Điều 4 Quyết định 173/2001/QĐ-TTg về việc phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2001-2005 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
Điều 4. Về phát triển cơ sở hạ tầng:
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển các cơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện phát triển nhanh kinh tế - xã hội trong vùng (có Phụ lục chi tiết kèm theo Quyết định này).
Các quy hoạch về giao thông, xây dựng, quy hoạch cụm, tuyến dân cư và nhà ở của dân, quy hoạch điện, nước .... phải được tiếp tục bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với quy hoạch thủy lợi, quy hoạch kiểm soát lũ nhằm đáp ứng yêu cầu thoát lũ; đồng thời bảo đảm an toàn cho các công trình cơ sở hạ tầng khi lũ lụt xẩy ra hàng năm.
1. Về thủy lợi: đầu tư xây dựng các hệ thống công trình thủy lợi gắn với phát triển giao thông, xây dựng cụm, tuyến, điểm dân cư theo nội dung Quyết định số 99/TTg ngày 09 tháng 02 năm 1996 để phục vụ có hiệu quả việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất và dân sinh.
Trên cơ sở các số liệu về lũ năm 2000 và năm 2001, giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và ủy ban nhân dân các tỉnh bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể về hệ thống thủy lợi, tiêu thoát lũ, thau chua, xổ phèn, ngăn mặn, giữ ngọt... đáp ứng các yêu cầu của chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế của vùng; bổ sung, điều chỉnh lại quy hoạch kiểm soát lũ, trên cơ sở tính hoàn nguyên lũ năm 2000, gắn với toàn lưu vực sông Mê Kông cho phù hợp với diễn biến lũ lụt và các vấn đề mới nẩy sinh, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh và bền vững về kinh tế - xã hội của vùng.
a) Mục tiêu đến năm 2005, hoàn thành hệ thống công trình thủy lợi và kiểm soát lũ chủ yếu của vùng nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sản xuất, giảm thiểu thiệt hại do lũ lụt gây ra, đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân, an toàn các cơ sở kinh tế và kết cấu hạ tầng.
Tiếp tục triển khai và hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi kết hợp tưới tiêu, rửa phèn, ngăn mặn với kiểm soát lũ tại vùng tứ giác Long Xuyên. Đẩy nhanh việc nghiên cứu để có căn cứ khoa học triển khai đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi, công trình kiểm soát lũ vùng Đồng Tháp Mười và vùng sông Vàm Cỏ.
b) Hoàn thành các hạng mục thuộc dự án vay vốn của Ngân hàng Thế giới (WB) là Quản Lộ - Phụng Hiệp, Nam Măng Thít và Ô Môn - Xà No; dự án thủy lợi Ba Lai, tỉnh Bến Tre...; xây dựng đồng bộ hệ thống thủy lợi nội đồng tưới tiêu chủ động cho diện tích quy hoạch sản xuất lúa xuất khẩu khoảng 1 triệu ha; xây dựng hệ thống thủy lợi đồng bộ và hoàn chỉnh để phục vụ cho khoảng 700 nghìn ha diện tích nuôi tôm và thủy sản các loại.
Triển khai các hệ thống thủy lợi vùng Tây sông Hậu, Nam bán đảo Cà Mau... các vùng U Minh Thượng, U Minh Hạ đáp ứng yêu cầu phát triển đa dạng của sản xuất.
Rà soát, hoàn chỉnh lại quy hoạch đê biển, đê cửa sông các tỉnh ven biển nhằm đáp ứng việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, bảo vệ dân cư và thoát lũ của vùng.
2. Về giao thông vận tải:
a) Trong 5 năm tới giải quyết được cơ bản về giao thông, trong đó chú ý cả giao thông đường bộ và khai thác thế mạnh của giao thông đường thủy của vùng; các tuyến quốc lộ và tỉnh lộ vào cấp và kiên cố bền vững, đạt 90% nhựa hoá; mở một số tuyến mới N1, N2 song song với trục Bắc Nam quốc lộ 1A, mở tuyến Quản Lộ - Phụng Hiệp, tuyến Nam sông Hậu (91c).
b) Nâng cấp hệ thống quốc lộ, tỉnh lộ và huyện lộ quan trọng tạo thành hệ thống giao thông đường bộ thông suốt trên toàn vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long.
Việc xây dựng các tuyến giao thông, hệ thống cầu, cống cần phải phối hợp chặt chẽ với các công trình thủy lợi tạo thành một hệ thống đồng bộ kiểm soát lũ, khai thác tài nguyên nước, bảo vệ môi trường bền vững, xây dựng các cụm, tuyến và điểm dân cư.
c) Trước mắt, tập trung hoàn thành các công trình trọng điểm, cải tạo nâng cấp một số tuyến giao thông và một số cảng chính, thực hiện đầu tư tập trung nhằm đạt hiệu quả thiết thực, tạo động lực để phục vụ kịp thời cho lưu thông, xuất khẩu và phát triển sản xuất của vùng, củng cố thế trận an ninh, quốc phòng.
Khởi công mới tuyến N2, đoạn Thạnh Hoá - Đức Hoà, tuyến N1 đoạn Bến Thuỷ - Tịnh Biên - Hà Tiên, tuyến Nam sông Hậu (91c), tuyến Quản Lộ - Phụng Hiệp.
Mở quốc lộ 1A đoạn thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương, quốc lộ 60 (Bến Tre - Trà Vinh, Sóc Trăng và 2 bến phà Cổ Chiên, Đại Ngải; quốc lộ 80 (đoạn Mỹ Thuận - Vàm Cống), quốc lộ 50 đoạn Cầu Nhị Thiên Đường - Gò Công - Mỹ Tho), cầu Tô Châu quốc lộ 80 và một số tuyến đường nối ra các cửa khẩu; triển khai xây dựng cầu Cần Thơ; khôi phục quốc lộ 1 đoạn Cà Mau - Năm Căn.
Triển khai dự án đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ (giai đoạn 1), cầu Rạch Miếu, cầu Vàm Cống theo hình thức BOT.
d) Tiếp tục xây dựng mạng lưới đường nông thôn liên huyện, liên xã, liên thôn ấp từ các nguồn vốn: vốn ngân sách, huy động trong dân, vốn của các nhà tài trợ JBIC, ADB và WB; sớm hoàn thành chương trình xoá cầu khỉ, xây dựng cầu nông thôn mới; phấn đấu đến năm 2005, các xã đều có đường ô tô đến trung tâm xã.
đ) Đầu tư cơ bản hoàn thành các tuyến giao thông bộ trên các đảo (chủ yếu là đảo Phú Quốc) để đảm bảo cho phòng thủ và an ninh, cùng với giải quyết vấn đề điện, nước, cầu cống, y tế, giáo dục... nhằm nâng cao đời sống nhân dân và phát triển sản xuất.
e) Nâng cấp các cảng sông nằm trên tuyến vận tải chính: cảng Vĩnh Long, cảng Cao Lãnh trên sông Tiền; cảng Mỹ Thới trên sông Hậu, các cảng sông Cà Mau, cảng Mỹ Tho (Tiền Giang), cảng Đại Ngải; nâng khẩu độ cầu Một Tháng Giêng, Sóc Trăng, cầu Vĩnh Thuận, nâng cấp cầu Sa Đéc, xây dựng cầu Thới Bình.
Hoàn thành dự án 2 tuyến đường thủy phía Nam và cảng Cần Thơ; tiếp tục giai đoạn 2 nâng cấp cảng Cần Thơ gồm làm tiếp nối 76 m cầu tàu, xây dựng đường bãi, trang bị bốc xếp. Đầu tư xây dựng cảng Cái Cui (Cần Thơ), cảng Cần Giuộc (Long An), cảng Định An (Trà Vinh).
Bộ Giao thông vận tải phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tính toán, xác định khẩu diện, vị trí cầu trên các lộ giao thông với hệ thống kênh trục thủy lợi, có giải pháp công trình thích hợp (vượt lũ, cầu cạn, đường tràn thoát lũ...) để vừa bảo đảm giao thông, vừa không ảnh hưởng dòng chảy và nâng cao mực nước lũ.
3. Về kế hoạch xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở của nhân dân vùng thường xuyên bị ngập lụt.
a) Xây dựng các cụm, tuyến, điểm dân cư vượt lũ, (lấy đỉnh lũ năm 1961 và năm 2000 làm chuẩn).
Việc xây dựng các cụm, tuyến dân cư, các công trình phúc lợi công cộng như trường học, trạm xá ..., phải bảo đảm không bị ngập lụt so với mức nước lũ năm 1961 và lũ năm 2000, người dân vùng ngập lũ có cuộc sống an toàn, ổn định, không phải di dời khi lũ lụt xẩy ra; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, phù hợp với điều kiện và tập quán sinh hoạt của nhân dân vùng này, đưa cuộc sống nhân dân toàn vùng phát triển theo hướng văn minh, hiện đại, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Các tuyến, cụm dân cư, nhà ở của dân đều được xây dựng theo quy hoạch gồm các phương thức tôn nền, bao đê hoặc làm sàn nhà trên cọc, bảo đảm an toàn trong mùa lũ phù hợp với quy hoạch do ủy ban nhân dân tỉnh duyệt sau khi có ý kiến thẩm định của Bộ Xây dựng.
Tạo được các cơ sở phúc lợi công cộng (giáo dục, y tế, văn hóa - xã hội...) hoạt động bình thường trong mùa lũ.
b) Phải bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch xây dựng, bố trí dân cư theo cụm, tuyến dân cư, đê bao bảo vệ khu dân cư tập trung gắn với các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ đời sống nhân dân, trước mắt ưu tiên làm trước đối với các vùng ngập sâu.
- Đối với các thị xã, thị trấn, thị tứ đông dân cư: kết hợp nâng nền cục bộ và làm đê bao bảo vệ khu dân cư, cùng với các giải pháp cấp thoát nước, vệ sinh môi trường và các công trình phúc lợi công cộng cấp thiết, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nơi.
- Đối với các cụm trung tâm xã, trong đó có trụ sở xã, trường học, trạm xá, chợ, nhà ở .... thực hiện giải pháp tôn nền vượt lũ là chủ yếu với quy mô phù hợp khoảng từ 3 - 5 ha; cụm dân cư thì có thể tổ chức với quy mô khoảng 2 - 3 ha cho khoảng 100 - 120 hộ dân, gắn với đồng ruộng phù hợp với điều kiện sinh hoạt, sản xuất của nhân dân và bố trí các công trình phúc lợi.
- Tuyến dân cư xây dựng trên cơ sở tuyến kênh trục, kênh cấp I và các trục lộ giao thông là chính. Trên các tuyến bố trí các cụm dân cư. Cụm dân cư có thể được bố trí ở một hoặc cả hai bên trục kênh, trục đường, có thể ở liên tục hoặc từng đoạn trên tuyến phù hợp với quy hoạch thoát lũ và điều kiện cụ thể của từng vùng.
- Đối với đê bao bảo vệ sản xuất và sinh hoạt của dân có diện tích lớn qui mô cả ấp, xã, huyện phải được quy hoạch cụ thể, nhất thiết không được làm tự phát tràn lan, có lợi cục bộ nhưng gây thiệt hại chung. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải xem xét, phê duyệt quy hoạch cụ thể cho từng tỉnh trên cơ sở quy hoạch thủy lợi và quy hoạch kiểm soát lũ chung của cả vùng.
c) Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, tập trung đầu tư để cơ bản hoàn thành việc xây dựng tuyến, cụm dân cư và cơ sở hạ tầng thiết yếu trong vùng ngập lũ và các vùng cửa sông ven biển; đảm bảo hệ thống trường học, bệnh viện, cơ sở y tế, văn hoá... hoạt động bình thường trong mùa lũ lụt, từng bước kiên cố, bảo đảm không bị ngập lụt.
Trong 2 năm 2001 - 2002 hoàn thành lập quy hoạch chi tiết xây dựng các trung tâm xã, các cụm dân cư trong vùng ngập lũ; tập trung chỉ đạo hoàn thành đồng bộ 5 khu dân cư thí điểm ở vùng ngập lũ đang đầu tư dở dang, tổng kết rút kinh nghiệm để nhân rộng. Đến năm 2005, phải xây dựng xong các tuyến, cụm dân cư vượt lũ.
Bộ Xây dựng chủ trì cùng các tỉnh lập chương trình kế hoạch xây dựng các cụm, tuyến dân cư an toàn trong vùng ngập lũ và chương trình phát triển nhà ở vùng đồng bằng sông Cửu Long 5 năm 2001 - 2005 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và chỉ đạo thực hiện chương trình.
d) Thực hiện chính sách hỗ trợ phù hợp về nhà ở đối với các gia đình chính sách, đồng bào nghèo, đặc biệt là số hộ gia đình đồng bào Khơ me có đời sống khó khăn, không có khả năng tự tạo lập nhà ở. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng chính sách hỗ trợ cụ thể trình Thủ tướng Chính phủ trong quý IV năm 2001.
Cùng với chính sách hỗ trợ của nhà nước, các địa phương và nhân dân trong vùng vận động phong trào giúp đỡ đồng bào giải quyết về đất đai, xây dựng nhà ở nhằm ổn định đời sống.
đ) Rà soát, điều chỉnh quy hoạch các vùng dân cư, các thị trấn, thị tứ, trong đó phải kết hợp tốt việc chỉnh trang, nâng cấp mở rộng các khu đô thị cũ gắn liền với việc đầu tư xây dựng các khu đô thị mới; nâng cấp, cải tạo hạ tầng cơ sở các thị trấn, thị tứ của vùng; phối hợp cùng các địa phương chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện cải thiện chỗ ở cho nhân dân, nhất là đối với nhân dân vùng ngập lũ.
e) Nhà nước khuyến khích các địa phương huy động nguồn lực và tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn như đầu tư đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn ...; giải quyết nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, xử lý tốt môi trường các khu công nghiệp, khu dân cư, sông rạch.
Quyết định 173/2001/QĐ-TTg về việc phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2001-2005 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- Số hiệu: 173/2001/QĐ-TTg
- Loại văn bản: Quyết định
- Ngày ban hành: 06/11/2001
- Nơi ban hành: Quốc hội
- Người ký: Phan Văn Khải
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 46
- Ngày hiệu lực: 21/11/2001
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
- Điều 1. Định hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2001 - 2005, nhằm:
- Điều 2. Mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2005 phải đạt được là:
- Điều 3. Nội dung chuyển dịch cơ cấu sản xuất và phát triển kinh tế - xã hội một số ngành và lĩnh vực chủ yếu sau:
- Điều 4. Về phát triển cơ sở hạ tầng:
- Điều 5. Một số cơ chế chính sách
- Điều 6. Tổ chức thực hiện:
- Điều 7. Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày ký.
- Điều 8. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.