Hệ thống pháp luật

BỘ TÀI CHÍNH
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 06-TC/TQD

Hà Nội, ngày 01 tháng 04 năm 1978

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN THI HÀNH VIỆC BÃI BỎ 4 KHOẢN THU CỦA NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG VỀ KHUYẾN KHÍCH GIAO NỘP NÔNG SẢN, THỰC PHẨM, HÀNG CÔNG NGHIỆP DO TRUNG ƯƠNG GIAO CHO ĐỊA PHƯƠNG, LÃI NGÂN HÀNG VÀ CHÊNH LỆCH HÀNG BÁN HAI GIÁ

Căn cứ vào nghị quyết của Thường vụ Hội đồng Chính phủ trong phiên họp ngày 17-3-1977 và ngày 23-3-1977 (thông báo số 15-TB ngày 12-4-1977 của Phủ thủ tướng) bãi bỏ 4 khoản thu của ngân sách địa phương về khuyến khích giao nộp nông sản, thực phẩm, hàng công nghiệp do trung ương giao cho địa phương, lãi ngân hàng và chênh lệch hàng bán hai giá (xe đạp, phụ tùng xe đạp…) nên từ ngày 01 tháng 7 năm 1977 trở đi, trong cân đối thu của ngân sách các tỉnh, thành phố, Bộ Tài chính không còn tính các khoản thu nói trên. Nhưng qua tình hình thực hiện ở các tỉnh, thành phố, việc thi hành chưa thật thống nhất, nhất là đối với các khoản thu khuyến khích giao nộp nông sản, thực phẩm. Nay Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành cụ thể như sau:

1. Đối với khoản thu về lãi ngân hàng và 4% hàng công nghệ phẩm

Theo chế độ phân cấp quản lý ngân sách mới, trong cân đối ngân sách các địa phương không còn khoản thu về 4% hàng công nghệ phẩm do ngân sách trung ương chuyển về nữa.

Ngân hàng Nhà nước là ngành quản lý tập trung thống nhất toàn ngành nên các khoản lãi của ngành ngân hàng do Ngân hàng trung ương nộp thống nhất vào ngân sách trung ương. Do đó ngân sách địa phương không còn khoản thu này.

2. Về khoản thu chênh lệch giá hàng bán hai giá (xe đạp, phụ tùng xe đạp và một số mặt hàng khác thực hiện theo phương thức bán hai giá).

Một số mặt hàng công nghiệp tiêu dùng có chênh lệch giá do được bán theo hai giá (giá bán cung cấp và giá bán lẻ tự do), số chênh lệch giá này thường phát sinh ở các xí nghiệp thương nghiệp bán lẻ.

Kể từ 01 tháng 01 năm 1978, các xí nghiệp thương nghiệp bán lẻ những mặt hàng theo hai giá nói trên đều phải nộp số chênh lệch giá đó vào ngân sách trung ương (ghi vào loại II, khoản 47, hạng 2).

3. Về khoản thu khuyến khích giao nộp nông sản, thực phẩm

Để bảo đảm thống nhất thu mua, bán sản phẩm hàng hóa của các đơn vị kinh tế trung ương cũng như kinh tế địa phương theo một giá chỉ đạo thu mua thống nhất của Nhà nước, thúc đẩy tạo ra nhiều thu nhập thuần tuý để đóng góp được nhiều hơn vào ngân sách chung của Nhà nước , Thường vụ Hội đồng Chính phủ đã bãi bỏ khoản thu khuyến khích giao nộp nông sản, thực phẩm của ngân sách địa phương.

Như vậy, các tổ chức kinh tế quốc doanh: các xí nghiệp thương nghiệp của ngành nội thương, ngoại thương, hải sản, y tế (dược liệu), các xí nghiệp công nghiệp thuộc trung ương quản lý mua các loại nông sản, thực phẩm (theo danh mục có ghi ở điều 1 quyết định số 255-CP của Hội đồng Chính phủ ngày 29-12-1969) không còn phải nộp khoản thu về khuyến khích giao nộp nông sản thực phẩm cho ngân sách địa phương nữa. Các xí nghiệp quốc doanh các tỉnh, thành phố được thu mua nông sản thực phẩm theo kế hoạch Nhà nước ở các tỉnh, thành khác cũng không phải nộp khoản thu nói trên cho các tỉnh, thành phố có nông sản, thực phẩm cung cấp cho các xí nghiệp đó nữa.

Do bãi bỏ khoản thu trên đây của ngân sách địa phương, giá giao dịch thay đổi như sau:

a) Các xí nghiệp thương nghiệp cấp II làm nhiệm vụ thu mua, các công ty kinh doanh hàng xuất khẩu địa phương, các công ty dược phẩm cấp II (thu mua dược liệu…), các công ty hải sản cấp II, … khi giao hàng nông sản, thực phẩm, hải sản, dược liệu cho các đơn vị, các ngành của trung ương hay các địa phương khác phải thanh toán theo giá giao mới. Giá giao mới bằng giá chỉ đạo thu mua của Nhà nước cộng (+) chi phí thu mua định mức và lợi nhuận định mức của xí nghiệp thương nghiệp cấp II thu mua.

b) Các xí nghiệp nội thương cấp I kinh doanh hàng nông sản, thực phẩm, hải sản, dược phẩm qua các xí nghiệp thương nghiệp thu mua cấp II phải thanh toán theo giá giao mới như quy định ở điểm a trên đây. Khi các xí nghiệp thương nghiệp cấp I bán hàng ra vẫn giữ nguyên giá cũ (giá bán buôn thương nghiệp cấp I), tức là giá bán lẻ trừ (-) chiết khấu thương nghiệp cấp II tiêu thụ. Khoản chênh lệch giá phát sinh giữa giá bán buôn thương nghiệp cấp I với giá vốn (giá chỉ đạo do thu mua cộng (+) với chi phí thu mua định mức và lợi nhuận định mức của xí nghiệp thương nghiệp cấp I và cấp II làm nhiệm vụ thu mua) đểu nộp vào ngân sách trung ương.

Đối với các mặt hàng đang có khoản chênh lệch giá ngân sách phải cấp bù (như thịt lợn điều về trung ương…), nay căn cứ vào giá giao mới, các công ty thương nghiệp cấp I tính toán lại để điều chỉnh giảm mức bù chênh lệch giá đối với các mặt hàng đó.

c) Đối với các xí nghiệp ngoại thương cấp I mua hàng xuất khẩu là nông sản, thực phẩm cũng có sự thay đổi giá vốn. Khoản giảm giá vốn này được giải quyết điều chỉnh ở khâu thu hay bù chênh lệch ngoại thương.

d) Các xí nghiệp công nghiệp trung ương và địa phương có sử dụng nguyên liệu là nông sản, thực phẩm,… ghi trong danh mục theo quyết định số 258-CP ngày 29-12-1969 của Hội đồng Chính phủ, do có thay đổi giá nguyên liệu vào sản xuất, vì trong giá mua nguyên liệu nay không còn khoản thu khuyến khích giao nộp nông sản, thực phẩm nữa, làm cho giá thành giảm xuống. Các Sở, Ty tài chính phải cùng với các xí nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của mình tính toán lại giá thành mới và điều chỉnh lại mức thu nhập thuần tuý phải nộp cho ngân sách Nhà nước. Nếu xí nghiệp nào đã áp dụng chế độ thu quốc doanh thì Bộ Tài chính (đối với xí nghiệp trung ương), Sở, Ty tài chính (đối với các xí nghiệp địa phương) sẽ cùng với các ngành hữu quan điều chỉnh lại mức thu quốc doanh. Các xí nghiệp khác nộp bổ sung dưới hình thức lợi nhuận. Số thu quốc doanh hoặc lợi nhuận nộp thêm vào ngân sách Nhà nước nói trên về nguyên tắc phải bảo đảm tương xứng với số giảm giá mua nguyên liệu do bãi bỏ khoản thu của ngân sách địa phương về khuyến khích giao nộp nông sản, thực phẩm.

đ) Từ sau ngày giải phóng, một số tỉnh ở phía Nam có vận dụng chế độ thu khuyến khích giao nộp nông sản, thực phẩm cho ngân sách địa phương dưới hình thức thuế xuất tỉnh… nay đều bãi bỏ và phải thực hiện đúng các điểm đã hướng dẫn nói ở mục a, b, c, d nói trên.

Việc bãi bỏ khoản thu khuyến khích về giao nộp nông sản thực phẩm của ngân sách địa phương nói trên phải được thi hành thống nhất từ ngày 01-04-1978 đối với tất cả các tỉnh và thành phố. Tỉnh nào trước ngày đó đã thu các khoản nói trên không đặt vấn đề điều chỉnh lại với các đơn vị đã nộp, nhưng phải báo cáo cụ thể các khoản thu đó với Bộ Tài chính để xét và giải quyết.

4. Bộ Tài chính đang đề nghị Thủ tướng Chính phủ có chế độ điều tiết mới đối với số thu quốc doanh, lợi nhuận của xí nghiệp quốc doanh trung ương và xí nghiệp quốc doanh địa phương thi hành từ năm 1978. Khi được Thủ tướng Chính phủ duyệt y, Bộ Tài chính sẽ hướng dẫn các địa phương tính toán lại ngân sách Nhà nước và ngân sách địa phương theo chế độ mới.

5. Các Sở, Ty tài chính có nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố triển khai cụ thể, cử ngay cán bộ tài chính cùng các ngành đi sát các đơn vị sản xuất, kinh doanh, nội thương, ngoại thương… trong tỉnh và thành phố thực hiện đúng các nội dung của thông tư này và báo cáo tình hình và kết quả thực hiện về Bộ trong tháng 4 năm 1978.

Các quy định trước đây trái với thông tư này đều bãi bỏ.

KT. BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG




Dương Văn Dật

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Thông tư 06-TC/TQD-1978 hướng dẫn việc bãi bỏ 4 khoản thu của ngân sách địa phương về khuyến khích giao nộp nông sản, thực phẩm, hàng công nghiệp do trung ương giao cho địa phương, lãi ngân hàng và chênh lệch hàng bán hai giá do Bộ Tài chính ban hành

  • Số hiệu: 06-TC/TQD
  • Loại văn bản: Thông tư
  • Ngày ban hành: 01/04/1978
  • Nơi ban hành: Bộ Tài chính
  • Người ký: Dương Văn Dật
  • Ngày công báo: 15/04/1978
  • Số công báo: Số 7
  • Ngày hiệu lực: 16/04/1978
  • Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định
Tải văn bản