Hệ thống pháp luật

Chương 4 Thể lệ số 2154-TL/VB về việc quản lý các loại kim khí quý, đá quý, ngọc trai do Ngân hàng Quốc gia ban hành

Chương 4:

MANG CÁC LOẠI KIM KHÍ QUÝ, ĐÁ QUÝ, NGỌC TRAI VÀ NHỮNG ĐỒ TRANG SỨC BẰNG CÁC LOẠI NÓI TRÊN

Điều 11. – Mang các loại kim khí quý, đá quý, ngọc trai chưa chế biến thành đồ trang sức từ nơi này qua nơi khác trong phạm vi một thành phố, một thị xã hoặc từ huyện này qua huyện khác đều phải xin giấy phép của Ngân hàng hoặc cơ quan được ủy nhiệm cấp, trừ trường hợp mang vàng nói ở điều 13 trong thể lệ này.

Những loại vàng, bạc thoi, khối, nén, vàng lá, vàng cốm, (vàng sa, vàng đãi) vàng vụn, tiền vàng, tiền bạc hoặc đồ trang sức chế biến dở dang đều không coi là đồ trang sức. Người nào mang những thứ nói trên không có giấy phép thì coi như mang kim khí quý trái phép.

Điều 12. – Mang đồ trang sức bằng kim khí quý, đá quý, ngọc trai trên số lượng sau đây thì phải xin giấy phép:

- 1 lạng ta (37 gam 5) vàng đã đánh thành đồ trang sức;

- 10 lạng ta (375 gam) bạc đã đánh thành đồ trang sức hoặc đồ mỹ nghệ;

- 2 đồng cân bạch kim (7 gam 5) đã đánh thánh đồ trang sức;

- 3 cara (0 gam 6) mặt đá kim cương đã lắp hoặc gắn vào đồ trang sức.

Mang đồ trang sức từ số lượng nói trên đây trở xuống không phải xin giấy phép nhưng phải có đủ giấy tờ hợp pháp như hóa đơn hoặc giấy chứng nhận v.v… Những giấy tờ đó không nhất thiết phải mang theo người nhưng khi cần thiết thì phải xuất trình.

Ngoài kim cương đã quy định theo mức nói trên, những đồ trang sức bằng đá quý khác mang theo người đều phải lắp, gắn vào đồ trang sức như nhẫn mặt, hoa tai, v.v…

Đối với ngọc trai và các loại ngọc khác mang theo người nếu để rời hoặc xâu thành chuỗi quá 100 hạt đều phải xin giấy phép.

Điều 13. – Những người có số ít vàng chưa đánh thành đồ trang sức muốn mang theo người và những người muốn mang theo đồ trang sức quá số lượng đã quy định nói ở điều 12 trong thể lệ này đều phải xin giấy chứng nhận đặc biệt.

Muốn xin giấy chứng nhận đặc biệt phải đến Ngân hàng xin giấy phép để mang vàng đến Ngân hàng đóng dấu, ghi đặc điểm. Sau đó sẽ được cấp một giấy chứng nhận đặc biệt thay cho giấy mang vàng.

Khi cần thiết, Ngân hàng có thể kiểm soát những loại vàng đã được cấp giấy chứng nhận đặc biệt

Điều 14. – Mang các loại kim khí quý, đã quý, ngọc trai chưa chế biến thành đồ trang sức hoặc mang những đồ trang sức, đồ mỹ nghệ bằng các loại nói trên quá số lượng quy định ở điều 12 thì phải xin giấy phép tại:

- trong phạm vi thành phố hay thị xã thì xin giấy phép Ủy ban Hành chính quận hay thị xã. Ra ngoài thành phố hay thị xã thì phải xin giấy phép Ngân hàng thành phố hay tỉnh.

- tự huyện này qua huyện khác trong phạm vi một tỉnh phải xin giấy phép Ủy ban Hành chính xã.

- từ tỉnh này qua tỉnh khác phải xin giấy phép Ngân hàng các cấp hoặc Ủy ban Hành chính huyện ở những nơi chưa có Ngân hàng.

- giấy chứng nhận đặc biệt nói ở điều 13 trong thể lệ này do Chi nhánh Ngân hàng cấp tỉnh cấp.

Riêng đối với việc cấp giấy phép mang vàng thì Ủy ban Hành chính quận, thị xã và Ủy ban Hành chính xã chỉ được cấp giấy phép mang một số lượng không quá 3 lạng ta (112 gam 5).

Giấy phép mang kim khí quý, đá quý, ngọc trai không được cho người khác mượn.

Điều 15. – Mang vàng cốm (vàng sa, vàng đãi) ở những nơi có đãi vàng sẽ do Chi nhánh Ngân hàng tỉnh căn cứ vào tình hình cụ thể để quy định việc cấp giấy phép.

Thể lệ số 2154-TL/VB về việc quản lý các loại kim khí quý, đá quý, ngọc trai do Ngân hàng Quốc gia ban hành

  • Số hiệu: 2154-TL/VB
  • Loại văn bản: Văn bản khác
  • Ngày ban hành: 01/08/1958
  • Nơi ban hành: Quốc hội
  • Người ký: Tạ Hoàng Cơ
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Số 30
  • Ngày hiệu lực: 13/08/1958
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
MỤC LỤC VĂN BẢN
MỤC LỤC VĂN BẢN
HIỂN THỊ DANH SÁCH