- 1Thông tư liên bộ 1-TT.LB năm 1975 quy định lập kế hoạch đối với các xí nghiệp sản xuất của thương binh do Uỷ ban kế hoạch nhà nước- Nội vụ ban hành
- 2Thông tư 4-TBXH/TC-1976 hướng dẫn thi hành Quyết định 284-CP-1974 về chính sách đối với xí nghiệp sản xuất của thương binh do Bộ Thương binh và xã hội ban hành
- 3Quyết Định 282-TTg năm 1976 Ban hành Điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của xí nghiệp sản xuất của thương binh của Hội Đồng Chính Phủ
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ | VIÊT |
Số: 284-CP | Hà Nội, ngày 23 tháng 12 năm 1974 |
QUYẾT ĐỊNH
VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI XÍ NGHIỆP SẢN XUẤT CỦA THƯƠNG BINH
Để giải quyết công việc làm cho thương binh, bệnh binh, nghị quyết số 196-CP ngày 16-10-1972 của Hội đồng Chính phủ đã đề ra chủ trương thành lập các xí nghiệp sản xuất của thương binh.
Căn cứ chủ trương trên, Hội đồng Chính phủ ban hành chính sách đối với các xí nghiệp sản xuất của thương binh như sau.
I. VỀ TÍNH CHẤT VÀ NHIỆM VỤ CỦA CÁC XÍ NGHIỆP SẢN XUẤT CỦA THƯƠNG BINH.
Vì vậy, xí nghiệp sản xuất của thương binh phải kinh doanh những ngành nghề thích hợp, từng bước trang bị dần những công cụ lao động thích hợp và có chế độ lao động thích hợp nhằm tạo điều kiện để anh chị em sản xuất tốt, bảo đảm được sức khỏe để làm việc lâu dài tại xí nghiệp.
III. NHỮNG CHÍNH SÁCH, CHẾ ĐỘ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI XÍ NGHIỆP SẢN XUẤT CỦA THƯƠNG BINH.
Xí nghiệp sản xuất của thương binh được Nhà nước cấp vốn lao động ban đầu để bảo đảm sản xuất.
Các tài sản, thiết bị do Nhà nước cấp vốn để xây dựng ban đầu đều là tài sản của Nhà nước; xí nghiệp sản xuất của thương binh được sử dụng những tài sản đó để sản xuất, kinh doanh, phải gìn giữ, bảo vệ những tài sản đó không được tự ý đem bán hoặc đổi chác. Nếu cần thiết phải có sự thay đổi về tài sản thì phải được Ủy ban Hành chính tỉnh, thành phố cho phép.
Xí nghiệp sản xuất của thương binh phải trích nộp khấu hao cơ bản, những khấu hao này coi là vốn tự tích luỹ của xí nghiệp, không phải nộp cho Nhà nước. Xí nghiệp chỉ được dùng những khấu hao này để sửa chữa , đổi mới hoặc thay thế các thiết bị hư hỏng. Nếu cần đổi mới toàn bộ thiết bị hoặc những thiết bị quan trọng khác mà xí nghiệp không có đủ khả năng tự đầu tư vốn thì Nhà nước sẽ cấp thêm hoặc cho vay vốn đầu tư cơ bản cần thiết. Việc này do Ủy ban Hành chính tỉnh, thành phố xem xét và quyết định.
2. Xí nghiệp sản xuất của thương binh được:
a) Nhà nước ưu tiên dành cho làm những mặt hàng thích hợp. Trước khi thành lập xí nghiệp sản xuất của thương binh, ngành thương binh xã hội đề nghị các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền dành những mặt hàng cho thương binh, bệnh binh sản xuất; nếu có nhiều cơ sở sản xuất cùng yêu cầu kinh doanh những mặt hàng đó thì phải dành trước cho xí nghiệp sản xuất của thương binh. Các cơ quan Nhà nước đảm bảo ổn định những mặt hàng giao cho xí nghiệp sản xuất của thương binh kinh doanh, hết sức tránh giảm bớt sản lượng để không ảnh hưởng đến công việc làm của thương binh, bệnh binh;
b) Nhà nước cấp kinh phí để sản xuất thử;
d) Nhà nước tiêu thụ sản phẩm như đối với sản phẩm của xí nghiệp quốc doanh và trả giá tuỳ theo chất lượng, phẩm chất của sản phẩm;
4. Xí nghiệp sản xuất của thương binh nộp thuế cho Điều lệ thuế công thương nghiệp ban hành theo quyết định của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội số 200- NQ/TVQH ngày 18-1-1966.
Xí nghiệp sản xuất của thương binh được miễn thuế lợi tức doanh nghiệp. Số thuế được miễn (bao gồm phần thuế miễn cho xí nghiệp và phần thuế miễn cho cá nhân thương binh) phải được bỏ vào quỹ tích luỹ của xí nghiệp để dùng vào việc mở rộng sản xuất đồng thời bỏ một phần vào quỹ phúc lợi để giải quyết đời sống của thương binh. Tỷ lệ bỏ vào các quỹ này phải theo đúng các quy định của Nhà nước.
Khi các xí nghiệp của thương binh đã đi vào ổn định, sản xuất có nhiều lãi thì xí nghiệp phải có trách nhiệm góp phần tích luỹ cho Nhà nước ; Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính sẽ đề nghị Chính phủ bổ sung các quy định cho thích hợp.
5. Những thương binh, bệnh binh làm việc trong xí nghiệp sản xuất của thương binh được:
Bộ Nội vụ quy định thời gian tối đa đài thọ sinh hoạt phí cho các xí nghiệp sản xuất của thương binh theo từng ngành nghề kinh doanh.
6. Các khoản đầu tư và trợ cấp của Nhà nước nói ở trên đều do ngân sách của địa phương đài thọ, nếu địa phương không đủ khả năng sẽ do Bộ Tài chính xét trợ cấp thêm.
Các xí nghiệp sản xuất của thương binh phải phấn đấu giải quyết tốt đời sống của thương binh, bệnh binh làm việc tại xí nghiệp, đảm bảo cho anh chị em với lương do xí nghiệp trả và tiền trợ cấp của Nhà nước (trợ cấp thương tật, trợ cấp phục viên...) có thu nhập như những người bình thường làm những công việc tương đương, đồng thời tích luỹ để mở rộng sản xuất, xây dựng các cơ sở và quỹ phúc lợi tập thể phục vụ đời sống của thương binh, bệnh binh làm việc tại xí nghiệp.
Việc xây dựng và quản lý các xí nghiệp sản xuất của thương binh là một việc mới chưa có kinh nghiệm, có nhiều khó khăn, phức tạp, nhưng lại rất cần thiết, trước mắt cũng như về lâu dài, để góp phần giải quyết đời sống và công việc làm cho thương binh, bệnh binh sau chiến tranh. Các ngành, các cấp cần nắm vững tinh thần đó để thực hiện tốt quyết định của Hội đồng Chính phủ, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Lao động, Bộ Y tế, các ngành phụ trách về công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp vật tư phải tích cực và thiết thực giúp đỡ Bộ Nội vụ và các Ty, Sở thương binh xã hội quản lý và chỉ đạo tốt các xí nghiệp sản xuất của thương binh.
| T.M. HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ |
- 1Nghị quyết số 196-CP về việc bổ sung chính sách đối với thương binh, bệnh binh do Hội đồng Chính phủ ban hành
- 2Thông tư liên bộ 1-TT.LB năm 1975 quy định lập kế hoạch đối với các xí nghiệp sản xuất của thương binh do Uỷ ban kế hoạch nhà nước- Nội vụ ban hành
- 3Thông tư 4-TBXH/TC-1976 hướng dẫn thi hành Quyết định 284-CP-1974 về chính sách đối với xí nghiệp sản xuất của thương binh do Bộ Thương binh và xã hội ban hành
- 4Quyết Định 282-TTg năm 1976 Ban hành Điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của xí nghiệp sản xuất của thương binh của Hội Đồng Chính Phủ
Quyết định 284-CP năm 1974 về chính sách đối với xí nghiệp sản xuất của thương binh do Hội đồng Chính phủ ban hành
- Số hiệu: 284-CP
- Loại văn bản: Quyết định
- Ngày ban hành: 23/12/1974
- Nơi ban hành: Hội đồng Chính phủ
- Người ký: Lê Thanh Nghị
- Ngày công báo: 31/12/1974
- Số công báo: Số 22
- Ngày hiệu lực: 07/01/1975
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định