phúc lợi như: nhà ăn, nhà ở, câu lạc bộ, vườn trẻ và nhà cửa dùng cho văn phòng Đảng, Đoàn thanh niên lao động, Công đoàn thì được tính vào giá thành công xưởng và ghi vào khoản mục quản lý phí xí nghiệp.
8. Chi phí về các cuộc mít tinh, đón tiếp, các phái đoàn Chính phủ và đoàn thể nước ngoài đến thăm xí nghiệp:
Cơ quan hay đoàn thể nào phụ trách việc đón tiếp phái đoàn đó phải chịu tất cả các chi phí đón tiếp gồm: nước chè, đường, bia, thuốc lá, giấy cắt dán các băng biểu ngữ các chi phí về trang trí khác, tặng phẩm.
Ngân sách cấp tiền cho cơ quan hay đoàn thể hữu quan cơ quan hay đoàn thể đó sẽ thanh toán với xí nghiệp.
Không nên huy động công nhân đang có nhiệm vụ sản xuất, bỏ sản xuất để đi đón tiếp, nếu cần huy động một số nào để tập trung đón tiếp trọng thể thì nên huy động công nhân chưa đến ca làm việc và huy động nhân viên gián tiếp. Trường hợp quá cần thiết như mời chiến sĩ thi đua dự cuộc họp mặt tại phòng đón tiếp thì mới huy động trong giờ sản xuất, nhưng phải là trường hợp đặc biệt. Lương trong giờ đó phải trả đủ, do xí nghiệp đài thọ, tính vào giá thành, và tính vào lương phụ.
Qua phân tích ở các phần thứ nhất và phần thứ hai kể trên, chúng ta đã nhận rõ quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa không thể không quản lý giá thành.
Việc quản lý giá thành gắn liền với việc hạch toán sản xuất: không có hạch toán sản xuất rành mạch và tính giá thành chính xác thì không thể quản lý xí nghiệp công nghiệp được tốt.
Muốn quản lý tốt giá thành để đạt mục đích không ngừng hạ giá thành sản phẩm thì nhất thiết phải lập kế hoạch giá thành để có thể lợi dụng đúng đắn tác dụng của quy luật giá trị động viên mọi khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế quốc dân thúc đẩy sản xuất phát triển, thực hành tiết kiệm, tăng tích lũy cho Nhà nước và nâng cao mưc sống của nhân dân.
Trong báo cáo bổ sung tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 3, đồng chí Nguyễn Duy Trinh, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng đã nói:
“Nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành là hai mặt của một vấn đề cơ bản của cuộc vận động sản xuất và tiết kiệm là hướng chính để tăng tích lũy và tạo cơ sở tiến tới giảm giá một số hàng, cải thiện đời sống của nhân dân ”.
Chế độ lập kế hoạch, hạch toán và thống kê giá thành mới áp dụng trong các xí nghiệp và quốc doanh thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ là một thuận lợi nhằm nâng cao chất lượng quản lý giá thành, nâng cao trình độ nghiệp vụ giá thành được chính xác, giảm nhẹ những khoản chi phí không hợp lý loại trừ ra khỏi giá thành đồng thời giảm nhẹ một số khó khăn cho xí nghiệp trong việc phân loại các nguồn vốn được rành mạch, giảm bớt việc cho lãnh đạo, cho cán bộ và làm cho quần chúng công nhân có điều kiện tham gia quản lý giá thành để không ngừng đấu tranh hạ giá thành có hiệu quả.
Tuy nhiên cũng còn một số khó khăn cần tiếp tục giải quyết như là quy định tỉ lệ quỹ xã hội (quỹ phụ cấp ngoài lương) định mức kế hoạch kinh phí phân xưởng, quản lý phí xí nghiệp và chi phí ngoài sản xuất.
Bộ ban hành Thông tư này và tổ chức hội nghị học tập Liên vụ Kế hoạch – Tài vụ và các xí nghiệp, công trường thuộc Bộ chính là nhằm giải quyết các khó khăn trên mà Bộ đã nói rõ ở phần thứ nhất. Kể từ ngày 01-01-1961, các Thông tư, Chỉ thị cũ từ trước đến nay của Bộ nếu có điểm nào trái với Thông tư này đều coi như không còn hiệu lực nữa.
Bộ yêu cầu các cấp lãnh đạo xí nghiệp, công trường và các cơ quan thuộc Bộ, sau khi nhận được Thông tư này, cần thảo luận kỹ càng để thấu triệt các vấn đề về nguyên tắc cơ bản trong việc lập kế hoạch, hạch toán và thống kê giá thành mà Nhà nước và Bộ đã quy định để nắm vững vấn đề, phổ biến, giải thích rộng rãi cho toàn thể cán bộ công nhân và nhân viên trong xí nghiệp, công trường mình cùng học tập nhằm nâng cao nhiệm vụ, nâng cao chất lượng quản lý giá thành, nâng cao hiệu suất công tác, để việc lập kế hoạch giá thành cũng như việc hạch toán và thống kê giá thành từ nay về sau được nhanh, chính xác và kịp thời phục vụ tốt cho sản xuất và giúp ích cho xí nghiệp, công trường hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước năm 1961.
BỘ TRƯỞNG |
Thông tư 133-BCNN/KH năm 1961 thể thức thi hành điều lệ tạm thời về lập kế hoạch, hạch toán và thống kê giá thành sản phẩm công nghiệp theo Nghị định 43-CP do Bộ Công nghiệp nhẹ ban hành
- Số hiệu: 133-BCNN/KH
- Loại văn bản: Thông tư
- Ngày ban hành: 13/03/1961
- Nơi ban hành: Bộ Công nghiệp nhẹ
- Người ký: Kha Vạn Cân
- Ngày công báo: 10/05/1961
- Số công báo: Số 17
- Ngày hiệu lực: 28/03/1961
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định