Hệ thống pháp luật
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...

SẮC LỆNH

SẮC LỆNH SỐ 158 VỀ QUYỀN HẠN ĐỊNH ĐOẠT HÒA GIẢ ĐỐI VỚI NHỮNG SỰ VI PHẠM VỀ THUẾ QUAN VÀ THUẾ GIÁN THU CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ SỐ 158 NGÀY 20 THÁNG 8 NĂM 1946

CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

Chiểu chi Sắc lệnh số 27 ngày 10 tháng 9 năm 1945 về việc tổ chức Sở Thuế quan và Thuế gián thu;

Chiểu chi Sắc lệnh ngày 3 tháng 10 năm 1945 để Sở Thuế quan, Thuế gián thu thuộc Bộ Tài chính;

Chiểu Nghị định của Bộ trưởng Bộ Tài chính,

Sau khi Hội đồng Chính phủ đã thoả thuận,

RA SẮC LỆNH:

Khoản I

Kể từ ngày ban bố Sắc lệnh này, quyền hạn định đoạt hoà giải đối với những sự vi phạm về Thuế quan và Thuế gián thu trong toàn cõi Việt Nam sẽ thuộc về các ông Giám đốc địa phương, Tổng Giám đốc Sở Thuế quan và Thuế gián thu và Bộ trưởng Bộ Tài chính.

Khoản II

1- Vi phạm về luật thuế quan:

a) Các ông Giám đốc Thuế quan và Thuế gián thu địa phương có quyền định đoạt hoà giải - khi nào sự vi phạm không có tính cách quan trọng và người đương sự chỉ cần phải bị phạt chiếu lệ.

b) Khi nào số tiền phạt do luật lệ hiện hành ấn định hoặc do Toà án đã quyết định không quá 10.000$. Nhưng nếu số tiền thuế mà vi phạm định trốn không quá 2.500$ ông Giám đốc địa phương vẫn có thể định đoạt hoà giải mặc dầu số tiền phạt trên 10.000$.

c) Ông Tổng Giám đốc có quyền hoà giải khi nào số tiền phạt không quá 40.000$ hoặc trên 40.000$ nếu số tiền thuế định trốn không hơn 10.000 đồng.

2- Vi phạm về Luật thuế gián thu:

a) Các ông Giám đốc địa phương có quyền hoà giải khi nào số tiền phạt do luật lệ hiện hành ấn định hoặc do Toà án nghị quyết không quá 10.000đ hoặc nếu số thuốc phiện tịch thu không quá 25 cân kilô.

b) Ông Tổng Giám đốc có quyền hoà giả khi nào số tiền phạt không quá 40.000$ hoặc nếu số thuốc phiện tịch thu không trên 45 kilô.

Khoản III

Ngoài những trường hợp kể trong khoản II, ông Bộ trưởng Bộ Tài chính sẽ định đoạt.

Khoản IV

Các ông Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ Nội vụ có nhiệm vụ thi hành Sắc lệnh này.

 

Huỳnh Thúc Kháng

(Đã ký)