Điều 14 Thể lệ số 2154-TL/VB về việc quản lý các loại kim khí quý, đá quý, ngọc trai do Ngân hàng Quốc gia ban hành
Điều 14. – Mang các loại kim khí quý, đã quý, ngọc trai chưa chế biến thành đồ trang sức hoặc mang những đồ trang sức, đồ mỹ nghệ bằng các loại nói trên quá số lượng quy định ở điều 12 thì phải xin giấy phép tại:
- trong phạm vi thành phố hay thị xã thì xin giấy phép Ủy ban Hành chính quận hay thị xã. Ra ngoài thành phố hay thị xã thì phải xin giấy phép Ngân hàng thành phố hay tỉnh.
- tự huyện này qua huyện khác trong phạm vi một tỉnh phải xin giấy phép Ủy ban Hành chính xã.
- từ tỉnh này qua tỉnh khác phải xin giấy phép Ngân hàng các cấp hoặc Ủy ban Hành chính huyện ở những nơi chưa có Ngân hàng.
- giấy chứng nhận đặc biệt nói ở điều 13 trong thể lệ này do Chi nhánh Ngân hàng cấp tỉnh cấp.
Riêng đối với việc cấp giấy phép mang vàng thì Ủy ban Hành chính quận, thị xã và Ủy ban Hành chính xã chỉ được cấp giấy phép mang một số lượng không quá 3 lạng ta (112 gam 5).
Giấy phép mang kim khí quý, đá quý, ngọc trai không được cho người khác mượn.
Thể lệ số 2154-TL/VB về việc quản lý các loại kim khí quý, đá quý, ngọc trai do Ngân hàng Quốc gia ban hành
- Số hiệu: 2154-TL/VB
- Loại văn bản: Văn bản khác
- Ngày ban hành: 01/08/1958
- Nơi ban hành: Quốc hội
- Người ký: Tạ Hoàng Cơ
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 30
- Ngày hiệu lực: 13/08/1958
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
- Điều 1. – Căn cứ Nghị định Thủ tướng Chính phủ số 355-TTg ngày 16 tháng 07 năm 1958, nay ban hành thể lệ này nhằm cụ thể hóa việc quản lý các loại kim khí, đá quý, ngọc trai để ngăn ngừa và bài trừ triệt để nạn đầu cơ, buôn lậu, xuất lậu các loại nói trên để bảo vệ tài sản quốc dân, góp phần vào việc quản lý thị trường, ổn định vật giá, ổn định tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân.
- Điều 2. – Nội dung thể lệ này quy định việc mua bán, sửa chữa, chế biến, cất giữ và mang các loại kim khí quý, đá quý, ngọc trai và những đồ trang sức bằng các loại nói trên.
- Điều 3. – Kể từ ngày công bố lệnh thi hành Nghị định của Thủ tướng Chính phủ số 355-TTg ngày 16 tháng 07 năm 1958 về việc thống nhất kinh doanh các loại kim khí quý, đá quý, ngọc trai vào Ngân hàng quốc gia Việt Nam (dưới đây gọi tắc là Ngân hàng), các hiệu vàng, bạc tư doanh không được mua các loại kim khí quý, đá quý, ngọc trai, nhưng còn được phép bán hết hàng tồn kho.
- Điều 4. – Các Chi nhánh Ngân hàng khu Tự trị, thành phố, tỉnh tổ chức mua kim khí quý cho nhân dân. Các cửa hàng mỹ nghệ vàng bạc quốc doanh ở Hà Nội, Hải Phòng ngoài việc tổ chức mua kim khí quý, mua cả đá quý, ngọc trai cho nhân dân.
- Điều 5. – Các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước cần mua kim khí quý dùng vào những công tác khoa học, kỹ thuật, y học hay làm huân chương, huy hiệu, v.v… phải có kế hoạch dự trù trước được cấp Trung ương cơ quan ấy duyệt. Ngân hàng xét để cung cấp theo khả năng và trong phạm vi kế hoạch đã duyệt.
- Điều 6. – Những tổ chế biến hoặc thợ chuyên nghiệp được đăng ký sửa chữa, chế biến đồ trang sức, đồ mỹ nghệ bằng kim khí quý, đá quý, ngọc trai phải chịu trách nhiệm với khách hàng của mình về trọng lượng, chất lượng của món hàng đã sửa chữa hoặc chế biến. Trong hóa đơn hoặc hợp đồng về những món hàng chế biến đều phải ghi rõ trọng lượng, chất lượng và trên sản phẩm phải đóng dấu hiệu riêng của mình về tuổi vàng bạc.
- Điều 7. – Ngoài việc sửa chữa, chế biến đồ trang sức cho nhân dân, các tổ chế biến hoặc thợ chuyên nghiệp đã đăng ký không được làm công việc lọc vàng, (trở vàng), không được trưng bày những mẫu hàng bằng vàng. Riêng mẫu hàng bằng bạc được trưng bày sau khi đã kê khai tại Ngân hàng.
- Điều 8. – Giá công chế biến những đồ trang sức thường dùng phải theo sự quy định của Ủy ban Hành chính khu Tự trị, thành phố, tỉnh. Giá quy định nói trên các cửa hàng phải niêm yết tại nơi khách hàng dễ xem nhất.
- Điều 9. – Những tổ chế biến hoặc thợ chuyên nghiệp được đăng ký phải kê khai và mở sổ sách theo đúng những thể lệ do Ngân hàng quy định và phải chịu sự kiểm soát của Ngân hàng. Khi không hoạt động nữa phải nộp lại giấy đăng ký cho Ngân hàng, không được chuyển nhượng cho người khác bất cứ dưới hình thức nào.
- Điều 10. – Nếu những tổ chức chế biến hoặc thợ chuyên nghiệp được đăng ký không thi hành đúng những thể lệ đã quy định thì tùy trường hợp nặng nhẹ sẽ bị xử lý theo điều 8 trong Nghị định Thủ tướng Chính phủ số 355-TTg ngày 16 tháng 07 năm 1958.
- Điều 11. – Mang các loại kim khí quý, đá quý, ngọc trai chưa chế biến thành đồ trang sức từ nơi này qua nơi khác trong phạm vi một thành phố, một thị xã hoặc từ huyện này qua huyện khác đều phải xin giấy phép của Ngân hàng hoặc cơ quan được ủy nhiệm cấp, trừ trường hợp mang vàng nói ở điều 13 trong thể lệ này.
- Điều 12. – Mang đồ trang sức bằng kim khí quý, đá quý, ngọc trai trên số lượng sau đây thì phải xin giấy phép:
- Điều 13. – Những người có số ít vàng chưa đánh thành đồ trang sức muốn mang theo người và những người muốn mang theo đồ trang sức quá số lượng đã quy định nói ở điều 12 trong thể lệ này đều phải xin giấy chứng nhận đặc biệt.
- Điều 14. – Mang các loại kim khí quý, đã quý, ngọc trai chưa chế biến thành đồ trang sức hoặc mang những đồ trang sức, đồ mỹ nghệ bằng các loại nói trên quá số lượng quy định ở điều 12 thì phải xin giấy phép tại:
- Điều 15. – Mang vàng cốm (vàng sa, vàng đãi) ở những nơi có đãi vàng sẽ do Chi nhánh Ngân hàng tỉnh căn cứ vào tình hình cụ thể để quy định việc cấp giấy phép.
- Điều 17. – Cấm lưu hành và tàng trữ các loại tiền bạc như bạc hoa xòe, (bạc trắng, bạc đồng, bạc hào) trừ một số vùng dân tộc ít người có quy định riêng ở điều 16 trong thể lệ này.
- Điều 18. – Mọi người đều có quyền cất giữ kim khí quý, đá quý, ngọc trai. Để bảo vệ quyền lợi cho người cất giữ và tránh sự gian lậu, các Chi nhánh Ngân hàng khu Tự trị, thành phố, tỉnh sẽ căn cứ tình hình và hoàn cảnh cụ thể của địa phương để công bố các thể lệ về việc cấp giấy chứng nhận và tiến hành tổ chức việc cấp giấy chứng nhận cho nhân dân.
- Điều 19. – Việc xuất nhập khẩu kim khí quý, đá quý, ngọc trai thi hành theo thể lệ quản lý ngoại hối của Ngân hàng quốc gia Việt Nam.
- Điều 20. – Những người làm trái thể lệ này thì xử lý theo các điều quy định trong Nghị định số 355-TTg ngày 16 tháng 07 năm 1958.
- Điều 21. – Tất cả những điều quy định trước đây của Ngân hàng quốc gia Việt Nam trái với thể lệ này đều bãi bỏ.
- Điều 22. – Bản thể lệ này có hiệu lực kể từ ngày công bố.
- Điều 23. – Bản thể lệ này do Ngân hàng quốc gia Việt Nam ban hành, khi thay đổi cũng vậy.