Quyết định số 27/2022/DS-TT ngày 23/08/2022 của Tòa án nhân dân tối cao
Số quyết định: 27/2022/DS-TT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Ngày ban hành: 23/08/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tối cao
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Theo đơn khởi kiện đề ngày 17/10/2016, Đơn xin rút một phần yêu cầu khởi
kiện đề ngày 30/12/2016 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Vương Lệ
X trình bày:
Ngày 30/10/2014, Công ty TNHH Dịch vụ bán đấu giá tài sản C (sau đây gọi
tắt là Công ty C) tổ chức bán đấu giá quyền sử dụng đất 300m2 và tài sản gắn liền
với đất là nhà văn phòng có diện tích sàn xây dựng là 948,49m2, thuộc một phần thửa
đất số 780, 781, tờ bản đồ số 04, tọa lạc tại khu phố NH 1, phường BA, thành phố D,
tỉnh Bình Dương với giá khởi điểm theo chứng thư thẩm định giá là 2.815.372.000
đồng. Bà X đã mua trúng đấu giá tài sản nêu trên với giá là 2.816.000.000 đồng.
Ngày 30/10/2014, Công ty C và bà X đã ký Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá
số 69. Ngày 28/11/2014, bà X nộp đủ số tiền 2.816.000.000 đồng vào tài khoản của
Công ty C. Tuy nhiên, Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố D (sau đây gọi tắt là
Thi hành án D) và Công ty C vẫn không bàn giao tài sản cho bà X theo thỏa thuận
trong Hợp đồng nêu trên.
Sau đó, ông Trần Quốc T2, bà Châu Ngọc P khởi kiện tại Tòa án nhân dân
thành phố T, tỉnh Bình Dương yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá tài sản theo Hợp đồng
số 69 ngày 30/10/2014 nêu trên. Ngày 22/01/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
đã hủy kết quả bán đấu giá và hủy Hợp đồng mua bán đấu giá tài sản số 69 ngày
30/10/2014. Vụ kiện này đã làm thiệt hại cho bà X vì bà X đã giao đủ tiền nhưng
nhiều năm vẫn không được nhận tài sản. Ngày 30/12/2016, Công ty C đã hoàn trả
cho bà X số tiền 2.816.000.000 đồng nên bà X đã rút yêu cầu khởi kiện này, chỉ yêu
cầu Thi hành án D và Công ty C bồi thường thiệt hại số tiền là 1.762.000.000 đồng.Bị đơn là Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố D do ông Nguyễn Thanh T1
làm đại diện trình bày:
Thống nhất trình bày của nguyên đơn về thời gian và tài sản bán đấu giá, giá
trị tài sản bán đấu giá, người mua đấu giá trúng, các thỏa thuận trong Hợp đồng mua
bán tài sản bán đấu giá số 69. Tuy nhiên, Thi hành án D không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện về việc bồi thường thiệt hại số tiền 1.762.000.000 đồng của nguyên đơn vì
đã thực hiện thủ tục bán đấu giá tài sản đúng và đầy đủ. Việc bà X không nhận được
tài sản mua đấu giá trúng không phải do lỗi của Thi hành án D mà do vợ chồng ông
T2, bà P không chấp hành giao tài sản và do Bản án dân sự phúc thẩm số 25/DSPT
ngày 22/01/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử không đúng quy định
pháp luật. Mặt khác, số tiền nguyên đơn yêu cầu bồi thường căn cứ vào mức chênh
lệch giá đã mua và giá theo chứng thư thẩm định các lần sau là không phù hợp vì tài
sản hiện tại vẫn chưa bán được. Do đó, Thi hành án D và Công ty C chỉ đồng ý trả
cho nguyên đơn số tiền lãi 146.008.766 đồng phát sinh từ số tiền 2.816.000.000 đồng
do bà X nộp để mua tài sản trúng đấu giá.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Quyết định số 27/2022/DS-TT ngày 23/08/2022 của Tòa án nhân dân tối cao
Số quyết định: 27/2022/DS-TT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Ngày ban hành: 23/08/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tối cao
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Theo đơn khởi kiện đề ngày 17/10/2016, Đơn xin rút một phần yêu cầu khởi
kiện đề ngày 30/12/2016 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Vương Lệ
X trình bày:
Ngày 30/10/2014, Công ty TNHH Dịch vụ bán đấu giá tài sản C (sau đây gọi
tắt là Công ty C) tổ chức bán đấu giá quyền sử dụng đất 300m2 và tài sản gắn liền
với đất là nhà văn phòng có diện tích sàn xây dựng là 948,49m2, thuộc một phần thửa
đất số 780, 781, tờ bản đồ số 04, tọa lạc tại khu phố NH 1, phường BA, thành phố D,
tỉnh Bình Dương với giá khởi điểm theo chứng thư thẩm định giá là 2.815.372.000
đồng. Bà X đã mua trúng đấu giá tài sản nêu trên với giá là 2.816.000.000 đồng.
Ngày 30/10/2014, Công ty C và bà X đã ký Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá
số 69. Ngày 28/11/2014, bà X nộp đủ số tiền 2.816.000.000 đồng vào tài khoản của
Công ty C. Tuy nhiên, Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố D (sau đây gọi tắt là
Thi hành án D) và Công ty C vẫn không bàn giao tài sản cho bà X theo thỏa thuận
trong Hợp đồng nêu trên.
Sau đó, ông Trần Quốc T2, bà Châu Ngọc P khởi kiện tại Tòa án nhân dân
thành phố T, tỉnh Bình Dương yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá tài sản theo Hợp đồng
số 69 ngày 30/10/2014 nêu trên. Ngày 22/01/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
đã hủy kết quả bán đấu giá và hủy Hợp đồng mua bán đấu giá tài sản số 69 ngày
30/10/2014. Vụ kiện này đã làm thiệt hại cho bà X vì bà X đã giao đủ tiền nhưng
nhiều năm vẫn không được nhận tài sản. Ngày 30/12/2016, Công ty C đã hoàn trả
cho bà X số tiền 2.816.000.000 đồng nên bà X đã rút yêu cầu khởi kiện này, chỉ yêu
cầu Thi hành án D và Công ty C bồi thường thiệt hại số tiền là 1.762.000.000 đồng.Bị đơn là Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố D do ông Nguyễn Thanh T1
làm đại diện trình bày:
Thống nhất trình bày của nguyên đơn về thời gian và tài sản bán đấu giá, giá
trị tài sản bán đấu giá, người mua đấu giá trúng, các thỏa thuận trong Hợp đồng mua
bán tài sản bán đấu giá số 69. Tuy nhiên, Thi hành án D không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện về việc bồi thường thiệt hại số tiền 1.762.000.000 đồng của nguyên đơn vì
đã thực hiện thủ tục bán đấu giá tài sản đúng và đầy đủ. Việc bà X không nhận được
tài sản mua đấu giá trúng không phải do lỗi của Thi hành án D mà do vợ chồng ông
T2, bà P không chấp hành giao tài sản và do Bản án dân sự phúc thẩm số 25/DSPT
ngày 22/01/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử không đúng quy định
pháp luật. Mặt khác, số tiền nguyên đơn yêu cầu bồi thường căn cứ vào mức chênh
lệch giá đã mua và giá theo chứng thư thẩm định các lần sau là không phù hợp vì tài
sản hiện tại vẫn chưa bán được. Do đó, Thi hành án D và Công ty C chỉ đồng ý trả
cho nguyên đơn số tiền lãi 146.008.766 đồng phát sinh từ số tiền 2.816.000.000 đồng
do bà X nộp để mua tài sản trúng đấu giá.