Hệ thống pháp luật

Chương 3 Thông tư 08-BYT-TT năm 1963 hướng dẫn Quyết định 315-BYT-QĐ về chế độ quản lý sử dụng thuốc độc dùng trong công tác phòng chữa bệnh do Bộ Y tế ban hành

CHƯƠNG III.

QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ CHẤP HÀNH VÀ KIỂM TRA THỰC HIỆN QUY CHẾ THUỐC ĐỘC

Điều 51. Sau khi quy chế thuốc độc đã ban hành, tất cả các đơn vị phải tổ chức học tập cho cán bộ trong đơn vị; thủ trưởng đơn vị có trách nhiệm làm cho cán bộ trong đơn vị nắm vững quy chế, nhất là đối với những điều khoản liên quan đến trách nhiệm của mỗi người.

Điều 52. Các đơn vị lớn như: Sở, Ty Y tế, các bệnh viện, Quốc doanh, xí nghiệp Dược phẩm phải cử một cán bộ giúp thủ trưởng đơn vị theo dõi đôn đốc việc chấp hành quy chế thuốc độc. Nhưng thủ trưởng đơn vị vẫn là người chịu trách nhiệm trước cấp trên về việc chấp hành quy chế của đơn vị.

Điều 53. Trong chức trách công tác của thủ trưởng đơn vị và các cán bộ khác được phân công chịu trách nhiệm trong việc chấp hành hoặc kiểm tra đôn đốc chấp hành quy chế này phải được ghi rõ ràng để tiện cho việc xác định trách nhiệm khi cần.

Điều 54. Các đơn vị căn cứ vào khối lượng thuốc và tình hình chấp hành quy chế của đơn vị để định kỳ kiểm tra và tổ chức kiểm tra đột xuất tình hình chất hàng quy chế, thông tư quy định đối với thuốc A, B của nội bộ đơn vị và các đơn vị dưới trực thuộc, nhưng không được để quá 6 tháng đối với một bộ phận trong nội bộ đơn vị và một năm đối với các đơn vị dưới trực thuộc giữa hai lần kiểm tra.

Điều 55. Tổ chức kiểm tra:

Tuỳ theo sự quan trọng của từng cuộc kiểm tra, có thể chỉ định một cán bộ kiểm tra hoặc thành lập một ban kiểm tra từ 3 đến 5 người; trưởng ban phải là thủ trưởng đơn vị hoặc cán bộ được ủy nhiệm.

Kiểm tra xong phải lập biên bản để lưu và gửi lên cơ quan y tế cấp trên để báo cáo. Đồng thời đặt kế hoạch phát huy ưu điểm khắc phục những thiếu sót tồn tại cho các đơn vị được kiểm tra.

BẢNG SẮP XẾP CÁC THUỐC ĐỘC

BẢNG A

Aconit (cao, củ, lá)

Aconit (Extractum, tuber, folium)

Aconitin và các muối

Aconitinum et salia

Adrenalin

Adrenalinum

Apomophin và các muối

Apomorphinum et salia

Arecolin và các muối

Arecolinum et salia

Aseniat (các loại)

Arseniates

Asenic sunfua

Arsenicum sunlfuratum

Atropin và các muối

Atropinum et salia

Axit asenio và các loại Asenit

Acidum arsenicosum et arsenites

Benladon (cao, bột)

Belladonnae (extractum, pulvis)

Cà độc dược (quả, lá, bột, cao)

Daturae stramonii (fructus, folium, pulvis, extractum)

Cantarit (cả con, bột)

Cantharidis (insecta, pulvis)

Cưa lõa mạch (ancaloit)

Secalis cornuti (alcaloida)

Dầu ba đậu

Olcum crotonis

Digitan (cao, bột, lá)

Digitalis (extractum, pulvis, folium)

Digitalin (hay Digitoxin)

Digitalinum (Digitoxinum)

Dionin (hay Codetylin)

Dioninum (Ethylmorphini hydrochloridum hoặc Aethylmorphinum hydrochloridum)

Eserin và các muối

Eserinumi et salia

Homatropin và các muối

Homatropinum et salia

Hydrastinin và các muối

Hydrastininum et salia

Hyosxyamin và các muối

Hyoscyaminum et salia

Kẽm Photphua

Zinci phosphidum

Mã tiền (cao, bột, hạt)

Strychni nucis vomicae (extractum pulvis, semen)

Nicotin và các muối

Nicotina et salia

Nitroglyxerin

Nitroglycerinum

No adrenalin

Nor adrenalinum

Papaverin và các muối

Papaverinum et salia

Pilocacpin và các muối

Pilocarpinum et salia

Proserin (Prostigmin)

Proserinum (est của axit dimetyl cacbamic và meta oxy phenyl trimetyl amoni metyl sunfat)

Scopolamin và các muối

Scopolaminum et salia

Strophantin (Uabain)

Strophantinum (Ouabainum)

Strophantus (hạt cao)

Strophanthi (semen, extractum)

Strycnin và các muối

Strycninum et salia

Các loại muối thuốc tê tổng hợp:

Pantocain (Dicain)

Pantocanium, Dicainum (Para butyl amino benzoyl dimetyl amino etanol hydrochloridum)

Pecain

Pecainum (clohydrat của dietyl amino etyl amit của axit butoxy Cinchoninic)

Các loại muối thủy ngân:

Thủy ngân benzoat

Hydrargyrum benzoicum

Thủy ngân Diclorua

Hydrargyrum dichloratum

Thủy ngân Xyanua

Hydrargyrum cyanatum

Thủy ngân Oxyxyanua

Hydrargyrum oxycyanatum

Thủy ngân Oxyt, v.v...

Hydrargyrum Oxydatum,…ect…

Các loại gây nghiện:

Coca (lá, cao, bột)

Erthroxyli Cocae (folium, extractum, pulvis)

Cocain và các muối

Cocainum et salia

Dolosan (Dolantin)

Clohydrat của t-metyl piperidin phenyl-4 cacboxyla etyl-4

Dihydrocodcinon và các muối

Dihydrocodeinonum et salia

Dihydroxycodeinon

Dihydroxycodeinonum

Dihydromocphinon và các muối

Dihydromorphinonum et salia

Heroin

Heroinum (Diacethylmorphinum)

Mecodin

Mecodinum (Dimethylamino-6 diphenyl-4,4 heptanol 3)

Mocphin và các muối

Morphinum et salia

Thuốc phiện (bột, cao)

Opium (Pulvis, extractum)

Các loại thuốc Đông:

Bã đậu (hạt) là hạt của quả của cây Croton tiglium L. họ Euphorbiaceae.

Ban miêu (cả con) là con sâu có tên Lytta Vesicatoria.

Hoàng nàn (sống) là vỏ thân và cành của cây Strychnos gauthierana Pierre họ Loganiaceae.

Mã tiền (sống) là hạt của quả của cây Strychnos nux vomica họ Loganiceae.

Ô đầu (xuyên ô, thảo ô) là củ mẹ chưa có củ con hoặc có củ con nhưng còn nhỏ của cây Aconitum fortunei họ Ranunculaceae.

Phụ tử (sống) là củ con chưa muối của cây Aconitum fortunei họ Ranunculaceae.

Thạch tín : Arsenicum crudum # 98%.

Bảng B

Amphetamin

Amphetaminum(Phenyl-1 amino-2 propan)

Amoniac (dược dụng)

Ammonia officialis

Bạc nitrat

Argenti nitras

Bromofoc

Bromoformium

Cacdiamit (coramin)

Dietyl amit của axit pyridin carbonic

Cacbon tetraclorua

Cacbonei tetracloridum

Calomen

Hydrargyrum chloratum mite

Chì axetat

Plumbum aceticum

Codein và các muối

Codeinum et salia

Clorofoc

Chloroformium

Cloral hydrat

Chloralum hydratum

Cựa loã mạch (cao)

Secalis sornuti (extractum)

Creozot

Creosotum

Dibazon

Dibazonum (Clochydrat 2-Benzyl Benzinmidazol)

Dicumarin (Dicumarol)

Diceumarinum (Methylen 3-3’ hydroxy 4-4’ coumarin)

Diplaxin

Diplacinum

Emetin và các muối

Emetinum et salia

Ephedrin và các muối

Ephedrinum et salia

Etylen tetraclorua

Tetrachlorei aethylenum

Focmon

Formaldehydi solutum (Formalinum)

Flaxedin (Tricuran v.v...)

Triiodo etylat của tri (β – dietyl amino etoxy 1-2-3 benzen)

Gaiacol

Gaiacolum

Heparin

Heparinum (muối natri của axit mucoitin polysunfuric)

Iot

Iodum

Ipeca (cao, bột)

Ipecacuanhae (pulvis, extractum)

Jusquiam (cao, lá, nụ)

Hyoscyami nigrii (extractum, folium, semen)

Kali Clorat

Kalii Chloras

Nicotinic (axit và amit)

Amid β pyridin cacbonic

Nước cất hạt nhân

Aqua amygdalarum amararum

Plasmokin

Plasmochinum

Plasmoxit

Plasmocidum

Peletierin và các muối

Pelletierrinum et salia

Phenol

Phenolum

Resecpin (Secpazin)

Reserpinum

Santonin

Santoninum

Spacein và các muối

Spareinum et salia

Streptomyxin và Dihydrostreptomyxin

Streptomycinum et Dihydrostreptomicinum

Thủy ngân và các muối hữu cơ chứa thủy ngân: (Novurit, Neptan v.v...)

Hadragryrum et hydrargyri orgabica salia (Novuritum, Neptalum etc…)

Thủy ngân sunfua

Hydragryrum Sunlfuratum

Tinh dầu chenopol

Aetheroleum chenopodii anthelmintici

Trioxymetylen

Trioxymetylenum

Vitamin D các loại

Các loại axit:

Axit axetic

Acidum aceticum

Axit Clohyric

Acidum hydrochloricum

Axit Cromic

Acidum chromicum

Axit Crysophanic (cryzarobin)

Acidum chrysopanicum (chrysarobinum)

Axit Picric

Acidum picricum

Axit Photphoric

Acidum phosphoricum

Axit Tricloraxetic

Acidum trichloraceticum

Các loại thuốc tê tổng hợp:

Procian

Procianum Hydrochloridum

Novocain…

Amyleini Hydrochloridum

Stovain

Các loại thuốc ngủ và mê:

Evipan

Hexenalum

Phenobacbital (Gacdenal)

Phenobarbitalum (Axit phenyl etyl barbituric)

Sunfona

Sunfonalum (Dietyl sunfon dimetylmetan)

Bacbital (Veronal)

Barbitalum (Veronalum)

Các loại thuốc tinh thần kinh:

Clopromazin (Plegomazin, Lagactin)

Aminazinum, chlorpromazini hydrochloridum (Clohydrat 3 cloro N. (3 dimetylamino propyl phenothiazin)

Các loại nội tiết tố:

Testosteron và các muối

Testosteronum et salia

Ostradion và các muối

Oestradiolum et salia

Foliculin và các muối

Foliculinum et salia

Progesteron

Progesteronum

A.C.T.H

Hormonum adreno cortico tropinum

Cao tuyến giáp trạng và các dẫn chất: Tyroidin, tyroxin

Extractum glandulae thyroidae et Thyreodinum, thyroxinum

D.C.A

Desoxy corticosteronum aceticum (Desoxy cortini acetas)

Insulin

Insulinum

Synostrol

Synoestrolum

v.v...

Etc…

Các hợp chất hữu cơ của thạch tín:

Arenan

Arrhenalum

Natri cacodylat

Natrinum cacodylicum

Sắt cacodylat

Ferrum cacodylicum

Stovason và cacbason

Acetarsolum (Osarsolum) et cacbarsonum (aminarsonum)

v.v...

Etc…

Thuốc Đông:

Ba đậu chế: là bã của hạt cây Ba đậu croton tiglium L. học Euphorbiaceae chế theo phương pháp kèm theo quy chế.

Hoàng nàn chế: là vỏ cành vỏ thân của cây Strychos gauthierana Pierre họ Loganiaceae đã chế tạo theo phương pháp kèm theo quy chế.

Hùng hoàng: Arsenicum sufluratum

Khinh phấn: Hydrargyri subchloridum mite

Mã tiền chế: là hạt của quả của cây Strychnos nux vomica L. họ Loganiaceae đã chế theo phương pháp kèm theo quy chế.

Phụ tử muối là củ con của cây Aconitum fortunei họ Ranunculaceae đã muối ít nhất sáu tháng.

Thủy ngân: Hydragyrum

PHẦN HƯỚNG DẪN VÀ GIẢI THÍCH VỀ QUY CHẾ THUỐC ĐỘC

Điều 1.

a) Hai bảng A, B của quy chế này chỉ kê những thứ thuốc dùng phổ biến trong ngành; nếu đơn vị nào có những thứ thuốc mà dược điển các nước xếp vào bảng A, B thì báo cáo lên Bộ xét để xếp vào loại thuốc độc của đơn vị đó giúp cho việc quản lý được chu đáo.

b) Thuốc độc ở bảng A, B là kể cả Đông và Tây dược.

c) Chữ công tác phòng bệnh trong điều này bao hàm cả công tác vệ sinh và phòng dịch.

d) Đối với các đơn vị sử dụng nhiều hóa chất, vi trùng, sinh hoá chữa bệnh sẽ có một quy chế riêng.

đ) Đối với thuốc thú y do Bộ nông nghiệp ban hành quy chế riêng, quy chế này chỉ kể những thuốc độc dùng cho người.

e) Các phòng khám bệnh, phòng pha chế, sản xuất phải treo bảng danh mục thuốc độc A, B của đơn vị có.

Điều 2 và 3. Bảng A nói chung gồm những thứ thuốc liều dùng tối đa một lần không quá 1/10 gam, do đó rất dễ gây nguy hại cho tính mạng, nếu việc cân đong chỉ định dùng thiếu chính xác và thận trọng.

Thuốc bảng B nói chung liều dùng có rộng rãi hơn; tác hại chậm hơn; nhưng nếu dùng nhiều hoặc lâu cũng dễ gây tai nạn, ngộ độc.

Thuốc độc bảng A có thể gọi là: độc bảng A, thuốc bảng A, độc A, tùy theo trường hợp; thí dụ trên nhãn thuốc thì dùng chữ độc A cho đơn giản, trên sổ sách có điều kiện viết dài thì viết đủ cả 4 chữ: thuốc độc bảng A. Thuốc độc bảng B cũng vậy.

Điều 4.

a) Định nghĩa chữ thành phẩm: Thành phẩm là những thứ thuốc có thể đưa thẳng cho người dùng, không cần phải qua công tác pha chế, chế biến. Đôi khi đứng về phương diện thành phần mà xét thì thuốc thành phẩm không khác gì thuốc nguyên chất, thí dụ: tinh dầu giun khi để chai lớn thì là nguyên chất nhưng khi đã đóng vào nang với một lượng nhỏ hơn hoặc bằng một liều thường dùng một lần thì là thành phẩm vì những dạng này có thể đưa thẳng cho người dùng.

b) Giải thích bảng giảm độc:

Cột 1: Ghi tên thuốc:

Tên thuốc nào không thấy ghi trong cột này tức là thứ thuốc đó không được xếp vào loại giảm độc. Thí dụ: Mocphin, nội tiết tố, digitalin, v.v...

Những chữ “cao”, “bột”, “cồn”... ghi trong dấu ngoặc đơn đứng sau tên thuốc có nghĩa là dạng đó được coi là nguyên chất trong mục đó, thí dụ cột 1 ghi benladon (cồn); để uống; cột 3 ghi 3% như vậy nghĩa là nếu thành phẩm nào đó chỉ chứa 3% hoặc dưới 3% cồn benladon thì được coi là giảm độc, chứ không phải là 3% cao hay bột lá benlado

Cột 2: Ghi các hình thức sử dụng:

Định nghĩa hình thức sử dụng là hình thức đưa thuốc vào cơ thể, thí dụ: dùng ngoài, uống, tiêm v.v...

Định nghĩa dạng thuốc là hình dạng của thuốc, thí dụ: trứng, đạn, viên, mỡ, nước v.v...

Hình thức hay dạng nào không ghi trong cột này tức là hình thức hay dạng đó không được xếp vào loại giảm độc.

Cột 3. Ghi nồng độ phần trăm nguyên chất tối đa của những dạng thuốc chưa chia liều nhỏ tính theo trọng lượng.

Thuốc chưa chia liều nhỏ là thuốc đóng gói dưới những hình thức mà bệnh nhân phải tự chia ra nhiều lần để dùng mới hết, thí dụ, sirô, pôxiô, các dạng thuốc bôi, xoa, tra mắt, tai, mũi, v.v... những lô (mẻ) thuốc đang trong quá trình sản xuất chưa đến khâu chia lẻ cũng là hình thức thuốc chưa chia liều nhỏ.

Đối với hình thức này nếu nồng độ phần trăm của nguyên chất tính theo trạng lượng không quá quy định trong cột 3 thì được giảm độc.

Cột 4: Ghi trọng lượng tối đa nguyên chất có trong một đơn vị thành phẩm như gói, viên, ống, lọ, nang...

Đối với loại đã chia liều nhỏ này nếu mỗi đơn vị thành phẩm chứa không quá quy định của cột này thì được coi là giảm độc, thí dụ: ống Atropin 1/4mg, viên Benladon chứa 0,02g cao, viên Santonin 0,05g trở xuống.

Cột 5: Quy định trọng lượng nguyên chất được cấp phát lẻ hoặc bán lẻ ra mỗi lần một người lớn không cần phải đơn y, bác sĩ.

Chú ý: Trọng lượng ghi ở cột 5 không phải là liều tối đa dùng một lần hay 24 giờ; mà thường là lượng thuốc dùng đủ cho một đợt điều trị.

Khi bán hoặc cấp phát phải vận dụng như sau:

a) Đối với thuốc chưa chia liều nhỏ thì vận dụng cột 3 và 5. Thí dụ: dung dịch Atropin 1% để nhỏ mắt (được giảm độc) mỗi lần có thể bán hoặc phát ra bằng hoặc nhỏ hơn 10ml (tức là bằng hoặc nhỏ hơn 0,1g Atropin sunfat theo quy định ở cột 5).

b) Đối với thuốc đã chia liều nhỏ thì vận dụng cột 4 và cột 5. Thí dụ: ống Atropin tiêm 1/4mg (được giảm độc); mỗi lần có thể bán hoặc phát ra bằng hoặc nhỏ hơn 10 ống (tức là bằng hoặc nhỏ hơn 0,0025g Atropin sunfat: quy định của cột 5).

c) Đối với một số thành phẩm vì tỷ lệ thuốc độc A, B chứa ở trong quá ít như vitamin D có trong dầu cá hoặc một số trường hợp thành phẩm có chứa thuốc A, B nhưng ở dạng kết hợp (phức chất) ít độc hay không độc nữa, như: rượu bổ iodotanic... các đơn vị báo cáo về Bộ công thức của dạng thuốc đó để xét cho miễn chấp hành quy chế thuốc độc.

d) Hàng quý hoặc hàng năm các Quốc doanh cấp 1 phải thông báo cho các đơn vị mua thuốc biết những thành phẩm (kể cả biệt dược nhập nội) có chứa thuốc độc A, B của quốc doanh bán ra có được giảm độc hay không và được cấp cho người dùng mỗi lần bao nhiêu.

Điều 5. Nhãn các thuốc có chứa thuốc độc A, B phải được Bộ Y tế duyệt mới được phép lưu hành trên thị trường (Cục Quản lý sản xuất duyệt nhãn của các xí nghiệp Trung ương và xí nghiệp Dược phẩm đã phân cấp cho địa phương, Cục phân phối Dược phẩm duyệt nhãn của các Quốc doanh và công tư hợp doanh).

Điều 6.

a) Tất cả thuốc thể lỏng nguyên chất độc A, B đều phải dùng đơn vị trọng lượng như thuốc thể rắn hoặc dùng giọt trong khi kê đơn, pha chế và ghi chép sổ sách.

b) Cân tốt và đúng là cân có đủ 3 đức tính: nhậy, đúng, tin.

c) Kỹ thuật tối thiểu cần chấp hành khi cân:

- Cân thuốc A, B nguyên chất phải cân kiểu Bocđa (cân kép) riêng trường hợp dùng cân có hệ thống quang học khuếch đại độ lệch của kim chỉ độ thì phải cân theo kiểu Lômônôxôp.

- Cân thuốc nguyên chất để pha chế không được cân quá 1kg mỗi lần cân.

- Không cân một lượng thuốc quá nhỏ dưới mức quy định của cân; trường hợp cần cân một lượng thuốc nhỏ dưới mức quy đinh của cân thì phải pha loãng dưới dạng bột kép hoặc dung dịch mà cân.

- Phải chấp hành đúng nội quy sử dụng cân như: kiểm tra đức tính của cân, kiểm tra thăng bằng v.v...

Điều 7. Đơn vị cân đong quy định trong điều áp dụng trong khi kê đơn, cân đong và ghi chép chứng từ, sổ sách. Riêng đối với dược liệu như: hoàng nàn, mã tiền v.v... có khối lượng lớn, có thể dùng đơn vị kilô viết tắt là kg.

Kể cả đơn thuốc đông y cũng phải ghi thống nhất đơn vị như quy định. Riêng đối với lương y đã nhiều tuổi chưa thông thạo chữ quốc ngữ thì được dùng đơn vị cân thập lục, nhưng khi đưa đến cửa hàng mua thuốc thì cửa hàng phải đổi ra gam (một đồng cân = 3,8g).

Điều 8.

a) Người giữ thuốc phải chịu trách nhiệm đóng gói và cấp phát những thứ thuốc trong phạm vi mình phụ trách, nếu bận nhiều công tác khác thì có thể phân công cho dược tá hay công nhân kỹ thuật làm một số công việc như: lọc, đómg gói, rửa chai lọ... Nhưng người giữ thuốc vẫn phải chịu trách nhiệm.

b) Các đơn vị nhiều thuốc mà dược sĩ phải phụ trách nhiều công tác khác thì thủ trưởng đơn vị có thể ủy nhiệm cho dược tá giữ và cấp phát thuốc thành phẩm bảng B không giảm độc.

c) Khi chỉ định một cán bộ giữ thuốc cần chú ý:

- Phải xét tương đối cả hai mặt: đạo đức và trình độ chuyên môn.

- Không được phân công cho học sinh, sinh viên đang trong thời gian thực tập. Có thể giao cho dược sĩ đang trong thời gian tập sự nhưng cũng cần phải nghiên cứu kỹ càng vì mới ra trường chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế.

d) Thủ trưởng đơn vị có thể cấp giấy ủy nhiệm dài hạn (thí dụ: 1 năm) cho một cán bộ thay thế người giữ thuốc để khi người giữ thuốc chính thức đi vắng thì có người thay thế ngay; trường hợp đi vắng ngắn ngày thì chỉ nên giao một số thuốc đủ cấp phát trong thời gian đi vắng.

e) Người giữ thuốc độc đồng thời giữ sổ xuất nhập thuốc độc để nắm vững số lượng thuốc độc hàng ngày (tuy rằng cơ quan đã có sổ cái xuất nhập toàn bộ thuốc của đơn vị).

g) Kèm theo quy chế này có 6 bảng danh mục thuốc độc quy định cho các đơn vị không có dược sĩ; tùy theo nhiệm vụ của từng đơn vị mà trang bị một trong 6 bảng đó. Số lượng thuốc cần trang bị sao cho đủ dùng trong khoảng thời gian giữa hai kỳ cấp phát của đơn vị đó.

h) Số lượng thuốc độc trang bị cho các tủ trực và cấp cứu phải được nghiên cứu cho sát với nhu cầu, cố gắng càng ít càng tốt để việc quản lý và bàn giao được dễ dàng. Cửa tủ phải dán bảng danh mục thuốc cố định có trong tủ, thuốc trong tủ phải trình bày sao cho dễ tìm, dễ đếm.

Điều 9.

a) Không được để tủ kính, hoặc ở trong những tủ, kho chỉ căng bằng lưới sắt.

b) Hai khóa phải có chìa khác nhau, phải khóa ở hai cánh (trong vào ngoài), khi người giữ thuốc có mặt ở trong phòng để tủ thuốc độc đó thì tủ không nhất thiết phải luôn luôn khóa.

c) Nếu kho có cửa sổ thì cửa đó phải có chấn song chắc chắn.

d) Dấu hiệu đầu lâu 2 xương chéo và chữ A hoặc B dán ở cửa tủ phải có kích thước tương xứng với tủ.

Dấu hiệu đầu lâu 2 xương chéo chỉ phải dán vào cánh cửa trong tủ hoặc kho có thuốc nguyên chất bảng A, như vậy các khoa, phòng lâm sàng và cửa hàng bán thuốc thành phẩm... không dùng dấu hiệu này mà chỉ đề chữ A và B. Tủ thuốc bảng A nguyên chất cần bố trí vào chỗ kín đáo.

Điều 10. Ngăn để thuốc gây nghiện không đòi hỏi phải có cánh cửa riêng nếu tủ đã có 2 lần khóa. Nếu đơn vị chỉ có rất ít thuốc gây nghiện thì có thể cho vào một cái hộp rồi để cùng một ngăn với thuốc bảng A khác.

Điều 11. Trong bảng B có một số axit, nếu đơn vị có nhiều và có điều kiện nên để ngăn khóa riêng để tránh gây hỏng các thứ thuốc xung quanh và tủ khóa.

- Không được để tủ kính, tủ hoặc kho chỉ căng bằng lưới sắt.

Điều 12. Khi thuốc còn nguyên hòm, kiện, đinh đai, băng xi bảo đảm thì không bắt buộc để riêng khu vực.

- Giải thích 2 chữ để riêng; tùy theo số lượng thuốc mà định mức độ để riêng thích hợp:

Các kho lớn Quốc doanh, xí nghiệp... thì phải để riêng kho, riêng tủ, riêng giá (kệ).

Các đơn vị ít thuốc như bệnh xá, cửa hàng... thì có thể để riêng ngăn trong cùng một tủ, một giá.

Các khoa lâm sàng có thể để riêng hộp.

Điều 13. Tủ thuốc trực và cấp cứu không bắt buộc phải có 2 lần cửa, 2 lần khóa, vì số lượng thuốc ít, do đó tủ thuốc phải có chìa khóa riêng và chắc chắn. Các khoa, phòng lâm sàng có tủ kính tốt có thể dùng tủ kính cũng được.

Điều 14. Người giữ thuốc có thể phân công cho nhân viên chuyên môn giúp đỡ trong việc hủy và rửa dụng cụ đóng gói thuốc độc A, B nhưng người giữ thuốc vẫn phải chịu trách nhiệm.

Điều 15. Khi kiểm kê chỉ cần cân đong lại những chai, lọ, hộp đang dùng dở.

- Số lượng thừa thiếu hợp lý là những số lượng hỏng vỡ thông thường do bảo quản, cân đong, đóng gói.

- Số lượng thừa thiếu lớn bất thường là số lượng do đổ vỡ mất mát không hợp lý (bảo quản, đóng gói không cẩn thận, mất trộm, cháy nhà).

Điều 16. Học sinh, sinh viên trong thời gian thực tập không được kê đơn

- Cán bộ đông y (lương y) chỉ được kê đơn trong phạm vi được phép hành nghề, thí dụ: ông Nguyễn Văn A v.v... chỉ được kê đơn chữa hen thì chỉ được kê đơn gồm những thuốc để chữa cho bệnh đó.

Các Sở, Ty Y tế phải kiểm tra, quản lý tốt giấy cho phép hành nghề hiện nay việc sắp xếp trình độ chuyên môn của lương y gặp nhiều khó khăn, chưa rõ ràng.

Điều 17. Đơn thuốc phải in thống nhất theo mẫu số 6. Đơn này dùng để kê đơn có thuốc độc bảng A và thuốc ngủ (thuốc gây nghiện cũng dùng mẫu này nhưng phải viết đơn riêng để việc sao đơn của cửa hàng được dễ dàng).

- Hàm lượng là lượng nguyên chất có trong mỗi đơn vị thành phẩm. Thí dụ viên Santonin 0,01g nghĩa là có hàm lượng 0,01g santonin trong 1 viên.

- Dấu đơn vị đóng trên đơn phải là dấu đã đăng ký với Công an. Trường hợp cần kê đơn cấp cứu ngoài khu vực cơ quan công tác của y, bác sĩ (đơn không có dấu) thì người kê đơn phải xuất trình chứng minh thư để mua thuốc.

- Các đơn vị cần quản lý tốt hơn chưa viết của đơn vị, nếu để lọt ra ngoài thì đơn vị có đơn đó hoàn toàn chịu trách nhiệm.

- Trường hợp cần kê đơn dùng quá 10 ngày cho những bệnh nhân quá xa nơi mua thuốc thì y, bác sĩ kê đơn phải ghi rõ vào đơn: “Tôi đề nghị cấp phát (bán) số lượng này” và ký tên thêm bên cạnh. Nhưng chỉ nên cho quá 10 ngày khi thật cần thiết để tránh gây nguy hại cho những người xung quanh (nhất là trẻ em) hoặc lợi dụng làm những việc phi pháp.

- Lương y có thể kê đơn mua thuốc độc bào chế sẵn (theo phương pháp của Nhà nước); có thể kê đơn mua thuốc sống nhưng phải chịu trách nhiệm trong việc bào chế và sử dụng số thuốc đó.

Điều 18. Quy chế không quy định khoảng thời gian nghỉ giữa 2 đợt sử dụng thuốc gây nghiện; y, bác sĩ tùy trường hợp mà quyết định và phải chú ý tránh kê đơn cho dùng thuốc gây nghiện liên tục quá dài.

Điều 19. Đối với các xí nghiệp nếu không có dược sĩ phụ trách các tổ sản xuất thì Ban Giám đốc phải ủy nhiệm một số cán bộ có khả năng quản lý thuốc độc trong tổ đó.

Điều 20. Chỉ quy định cho phương pháp bào chế, chế biến thuốc ra thành phẩm đưa thẳng cho người dùng, không quy định trường hợp chế biến sơ bộ.

- Tất cả các cơ sở bào chế của Nhà nước đều phải bào chế theo một phương pháp thống nhất kèm theo quy chế. Đối với lương y có thể bào chế theo kinh nghiệm gia truyền; nhưng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về kỹ thuật chế biến đó.

Điều 21. Sản xuất kinh doanh nghĩa là thành phẩm có đưa ra bán ở thị trường.

Điều 22. Tất cả đơn thuốc pha chế đều phải vào sổ pha chế theo đơn trước khi đưa vào pha chế.

Điều 23. Người kiểm soát không nhất thiết phải là dược sĩ và chỉ cần kiểm soát trong khi cân, đong và tính toán công thức.

Điều 24. Nơi nào có bàn pha chế riêng để pha chế thuốc độc A, B thì có thể để một số thuốc thường xuyên dùng đến trên một cái giá của bàn pha chế đó trong giờ làm việc của người pha chế.

- Có thể pha hai thứ thuốc cùng một thời gian, nếu pha ở các bàn khác nhau và dụng cụ khác nhau.

Điều 26. Trên các gói, lọ, hộp thuốc đóng gói, lọ thuốc đóng gói cho từng bệnh nhân ghi rõ: tên thuốc, số lượng và tên bệnh nhân.

- Công việc đóng gói lẻ này có thể phân công tổ điều trị của khoa, phòng lâm sàng làm một phần.

Điều 27. Trường hợp quốc doanh tính chuyển thuốc xuống cửa hàng, cửa hàng xuống xã cũng phải đóng gói như xuất khỏi đơn vị tuy rằng cửa hàng vẫn là nội bộ của đơn vị quốc doanh.

- Dùng hình thức băng hay xi cũng đều phải có dấu bảo đảm của đơn vị; băng xi phải chắc chắn không bị hư hỏng trong khi vận chuyển.

- Đối với các cơ sở thu mua dược liệu như hoàng nàn, mã tiền.. có thể đóng bao tải nhưng phải đảm bảo không rơi vãi và phải gắn xi trước khi vận chuyển (điểm này không áp dụng đối với việc cấp phát).

- Nếu số lượng thuốc nhiều thì cần đóng riêng hòm, kiện, nếu số lượng ít thì có thể đóng vào chung 1 hòm nhưng mỗi thứ phải đóng riêng hộp, lọ, có xi, băng bảo đảm riêng.

- Hàng năm hay quý, Quốc doanh cấp I phải thông báo cho các đơn vị mua thuốc biết ký hiệu băng xi bảo đảm của quốc doanh và xí nghiệp.

Điều 28. Nếu số khoản nhiều thì làm riêng một tờ giấy, nếu số khoản ít thì có thể làm chung vào một tờ nhưng phải để một khoảng trắng cách hai, ba phân với các loại thuốc khác.

- Nếu lĩnh theo kế hoạch đã được duyệt rồi thì các lần lĩnh trong phạm vi kế hoạch đó không phải duyệt lại nữa. Thí dụ phân xưởng tiêm đã được duyệt sử dụng 1kg Mocphin để làm ra ống tiêm trong tháng 2: phân xưởng này có thể lĩnh làm 2 lần mỗi lần 0,500kg không phải đưa lên Ban Giám đốc duyệt lại nữa.

Hoặc trường Đại học Y dược đã được Bộ duyệt mua của Quốc doanh dược phẩm cấp I một kg cao Benladon dùng trong học kỳ I, như vậy trường có thể ký hợp đồng với Quốc doanh lĩnh làm hai, ba lần mới hết và những lần lĩnh này không phải đưa lên Bộ duyệt nữa.

- Tất cả dự trù đều phải thông qua thủ trưởng đơn vị kể cả thủ trưởng chính trị, do đó cán bộ lập dự trù phải ký tên vào bảng đó trước khi thông qua thủ trưởng.

- Cơ quan Y tế cấp trên cụ thể là:

Phòng Y tế huyện là cơ quan y tế cấp trên trực tiếp của: các trạm y tế xã, bệnh xá...

Sở, Ty Y tế là cơ quan Y tế cấp trên trực tiếp của: bệnh viện tỉnh, quốc doanh tỉnh, các phòng y tế thị xã, xí nghiệp, công, nông trường.

Bộ Y tế là cơ quan Y tế cấp trên của các cơ quan Trung ương trực thuộc Bộ.

- Trường hợp phải lĩnh một lượng thuốc đột xuất, trong dự trù phải có thuyết minh.

Điều 29. Cấp tỉnh trở xuống không được phép duyệt và cấp phát thuốc cho các bộ khác (ngoài hệ thống y tế).

Trường hợp đặc biệt có thể báo cáo về Bộ Y tế (Cục phân phối dược phẩm) và Quốc doanh Dược phẩm tỉnh có thể phát nếu được lệnh của Bộ (Cục phân phối dược phẩm).

Điều 32. Có thể cấp giấy ủy nhiệm dài hạn (1 năm) cho một cán bộ ký thay thế, mỗi khi thủ trưởng đi vắng.

Điều 33. Các cửa hàng tổng hợp, hợp tác xã muốn bán thuốc giảm độc phải có mậu dịch viên đã học về dược ít nhất 1 tháng.

Các cửa hàng căn cứ vào bảng giảm độc và thông báo giảm độc của quốc doanh cấp I để tính sẵn một bảng số lượng thành phẩm dược bán ra 1 lần cho người dùng để cho các mậu dịch viên bán thuốc dễ dàng.

Điều 34. Mỗi lần bán ra phải ghi vào sổ theo dõi mẫu số 4 kèm theo quy chế.

Điều 35. Chưa hiểu rõ thì hỏi lại người kê đơn, viết phiếu; nếu đơn phiếu sai nguyên tắc có ảnh hưởng đến bệnh nhân, thì không được phát hoặc bán.

Điều 36. Giấy ủy nhiệm hoặc giới thiệu lĩnh thuốc độc có thể viết chung với một công việc khác. Thí dụ: lĩnh thuốc độc cùng với việc lĩnh dụng cụ.

- Hộ lý không phải là cán bộ chuyên môn, do đó không thể phát hiện được nhầm lẫn trong khi giao nhận.

Điều 37. Việc kiểm nhận phải có trọng tâm; có thứ phải làm ngay, có thứ có thể làm sau, chủ yếu là đề phòng mất mát trên đường vận chuyển, do đó phải chú ý kiểm tra băng xi cẩn thận trước khi cân đong.

- Nếu phát hiện thấy thừa thiếu phải báo ngay cho cơ quan cấp phát biết để kịp thời điều tra.

Điều 39. Mẫu số 1, 2, 3, 4 phải làm thủ tục: đánh số trang, đóng dấu giáp lai và thủ trưởng ký vào trang đầu chứng nhận số trang.

- Mẫu số 5, 6, 7 thì chỉ đánh số trang, tờ (chú ý nên đóng sổ có số trang hoặc tờ chẵn, thí dụ: mẫu số 5 và 6 nên làm thống nhất 100 tờ).

Điều 40. Sổ xuất nhập thuốc độc này do cán bộ giữ thuốc độc ghi chép. Hàng tháng, khi kiểm kê phải đem khớp với sổ cái xuất nhập của đơn vị (thường do kế toán giữ).

Sổ này có thể mở cho thuốc bảng A riêng, thuốc bảng B riêng hoặc chung cho cả thuốc độc A, B nguyên chất và thành phẩm không giảm độc, tùy theo số lượng thuốc độc của đơn vị có.

Điều 41. Đối với các đơn vị nhỏ như bệnh xá, bệnh viện nhỏ có thể ghi chung với thuốc thường nhưng phải gạch đỏ dưới tên thuốc bảng A.

Điều 42. Sổ này có thể dùng trong 1 năm; nếu bệnh viện Trung ương chỉ định dùng một, hai tháng hết thuốc, bệnh viện tỉnh có thể khám lại và chỉ định dùng tiếp tục bằng sổ đó.

Nếu bệnh nhân ở quá xa nơi mua thuốc thì có thể bán mỗi lần 15 ngày.

Điều 43. Sổ này do người giữ thuốc độc ghi chép.

Điều 44. Nếu bệnh nhân có y bạ thì không cần phải sao đơn mà chỉ cần ghi số lượng thuốc đã bán và cách dùng.

Bản sao phải đóng dấu của cửa hàng.

Điều 45. Cơ sở pha chế theo đơn gồm:

- Các cửa hàng pha đơn.

- Các phòng bào chế bệnh viện.

Nếu pha chế hàng loạt theo công thức cố định thì vào sổ mẫu số 2. Sổ này có thể ghi chung cho đơn có thuốc độc với đơn thuốc thường, phải gạch đỏ dưới tên thuốc độc bảng A.

Điều 46. Biên bản hủy giấy tờ sổ sách về thuốc độc phải ghi rõ số lượng chứng từ, sổ sách, phiếu lĩnh, dự trù... đã hủy.

- Chỉ cần sự đồng ý của cơ quan y tế cấp trên trực tiếp chứ không quy định phải có đại diện đến chứng kiến.

Điều 47. Mục đích của báo cáo xuất nhập thuốc độc là để cấp trên trực tiếp nắm tình hình xuất nhập và sử dụng thuốc độc của đơn vị dưới và duyệt dự trù cho sát, do đó chỉ cần báo cáo lên cấp trên trực tiếp, không phải tổng hợp để báo cáo tiếp lên trên, thí dụ: Phòng y tế huyện nhận báo cáo xuất nhập thuốc độc của các đơn vị y tế trong huyện không phải tổng hợp báo cáo lên Ty; Ty nhận báo cáo của bệnh viện, quốc doanh và các đơn vị trực thuộc ty, không phải tổng hợp báo cáo lên Bộ. Bộ (Cục phân phối dược phẩm) nhận báo cáo của các đơn vị trực thuộc Bộ.

Điều 49. Thí dụ một số trường hợp sau đây cần phải báo cáo bất thường:

- Mất trộm thuốc độc.

- Cháy nhà trong đó có thuốc độc.

- Bị ngộ độc nặng hoặc ngộ độc hàng loạt do thuốc độc.

- Bị chết người do thuốc độc.

- Phát hiện thuốc độc lưu hành trái phép.

Ngay khi sự việc xảy ra, đơn vị bị tổn thất hoặc đơn vị nào phát hiện ra trước các vụ ngộ độc, lưu hành trái phép... chịu trách nhiệm báo cáo sơ bộ (thí dụ: nạn nhân đưa vào bệnh viện thì bệnh viên phải báo cáo sơ bộ). Sau khi đã điều tra rõ ràng thì báo cáo tỷ mỷ.

Trong khi chưa xác minh được sự việc xảy ra thì đơn vị phải chịu trách nhiệm bảo quản nguyên vẹn những thứ thuốc đã gây ra tai nạn đó.

Điều 50. Tùy theo số lượng thuốc cần hủy lớn hay nhỏ mà lập một Hội đồng hủy thuốc của đơn vị từ 3 đến 5 người có đại biểu của thủ trưởng đơn vị, của công đoàn, của bộ phận giữ thuốc.

Tùy theo tính chất quan trọng của số thuốc cần hủy mà cơ quan y tế cấp trên cử đại diện tới chứng kiến hay không.

Điều 51.Việc tổ chức học tập có thể chia ra các trình độ khác nhau với những yêu cầu khác nhau:

- Các cán bộ có liên quan tới việc chấp hành quy chế phải nắm chắc tinh thần và lời văn của quy chế.

- Các cán bộ khác chỉ yêu cầu nắm được tinh thần của quy chế.

- Hàng năm tổ chức kiểm tra lại để nâng cao dần dần nhận thức.

- Đối với các trường đạo tạo cán bộ y và dược phải xếp vào chương trình chính khóa của học sinh, sinh viên từ 6 đến 12 giờ (giờ lên lớp) học về quy chế thuốc độc tùy theo từng loại lớp (sẽ có thông tư hướng dẫn tỷ mỹ).

Điều 52. Sở, Ty Y tế giao cho một dược sĩ của phòng (hoặc bộ phận) Dược chính Sở, Ty.

- Bệnh viện giao cho y, bác sĩ y vụ và dược sĩ trưởng phòng bào chế.

- Quốc doanh giao cho một dược sĩ phòng nghiệp vụ.

- Xí nghiệp giao cho dược sĩ phòng kỹ thuật hoặc kiểm nghiệm.

Điều 53. Thí dụ đồng chí Phó Giám đốc bệnh viện được Ban Giám đốc bệnh viện giao trách nhiệm theo dõi kiểm tra việc chấp hành quy chế thuốc độc thì trong chức trách công tác của đồng chí đó phải được ghi rõ ràng để khi xảy ra sự việc có liên quan tới việc chấp hành quy chế sẽ căn cứ vào đó mà quy trách nhiệm.

Nội dung kiểm tra: Không nhất thiết phải kiểm tra toàn bộ quy chế mà có thể đi sâu vào từng trọng tâm.

Kiểm tra nội bộ một đơn vị:

- Ban Giám đốc trường, bệnh viện, xí nghiệp phải trực tiếp kiểm tra các bộ môn, các khoa, phòng, các phân xưởng v.v... 6 tháng một lần.

- Ban Chủ nhiệm Quốc doanh kiểm tra các cửa hàng 6 tháng một lần (đối với một cửa hàng).

- Sở, Ty Y tế kiểm tra bệnh viện, quốc doanh dược phẩm và các đơn vị Y tế trực tiếp với Sở, Ty ít nhất một năm 1 lần. Khi kiểm tra mỗi đơn vị phải đi sâu vào các bộ phận của đơn vị.

- Phòng Y tế huyện, thị xã kiểm tra bệnh xá, cửa hàng, trạm y tế hộ sinh xã và các đơn vị y tế trực tiếp với Phòng Y tế Sở, Ty Y tế có trách nhiệm bồi dưỡng hướng dẫn cho Phòng Y tế làm được công tác này.

- Bộ Y tế có nhiệm vụ kiểm tra các đơn vị trực thuộc Bộ và một số tỉnh xét thấy cần thiết (vì đơn vị Y tế của tỉnh nào thì chủ yếu là do Sở, Ty y tế của tỉnh ấy kiểm tra).

GIẢI THÍCH CHUNG

a) Các đơn vị có thể cụ thể hóa quy chế bằng các bản nội quy theo tinh thần của quy chế.

Thí dụ: Nội quy cấp pháp, nội quy cân đong...

b) Những quy định cho cấp nào trong quân đội có quyền hạn ký duyệt dự trù, ký lệnh phát, quyết định số lượng thuốc độc A, B của các đơn vị không có dược sĩ, v.v... sẽ do Bộ Quốc phòng quyết định cho phù hợp với tổ chức quân đội nhưng phải theo đúng tinh thần của quy chế này và báo cáo cho Bộ Y tế biết.

CHẾ ĐỘ NHÃN THUỐC

Thông tư 08-BYT-TT năm 1963 hướng dẫn Quyết định 315-BYT-QĐ về chế độ quản lý sử dụng thuốc độc dùng trong công tác phòng chữa bệnh do Bộ Y tế ban hành

  • Số hiệu: 08-BYT-TT
  • Loại văn bản: Thông tư
  • Ngày ban hành: 04/04/1963
  • Nơi ban hành: Quốc hội
  • Người ký: Nguyễn Đức Thắng
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Số 14
  • Ngày hiệu lực: 19/04/1963
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
MỤC LỤC VĂN BẢN
MỤC LỤC VĂN BẢN
HIỂN THỊ DANH SÁCH