Hệ thống pháp luật

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH HÀ GIANG
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 1170/QĐ-UBND

Hà Giang, ngày 21 tháng 7 năm 2022

 

QUYẾT ĐỊNH

PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN ĐỔI MỚI VIỆC THỰC HIỆN CƠ CHẾ MỘT CỬA, MỘT CỬA LIÊN THÔNG TRONG GIẢI QUYẾT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH GIAI ĐOẠN 2022 - 2025

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG

Căn cứ Luật Tổ chức Chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;

Căn cứ Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 6 năm 2010 của Chính phủ về kiểm soát thủ tục hành chính;

Căn cứ Nghị định số 92/2017/NĐ-CP ngày 07 tháng 8 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định liên quan đến kiểm soát thủ tục hành chính;

Căn cứ Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 4 năm 2018 của Chính phủ về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính;

Căn cứ Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử;

Căn cứ Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước;

Căn cứ Nghị định số 107/2021/NĐ-CP ngày 06 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 4 năm 2018 của Chính phủ về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính;

Căn cứ Nghị định số 42/2022/NĐ-CP ngày 24 tháng 6 năm 2022 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng;

Căn cứ Nghị quyết số 14-NQ/TU ngày 24 tháng 8 năm 2021 của Ban thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng công vụ tỉnh Hà Giang, giai đoạn 2021 - 2025;

Căn cứ Nghị quyết số 18-NQ/TU ngày 29 tháng 10 năm 2021 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030;

Theo đề nghị của Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang.

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt Đề án Đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính giai đoạn 2022 - 2025 (có Đề án chi tiết kèm theo).

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.

Điều 3. Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh; Thủ trưởng các sở, ban, ngành; Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố; Ủy ban nhân dân các xã, phường, thị trấn và các tổ chức cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

 


Nơi nhận:
- Như Điều 3;
- Thường trực Tỉnh ủy;
- Thường trực HĐND tỉnh;
- Thường trực Đoàn ĐBQH tỉnh;
- Chủ tịch, các PCT UBND tỉnh;
- Các Ban xây dựng đảng Tỉnh ủy;
- Các cơ quan ngành dọc TW tại tỉnh;
- Các sở, ban, ngành thuộc tỉnh;
- Các Huyện, Thành ủy;
- UBND các huyện, thành phố;
- CVP, PCVP UBND tỉnh;
- Báo Hà Giang, Đài PT-TH tỉnh;
- VNPT Hà Giang, Bưu điện tỉnh;
- Công ty Điện lực tỉnh;
- Các phòng, đơn vị thuộc Văn phòng UBND tỉnh;
- Cổng thông tin điện tử tỉnh;
- Lưu: VT, PVHCC.

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
CHỦ TỊCH




Nguyễn Văn Sơn

 

ĐỀ ÁN

ĐỔI MỚI VIỆC THỰC HIỆN CƠ CHẾ MỘT CỬA, MỘT CỬA LIÊN THÔNG TRONG GIẢI QUYẾT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH GIAI ĐOẠN 2022 - 2025
(Kèm theo Quyết định số: 1170/QĐ-UBND ngày 21 tháng 7 năm 2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang)

 

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

HCNN

Hành chính nhà nước

CPĐT

Chính phủ điện tử

CQĐT

Chính quyền điện tử

CQS

Chính quyền số

TTHC

Thủ tục hành chính

BPMC

Bộ phận Một cửa

CNTT

Công nghệ thông tin

DVCTT

Dịch vụ công trực tuyến

CCVC

Công chức viên chức

UBND

Ủy ban nhân dân

 

MỤC LỤC

Phần I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

I. BỐI CẢNH XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

1. Bối cảnh thực hiện

2. Chủ trương của cấp ủy, chính quyền tỉnh trực tiếp tác động đến việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC

II. CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

1. Cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn

2. Kinh nghiệm quốc tế và kinh nghiệm trong nước

III. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CƠ CHẾ MỘT CỬA, MỘT CỬA LIÊN THÔNG TRONG GIẢI QUYẾT TTHC

1. Về tổ chức BPMC

2. Về nhân sự tại BPMC

3. Tình hình tiếp nhận, giải quyết hồ sơ TTHC

4. Quy trình giải quyết TTHC

5. Về thẩm quyền giải quyết TTHC

6. Về cơ sở hạ tầng CNTT trong giải quyết TTHC

7. Về việc thực hiện DVCTT

8. Về kết nối, chia sẻ dữ liệu, chức năng, tính năng kỹ thuật của Hệ thống thông tin giải quyết TTHC

9. Việc tạo lập, quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu điện tử trong giải quyết TTHC

10. Về việc theo dõi, giám sát, đánh giá chất lượng giải quyết TTHC tại BPMC

IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CƠ CHẾ MỘT CỬA, MỘT CỬA LIÊN THÔNG TRONG GIẢI QUYẾT TTHC

1. Những kết quả đạt được

2. Một số hạn chế, bất cập

3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế

V. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

Phần II. NỘI DUNG ĐỀ ÁN

I. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI CỦA ĐỀ ÁN

1. Quan điểm xây dựng Đề án

2. Mục tiêu của Đề án

3. Đối tượng và phạm vi của Đề án

II. NỘI DUNG ĐỔI MỚI CỦA ĐỀ ÁN

1. Thực hiện TTHC trên môi trường điện tử và số hoá hồ sơ, giấy tờ, kết quả giải quyết TTHC với quá trình tiếp nhận, xử lý TTHC tại BPMC tạo cơ sở hình thành dữ liệu sống, sạch, đủ và chính xác

2. Đổi mới tổ chức quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ việc đơn giản hoá trong chuẩn bị, tiếp nhận, giải quyết hồ sơ TTHC theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông

3. Mở rộng việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ TTHC theo hướng không phụ thuộc vào địa giới hành chính trên cơ sở ứng dụng CNTT trong thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông

4. Nâng cao tính chủ động trong đổi mới, nâng cao hiệu quả, năng suất lao động của BPMC

5. Đổi mới việc giám sát, đánh giá chất lượng giải quyết TTHC theo thời gian thực trên ứng dụng công nghệ mới

III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

1. Hoàn thiện thể chế

2. Nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật, các hệ thống CNTT

3. Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện

IV. NGUỒN LỰC THỰC HIỆN

1. Kinh phí thực hiện Đề án

2. Về nhân lực

Phần III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

I. TRÁCH NHIỆM THỰC HIỆN

1. Các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố

2. Văn phòng UBND tỉnh

3. Sở Tài chính

4. Sở Nội vụ

5. Sở Thông tin và Truyền thông

II. ĐÁNH GIÁ VỀ TÍNH KHẢ THI, HIỆU QUẢ, LỢI ÍCH MANG LẠI CỦA ĐỀ ÁN VÀ DỰ KIẾN KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC

1. Dự kiến khó khăn

2. Tính khả thi, hiệu quả và lợi ích của Đề án

III. LỘ TRÌNH THỰC HIỆN

 

Phần I

SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

I. BỐI CẢNH XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

1. Bối cảnh thực hiện

Nước ta đang bước vào một giai đoạn phát triển và hội nhập mới. Cách mạng công nghiệp 4.0 dựa trên số hóa, kết nối là xu thế của thế giới và có thể mang lại cho đất nước nhiều cơ hội để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời cũng đưa đến những thách thức đối với quá trình phát triển. Trong quá trình thay đổi này, người dân và doanh nghiệp mong muốn và đòi hỏi bộ máy hành chính cũng phải thực sự đổi mới, ứng dụng CNTT, thực hiện DVCTT và đơn giản hóa TTHC thực sự hiệu quả hơn. Từ đó, tạo môi trường kinh doanh - sản xuất thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, muốn công việc đó thành công, thì việc Chính phủ nói chung, UBND tỉnh Hà Giang nói riêng phải ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của CNTT - truyền thông để “số hóa các thủ tục, “tự động hóa” tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, chuyển đổi các mối quan hệ từ môi trường truyền thống sang môi trường số nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác điều hành, quản lý của mình và cung cấp DVCTT cho người dân, doanh nghiệp phải được coi là một giải pháp cấp bách, một bước đi tất yếu.

Trong thời gian qua công tác cải cách TTHC được cấp ủy, chính quyền tỉnh Hà Giang xác định là nhiệm vụ trọng tâm của Chương trình Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và giai đoạn 2021 - 2025, là một trong những giải pháp quan trọng để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Đi đôi với quá trình cải cách TTHC trên các lĩnh vực, giảm mạnh, bãi bỏ những TTHC gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp, việc thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”, “Thực hiện TTHC trên môi trường điện tử bằng phương tiện điện tử thông qua các DVCTT” hướng tới “Một cửa số”, “Dịch vụ số” đã được triển khai và được xem như là giải pháp trong đổi mới phương thức làm việc của các cơ quan HCNN, tạo cơ sở cho quá trình thực hiện và tăng cường khả năng giám sát của nhân dân, các tổ chức, cá nhân đối với việc thực thi công vụ, bảo đảm cho việc thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ của mình và qua đó nâng cao trách nhiệm giải quyết công việc của các cơ quan HCNN. Bên cạnh đó cấp ủy, chính quyền tỉnh Hà Giang đã rất quan tâm, chú trọng thực hiện gắn kết chặt chẽ giữa cải cách hành chính, nhất là cải cách TTHC với xây dựng CQĐT hướng tới CQS, trên cơ sở quan điểm: cải cách hành chính, cải cách TTHC là đi trước, dẫn dắt, ứng dụng CNTT là phương tiện thực hiện.

2. Chủ trương của cấp ủy, chính quyền tỉnh trực tiếp tác động đến việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC

2.1. Về xây dựng CQĐT, CQS, cải cách hành chính, cải cách TTHC

Việc “Xây dựng Chính phủ đổi mới, liêm chính, kỷ cương, hành động, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ được Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính - người đứng đầu Chính phủ xác lập như một tuyên ngôn hành động đi liền với những chỉ đạo thực tế và đó cũng chính là mục tiêu trọng tâm của Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026.

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, trong thời gian qua cải cách TTHC được cấp ủy, chính quyền tỉnh Hà Giang xác định là nhiệm vụ trọng tâm của Chương trình cải cách hành chính, nâng cao chất lượng công vụ tỉnh Hà Giang, giai đoạn 2021 - 2025, là một trong những giải pháp quan trọng để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Đi đôi với quá trình cải cách TTHC trên các lĩnh vực, giảm mạnh, bãi bỏ những TTHC gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp, việc thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”, “Thực hiện TTHC trên môi trường điện tử bằng phương tiện điện tử thông qua các DVCTT” đã được triển khai và được xem như là giải pháp trong đổi mới phương thức làm việc của các cơ quan HCNN trên địa bàn tỉnh, tạo cơ sở cho quá trình thực hiện và tăng cường khả năng giám sát của nhân dân, các tổ chức, cá nhân đối với việc thực thi công vụ, bảo đảm cho việc thực hiện được quyền lợi, nghĩa vụ của mình và qua đó, nâng cao trách nhiệm giải quyết công việc của các cơ quan HCNN.

2.2. Về tinh giản biên chế

Ngày 24 tháng 8 năm 2021, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang đã ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TU về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng công vụ tỉnh Hà Giang, giai đoạn 2021 - 2025, với mục tiêu cụ thể đến năm 2025 “100% cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập được kiện toàn đúng quy định theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Giảm tối thiểu bình quân cả tỉnh 10% đơn vị sự nghiệp công lập và giảm 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách so với năm 2021”, với quan điểm tinh giản biên chế nhưng không làm ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Trong khi đó một số ngành, lĩnh vực được giao thêm nhiệm vụ, yêu cầu công việc ngày càng cao, đặc biệt đối với BPMC khối lượng công việc ngày càng nhiều do nhu cầu giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp ngày càng tăng....

II. CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

1. Cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn

1.1. Cơ sở chính trị

- Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng;

- Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25 tháng 7 năm 2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XII) về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”;

- Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2021 - 2025, Ban Thường vụ Tỉnh ủy xây dựng Chương trình tăng cường công tác lãnh đạo thực hiện cải cách hành chính, nâng cao thứ hạng Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) giai đoạn 2021 - 2025;

- Nghị quyết số 14-NQ/TU ngày 24 tháng 8 năm 2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng công vụ tỉnh Hà Giang, giai đoạn 2021 - 2025;

- Nghị quyết số 18-NQ/TU ngày 29 tháng 10 năm 2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2021- 2025, định hướng đến năm 2030.

1.2. Cơ sở pháp lý

- Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 4 năm 2018 của Chính phủ về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC;

- Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ về thực hiện TTHC trên môi trường điện tử;

- Nghị định số 107/2021/NĐ-CP ngày 06 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 4 năm 2018 của Chính phủ về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC;

- Nghị định số 42/2022/NĐ-CP ngày 24 tháng 6 năm 2022 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và DVCTT của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng;

- Quyết định số 468/QĐ-TTg ngày 27 tháng 3 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC;

- Quyết định số 2611/QĐ-UBND ngày 09 tháng 12 năm 2021 của UBND tỉnh về việc ban hành Kế hoạch cải cách hành chính tỉnh Hà Giang năm 2022;

- Quyết định số 61/QĐ-UBND ngày 14 tháng 01 năm 2022 của UBND tỉnh về việc ban hành Kế hoạch thực hiện hoạt động kiểm soát TTHC, thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, giải quyết TTHC trên môi trường điện tử bằng phương tiện điện tử thông qua các DVCTT năm 2022;

- Thông báo số 187/TB-UBND ngày 08 tháng 10 năm 2021 của UBND tỉnh về thông báo Kết luận của đồng chí Nguyễn Văn Sơn, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh - Trưởng Ban chỉ đạo cải cách hành chính tỉnh tại Hội nghị đánh giá công tác CCHC, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 9 tháng đầu năm 2021 và đánh giá công tác kiểm soát TTHC, cơ chế một cửa, một cửa liên thông giai đoạn 2018 - 2021, triển khai đổi mới cơ chế một cửa, một cửa liên thông.

1.3. Cơ sở thực tiễn

Thực hiện quy định tại Điều 7 Nghị định số 61/2018/NĐ-CP, ngay từ năm 2018 BPMC đã được quan tâm kiện toàn ở cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã với 205 BPMC tập trung, 09 BPMC riêng lẻ tại từng cơ quan, đơn vị (Chưa tính BPMC của các cơ quan ngành dọc đóng trên địa bàn tỉnh) thực hiện chức năng, nhiệm vụ giống nhau, đó là tiếp nhận, giải quyết, trả kết quả TTHC thuộc phạm vi thẩm quyền của địa phương. Tuy nhiên việc tổ chức BPMC còn tồn tại nhiều hạn chế chưa phát huy hết chức năng, nhiệm vụ theo quy định như: trên cùng một đơn vị hành chính cấp xã tổ chức nhiều BPMC, số lượng CCVC trực BPMC lớn, năng suất, chất lượng tiếp nhận, giải quyết, trả kết quả còn thấp, quy trình giải quyết hồ sơ TTHC chưa được số hóa, tỷ lệ hồ sơ giải quyết quá hạn còn cao...

2. Kinh nghiệm quốc tế và kinh nghiệm trong nước

2.1. Kinh nghiệm quốc tế

(1) Kinh nghiệm của Mỹ

Với mạng lưới bưu chính rộng khắp trên đất nước Mỹ, Bưu chính Mỹ (USPS) được Chính phủ Mỹ sử dụng để cung ứng dịch vụ công phục vụ người dân khi người dân không có khả năng sử dụng Internet hoặc khi cần thực hiện dịch vụ công như: công chứng tài liệu, xác minh danh tính để phát hành thẻ lợi ích Chính phủ... Nhân viên USPS có thể xác minh thông tin đăng nhập, quét biểu mẫu và tài liệu khác, áp dụng chữ ký số và truyền thông tin đến các cơ quan liên quan thông qua kênh điện tử bảo mật. Các điểm phục vụ của USPS cung ứng tổng thể tích hợp các dịch vụ của nhiều cơ quan giúp Chính phủ giảm nhiều hoạt động trùng lặp, chồng chéo giữa các cơ quan khác nhau; cung cấp “một cửa” cho các dịch vụ của Chính phủ và nhờ vậy góp phần giúp Chính phủ tiết kiệm chi phí hoạt động.

Mặc dù hiện nay, việc sử dụng Internet tốc độ cao ngày càng tăng nhưng trên thực tế vẫn còn rất nhiều người Mỹ không thể tiếp cận với băng thông rộng để truy cập thông tin và sử dụng các dịch vụ công của Chính phủ. Các đối tượng này chủ yếu tập trung ở nông thôn và vùng sâu vùng xa. Do đó, USPS đã hỗ trợ Chính phủ Mỹ cung cấp các điểm truy cập thuận tiện tại các cộng đồng.

(2) Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Nga

Trước đây, các cơ quan hành chính của Nga tổ chức BPMC để tiếp nhận hồ sơ của người dân. Mỗi cơ quan có BPMC riêng và chỉ thực hiện tiếp nhận hồ sơ của cơ quan mình giải quyết. Số lượng công chức thực hiện các công việc này rất lớn, việc giải quyết thủ tục phát sinh nhiều tiêu cực, thời gian giải quyết lâu. Năm 2012, Tổng thống Nga đã ban hành chỉ thị để cải cách hành chính, theo đó, việc tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết TTHC đã được tách khỏi các cơ quan giải quyết TTHC và giao nhiệm vụ này cho đơn vị công ích của nhà nước thực hiện với tên gọi là các Trung tâm đa dịch vụ (MFC).

Các MFC có hệ thống thông tin kết nối với các cơ quan chuyên ngành. Khi người dân, doanh nghiệp có yêu cầu giải quyết TTHC có thể đăng ký trực tuyến trên Cổng thông tin của các MFC hoặc đến các MFC bất kỳ. Đối với phương thức nộp trực tiếp, người dân chỉ cần mang duy nhất hộ chiếu hoặc chứng minh nhân dân đến MFC có thể nộp hồ sơ cho bất kỳ lĩnh vực nào, cơ quan hành chính nào. Người dân chỉ cung cấp các giấy tờ lần đầu. Lần sau, người dân chỉ cần cung cấp hộ chiếu khi thực hiện TTHC (các thông tin khác của người dân đã được lưu trữ trên hệ thống, toàn bộ các giấy tờ, tài liệu đã được số hóa). Các MFC thực hiện tiếp nhận đối với tất cả các TTHC, cho tất cả các cấp, các địa phương trên cả nước, mở cửa 7/7 ngày trong tuần, từ 8 giờ sáng đến 8 giờ tối, người dân rất dễ tiếp cận với các MFC.

Sau khi thực hiện cải cách, chất lượng giải quyết TTHC cho người dân đã nâng lên rõ rệt, người dân được phục vụ tốt hơn, tỷ lệ chưa hài lòng chỉ dưới 2/1.000. Việc cải cách cũng giúp giảm được rất nhiều biên chế, tăng được lương cho cán bộ (riêng Mát-xcơ-va, số lượng cán bộ tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả đã giảm được 20.000 người, từ 32.000 người xuống còn 12.000 người).

(3) Kinh nghiệm của Malaysia

Với quan điểm lấy người dân làm trung tâm, Malaysia đã tổ chức nên các Trung tâm chuyển đổi đô thị (UTC) thể hiện rõ tính chất phục vụ thông qua việc cung cấp dịch vụ tập trung, thời gian làm việc và chất lượng phục vụ. Tại UTC không chỉ tiếp nhận giải quyết TTHC mà còn đáp ứng các nhu cầu của cộng đồng như trung tâm giáo dục việc làm, nâng cao sức khỏe, mua sắm...

Các dịch vụ hành chính công được cung cấp tại UTC đã đáp ứng được những giao dịch hành chính phổ biến của người dân như hộ tịch, làm hộ chiếu, giáo dục, việc làm, đăng ký doanh nghiệp, đăng kiểm... Toàn bộ quy trình giải quyết TTHC như hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ, thu phí, lệ phí, trả kết quả đều được thực hiện tại UTC. Trên nền tảng các cơ sở dữ liệu sẵn có, người dân có thể làm TTHC tại bất cứ UTC nào, không phân biệt địa giới hành chính. Các thông tin về việc giải quyết TTHC được công bố rộng rãi tại trang web, tại Cổng Dịch vụ công, tại hệ thống máy tính tại UTC và các bảng thông tin niêm yết tại quầy. Các UTC có thời gian làm việc 12 giờ mỗi ngày, từ 8 giờ sáng đến 10 giờ tối và làm việc cả thứ 7, chủ nhật để tăng cường khả năng tiếp cận của người dân. Việc triển khai thiết lập các UTC của Malaysia thời gian qua diễn ra khá nhanh chóng và hiệu quả thông qua việc chuyển đổi công năng của các công trình hiện có như trung tâm thương mại, bến xe... Và nhận được sự đánh giá rất tích cực của người dân.

2.2. Kinh nghiệm trong nước

(1) Tại tỉnh Đồng Tháp

UBND tỉnh Đồng Tháp đã giao Bưu điện tỉnh Đồng Tháp thực hiện các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trên địa bàn nhằm hiện thực hóa tại địa phương chủ trương, quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính, mang lại lợi ích cho người dân, doanh nghiệp, cụ thể: Đặt BPMC tất cả các huyện, xã tại trụ sở của Bưu điện trên địa bàn tương ứng; Bố trí nhân viên của Bưu điện thực hiện tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả tại Trung tâm hành chính công và BPMC huyện, xã thay cho CCVC.

Qua đó, tiết kiệm chi phí là 32,6% đối với cấp tỉnh, 27% đối với cấp huyện và 26% đối với cấp xã.

Các chỉ số của tỉnh Đồng Tháp: PAPI 2021 đạt 42,43 điểm, xếp thứ 27/63; Chỉ số PAR INDEX 2021 đạt 86,80 điểm, xếp hạng 26/63; Chỉ số SIPAS 2021 đạt 89,15 điểm, xếp thứ 15/63; PCI 2021 đạt 70,53 điểm, xếp thứ 03/63; DTI 2020 đạt 0,3022 điểm, xếp thứ 35/63.

(2) Tại tỉnh Thừa Thiên - Huế

Tỉnh Thừa Thiên Huế chủ trương đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giải quyết TTHC, xử lý hồ sơ trên môi trường mạng, hướng người dân đến các điểm Bưu điện tại cấp xã để thực hiện nộp hồ sơ trực tuyến cho cả 3 cấp, nhận kết quả giải quyết TTHC tại nhà để thuận lợi cho người dân, giảm áp lực cho cơ quan hành chính. Tỉnh đã xây dựng phần mềm ứng dụng đăng nhập một lần (SSO) và cấp quyền truy cập cho nhân viên bưu điện để thực hiện tạo lập thông tin tài khoản của cá nhân, tổ chức khi đến nộp hồ sơ, cập nhật các thông tin hồ sơ TTHC của người dân, đính kèm bản scan hồ sơ có chữ ký số và gửi trực tiếp trên hệ thống cho cơ quan hành chính để xử lý, giải quyết.

Kết quả nổi bật của mô hình đó là Hệ thống thông tin một cửa điện tử đã được kết nối, chia sẻ dữ liệu trong toàn tỉnh, trên cơ sở đó tỉnh đã thực hiện được việc đơn giản hóa TTHC theo hướng không yêu cầu người dân nộp lại giấy tờ đã có trong thành phần hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC đã thực hiện trước đó. Để quản lý, tái sử dụng hồ sơ giải quyết TTHC điện tử của người dân, doanh nghiệp, tại Trung tâm Phục vụ hành chính công của tỉnh đã triển khai giải pháp số hóa hồ sơ, đảm bảo 100% hồ sơ được số hóa (scan), ký số chứng thực và chuyển vào hệ thống theo mã hồ sơ, cán bộ công chức các cơ quan chuyên môn xử lý hồ sơ trên môi trường mạng; sau khi xử lý có kết quả, các cơ quan nhà nước phải áp dụng chữ ký số, cập nhật vào hệ thống. Theo đó, thành phần hồ sơ cá nhân, tổ chức phải nộp cho cơ quan HCNN được cắt giảm tối đa.

Các chỉ số của tỉnh Thừa Thiên - Huế: PAPI 2021 đạt 48,06 điểm, xếp thứ 01/63; Chỉ số PAR INDEX 2021 đạt 89,32 điểm, xếp hạng 04/63; Chỉ số SIPAS 2021 đạt 88,60 điểm, xếp thứ 17/63; PCI 2021 đạt 79,24 điểm, xếp thứ 8/63; DTI 2020 đạt 0,4097 điểm, xếp thứ 02/63.

(3). Tại Khánh Hòa

Ngày 08/02/2017, UBND tỉnh Khánh Hòa ban hành Quyết định số 349/QĐ-UBND phê duyệt Đề án thành lập Trung tâm dịch vụ hành chính công trực tuyến tỉnh, với mục tiêu hình thành một đầu mối thống nhất của tỉnh Khánh Hòa trên mạng internet, cung cấp trực tuyến cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài nước các thông tin, dịch vụ, tiện ích hành chính công một cách tập trung, chuyên nghiệp; tiếp nhận, giải quyết toàn bộ TTHC trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 thông qua một địa chỉ duy nhất; giảm mạnh thời gian đăng ký, giải quyết hồ sơ.

Trên Cổng thông tin hành chính công tỉnh Khánh Hòa có chuyên mục giới thiệu, hướng dẫn chi tiết cách tạo lập tài khoản và mật khẩu; cách thức tạo, nộp hồ sơ trực tuyến; đăng ký dịch vụ bưu chính công ích; thanh toán trực tuyến phí, lệ phí. Đồng thời, đã tạo liên kết trực tuyến đối với các dịch vụ công do các ngành bảo hiểm xã hội, thuế, kho bạc nhà nước, công an, hải quan cung cấp; các dịch vụ điện lực, cấp nước để người dân, tổ chức và doanh nghiệp có thể kết nối thuận lợi từ Trung tâm dịch vụ hành chính công trực tuyến khi có nhu cầu. Việc hình thành một gói dịch vụ, tiện ích trực tuyến đồng bộ từ khi nộp hồ sơ đến khi trả kết quả đã giải quyết hoàn chỉnh bài toán người dân, tổ chức, doanh nghiệp ở bất kỳ nơi đâu, bất kỳ lúc nào cũng có thể thực hiện TTHC với các cơ quan, đơn vị thuộc tỉnh mà không cần phải đến trực tiếp BPMC, theo phương châm “Một địa chỉ - Có tất cả”. Kết quả, số lượng hồ sơ giao dịch trực tuyến, thanh toán trực tuyến tăng mạnh, đã bước đầu hiện thực hóa được mục tiêu giúp người dân, tổ chức, doanh nghiệp giao dịch, giải quyết TTHC không cần phải trực tiếp đến cơ quan nhà nước; giảm mạnh thời gian giải quyết, giảm đáng kể giấy tờ, chi phí đi lại, chi phí TTHC; tăng tính công khai, minh bạch, góp phần nâng cao mức độ hài lòng của người dân với sự phục vụ của các cấp chính quyền tỉnh Khánh Hòa.

Các chỉ số của tỉnh Khánh Hòa: PAPI 2021 đạt 41,69 điểm, xếp thứ 40/63; Chỉ số PAR INDEX 2021 đạt 85,11 điểm, xếp hạng 48/63; Chỉ số SIPAS 2021 đạt 84,44 điểm, xếp thứ 56/63; PCI 2021 đạt 63,11 điểm, xếp thứ 44/63; DTI 2020 đạt 0,2777 điểm, xếp thứ 42/63.

(4). Tại tỉnh Thái Bình

Với mục tiêu rút ngắn thời gian thực hiện các TTHC, thực hiện tốt cơ chế một cửa liên thông báo đảm nguyên tắc “Một cửa - Một đầu mối”, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị khi thực hiện các TTHC liên quan đến hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh Thái Bình, góp phần cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh. Sau khi tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập Khu kinh tế Thái Bình, để có sức hút hơn nữa đối với các nhà đầu tư, UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành thực hiện giải quyết TTHC “5 tại chỗ” tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh từ ngày 01/10/2019, đó là: Tiếp nhận hồ sơ, thẩm định, giải quyết, đóng dấu và trả kết quả ngay tại Trung tâm. Để thực hiện phương án “5 tại chỗ” trong giải quyết TTHC, Trung tâm đã bố trí đầy đủ các điều kiện về máy móc, trang thiết bị phục vụ cán bộ, công chức các sở, ngành đến làm việc. 100% sở, ngành đã đăng ký thực hiện quy trình giải quyết TTHC theo phương án “5 tại chỗ” tại trung tâm. Các TTHC được rà soát, cắt giảm bình quân 48,86% lượng thời gian giải quyết so với quy định hiện hành. Có thể nói, đây là mô hình đột phá trong thực hiện cải cách hành chính, thể hiện quyết tâm của tỉnh trong xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, vì nhân dân, là bước tiến quan trọng để Thái Bình triển khai áp dụng rộng rãi DVCTT mức độ 3, mức độ 4, tạo thuận lợi hơn nữa cho người dân và doanh nghiệp, năm 2020, Trung tâm đã giải quyết gần 78.400 hồ sơ, trong đó 71.400 hồ sơ được quyết theo phương án “5 tại chỗ” đảm bảo trước hạn và đúng hạn, không có hồ sơ giải quyết quá hạn. Trung tâm đã nhận được gần 2.400 phiếu đánh giá quá trình giải quyết TTHC của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình giải quyết TTHC tại Trung tâm, 100% các phiếu đều đánh giá rất hài lòng và hài lòng, không có phiếu đánh giá chưa hài lòng.

Các chỉ số của tỉnh Thái Bình: PAPI 2021 đạt 44,44 điểm, xếp thứ 10/63; Chỉ số PAR INDEX 2021 đạt 84,99 điểm, xếp hạng 50/63; Chỉ số SIPAS 2021 đạt 86,88 điểm, xếp thứ 40/63; PCI 2021 đạt 62,31 điểm, xếp thứ 47/63; DTI 2020 đạt 0,2635 điểm, xếp thứ 48/63.

5. Tại tỉnh Lâm Đồng

Ngày 22/3/2019, UBND tỉnh Lâm Đồng ban hành Quyết định số 644/QĐ-UBND ban hành Đề án thí điểm chuyển giao một số nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công cho Bưu điện với mục đích tạo thuận lợi cho các cơ quan HCNN trong việc tinh giản biên chế, giảm tải công việc, giảm chi phí đầu tư cơ sở vật chất và khai thác hiệu quả mạng lưới bưu chính công cộng do Nhà nước đầu tư; góp phần đẩy mạnh cải cách TTHC, đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ hành chính công.

Nội dung phương án chuyển giao: Thí điểm chuyển BPMC cấp huyện, cấp xã đến trụ sở của Bưu điện (thuê trụ sở), Bưu điện chuẩn bị phòng làm việc, bàn ghế, các trang thiết bị phục vụ BPMC; đồng thời thí điểm chuyển giao nhiệm vụ (thuê dịch vụ) hỗ trợ tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả TTHC thuộc các lĩnh vực: Thông tin và Truyền thông, Khoa học và Công nghệ, Giáo dục và Đào tạo, Ngoại vụ, Văn hóa - TTDL, Lao động - TBXH, Nội vụ, Tài chính, Bưu điện bố trí đủ số lượng nhân viên, có trình độ chuyên môn, năng lực, phẩm chất đạo đức tốt để thực hiện nhiệm vụ.

Các chỉ số của tỉnh Lâm Đồng: PAPI 2021 đạt 43,54 điểm, xếp thứ 18/63; Chỉ số PAR INDEX 2021 đạt 86,75 điểm, xếp hạng 29/63; Chỉ số SIPAS 2021 đạt 87,19 điểm, xếp thứ 27/63; PCI 2021 đạt 67,17 điểm, xếp thứ 15/63; DTI 2020 đạt 0,3266 điểm, xếp thứ 23/63.

* Bài học rút ra từ kinh nghiệm quốc tế và kinh nghiệm trong nước

- Các mô hình tổ chức BPMC tuy cách thức tổ chức có khác nhau song đều có điểm chung đó là:

Lấy người dùng làm trung tâm.

Người dân có thể làm TTHC tại bất cứ BPMC nào, không phân biệt địa giới hành chính.

Mô hình một cửa đa chức năng, tức là không chỉ tiếp nhận giải quyết TTHC mà còn đáp ứng nhu cầu của cộng đồng như trung tâm giáo dục việc làm, nâng cao sức khỏe, mua sắm... (quốc tế).

Việc tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết TTHC được giao cho doanh nghiệp thực hiện.

- Những nội dung chúng ta cần nghiên cứu, áp dụng:

Thực hiện tiêu chí lấy người dân làm trung tâm thông qua việc cung cấp dịch vụ tập trung, thời gian làm việc và chất lượng phục vụ.

Không phân biệt địa giới hành chính trong tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết TTHC.

Thực hiện chuyển đổi số trong giải quyết TTHC.

Sử dụng hệ thống theo dõi đánh giá thông qua việc xây dựng các bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả (KPI), bảng theo dõi đánh giá (dashboard) để giám sát việc thực thi nhiệm vụ tại các BPMC, qua đó đánh giá kết quả, chất lượng cung cấp dịch vụ công của bộ, ngành, địa phương.

Xây dựng nền tảng kết nối, chia sẻ dữ liệu theo hướng phi tập trung, đáp ứng yêu cầu bảo mật, minh bạch.

Đưa các dịch vụ không phải do Nhà nước cung cấp vào Trung tâm phục vụ hành chính công và Nhà nước đứng ra điều phối, quản lý việc cung cấp các dịch vụ này với mục tiêu là tạo thuận lợi, phục vụ nhu cầu của người dân, bảo đảm chất lượng và giá thành hợp lý. Xã hội hóa việc tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết TTHC. Xây dựng BPMC hiện đại, đa chức năng.

Ngoài các dịch vụ hành chính công, BPMC còn mở rộng cung cấp nhiều dịch vụ để phục vụ đời sống của người dân, như dịch vụ về giáo dục, việc làm; các dịch vụ công ích như điện, nước; dịch vụ an ninh...

Trên nền tảng các ứng dụng, cơ sở dữ liệu được triển khai, xây dựng, phát triển, người dân có thể làm TTHC tại bất cứ BPMC nào, không phân biệt địa giới hành chính, sự tồn tại của BPMC dựa trên khả năng thu hút người dân đến BPMC để sử dụng dịch vụ.

III. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CƠ CHẾ MỘT CỬA, MỘT CỬA LIÊN THÔNG TRONG GIẢI QUYẾT TTHC

1. Về tổ chức BPMC

Thực hiện quy định tại Điều 7 Nghị định số 61/2018/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 107/2021/NĐ-CP ngày 06/12/2021)1, thời gian qua BPMC đã được quan tâm kiện toàn ở cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Đến thời điểm hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 205 BPMC tập trung, 09 riêng lẻ tại từng cơ quan, đơn vị (Chưa tính BPMC của các cơ quan ngành dọc đóng trên địa bàn tỉnh), cụ thể như sau:

- Cấp tỉnh: Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh và 9 BPMC riêng lẻ (Sở Lao động - TBXH: 02, Sở Giao thông vận tải: 01, Ban quản lý khu kinh tế: 01, Sở Y tế: 04, Sở Tư pháp: 01) để tiếp nhận khoảng 1.506 TTHC.

- Cấp huyện: 11 BPMC các huyện/thành phố để tiếp nhận khoảng 243 TTHC (Chưa tính TTHC liên thông, TTHC của cơ quan ngành dọc).

- Cấp xã: 193 BPMC các xã, phường, thị trấn để tiếp nhận khoảng 172 TTHC (Chưa tính TTHC liên thông, TTHC của cơ quan ngành dọc).

Với quy định và cách thức tổ chức BPMC như hiện nay dẫn đến tình trạng bất hợp lý, đó là:

Số lượng BPMC trên địa bàn tỉnh rất nhiều (được thành lập vừa tập trung, vừa riêng lẻ tại từng cơ quan, đơn vị). Rõ nhất là tại các địa bàn trung tâm, có tình trạng trên cùng một đơn vị hành chính cấp xã, trên diện tích rất nhỏ có ít nhất 2 BPMC được thành lập và duy trì hoạt động, cùng thực hiện chức năng, nhiệm vụ giống nhau, đó là tiếp nhận, giải quyết, trả kết quả TTHC thuộc phạm vi thẩm quyền của địa phương, hoặc cơ quan, đơn vị (Trung tâm Phục hành chính công, BPMC của UBND cấp huyện, xã; BPMC của sở, ngành thuộc UBND cấp tỉnh; BPMC của phòng, ban chuyên môn thuộc UBND cấp huyện và BPMC của đơn vị ngành dọc đóng trên địa bàn, như: Thuế, Hải quan, Công an, Thi hành án, Quân đội, Bảo hiểm xã hội). Ví dụ: Tại thành phố Hà Giang, diện tích 133,45 km2 có 19 BPMC (Chưa tính BPMC của các cơ quan ngành dọc đóng trên địa bàn tỉnh); trên địa bàn thị trấn các huyện có 02 BPMC/01 đơn vị hành chính cấp xã.

2. Về nhân sự tại BPMC

Theo quy định tại Điều 10, 11 Nghị định số 61/2018/NĐ-CP của Chính phủ thì nhân sự làm việc tại BPMC của cấp nào là do cấp đó cử đến và phải đảm bảo tiêu chuẩn: Đủ tiêu chuẩn chung về phẩm chất theo quy định của pháp luật về CCVC, lực lượng vũ trang; Cán bộ, CCVC làm việc tại BPMC cấp tỉnh, cấp huyện đã được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên hoặc tương đương trở lên; có thâm niên công tác tối thiểu 03 năm trong ngành, lĩnh vực được phân công và được đánh giá là hoàn thành tốt nhiệm vụ; có phẩm chất, đạo đức tốt, tinh thần trách nhiệm cao trong thi hành nhiệm vụ được giao; có tác phong, thái độ giao tiếp, cư xử lịch sự, hòa nhã, cởi mở, thân thiện, chuẩn mực, đúng quy chế văn hóa công sở.

Trên cơ sở quy định trên, các cơ quan đơn vị đã bố trí CCVC làm việc tại BPMC. Theo số liệu báo cáo của các sở, ngành và UBND cấp huyện thì đến hết tháng 12 năm 2021 cả tỉnh có trên 695 CCVC trực tại BPMC, cụ thể:

- Nhân sự tại BPMC cấp tỉnh có tổng số 15 CCVC thuộc biên chế của các sở, ban, ngành (Chưa tính CCVC của các cơ quan ngành dọc, doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh).

- Nhân sự tại BPMC cấp huyện gồm CCVC thuộc biên chế của Văn phòng Hội đồng nhân dân và UBND cấp huyện và của các phòng, ban chuyên môn, với tổng số 137 người, nhiều nhất là huyện Vị Xuyên với 34 người; ít nhất là huyện Yên Minh với 05 người. Trung bình mỗi BPMC cấp huyện là 12 người.

- Nhân sự tại BPMC cấp xã: Nhân sự tại đây gồm công chức thuộc các chức danh công chức cấp xã thuộc quyền quản lý của UBND cấp xã với tổng số 543 người, nhân sự trực tiếp làm nhiệm vụ tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả từ 01 đến 04 người/01 BPMC.

Qua đó cho thấy số lượng CCVC trực tại BPMC là rất lớn. Tuy nhiên, một số lĩnh vực có số lượng hồ sơ phải giải quyết của BPMC nhiều. Ngoài ra, với việc bổ sung dịch vụ công các lĩnh vực thuộc các sở, ngành dọc vào cung cấp tại BPMC, cộng với việc ứng dụng CNTT vào giải quyết TTHC, thực hiện hệ thống giám sát camera, ghi nhận các phản ánh kiến nghị của người dân qua Cổng Dịch vụ công Quốc gia, Tổng đài 1022... đã dẫn đến những áp lực công việc khi làm tại vị trí một cửa. CCVC trực tại BPMC thiếu động lực làm việc do lộ trình phát triển cũng như không có sự đãi ngộ kể từ năm 2019.

3. Tình hình tiếp nhận, giải quyết hồ sơ TTHC

3.1. Số lượng TTHC đưa ra BPMC các cấp:

Toàn tỉnh hiện có tổng số 1.921 TTHC (Chưa tính số lượng TTHC của các cơ quan ngành dọc đóng trên địa bàn tỉnh), trong đó, số TTHC thực hiện theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông là 1.794 thủ tục, cụ thể:

- BPMC cấp tỉnh tiếp nhận khoảng 1.411 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của các sở, ban, ngành thuộc UBND cấp tỉnh.

- BPMC cấp huyện là đầu mối tập trung để tiếp nhận khoảng 228 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của các phòng, ban chuyên môn thuộc UBND cấp huyện.

- BPMC cấp xã thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận khoảng 155 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND cấp xã.

3.2. Kết quả tiếp nhận, giải quyết TTHC:

- Theo số liệu thống kê số lượng hồ sơ tiếp nhận, giải quyết tại BPMC các cấp (Chưa tính số lượng hồ sơ của cơ quan ngành dọc đóng trên địa bàn tỉnh) năm 2021 (tính từ ngày 15/12/2020 đến ngày 14/12/2021) trên Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ cụ thể như sau:

- Tổng số hồ sơ tiếp nhận: 500.751 hồ sơ, gồm:

Số hồ sơ từ năm 2020 chuyển sang: 10.435 hồ sơ;

Số hồ sơ tiếp nhận trong năm 2021: 490.316 hồ sơ;

Tiếp nhận trực tiếp, bưu chính: 410.668 hồ sơ, tương ứng 83,76%.

Tiếp nhận trực tuyến: 79.648 hồ sơ, tương ứng 16,24%.

- Tổng số hồ sơ đã giải quyết và trả kết quả: 498.093 hồ sơ, gồm:

Đúng hạn, trước hạn: 495.959 hồ sơ, tương ứng 99,57%;

Quá hạn: 2.134 hồ sơ, tương ứng 0,43%.

- Đang giải quyết: 2.658 hồ sơ.

Đang giải quyết trong hạn: 2.183 hồ sơ;

Đang giải quyết quá hạn: 475 hồ sơ, tương ứng: 17,87%.

- Theo số liệu thống kê số lượng hồ sơ tiếp nhận, giải quyết qua Cổng Dịch vụ công tỉnh, Hệ thống thông tin một cửa điện tử tỉnh nay là Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh (Chưa tính số lượng hồ sơ của cơ quan ngành dọc đóng trên địa bàn tỉnh) năm 2021 (tính từ ngày 15/12/2020 đến ngày 14/12/2021) cụ thể như sau:

- Tổng số hồ sơ tiếp nhận: 159.969 hồ sơ, gồm:

Số hồ sơ từ năm 2020 chuyển sang: 7.352 hồ sơ;

Số hồ sơ tiếp nhận trong năm 2021: 152.617 hồ sơ.

Tiếp nhận trực tiếp, bưu chính: 119.848 hồ sơ, tương ứng 78,53%.

Tiếp nhận trực tuyến: 32.769 hồ sơ, tương ứng 21,47%.

- Tổng số hồ sơ đã giải quyết và trả kết quả: 151.925 hồ sơ, gồm:

Đúng hạn, trước hạn: 144.900 hồ sơ, tương ứng 95,38%;

Quá hạn: 7.025 hồ sơ, tương ứng 4,62%.

- Đang giải quyết: 8.042 hồ sơ

Đang giải quyết trong hạn: 7.158 hồ sơ;

Đang giải quyết quá hạn: 884 hồ sơ, tương ứng 10,99%.

Qua đó cho thấy:

Các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh tiếp nhận 500.751 hồ sơ; đã giải quyết: 498.093 hồ sơ (quá hạn 2.134 hồ sơ = 0,43%); đang giải quyết: 2.658 hồ sơ. Số liệu trên cho thấy: các cơ quan đều đang thực hiện XUẤT SẮC các TTHC công (99,57% trước hạn hoặc đúng hạn). Tuy nhiên thực tế đi sâu vào dữ liệu có những vấn đề sau:

Số lượng hồ sơ được tiếp nhận, giải quyết và trả kết quả qua hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh quy định tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018, Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 chiếm tỷ lệ 31,95%, số lượng hồ sơ được tiếp nhận, giải quyết, trả kết quả qua Hệ thống khác hoặc tiếp nhận giải quyết ngoài chiếm tỷ lệ rất lớn 68,05%.

Tỷ lệ hồ sơ tiếp nhận qua Hệ thống thông tin giải quyết TTHC đúng hạn, trước hạn thấp hơn so với tiếp nhận qua hệ thống khác và tiếp nhận ngoài: - 4,19%, số này quá lớn, hoặc sai số liệu hoặc đây chính là vấn đề để đạt được 99,57% đúng hạn, các BPMC đã không tiếp nhận Hồ sơ qua Hệ thống thông tin giải quyết TTHC gây khó khăn cho cơ quan kiểm soát, quản lý quy trình giải quyết hồ sơ TTHC.

Trung bình một CCVC tại BPMC các cấp có năng suất tiếp nhận 720,51 hồ sơ, tương đương tiếp nhận 2,75 hồ sơ/ngày. Sự chênh lệch này cho thấy năng suất tiếp nhận và xử lý hồ sơ thấp.

Bên cạnh đó, do chưa có cách thức theo dõi, đánh giá năng suất, chất lượng việc tiếp nhận, xử lý hồ sơ tại BPMC một cách khách quan, toàn diện, hiệu quả nên thực tế khâu hướng dẫn, kiểm tra, xem xét trước khi nhận hồ sơ thường là khâu dễ phát sinh nhũng nhiễu, phiền hà cho cá nhân, tổ chức thực hiện TTHC nhất. Do chỉ khi công chức tại BPMC đồng ý thì hồ sơ mới được tiếp nhận, dẫn đến mặc dù tỷ lệ giải quyết TTHC đúng và trước hạn rất cao, nhưng không hoàn toàn đồng nghĩa với tỷ lệ hài lòng của cá nhân, tổ chức khi thực hiện TTHC, vẫn còn nhiều trường hợp không tiếp nhận hồ sơ với những lý do vô lý, trái quy định của pháp luật. Do đó, người dân vẫn phải đi lại nhiều lần để nộp hồ sơ trực tiếp, do hồ sơ bị trả lại nhiều lần (qua công tác kiểm tra hoạt động kiểm soát TTHC và tiếp nhận, phản ánh kiến nghị của tổ chức, cá nhân). Ngoài ra, người dân còn chưa quan tâm, đánh giá mức độ hài lòng đối với giải quyết TTHC, kết quả này còn chưa được đưa vào việc đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của CCVC tại BPMC.

4. Quy trình giải quyết TTHC

Qua công tác kiểm tra hoạt động kiểm soát TTHC và kiểm tra trên Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh, nhận thấy:

- Hiện tại mới chỉ có các cơ quan, đơn vị tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả TTHC tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh việc thực hiện quy trình giải quyết TTHC cơ bản đã đáp ứng theo quy định tại Quyết định số 02/2022/QĐ-UBND ngày 20/01/2022 của UBND tỉnh ban hành Quy chế hoạt động của Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh và Chương III Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 (đã được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 107/2021/NĐ-CP ngày 06/12/2021), quy trình thực hiện TTHC trên môi trường điện tử tại Chương II Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020.

- Còn lại 11 BPMC cấp huyện, 193 BPMC cấp xã cơ bản đáp ứng quy trình giải quyết TTHC theo quy định tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 hoặc chưa đáp ứng.

Theo quy định tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP thì tất cả các công việc từ hướng dẫn (Điều 15), tiếp nhận hồ sơ TTHC (Điều 17), chuyển hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết (Điều 18), giải quyết TTHC (Điều 19) đều do công chức trực tại BPMC thực hiện. Trong khi đó, kết quả nghiên cứu về nội dung, tính chất công việc tại các bước trong quy trình giải quyết TTHC và thực tiễn thực hiện cho thấy, các công việc tại bước hướng dẫn (Điều 15), tiếp nhận hồ sơ TTHC (Điều 17), chuyển hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết (Điều 18) và trả hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC không nhất thiết phải do cơ quan nhà nước thực hiện.

Riêng đối với việc giải quyết TTHC (xem xét, thẩm định hồ sơ, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và phê duyệt kết quả giải quyết TTHC) vẫn thuộc cơ quan HCNN thực hiện.

Việc giao cho CCVC làm việc tại BPMC chịu trách nhiệm thực hiện tất cả các công việc từ khâu đầu (hướng dẫn) cho đến khâu cuối (trả kết quả giải quyết TTHC), tiếp nhận, giải quyết phản ánh, kiến nghị như hiện nay cho thấy cá nhân, tổ chức có nhu cầu thực hiện TTHC vẫn phải tiếp xúc trực tiếp với CCVC nhà nước - người giải quyết TTHC. Đồng thời, do phải trực tại BPMC hàng ngày, trong khi số lượng CCVC hạn chế nên rất khó khăn trong việc bố trí người thay thế dẫn đến CCVC bộ phận này không được tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật kiến thức một cách thường xuyên. Do đó, cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công việc cũng như đáp ứng yêu cầu về đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch CCVC thực hiện nhiệm vụ tại BPMC.

Bên cạnh đó, việc quy định tiêu chuẩn CCVC trực tại BPMC tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP “đã được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên hoặc tương đương trở lên; có thâm niên công tác tối thiểu 03 năm trong ngành, lĩnh vực được phân công và được đánh giá là hoàn thành tốt nhiệm vụ”, “Thời hạn làm việc của CCVC được cử đến BPMC không ít hơn 06 tháng và không nhiều hơn 24 tháng mỗi đợt; trừ trường hợp quy định tại Khoản 8 Điều 12 Nghị định” gây ra rất nhiều khó khăn cho các cơ quan, đơn vị trong việc bố trí CCVC trực tại BPMC, nhất là đối với các địa phương muốn thực hiện việc thuê dịch vụ, hoặc chuyển giao một số công việc trong quy trình giải quyết TTHC (xã hội hóa) cho doanh nghiệp, hoặc tổ chức khác thực hiện. Tuy nhiên theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 1 Nghị định số 107/2021/NĐ-CP ngày 06/12/2021 quy định “Căn cứ tình hình thực tế và năng lực của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính công ích..., UBND cấp tỉnh quyết định việc thực hiện cơ chế giao doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính công ích đảm nhận một hoặc một số công việc trong quá trình hướng dẫn, tiếp nhận, số hóa hồ sơ, trả kết quả giải quyết TTHC theo quy định pháp luật về đấu thầu”.

5. Về thẩm quyền giải quyết TTHC

Điều 14 Nghị định số 61/2018/NĐ-CP quy định về phạm vi tiếp nhận TTHC tại BPMC như sau:

Tại cấp tỉnh: Trung tâm Phục vụ hành chính công tiếp nhận hồ sơ TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc liên thông giải quyết của UBND cấp tỉnh, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, những TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc liên thông giải quyết của các cơ quan được tổ chức theo hệ thống ngành dọc tại địa phương theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, những TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của các bộ, ngành, của UBND cấp huyện được giao tiếp nhận tại Trung tâm Phục vụ hành chính công.

Tại cấp huyện: Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả cấp huyện thực hiện tiếp nhận hồ sơ tất cả TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc liên thông giải quyết của UBND cấp huyện, một số TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc liên thông giải quyết của các cơ quan được tổ chức theo hệ thống ngành dọc tại địa phương theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, UBND cấp xã được giao tiếp nhận tại cấp huyện.

Tại cấp xã: Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả cấp xã tiếp nhận hồ sơ TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp xã và những TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp huyện được giao tiếp nhận hồ sơ tại cấp xã.

Căn cứ vào đặc thù và yêu cầu quản lý theo từng lĩnh vực,..., Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định các TTHC không thực hiện tiếp nhận tại BPMC quy định tại các Khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này nhưng phải áp dụng quy trình theo dõi việc tiếp nhận, xử lý hồ sơ, trả kết quả giải quyết quy định tại Nghị định này, bao gồm các trường hợp: TTHC được tổ chức thực hiện lưu động theo quy định của pháp luật; TTHC có quy định tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết trực tiếp ngay tại thời điểm và địa điểm kiểm tra, xem xét, đánh giá ngoài trụ sở BPMC đối với đối tượng được kiểm tra, xem xét, đánh giá.

Theo quy định trên, thẩm quyền giải quyết TTHC được giao cho cơ quan, đơn vị, tổ chức theo chức năng quản lý nhà nước, hoặc giao cho địa phương theo địa giới hành chính. Cơ quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền giải quyết cũng đồng thời thực hiện việc tiếp nhận, trả kết quả giải quyết TTHC và tiếp nhận những hồ sơ thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp khác, hoặc cơ quan, đơn vị khác khi được giao, hoặc ủy quyền để chuyển cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Cấp xã có thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết các TTHC phát sinh thường xuyên, số lượng lớn, phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người dân với mức độ phức tạp của công việc không cao. Ngoài ra, BPMC cấp xã cũng tiếp nhận hồ sơ những TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp huyện nhưng giao cho cấp xã nhận. Thực tế, lượng hồ sơ giải quyết TTHC ở cấp xã chủ yếu trong lĩnh vực tư pháp (chứng thực, khai sinh, khai tử, đăng ký kết hôn, hộ tịch). Các TTHC trong các lĩnh vực khác (xây dựng, văn hóa, lao động ...) lượng hồ sơ phát sinh không lớn.

Việc mỗi BPMC chỉ thực hiện tiếp nhận hồ sơ thuộc thẩm quyền giải quyết, hoặc được ủy quyền tiếp nhận của cơ quan, đơn vị, hoặc địa phương mình đã dẫn đến tình trạng cắt khúc, bất cập, gây khó khăn, tốn kém trong thực hiện và giải quyết TTHC, điển hình là tình trạng có nhiều BPMC số lượng hồ sơ ít, bên cạnh có nhiều BPMC ở khu trung tâm, dân cư đông, nhu cầu thực hiện TTHC nhiều nên khối lượng công việc rất lớn, như: Tại báo cáo số 09/BC-PVHCC ngày 16/11/2021 kết quả tiếp nhận, giải quyết, trả kết quả TTHC trên Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh huyện Yên Minh chỉ tiếp nhận 856 hồ sơ, trong khi đó huyện Mèo Vạc tiếp nhận 5.152 hồ sơ (gấp xấp xỉ 6,02 lần), thành phố Hà Giang tiếp nhận 5.861 hồ sơ (gấp xấp xỉ 6,85 lần) hoặc ngay trong cùng một địa bàn thuộc thành phố Hà Giang cũng có sự chênh lệch rất lớn, ví dụ phường Trần Phú nhận 07 hồ sơ trong khi phường Minh Khai nhận 136 hồ sơ (gấp 19,43 lần).

Trong khi đó, công chức BPMC các cấp hoàn toàn có đủ khả năng tiếp nhận hồ sơ của địa bàn khác, hoặc cấp khác, như: Công chức tư pháp hộ tịch cấp xã có thể tiếp nhận hồ sơ của tất cả các xã trên phạm vi cả tỉnh, cả nước; hoặc công chức cấp tỉnh đủ khả năng tiếp nhận hồ sơ của cấp huyện, cấp xã; cấp huyện có đủ khả năng tiếp nhận hồ sơ của cấp tỉnh, cấp xã, hoặc ngược lại...

Tuy nhiên theo quy định tại khoản 8 Điều 1 Nghị định số 107/2021/NĐ-CP ngày 06/12/2021 quy định “Căn cứ việc triển khai số hóa, kết nối, chia sẻ, liên thông dữ liệu của Hệ thống thông tin một cửa điện tử và kết quả triển khai DVCTT trên Cổng Dịch vụ công cấp tỉnh và Cổng Dịch vụ công quốc gia, Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định mở rộng phạm vi tiếp nhận TTHC không phụ thuộc vào địa giới hành chính tại BPMC các cấp thuộc phạm vi quản lý”.

6. Về cơ sở hạ tầng CNTT trong giải quyết TTHC

Theo Nghị định 61/2018/NĐ-CP, đến nay tỉnh Hà Giang tiếp tục hoàn thiện Hệ thống thông tin một cửa điện tử, Cổng Dịch vụ công (nay là Hệ thống thông tin giải quyết TTHC) kết nối với Cổng Dịch vụ công quốc gia tập trung, thống nhất cơ bản đáp ứng yêu cầu thực tế.

Tuy nhiên, việc thực hiện quy trình tiếp nhận, giải quyết và trả kết quả hồ sơ TTHC qua Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tại BPMC cấp huyện, cấp xã còn hạn chế như hồ sơ TTHC, kết quả giải quyết TTHC chưa được cập nhật vào hệ thống, quy trình giải quyết hồ sơ trên hệ thống không đúng với quy trình thực tế, số lượng hồ sơ không nhập trên hệ thống chiếm tỷ lệ lớn, chưa thiết lập được quy trình liên thông giữa các cơ quan tham gia giải quyết TTHC... Còn nhiều BPMC việc theo dõi, quản lý chủ yếu vẫn được thực hiện thủ công (bằng sổ, sách), chưa có sự hỗ trợ nhiều của CNTT.

Trên địa bàn tỉnh hiện nay ngoài Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của tỉnh, Cổng Dịch vụ công Quốc gia các cơ quan, đơn vị đang sử dụng 11 Hệ thống phần mềm do các Bộ, ngành Trung ương triển khai để tiếp nhận hồ sơ, giải quyết và trả kết quả riêng cho từng TTHC như: ngành Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Nội vụ, Giao thông vận tải, Lao động - TBXH, Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Nông nghiệp và PTNT, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, Tư pháp..., các Hệ thống này chưa có sự kết nối, chia sẻ thông tin với Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của tỉnh hoặc đã có kết nối, chia sẻ nhưng còn hạn chế gây khó khăn cho công tác triển khai nhiệm vụ, không quản lý được việc tổ chức triển khai nhiệm vụ này, gây tốn kém kinh phí, thời gian của cơ quan, CCVC trong quá trình giải quyết TTHC.

7. Về việc thực hiện DVCTT

Chuyển đổi số là một xu hướng tất yếu của thế giới hiện đại nhưng để DVCTT được cung ứng phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng, điều kiện của tổ chức, cá nhân, để dễ tiếp cận với DVCTT đòi hỏi phải có nhiều thay đổi. Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh về triển khai rà soát, đánh giá, chuẩn hóa dữ liệu TTHC và tái cấu trúc quy trình TTHC làm cơ sở xây dựng DVCTT mức độ 4 trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia và Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của tỉnh, kết quả năm 2021 cung cấp DVCTT: 1.591 TTHC cung cấp DVCTT mức độ 4, đạt 83,30%; 153 TTHC cung cấp DVCTT mức độ 3, đạt 8,01%; 166 TTHC cung cấp DVCTT mức độ 2, đạt 8,69%; Tích hợp cung cấp trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia 176 DVCTT mức độ 3, mức độ 4; DVCTT có phát sinh hồ sơ trực tuyến mức độ 4: 81 DVC, chiếm tỷ lệ 5,09%; kết quả tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ TTHC trực tuyến toàn tỉnh chiếm tỷ lệ 21,47% (cấp tỉnh 48,76%) so với tổng số hồ sơ mới tiếp nhận năm 2021.

Bên cạnh kết quả đạt được nêu trên, việc thực hiện cung cấp DVCTT nói chung còn những tồn tại, hạn chế, như:

Tỷ lệ cung cấp DVCTT, thanh toán trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh chiếm tỷ lệ rất thấp.

Hồ sơ phát sinh trực tuyến trên Hệ thống thông tin giải quyết TTHC không xuất phát từ tổ chức, cá nhân tự gửi mà chủ yếu phát sinh thông qua việc CCVC trực BPMC các cấp hướng dẫn, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp khi đến giao dịch trực tiếp chuyển sang gửi hồ sơ trực tuyến theo chỉ đạo tại Chỉ thị số 1117/CT-UBND ngày 16/6/2021.

Tiêu chuẩn, thành phần hồ sơ của tổ chức, cá nhân gửi trực tuyến trên hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh chưa đảm bảo theo quy định tại Điểm c khoản 1 Điều 9 Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 của Chính phủ về thực hiện TTHC trên môi trường điện tử “Ký chữ ký số vào mẫu đơn, tờ khai, giấy tờ, tài liệu điện tử nếu có yêu cầu. Việc yêu cầu ký số được công khai trước khi tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ điện tử. Thành phần hồ sơ được ký chữ ký số có giá trị pháp lý như văn bản giấy được ký hợp lệ” và tiêu chuẩn hồ sơ tại các Quyết định công bố TTHC.

Nguyên nhân:

Hệ thống thông tin giải quyết TTHC chưa thực sự tối ưu, thuận tiện cho tổ chức, cá nhân cũng như cho CBMC, CB xử lý hồ sơ, chưa đáp ứng yêu cầu gửi, nhận, xử lý hồ sơ trực tuyến.

Việc cung cấp DVCTT mới chỉ hoàn thành ở bước thể chế hóa quy định cung cấp DVCTT ở các Quyết định công bố TTHC; việc niêm yết, công khai cung cấp DVCTT trên Hệ thống thông tin giải quyết TTHC chưa kịp thời, chưa đầy đủ, chưa chính xác. Đồng thời chưa thiết lập được quy trình giải quyết TTHC trên Hệ thống.

Quy trình thực hiện gửi hồ sơ trực tuyến trên Hệ thống còn phức tạp, các loại hồ sơ, giấy tờ biểu mẫu còn rườm rà giống với cách thức gửi trực tiếp, các quy định TTHC nhiêu khê, khó khăn, phức tạp dẫn đến tổ chức, cá nhân gặp khó khăn ngay từ bước đăng ký tài khoản, hoàn thiện hồ sơ gửi trực tuyến, mất nhiều thời gian, chi phí chuẩn bị hồ sơ so với gửi trực tiếp tại BPMC là trở ngại, khó khăn nhất.

Sử dụng DVCTT bắt buộc phải có kết nối Internet, phải có máy tính, điện thoại thông minh đây là trở ngại khó khăn đối với người dân vùng sâu, vùng xa, vùng nhiều đồng bào dân tộc thiểu số.

Để sử dụng DVCTT, người dân cũng phải có một trình độ, năng lực nhất định: phải biết sử dụng Internet, biết liên hệ, tiếp cận DVCTT trên mạng, biết cách hoàn tất hồ sơ, giấy tờ theo quy định... là trở ngại rất lớn đối với người dân vùng đồng bào nhiều dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh.

Sử dụng DVCTT mức độ 3 theo các quy định về hồ sơ, giấy tờ kèm theo quá phức tạp, khó làm và khi nhận kết quả vẫn lại phải nộp, xuất trình một bộ hồ sơ nữa vì vậy chưa thuận tiện bằng việc gửi hồ sơ trực tiếp.

8. Về kết nối, chia sẻ dữ liệu, chức năng, tính năng kỹ thuật của Hệ thống thông tin giải quyết TTHC

Cổng Dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa điện tử (nay gọi là Hệ thống thông tin giải quyết TTHC) được xây dựng từ năm 2016, trước khi có các quy định về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, giải quyết TTHC trên môi trường điện tử tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP, Nghị định số 107/2021/NĐ-CP, Nghị định số 45/2020/NĐ-CP dẫn đến một số chức năng, tính năng kỹ thuật và ứng dụng của Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh chưa đáp ứng việc giải quyết hồ sơ TTHC theo quy định, công tác kết nối, chia sẻ thông tin với hệ thống Cổng Dịch vụ công của các Bộ, ngành triển khai tại địa phương, với các cơ sở dữ liệu, phần mềm chuyên ngành còn gặp nhiều khó khăn.

9. Việc tạo lập, quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu điện tử trong giải quyết TTHC

Khoản 1, Điều 17 Nghị định 61/2018/NĐ-CP quy định: Đối với hồ sơ được nhận theo cách thức được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 16 Nghị định này (trực tiếp hoặc qua dịch vụ bưu chính), CCVC tiếp nhận hồ sơ tại BPMC phải xem xét, kiểm tra tính chính xác, đầy đủ của hồ sơ; quét (scan) và lưu trữ hồ sơ điện tử, cập nhật vào cơ sở dữ liệu của Hệ thống thông tin giải quyết TTHC. Điều 18 Nghị định 61/2018/NĐ-CP (Đã được sửa đổi, bổ sung tại Điều 1 Nghị định số 107/2021/NĐ-CP) Chuyển hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết như sau: Chuyển dữ liệu hồ sơ điện tử được tiếp nhận trực tuyến của tổ chức, cá nhân hoặc hồ sơ giấy đã được số hóa đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết trên Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp tỉnh. Khoản 3, Điều 25 Nghị định quy định: Các bộ, ngành, địa phương tổ chức việc chuyển đổi hồ sơ, tài liệu giấy liên quan đến việc giải quyết TTHC của tổ chức, cá nhân thành hồ sơ điện tử và xây dựng quy trình tin học hóa giải quyết TTHC trên Hệ thống thông tin một cửa điện tử.

Nghị định số 45/2020/NĐ-CP của Chính phủ về thực hiện TTHC trên môi trường điện tử quy định: Tổ chức, cá nhân có tài khoản để thực hiện các giao dịch trên Cổng Dịch vụ công quốc gia hoặc Cổng Dịch vụ công cấp bộ, cấp tỉnh thì được cung cấp một Kho quản lý dữ liệu điện tử của tổ chức, cá nhân tại các cổng này (khoản 1 Điều 16). Kho này lưu giữ dữ liệu hoặc đường dẫn tới dữ liệu: Thông tin cơ bản về doanh nghiệp trên cơ sở cung cấp, cập nhật từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp; thông tin cơ bản về công dân trên cơ sở cung cấp, cập nhật từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; Kết quả hoặc đường dẫn kết quả giải quyết TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của các bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương; Các thành phần hồ sơ TTHC đã được cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết thành công và được tổ chức, cá nhân đồng ý lưu giữ; Bản sao điện tử từ sổ gốc hoặc bản sao điện tử được chứng thực từ bản chính do cơ quan có thẩm quyền cấp; Các thông tin sẵn có từ Cổng Dịch vụ công cấp bộ, cấp tỉnh được đồng bộ với Cổng Dịch vụ công quốc gia (Điều 16). Việc quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu trên Kho quản lý dữ liệu điện tử của tổ chức, cá nhân thực hiện theo các quy định về quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước, quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân và các quy định của pháp luật có liên quan (Điều 17).

Điều 25 Nghị định số 45/2020/NĐ-CP cũng quy định về việc số hóa kết quả giải quyết TTHC như sau:

“1. Đối với kết quả giải quyết TTHC đang được cơ quan có thẩm quyền quản lý, lưu trữ bằng văn bản giấy, ... Chủ tịch UBND cấp tỉnh chỉ đạo việc số hóa kết quả giải quyết TTHC và lưu thông tin, dữ liệu tại các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu liên quan theo thẩm quyền quản lý.

4. Kết quả giải quyết TTHC bản điện tử được chuyển đổi từ văn bản giấy có giá trị như văn bản giấy trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác”. Đồng thời, Nghị định cũng quy định việc số hóa kết quả giải quyết TTHC còn hiệu lực hoàn thành trước ngày 31/12/2025 (khoản 3 Điều 27).

Từ các quy định trên cho thấy một số vấn đề như sau:

- Việc lưu trữ giấy tờ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết TTHC vào Kho quản lý dữ liệu điện tử của cá nhân, tổ chức chỉ thực hiện được khi cá nhân, tổ chức đó có tài khoản để thực hiện các giao dịch trên Cổng Dịch vụ công quốc gia hoặc Cổng Dịch vụ công cấp tỉnh. Trong khi hiện nay số tài khoản đăng ký trên Cổng Dịch vụ công của tỉnh là không nhiều, chiếm tỷ lệ thấp so với quy mô dân số của tỉnh.

Đồng thời, với quy định việc lưu trữ hồ sơ là các thành phần hồ sơ TTHC đã được cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết thành công phải “được tổ chức, cá nhân đồng ý lưu giữ”. Vậy trình tự, thủ tục thể hiện sự đồng ý của cá nhân, tổ chức, cũng như ghi nhận, lưu vết sự “đồng ý” đó ở phía cơ quan lưu giữ như thế nào thì chưa được quy định cụ thể.

Các quy định về quy trình thực hiện việc chụp, lưu hồ sơ điện tử cũng chưa có sự thống nhất, cụ thể: Theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Nghị định số 61/2018/NĐ-CP thì việc chụp, lưu hồ sơ điện tử được thực hiện ngay khi hồ sơ đó được công chức tại BPMC tiếp nhận (ngay giai đoạn đầu của quy trình giải quyết TTHC - khi đó chưa được cơ quan có thẩm quyền giải quyết TTHC chấp nhận giải quyết và vẫn tiềm ẩn khả năng sẽ bị trả lại do thiếu, hoặc hồ sơ không hợp lệ). Xong khoản 1 Điều 16 Nghị định số 45/2020/NĐ-CP lại quy định việc lưu trữ hồ sơ được thực hiện đối với các thành phần hồ sơ TTHC đã được cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết thành công (tức là đã giải quyết xong). Điều đó cho thấy, đối với cùng một việc số hóa, lưu trữ hồ sơ giải quyết TTHC, chỉ khác về cách thức thực hiện (hồ sơ điện tử/hồ sơ giấy) trong cùng một cơ quan, đơn vị có thẩm quyền giải quyết TTHC nhưng quy định về quy trình xử lý hồ sơ nội bộ lại không thống nhất.

Việc số hóa (điện tử hóa) thành phần hồ sơ TTHC quy định tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP và Nghị định số 45/2020/NĐ-CP đều chưa quy định cụ thể về các yêu cầu đối với tài liệu được chuyển đổi, tài liệu chuyển đổi (trong đó có yêu cầu về xác nhận việc chuyển đổi của cơ quan có thẩm quyền/ hoặc cơ quan chuyển đổi tài liệu), giá trị pháp lý của tài liệu chuyển đổi, về nguyên tắc khai thác, sử dụng tài liệu đã lưu trữ trong giải quyết TTHC. Do đó, để việc chuyển đổi hồ sơ giấy sang hồ sơ điện tử và lưu trữ điện tử phát huy hiệu quả trên thực tế thì cần thiết phải bổ sung quy định cụ thể để hồ sơ, tài liệu này đủ điều kiện tái sử dụng khi giải quyết yêu cầu của cá nhân, tổ chức, qua đó đơn giản hóa thành phần hồ sơ, tiết kiệm tối đa chi phí thực hiện TTHC (công việc) của cá nhân, tổ chức; hiện thực hóa chủ trương lấy người dân làm trung tâm (người dân chỉ nộp giấy tờ một lần cho cơ quan hành chính) và thúc đẩy phát triển CQS, quá trình chuyển đổi số trong cơ quan nhà nước.

Hiện chưa có quy định về chữ ký số cá nhân, do đó thiếu cơ sở, gây khó khăn cho cá nhân trong việc thực hiện DVCTT mức độ 3, mức độ 4, hoặc TTHC điện tử, như việc ký vào đơn, tờ khai. Để khắc phục hạn chế này, cần thiết phải giao quyền cho CCVC, nhân viên của doanh nghiệp được thuê làm dịch vụ tại BPMC được thực hiện TTHC thay cho người dân theo hình thức ủy quyền.

10. Về việc theo dõi, giám sát, đánh giá chất lượng giải quyết TTHC tại BPMC

Về việc theo dõi, giám sát, đánh giá việc giải quyết TTHC một cách khách quan, trung thực, chính xác, Chương V Nghị định số 61/2018/NĐ-CP (Đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 107/2021/NĐ-CP) có 06 điều quy định về đánh giá như: nguyên tắc, thẩm quyền, phương thức thu nhận thông tin đánh giá; đánh giá nội bộ về việc giải quyết TTHC; đánh giá của tổ chức, cá nhân về giải quyết TTHC và xử lý kết quả đánh giá. Khoản 1 Điều 31 Nghị định đưa ra các nội dung, tiêu chí chi tiết để đánh giá việc giải quyết TTHC. Tại Điều 12-15 Thông tư số 01/2018/TT-VPCP ngày 23/11/2018 của Văn phòng Chính phủ cũng hướng dẫn về việc thực hiện việc tổ chức đánh giá việc giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông. Đây là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân đánh giá việc giải quyết TTHC. Kết quả đánh giá là một trong những tiêu chuẩn để xem xét mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị tiếp nhận, giải quyết TTHC; xác định trách nhiệm của cá nhân, người đứng đầu cơ quan, đơn vị tiếp nhận, giải quyết TTHC. Nghị định đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương để thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC, qua đó nhằm nâng cao chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa cải cách hành chính, cải cách TTHC với xây dựng CPĐT. Có thể nói, đây là một kênh giám sát hoạt động tại BPMC rất cần thiết bên cạnh các hình thức giám sát khác, như: Trực tiếp kiểm tra, qua hệ thống camera giám sát thông minh....

Theo quy định trên thì thẩm quyền đánh giá gồm: Cơ quan có thẩm quyền cấp trên đánh giá chất lượng giải quyết TTHC thuộc thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết của cơ quan, đơn vị trực thuộc; Tổ chức, cá nhân đến giao dịch, thực hiện TTHC đánh giá chất lượng và tiến độ giải quyết TTHC; Cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết TTHC tự đánh giá việc thực hiện của cơ quan mình. Tuy nhiên, còn bất cập, cụ thể:

- Về phía tổ chức, cá nhân đến giao dịch, thực hiện TTHC không mặn mà với việc đánh giá chất lượng và tiến độ giải quyết TTHC bởi các tiêu chí đánh giá còn nhiều và phức tạp; không có động lực để thực hiện đánh giá.

- Về phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền:

Thực tế, việc xử lý, tổng hợp đánh giá chất lượng giải quyết TTHC mục Đánh giá” trên Cổng Dịch vụ công của tỉnh không hiệu quả, Hệ thống đánh giá tại BPMC chưa phát huy hiệu quả. Nội dung đánh giá còn quá phức tạp dẫn đến có triển khai nhưng cũng không nhận được sự hưởng ứng cao của cá nhân, tổ chức, số lượng công dân thực hiện việc đánh giá rất thấp.

Bên cạnh đó, kết quả khảo sát thực tế và qua phản ánh kiến nghị của người dân và doanh nghiệp cũng cho thấy, kết quả giải quyết TTHC đúng và trước hạn trên 99,57% cũng chưa hẳn đã phản ánh một cách chân thực về chất lượng giải quyết TTHC, thậm chí còn gây ra những bất cập khi cơ quan HCNN chạy theo thành tích, hay muốn làm đẹp số liệu. Bởi mọi hành vi gây khó khăn, phiền hà, nhũng nhiễu đa phần phát sinh trong giai đoạn xem xét, kiểm tra trước khi CCVC của cơ quan nhà nước quyết định việc tiếp nhận hồ sơ giải quyết TTHC.

Chính vì vậy, cần thiết phải đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả việc theo dõi, giám sát, đánh giá thông qua bên thứ ba, sử dụng Bộ chỉ số giám sát, đánh giá theo thời gian thực là rất cần thiết.

IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CƠ CHẾ MỘT CỬA, MỘT CỬA LIÊN THÔNG TRONG GIẢI QUYẾT TTHC

1. Những kết quả đạt được

Có thể khẳng định các quy định hiện hành đã cơ bản bảo đảm hành lang pháp lý để xây dựng, quản lý, điều hành việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC và đã mang lại nhiều kết quả tích cực, cụ thể:

Một là, khắc phục các TTHC rườm rà, chồng chéo. Khi chưa thực hiện cơ chế “một cửa”, không những mỗi cơ quan hành chính tự đặt ra thủ tục của mình, mà mỗi phòng, ban chuyên môn trong đó cũng tự ý đề ra những quy định thủ tục riêng, gây phiền hà, nhũng nhiễu cho nhân dân. Tồn tại này được khắc phục khi các cơ quan hành chính thống nhất một bộ TTHC chung và quy trình giải quyết được cụ thể, công khai để nhân dân được biết và thực hiện theo.

Hai là, bộ máy hành chính nói chung và bộ máy cung ứng dịch vụ hành chính công nói riêng cơ bản đã được tinh giản, gọn nhẹ. Các đơn vị quản lý và giải quyết TTHC được quy về một đầu mối và được tổ chức tập trung tại các nơi giải quyết TTHC cho công dân và tổ chức.

Ba là, thay đổi thái độ phục vụ của CBCCVC, khắc phục dần tính cửa quyền, sách nhiễu, ban ơn do cơ chế cũ để lại. Chất lượng tiếp nhận, phân tích và xử lý công việc được nâng lên. Cơ chế làm việc mới này tạo điều kiện để đẩy lùi tình trạng công chức đòi hối lộ, cửa quyền, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho dân. Trách nhiệm giải trình của công chức luôn được chú trọng.

Bốn là, khắc phục tình trạng cán bộ lãnh đạo mất nhiều thời gian vào các công việc sự vụ hành chính, không có thời gian dành cho những nhiệm vụ và chức năng quản lý khác; giảm dần việc các cán bộ lãnh đạo phải tham gia trực tiếp giải quyết các công việc sự vụ, khiếu kiện.

Năm là, khắc phục được tình trạng trước đây người dân không biết phải nộp hồ sơ đề nghị giải quyết TTHC ở đâu? Xây dựng hồ sơ như thế nào? Đúng hay chưa? Phải đi lại bao nhiêu lần để tìm nơi nộp hồ sơ, hoàn thiện hồ sơ? Kể từ khi thực hiện cơ chế một cửa tập trung người dân không phải đi lại nhiều lần, qua nhiều khâu, nhiều cửa và biết được nơi tiếp nhận hồ sơ, giải quyết và trả kết quả hồ sơ TTHC.

Sáu là, thời gian cung ứng các dịch vụ hành chính công được quy định rõ ràng, giảm chi phí thời gian và tăng cơ hội hoạt động của các tổ chức và công dân, điều này khắc phục được tình trạng các công chức của các phòng ban chuyên môn tự gia hạn thời gian xử lý hồ sơ cho người dân.

Bảy là, khắc phục tình trạng tùy tiện đặt ra và thu các loại phí, qua đó thống nhất mức lệ phí đối với cùng một loại dịch vụ do các cơ quan hành chính ban hành ở các địa phương khác nhau cung cấp.

Tám là, theo nhận định của tổ chức, cá nhân, cơ chế “một cửa” trong giải quyết TTHC đã góp phần vào quá trình đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt cải cách TTHC, nhằm nâng cao sự hài lòng của người dân đối với cơ quan hành chính.

2. Một số hạn chế, bất cập

Bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC cũng còn nhiều vấn đề cần sớm được xem xét, tháo gỡ, như: BPMC chưa phát huy được tối đa năng suất, hiệu quả hoạt động; việc thực hiện số hóa, kết nối, chia sẻ thông tin chưa được quan tâm thực hiện, việc thực hiện thiếu đồng bộ, thống nhất, thông tin cát cứ, không sử dụng lại được; thiếu cơ chế để tạo điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy người dân thay đổi thói quen, cũng như tạo động lực để CCVC, nhân viên tại BPMC nỗ lực đẩy mạnh việc thực hiện TTHC trên môi trường điện tử, điều đó dẫn đến lãng phí nguồn lực, cản trở rất lớn đến việc đơn giản hóa TTHC, tiến trình xây dựng Chính phủ, CQS.

3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế

- Về các quy định (hoặc thể chế) liên quan đến việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC:

Hiện chưa có hướng dẫn cụ thể về hình ảnh, vị trí ký số trên văn bản số hóa; chưa có quy định cụ thể để bảo đảm giá trị của giấy tờ, hồ sơ thực hiện TTHC đã được số hóa, lưu trữ điện tử; cấp Kho quản lý dữ liệu của tổ chức, cá nhân cho các đối tượng chưa thực hiện TTHC qua Cổng Dịch vụ công quốc gia khi có nhu cầu; việc tái sử dụng các giấy tờ, tài liệu đã được cơ quan có thẩm quyền số hóa, ký xác thực và lưu trữ tại Kho quản lý dữ liệu điện tử của tổ chức, cá nhân; thuê dịch vụ thực hiện một số công việc trong quy trình giải quyết TTHC; việc chuyển đổi hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC từ bản điện tử sang bản giấy theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 45/2020/NĐ-CP chưa được thực hiện do thiếu hướng dẫn cụ thể; các Nghị định về quản lý, xác thực định danh điện tử, Nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân còn chưa được ban hành theo tiến độ Chính phủ đã giao.

Một số quy định không còn phù hợp với xu thế ứng dụng mạnh mẽ CNTT để hiện đại hóa quản trị dịch vụ công, điển hình như: Các quy định về việc bố trí BPMC đối với địa phương theo địa giới hành chính, hoặc một số quy định về tiêu chuẩn nhân sự trực tại BPMC đã dẫn đến tình trạng cào bằng, thiếu nhất quán. Đặc biệt, việc quy định thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ giải quyết TTHC theo cơ quan có thẩm quyền giải quyết, hoặc được ủy quyền tiếp nhận hồ sơ đối với trường hợp thực hiện theo cách thức trực tiếp, qua bưu chính đến thời điểm hiện nay đã không đáp ứng được yêu cầu thực tế, trở nên xơ cứng, thiếu linh hoạt so với hình thức thực hiện TTHC bằng phương thức điện tử (theo phương thức điện tử người dân có thể thực hiện TTHC chính ở bất kỳ địa điểm nào - phi địa giới hành chính), thậm chí trở thành rào cản cho quá trình đổi mới, hiện thực hóa chủ trương xã hội hóa để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của BPMC; việc giám sát, đánh giá kết quả giải quyết TTHC với mục tiêu đề ra rất tốt, tuy nhiên các cách thức thực hiện còn mang tính truyền thống, thủ công do đó chưa thu hút được sự quan tâm của đông đảo người dân, còn phụ thuộc chủ yếu vào ý chí chủ quan của con người do đó thiếu khách quan, toàn diện, chính xác, không đạt được mục tiêu đã đề ra.

Các quy định hiện hành cũng như chi phí thuê dịch vụ chứng thư số cá nhân còn cao chưa khuyến khích được người dân sử dụng chữ ký số cá nhân xác thực hồ sơ điện tử khi thực hiện TTHC.

- Chưa thực sự lấy người dân làm trung tâm trong thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC; việc cung cấp DVCTT mức độ 3, mức độ 4 còn chạy theo thành tích, tích cực đẩy mạnh về số lượng dịch vụ cung cấp nhưng chưa đồng thời chú trọng về mặt hiệu quả sử dụng, thực tế có rất nhiều DVCTT mức độ 3, mức độ 4 được cung cấp nhưng trên thực tế không phát sinh hồ sơ hoặc có phát sinh nhưng chủ yếu là những hồ sơ do cơ quan HCNN gửi hoặc CCVC trực BPMC hướng dẫn tổ chức, cá nhân chuyển từ nộp trực tiếp sang nộp trực tuyến; tiêu chuẩn, thành phần hồ sơ gửi trực tuyến chưa đúng theo quy định.

- Việc kết nối, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan, tổ chức liên quan đến việc giải quyết TTHC, dịch vụ công cho người dân còn hạn chế, chưa theo đúng quy định hiện hành về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan HCNN tại Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ; đầu tư cơ sở hạ tầng CNTT chưa đáp ứng yêu cầu công việc.

V. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

Từ phân tích, đánh giá nêu trên cho thấy việc ban hành và triển khai thực hiện “Đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC giai đoạn 2022 - 2025” (sau đây gọi tắt là Đề án) để nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ, góp phần thực hiện thành công chương trình chuyển đổi số quốc gia là cần thiết. Việc ban hành Đề án là rất cần thiết, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, nhất là việc tổ chức triển khai ngay và có hiệu quả chủ trương chuyển đổi số quốc gia, chuyển đổi số của tỉnh, thúc đẩy phát triển kinh tế số tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; phát triển và quản lý dữ liệu số của tỉnh tại Nghị quyết số 18-NQ/TU ngày 29/10/2021; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng công vụ tỉnh tại Nghị quyết số 14-NQ/TU ngày 24/8/2021.

Phần II

NỘI DUNG ĐỀ ÁN

I. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI CỦA ĐỀ ÁN

1. Quan điểm xây dựng Đề án

- Lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm để phục vụ; sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp là thước đo chất lượng và hiệu quả phục vụ của cán bộ, CCVC và cơ quan có thẩm quyền trong giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông; đáp ứng mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính, nhất là việc cắt giảm, đơn giản hóa TTHC thông qua việc ứng dụng CNTT.

- Triển khai và thực hiện BPMC là Trung tâm chuyển đổi số của các cấp chính quyền, đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động quản lý, cung cấp dịch vụ công, thay đổi cách thức quản trị hành chính từ truyền thống sang hiện đại, góp phần hình thành công dân số, doanh nghiệp số, thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số.

- Triển khai và thực hiện tốt chiến lược 4 không - 1 có “Làm việc không giấy tờ; Hội họp không tập trung; Dịch vụ công không gặp mặt; Thanh toán không tiền mặt; Dữ liệu có chuyển đổi số” kết hợp với đổi mới thành lập một cửa số, dịch vụ số, chỉ cung cấp thông tin, giấy tờ một lần, thực hiện TTHC không phụ thuộc vào địa giới hành chính, tự động hóa trong tiếp nhận, giải quyết TTHC, chỉ đạo điều hành bằng dữ liệu theo thời gian thực.

- Bảo đảm tính khả thi, hiệu quả; hiện thực hóa chủ trương đẩy mạnh việc chuyển giao một số nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công mà nhà nước không nhất thiết phải thực hiện cho doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đảm nhiệm ở cấp huyện, cấp xã.

2. Mục tiêu của Đề án

2.1. Mục tiêu tổng quát

Đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC theo hướng không phụ thuộc vào địa giới hành chính, gắn với số hóa và sử dụng kết quả số hóa hồ sơ, giấy tờ, kết quả giải quyết TTHC nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, tăng năng suất lao động, góp phần hình thành công dân số, doanh nghiệp số trong xây dựng CQS, xã hội số, nền kinh tế số.

Hoàn thành các chỉ tiêu Tỉnh ủy giao tại các Nghị quyết: Nghị quyết số 14-NQ/TU ngày 24/8/2021 của Ban thường vụ Tỉnh ủy về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng công vụ tỉnh Hà Giang, giai đoạn 2021 - 2025 với mục tiêu đến năm 2025 “100% TTHC đủ điều kiện cung cấp DVCTT mức độ 4 tích hợp cung cấp trên Cổng Dịch vụ công tỉnh, Cổng Dịch vụ công Quốc gia; phấn đấu 98% TTHC được giải quyết đúng và trước hạn, mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp về giải quyết TTHC đạt 90% trở lên; tỷ lệ người dân thực hiện các DVCTT và thực hiện TTHC trên môi trường điện tử tối thiểu đạt 50% so với tổng số hồ sơ tiếp nhận; tối thiểu từ 80%) trở lên hồ sơ giải quyết TTHC được luân chuyển trong nội bộ giữa các cơ quan có thẩm quyền giải quyết hoặc có liên quan thực hiện bằng phương thức điện tử; 100% hồ sơ TTHC đã giải quyết thành công được số hóa, lưu trữ và có giá trị tái sử dụng”. Nghị quyết số 18-NQ/TU ngày 29/10/2021 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 “100% TTHC đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được cung cấp dưới hình thức DVCTT mức độ 4 trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động; chú trọng hồ sơ giải quyết TTHC trực tuyến”.

2.2. Mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể

Năm 2022:

- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của UBND tỉnh quy định về việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC.

- Hoàn thành kết nối, chia sẻ dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với Cổng Dịch vụ công Quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh phục vụ xác thực, định danh và cắt giảm, đơn giản hóa hồ sơ, giấy tờ của công dân, doanh nghiệp trong giải quyết TTHC tại BPMC các cấp theo Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ, Kế hoạch số 49/KH-UBND ngày 18/02/2022 của UBND tỉnh.

- Hoàn thành kết nối, chia sẻ dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu đăng ký doanh nghiệp với Cổng Dịch vụ công Quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh.

- Rà soát, đánh giá TTHC duy trì tỷ lệ cung cấp DVCTT toàn trình trên tổng số TTHC đủ điều kiện được cung cấp DVCTT toàn trình lên hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh đạt 100%; tỷ lệ cung cấp DVCTT toàn trình trên tổng số TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh lên Cổng Dịch vụ công quốc gia đạt 70%.

- Tỷ lệ TTHC có yêu cầu nghĩa vụ tài chính được thanh toán trực tuyến trên Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh duy trì tỷ lệ đạt 100%; trên Cổng Dịch vụ công quốc gia đạt 60%.

- Tỷ lệ thanh toán trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia trên tổng số giao dịch thanh toán của dịch vụ công đạt 30%.

- Tỷ lệ kết quả xử lý hồ sơ TTHC của tỉnh được đồng bộ đầy đủ trên Cổng Dịch vụ công quốc gia đạt 100%.

- Tỷ lệ cắt giảm, đơn giản hóa quy định; chi phí tuân thủ quy định liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh đạt 10%.

- Tỷ lệ đơn vị cấp xã cung cấp dịch vụ chứng thực bản sao điện tử từ bản chính đạt 100% và có phát sinh hồ sơ.

- Tổ chức triển khai quy trình số hóa hồ sơ, giấy tờ, kết quả giải quyết TTHC đạt 100% tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh, 40% BPMC cấp huyện và 35% BPMC cấp xã.

- Phấn đấu 95% hồ sơ TTHC được giải quyết đúng và trước hạn.

- 80% hồ sơ, quy trình giải quyết TTHC trong nội bộ cơ quan nhà nước được thực hiện bằng phương thức điện tử.

- 100% CBCCVC đăng ký tài khoản trên Cổng Dịch vụ công quốc gia và có tài khoản thanh toán điện tử.

- Tối thiểu 90% người dân và doanh nghiệp hài lòng về việc giải quyết TTHC.

Năm 2023 - 2025

- Hoàn thành kết nối, chia sẻ dữ liệu từ các Cơ sở dữ liệu quốc gia còn lại, các cơ sở dữ liệu chuyên ngành với Cổng Dịch vụ công Quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh phục vụ cho việc cắt giảm, đơn giản hóa hồ sơ, giấy tờ công dân, doanh nghiệp trong giải quyết TTHC tại BPMC các cấp.

- Rà soát, đánh giá TTHC duy trì tỷ lệ cung cấp DVCTT toàn trình trên tổng số TTHC đủ điều kiện được cung cấp DVCTT toàn trình lên Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh đạt 100%; tỷ lệ cấp DVCTT toàn trình trên tổng số TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh lên Cổng Dịch vụ công quốc gia đạt 90%.

- Tỷ lệ TTHC có yêu cầu nghĩa vụ tài chính được thanh toán trực tuyến trên Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh, Cổng Dịch vụ công quốc gia đạt 100%; tỷ lệ giao dịch thanh toán trực tuyến theo tỷ lệ tăng mỗi năm tối thiểu 20% cho đến khi đạt 100%.

- Tỷ lệ kết quả xử lý hồ sơ TTHC của tỉnh được đồng bộ đầy đủ trên Cổng Dịch vụ công quốc gia đạt 100%.

- Tổ chức triển khai quy trình số hóa hồ sơ, giấy tờ, kết quả giải quyết TTHC tại các BPMC cấp huyện, cấp xã theo tỷ lệ tăng mỗi năm tối thiểu 30% cho đến khi đạt 100%.

- Phấn đấu 98% hồ sơ TTHC được giải quyết đúng và trước hạn.

- 80% người dân, doanh nghiệp khi thực hiện TTHC không phải cung cấp lại các thông tin, giấy tờ, tài liệu đã được chấp nhận khi thực hiện thành công TTHC (trước đó), mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết TTHC đang quản lý hoặc thông tin, giấy tờ, tài liệu đã được cơ quan nhà nước kết nối, chia sẻ.

- Tỷ lệ người dân thực hiện các DVCTT và thực hiện TTHC trên môi trường điện tử tối thiểu đạt 50% so với tổng số hồ sơ tiếp nhận; 100% trở lên hồ sơ giải quyết TTHC được luân chuyển trong nội bộ giữa các cơ quan có thẩm quyền giải quyết, hoặc các cơ quan có liên quan được thực hiện bằng phương thức điện tử; 100% hồ sơ TTHC đã giải quyết thành công được số hóa, lưu trữ và có giá trị tái sử dụng.

- Tăng năng suất lao động trung bình trong việc giải quyết TTHC thông qua việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT, xã hội hóa một số công việc trong quy trình hướng dẫn, tiếp nhận, giải quyết TTHC, cụ thể: Năng suất tiếp nhận hồ sơ trung bình của 01 nhân sự trực tại BPMC trong 01 năm lên mức tối thiểu là 1.600 hồ sơ (trừ trường hợp tổng số hồ sơ tiếp nhận trong năm/01 BPMC ít hơn chỉ tiêu trên). Giảm thời gian chờ đợi của người dân, doanh nghiệp xuống trung bình còn tối đa 15 phút/01 lượt giao dịch; thời gian tiếp nhận, xử lý hồ sơ tối thiểu 30 phút/01 hồ sơ vào năm 2025.

- Điện tử hóa việc giám sát, đánh giá kết quả tiếp nhận, giải quyết TTHC làm cơ sở đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức công khai, minh bạch, hiệu quả.

- Mức độ hài lòng của tổ chức, cá nhân đối với chất lượng cung cấp dịch vụ công đạt tối thiểu 95% vào năm 2025.

3. Đối tượng và phạm vi của Đề án

3.1. Đối tượng của Đề án

- Cá nhân, tổ chức có nhu cầu khai thác, trao đổi thông tin về TTHC; khách hàng sử dụng dịch vụ/thực hiện TTHC.

- Cán bộ, công chức, cơ quan quản lý thực hiện tiếp nhận, xử lý hồ sơ TTHC.

- Các cơ quan quản lý về trao đổi thông tin để giải quyết TTHC; tham gia tiếp nhận, giải quyết TTHC; tham gia điều hành chất lượng giải quyết TTHC và BPMC các cấp trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

3.2. Phạm vi Đề án

- Phạm vi về không gian: Đề án được nghiên cứu tại BPMC các cấp trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

- Phạm vi về thời gian: Đề án tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2018 - 2021, từ đó đề ra các giải pháp đổi mới công tác quản lý, tổ chức việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2022 - 2025.

- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu thực trạng tình hình thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong những năm qua, đề ra những giải pháp nhằm đổi mới công tác quản lý, tổ chức việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong những năm tới.

II. NỘI DUNG ĐỔI MỚI CỦA ĐỀ ÁN

1. Thực hiện TTHC trên môi trường điện tử và số hoá hồ sơ, giấy tờ, kết quả giải quyết TTHC với quá trình tiếp nhận, xử lý TTHC tại BPMC tạo cơ sở hình thành dữ liệu sống, sạch, đủ và chính xác

1.1. Nguyên tắc thực hiện

- Quy trình thực hiện TTHC trên môi trường điện tử bằng phương tiện điện tử thông qua các DVCTT theo quy định tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018, Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020, Nghị định số 107/2021/NĐ-CP ngày 06/12/2021, Nghị định số 42/2022/NĐ-CP ngày 24/6/2022 của Chính phủ.

- Quy trình số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC trong tiếp nhận giải quyết TTHC trực tiếp theo quy định tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018, Nghị định số 107/2021/NĐ-CP ngay 06/12/2021.

1.2. Nội dung thực hiện

- Thực hiện cung cấp DVCTT toàn trình đối với 100% TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết và ủy quyền cho Trung tâm Phục vụ hành chính công hướng dẫn, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gửi hồ sơ trực tuyến hoặc thực hiện tiếp nhận, số hóa hồ sơ, trả kết quả TTHC trong trường hợp người dân, doanh nghiệp gửi hồ sơ trực tiếp, qua Bưu chính công ích (Giám đốc Trung tâm Phục vụ hành chính công chủ động đề nghị Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị cử CCVC đến Trung tâm để hướng dẫn, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gửi hồ sơ trực tuyến hoặc thực hiện tiếp nhận, số hóa hồ sơ, trả kết quả TTHC khi số lượng tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đến thực hiện TTHC có biến động tăng theo quy định): Văn phòng UBND tỉnh, Sở Tài chính, Sở Nội vụ, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Ngoại vụ, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Khoa học và Công nghệ, Ban Dân tộc.

- Thanh tra tỉnh thực hiện quy trình tiếp nhận, xử lý hồ sơ, trả kết quả giải quyết TTHC theo quy định tại Khoản 5, Điều 14, Nghị định số 61/2018/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 107/2021/NĐ-CP ngày 06/12/2021).

- Các cơ quan được tổ chức theo hệ thống ngành dọc tại địa phương như Công an tỉnh, Bảo hiểm xã hội tỉnh... thực hiện theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

- Các sở, ban ngành thuộc UBND tỉnh còn lại thực hiện quy trình hướng dẫn, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gửi hồ sơ trực tuyến và thực hiện tiếp nhận, số hóa hồ sơ, trả kết quả TTHC tại Trung tâm Phục vụ hành chính công theo quy định: Kể từ ngày Quyết định phê duyệt Đề án có hiệu lực thi hành, triển khai thực hiện 100% hồ sơ đề nghị giải quyết TTHC được gửi qua DVCTT hoặc số hóa và tái sử dụng kết quả số hóa hồ sơ, giấy tờ, kết quả giải quyết trong tiếp nhận, giải quyết TTHC.

- BPMC cấp huyện, cấp xã thực hiện quy trình hướng dẫn, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gửi hồ sơ trực tuyến đảm bảo hoàn thành mục tiêu đề ra năm 2022 của Đề án và chỉ đạo của UBND tỉnh; kể từ ngày 01/12/2022 thực hiện số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC trong tiếp nhận, giải quyết TTHC.

- Văn phòng UBND tỉnh hướng dẫn quy trình thực hiện TTHC trên môi trường điện tử bằng phương tiện điện tử thông qua các DVCTT; Quy trình số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC trong tiếp nhận giải quyết TTHC tạo cơ sở hình thành dữ liệu sống, sạch, đủ và chính xác theo quy định của Chính phủ. Xây dựng Đề án kiện toàn lại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh đảm bảo đầy đủ chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Chính phủ, (trong đó: BPMC của Trung tâm phấn đấu đến năm 2025 trở thành Bộ phận Dịch vụ hành chính công trực tuyến).

2. Đổi mới tổ chức quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ việc đơn giản hoá trong chuẩn bị, tiếp nhận, giải quyết hồ sơ TTHC theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông

2.1. Văn phòng UBND tỉnh, Sở Thông tin và Truyền thông thực hiện đồng bộ, liên kết tài khoản của tổ chức, cá nhân trên Hệ thống thông tin giải quyết TTHC với tài khoản của Cổng Dịch vụ công Quốc gia theo mã số định danh tổ chức, cá nhân trên cơ sở kết nối, chia sẻ dữ liệu với các Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đăng ký doanh nghiệp để hình thành một tài khoản thống nhất, cho phép liên kết, chia sẻ dữ liệu của tổ chức, cá nhân.

2.2. Văn phòng UBND tỉnh, Sở Thông tin và Truyền thông và sở chuyên ngành tổ chức kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, hệ thống thông tin cung cấp dịch vụ công của bộ, ngành đang triển khai tại địa phương với Cổng Dịch vụ công Quốc gia, hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh qua Trục liên thông văn bản quốc gia phục vụ giải quyết TTHC bảo đảm tính liên tục, thống nhất, thuận lợi, đơn giản, đồng bộ, toàn vẹn dữ liệu, tránh lãng phí trong suốt quá trình từ khâu tiếp nhận, xử lý đến trả kết quả giải quyết TTHC. Cụ thể:

- Kết nối, chia sẻ đồng bộ trạng thái, kết quả xử lý hồ sơ giữa các hệ thống thông tin cung cấp dịch vụ công của bộ, ngành đang triển khai tại địa phương với Cổng Dịch vụ công Quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh phục vụ theo dõi, giám sát, đánh giá.

- Kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành với Cổng Dịch vụ công Quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh phục vụ giải quyết TTHC, nhất là cắt giảm, đơn giản hóa trong chuẩn bị, tiếp nhận, giải quyết hồ sơ TTHC:

Cắt giảm các thủ tục hoặc các bước kiểm tra, xác nhận thông tin khi đã có thông tin, dữ liệu trong các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành và hệ thống thông tin cung cấp dịch vụ công.

Đơn giản hóa hồ sơ, giấy tờ phải nộp và tiếp nhận trên cơ sở tái sử dụng các hồ sơ, giấy tờ đã được số hóa trong các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành và hệ thống thông tin cung cấp dịch vụ công.

3. Mở rộng việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ TTHC theo hướng không phụ thuộc vào địa giới hành chính trên cơ sở ứng dụng CNTT trong thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông

3.1. Các sở chuyên ngành thực hiện đánh giá để đề xuất đưa vào triển khai tiếp nhận, giải quyết hồ sơ TTHC theo hướng không phụ thuộc vào địa giới hành chính đối với các TTHC mà thông tin, dữ liệu phục vụ xem xét, thẩm định hồ sơ đã có trong Cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành hoặc trên cơ sở có sự kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành, trừ trường hợp TTHC yêu cầu phải kiểm tra thực địa, đánh giá, thẩm định tại cơ sở đối với các TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh.

3.2. Triển khai BPMC đa chức năng/BPMC liên thông được mở rộng thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết TTHC theo hướng có nhiệm vụ, quyền hạn tiếp nhận, luân chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết, trả kết quả tất cả hồ sơ TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của cả 3 cấp chính quyền (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) trên cùng một địa bàn tỉnh. Sau đó, chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết; nhận kết quả giải quyết từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để trả cho cá nhân, tổ chức bằng các hình thức: Bản giấy, bản điện tử (theo yêu cầu của đối tượng thực hiện TTHC). Năm 2022 triển khai thí điểm việc tiếp nhận và giải quyết TTHC không phụ thuộc vào địa giới hành chính đối với các TTHC về giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp.

3.3. Văn phòng UBND tỉnh hướng dẫn việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ TTHC theo hướng không phụ thuộc vào địa giới hành chính.

4. Nâng cao tính chủ động trong đổi mới, nâng cao hiệu quả, năng suất lao động của BPMC

4.1. Đổi mới, nâng cao hiệu quả, năng suất lao động của BPMC các cấp phù hợp với điều kiện, yêu cầu thực tiễn như: Tổ chức BPMC theo không gian, địa giới hành chính để giảm chi phí đầu tư, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và năng suất lao động, áp dụng nguyên tắc mỗi địa bàn hành chính cấp xã có một BPMC, …, trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc không làm thay đổi, ảnh hưởng đến thẩm quyền giải quyết TTHC. Thống nhất thực hiện ở 11 huyện/thành phố (Thẩm quyền giải quyết TTHC thuộc cấp nào, cơ quan nào thì cấp đó, cơ quan đó giải quyết theo quy định; CCVC trực tại BPMC do cơ quan có thẩm quyền giải quyết TTHC cử đến hoặc thuê dịch vụ; hồ sơ thực hiện số hóa và gửi qua Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh).

- Trên địa bàn thành phố Hà Giang

Trung tâm Phục vụ hành chính công có trụ sở trên địa bàn phường Nguyễn Trãi - thành phố Hà Giang thực hiện bố trí đưa BPMC của phường Nguyễn Trãi vào làm việc tại Trung tâm Phục vụ hành chính công kể từ ngày 01/01/2023.

BPMC thành phố có trụ sở trên địa bàn phường Trần Phú thực hiện bố trí đưa BPMC của phường Trần Phú vào làm việc tại BPMC thành phố kể từ ngày 01/3/2023.

- Trên địa bàn các huyện

Mỗi địa bàn hành chính xã, thị trấn chỉ có một BPMC: BPMC huyện có trụ sở trên địa bàn xã, thị trấn thực hiện bố trí đưa BPMC của xã, thị trấn vào làm việc tại BPMC huyện:

BPMC các huyện: Bắc Mê, Bắc Quang, Đồng Văn, Vị Xuyên, Hoàng Su Phì thực hiện kể từ ngày 01/3/2023.

BPMC các huyện: Mèo Vạc, Quản Bạ, Yên Minh, Quang Bình, Xín Mần thực hiện kể từ ngày 01/01/2024 (sau khi tổ chức đánh giá kết quả triển khai đối với BPMC các huyện đã triển khai từ ngày 01/3/2023).

- Văn phòng UBND tỉnh hướng dẫn UBND các huyện, thành phố tổ chức BPMC theo không gian, địa giới hành chính theo nội dung Đề án này.

4.2. Triển khai thực hiện thuê doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính công ích đảm nhận một số công việc trong quá trình hướng dẫn, tiếp nhận, số hóa hồ sơ, trả kết quả giải quyết TTHC và hỗ trợ gửi hồ sơ trực tuyến trên cơ sở đánh giá khả năng đáp ứng về cơ sở vật chất, nhân lực của cơ quan HCNN và khả năng đảm nhận các nhiệm vụ này của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính công ích (số lượng nhân viên, trình độ chuyên môn, giá thuê...). Quyền hạn, trách nhiệm của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính công ích khi thực hiện các công việc theo hình thức thuê dịch vụ tại BPMC thực hiện theo hợp đồng đã được ký kết với cơ quan có thẩm quyền, bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật và thực hiện có hiệu quả các nội dung đổi mới quy định tại Đề án.

- Về thẩm quyền thuê dịch vụ: Tại cấp huyện, cấp xã do Văn phòng Hội đồng nhân dân và UBND cấp huyện thực hiện.

- Hình thức thuê dịch vụ: Đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu.

- Giá, đơn giá cung cấp dịch vụ TTHC được xác định trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật, định mức chi phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành theo quy định của pháp luật về giá và quy định của các pháp luật khác có liên quan. Trường hợp TTHC có thu phí, lệ phí và các nghĩa vụ tài chính khác thì thực hiện theo mức phí, lệ phí và các nghĩa vụ tài chính khác do Nhà nước quy định.

- USB Token (chữ ký số) của giao dịch viên Bưu điện để thực hiện số hóa hồ sơ khi được thuê dịch vụ do doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính công ích thuê chữ ký số công cộng và chịu chi phí thuê dịch vụ.

- Doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính công ích chịu trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực cung ứng dịch vụ cho cơ quan nhà nước tại BPMC và chịu trách nhiệm trước pháp luật về chất lượng dịch vụ cung ứng.

- Thí điểm tại BPMC các huyện: Quang Bình, Vị Xuyên, kể từ tháng 01/2023.

- Thí điểm tại BPMC các huyện: Hoàng Su Phì, Yên Minh, kể từ tháng 06/2023.

- Thực hiện tổ chức sơ kết đánh giá kết quả triển khai ở các huyện thực hiện thí điểm vào tháng 12/2023 để xem xét việc tiếp tục triển khai tại BPMC các huyện, thành phố còn lại và BPMC cấp xã hoặc thôi không tiếp tục triển khai.

4.3. BPMC các cấp trên địa bàn tỉnh thực hiện sử dụng Bộ nhận diện thương hiệu của BPMC thống nhất Kể từ ngày Quyết định phê duyệt Đề án có hiệu lực thi hành (Bộ nhận diện thương hiệu theo hướng dẫn tại Công văn số 2319/VPCP-KSTT ngày 14/4/2022 của Văn phòng Chính phủ).

5. Đổi mới việc giám sát, đánh giá chất lượng giải quyết TTHC theo thời gian thực trên ứng dụng công nghệ mới

- Thống nhất sử dụng Bộ chỉ số chỉ đạo, điều hành và đánh giá chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp trong thực hiện TTHC, dịch vụ công theo thời gian thực trên môi trường điện tử đã được phê duyệt tại Quyết định số 766/QĐ-TTg ngày 23/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ kể từ tháng 8/2022; Kết quả đánh giá là một trong những tiêu chuẩn để xem xét mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; xác định trách nhiệm của cá nhân, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong thực hiện TTHC, cung cấp dịch vụ công; ưu tiên xem xét việc đề bạt, bổ nhiệm, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và xem xét khen thưởng, xử lý kỷ luật CCVC, người lao động.

- Văn phòng UBND tỉnh phối hợp với các cơ quan có liên quan thí điểm lắp đặt camera tại BPMC thuộc UBND cấp huyện và cấp xã của trên địa bàn tỉnh để tăng cường công tác giám sát việc giải quyết TTHC của CCVC tại BPMC cấp huyện, cấp xã kể từ tháng 01/2024.

III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

1. Hoàn thiện thể chế

- Sửa đổi, bổ sung quy chế, quy định liên quan đến việc tiếp nhận, giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh để đáp ứng yêu cầu triển khai các nội dung nhiệm vụ của Đề án.

- Sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của HĐND, UBND tỉnh làm cơ sở triển khai tiếp nhận, giải quyết TTHC theo hướng không phụ thuộc vào địa giới hành chính.

2. Nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật, các hệ thống CNTT

- Nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh để đáp ứng yêu cầu số hóa và sử dụng kết quả số hóa hồ sơ, giấy tờ, kết quả giải quyết TTHC, cũng như việc kết nối, chia sẻ dữ liệu với các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành.

- Hoàn thành nhiệm vụ Chính phủ giao thực hiện kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa Hệ thống thông tin giải quyết TTHC với Cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, hệ thống thông tin, Cổng Dịch vụ công Quốc gia qua Trục liên thông văn bản quốc gia phục vụ giải quyết TTHC.

3. Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện

- Tăng cường công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Đề án đổi mới cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC tại các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh khi Đề án được ban hành.

- Tăng cường công tác phối hợp trong quá trình triển khai thực hiện Đề án; kết nối, chia sẻ thông tin giữa các phần mềm, cơ sở dữ liệu chuyên ngành với Hệ thống thông tin giải quyết TTHC, Cổng Dịch vụ công quốc gia.

- Đào tạo, bồi dưỡng CCVC, người lao động trong thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông; kịp thời biểu dương, khen thưởng các cán bộ, CCVC, nhân viên cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thực hiện tốt; đồng thời, có biện pháp xử lý nghiêm cán bộ, công chức, cơ quan, đơn vị không nghiêm túc thực hiện Đề án, gây khó khăn, chậm trễ cho việc triển khai thực hiện Đề án.

IV. NGUỒN LỰC THỰC HIỆN

1. Kinh phí thực hiện Đề án

- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ của Đề án đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC do ngân sách nhà nước đảm bảo theo phân cấp ngân sách hiện hành và các nguồn kinh phí hợp pháp khác.

- Căn cứ nhiệm vụ được giao, hàng năm cùng thời điểm lập dự toán ngân sách các cơ quan, đơn vị lập dự toán kinh phí gửi cơ quan tài chính cùng cấp tổng hợp, tham mưu trình UBND cùng cấp xem xét bố trí kinh phí theo khả năng cân đối ngân sách.

2. Về nhân lực

- Văn phòng UBND tỉnh là đầu mối giúp Lãnh đạo UBND tỉnh, Văn phòng Hội đồng nhân dân và UBND cấp huyện giúp Lãnh đạo UBND cấp huyện tổ chức thực hiện Đề án theo nhiệm vụ được giao.

- Nhân lực thực hiện Đề án chủ yếu là đội ngũ CCVC văn phòng, CCVC các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh và nhân viên doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính công ích chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện Đề án theo nhiệm vụ được giao.

Phần III

TỔ CHỨC THỰC HIỆN

I. TRÁCH NHIỆM THỰC HIỆN

1. Các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố

Trên cơ sở các nhiệm vụ được giao tại Đề án, các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố, UBND các xã, phường, thị trấn khẩn trương tổ chức triển khai, thực hiện theo hướng xác định rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân gắn với đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện; đề cao trách nhiệm của từng CCVC “không né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, bảo đảm chất lượng và thời hạn xử lý các nhiệm vụ”. Định kỳ hàng quý báo cáo kết quả triển khai về UBND tỉnh (qua Trung tâm Phục vụ hành chính công), các nội dung báo cáo được bổ sung vào báo cáo công tác KSTTHC, triển khai cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC và thực hiện TTHC trên môi trường điện tử theo quy định tại Thông tư số 01/2020/TT-VPCP ngày 21/10/2020.

UBND các huyện, thành phố bố trí kinh phí thực hiện Đề án theo phân cấp quản lý.

2. Văn phòng UBND tỉnh

- Giúp UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, đơn vị thực hiện đúng nội dung, tiến độ đối với các nhiệm vụ được giao tại Đề án này, kịp thời báo cáo Chủ tịch UBND tỉnh xử lý những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

- Chủ trì phối hợp với Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Thông tin và Truyền thông tổng hợp danh mục dự án đầu tư phục vụ mục tiêu đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC vào Kế hoạch đầu tư công trung hạn của tỉnh để tham mưu UBND tỉnh trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của Luật đầu tư công.

- Tham gia quản lý, vận hành Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC, Cổng Dịch vụ công quốc gia; Chủ trì phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông, các cơ quan có liên quan tham gia xây dựng, quản lý, vận hành và khai thác Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh (Cổng Dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp tỉnh) sau khi thực hiện đánh giá Hệ thống thông tin giải quyết TTHC hiện tại và có giải pháp triển khai để Hệ thống thông tin giải quyết TTHC đáp ứng theo đúng các quy định hiện hành của Chính phủ; kết nối, liên thông, tích hợp, chia sẻ dữ liệu về giải quyết TTHC, thực hiện dịch vụ công phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của UBND, Chủ tịch UBND tỉnh theo quy định tại điểm e khoản 8 Điều 2 Thông tư 01/2022/TT-VPCP ngày 02/5/2022 của Văn phòng Chính phủ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

- Chủ trì phối hợp với Sở Tài chính tham mưu UBND tỉnh bố trí kinh phí, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất cho việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao.

- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan tổ chức Đoàn kiểm tra công tác cải cách TTHC và việc triển khai, thực hiện nhiệm vụ UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh giao cho các cơ quan, đơn vị.

- Đề xuất khen thưởng thường xuyên, đột xuất, chuyên đề đối với các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác cải cách TTHC (nếu có).

- Hằng năm căn cứ vào nhiệm vụ Chính phủ giao và tình hình thực tiễn việc triển khai Đề án này tham mưu UBND tỉnh chỉnh sửa, bổ sung các nhiệm vụ, chỉ tiêu đúng với quy định và phù hợp với điều kiện thực tiễn tại địa phương.

3. Sở Tài chính

Căn cứ dự toán do các sở, ngành, đơn vị dự toán cấp tỉnh lập và nhiệm vụ tỉnh giao, Sở Tài chính tham mưu UBND tỉnh bố trí kinh phí chi thường xuyên để thực hiện các nhiệm vụ của Đề án do cấp tỉnh triển khai theo khả năng cân đối ngân sách.

4. Sở Nội vụ

Phối hợp với Văn phòng UBND tỉnh thực hiện rà soát tham mưu UBND tỉnh sửa đổi, bổ sung chỉ số theo dõi, đánh giá cải cách hành chính đối với các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh phù hợp với điều kiện thực tế của công tác cải cách hành chính, bao gồm việc đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ tại Đề án này đảm bảo chính xác, hiệu quả.

5. Sở Thông tin và Truyền thông

Phối hợp với Văn phòng UBND tỉnh và các cơ quan có liên quan tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo việc hoàn thiện chức năng, tính năng kỹ thuật của Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh đáp ứng triển khai, thực hiện TTHC các nhiệm vụ giao tại Đề án này.

II. ĐÁNH GIÁ VỀ TÍNH KHẢ THI, HIỆU QUẢ, LỢI ÍCH MANG LẠI CỦA ĐỀ ÁN VÀ DỰ KIẾN KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC

1. Dự kiến khó khăn

- Hiện nay, Đảng, Nhà nước đã có nhiều văn bản chỉ đạo về chủ trương cho phép doanh nghiệp, các tổ chức xã hội tham gia cung cấp dịch vụ, tuy nhiên chưa có quy định cụ thể về giá, đơn giá cung cấp dịch vụ TTHC được xác định trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật, định mức chi phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành theo quy định của pháp luật về giá đối với các nhiệm vụ được chuyển giao cho doanh nghiệp thực hiện.

- Việc ứng dụng CNTT vào cung cấp và sử dụng DVCTT ở cấp huyện, cấp xã còn hạn chế. Cộng với thói quen, tâm lý muốn trực tiếp đến gặp cơ quan nhà nước để thực hiện TTHC dẫn đến người dân vẫn chủ yếu thực hiện yêu cầu của mình thông qua hình thức trực tiếp.

- Việc thực hiện đổi mới cơ chế một cửa, một cửa liên thông bên cạnh việc giảm tải khối lượng công việc cho cơ quan HCNN. Đồng thời thêm một kênh giám sát, đôn đốc việc giải quyết dịch vụ công/TTHC của cơ quan HCNN, tăng cường sự khách quan, công khai, minh bạch. Song đồng thời cũng là việc chia sẻ quyền lợi từ cơ quan HCNN sang tổ chức khác. Do đó, rất cần sự quyết tâm cao của người đứng đầu các cơ quan trên địa bàn tỉnh.

2. Tính khả thi, hiệu quả và lợi ích của Đề án

Theo tính toán sơ bộ thì tổng số tiền có thể tiết kiệm được khi thực hiện các phương án đổi mới cho nhà nước vào khoảng 3.846.149.460 đồng/năm (chưa tính chi phí nhân công, chi phí giảm số người lao động) và tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp vào khoảng 159.546.261.391 đồng/năm, cụ thể:

2.1. Giảm số lượng BPMC: Việc rà soát, tổ chức lại BPMC để đáp ứng yêu cầu khoa học, đáp ứng yêu cầu đơn vị hành chính cấp xã có Trung tâm Phục vụ hành chính công thì không duy trì BPMC xã; đơn vị hành chính cấp xã đã có BPMC cấp huyện thì không thành lập BPMC cấp xã đã cắt giảm được tối thiểu 12 BPMC cấp xã, tương ứng với số kinh phí tiết kiệm được khoảng 410.400.000 đồng (12 BPMC x 34.200.000 đ/BPMC/năm) chi phí duy trì, vận hành (không tính chi phí nhân công)/năm. Khi việc ứng dụng CNTT được đẩy mạnh, số lượng TTHC được thực hiện trực tuyến tăng lên thì theo đó quy mô, số lượng BPMC sẽ giảm đi theo tỷ lệ nghịch. Theo số liệu thống kê cho thấy trung bình một BPMC cấp huyện có 12 người; 3 người/BPMC cấp xã, khi thực hiện phương án mới, tương ứng tiết kiệm được nguồn nhân lực là khoảng: 12*3 = 36 người.

2.2. Tiết kiệm chi phí do tái sử dụng lại giấy tờ, tài liệu thực hiện thành công TTHC đã được số hóa, ký số nên chi phí tiết kiệm được sẽ rất lớn và tăng dần theo từng năm, tỷ lệ thuận với số lượng dịch vụ công và thực hiện TTHC trên môi trường điện tử tăng lên. Theo số liệu thống kê trung bình một năm trên địa bàn tỉnh đã thực hiện 1.589.674 bản sao chứng thực từ bản chính. Theo tính toán, chi phí thấp nhất cho việc thực hiện chứng thực trên vào khoảng 15.896.740.000 đồng/năm.

Khi thực hiện sử dụng lại giấy tờ cá nhân đã được số hóa và lưu trong Kho dữ liệu điện tử không phải thực hiện chứng thực như vậy chi phí tiết kiệm được cho riêng việc chứng thực bản sao từ sổ gốc tối thiểu khoảng 15.896.740.000 đồng/năm.

2.3. Tiết kiệm chi phí do tăng tỷ lệ % thực hiện thủ tục theo phương thức điện tử:

Ví dụ: Năm 2022 theo chỉ tiêu tại Đề án thì 30% TTHC được thực hiện trên môi trường điện tử/năm, riêng chi phí đi lại thực hiện TTHC (chỉ tính mức thấp nhất một lượt đi, về) tiết kiệm được là: 69.165.436.332 đồng/năm 2022.

2.4. Tiết kiệm chi phí do giảm thời gian chờ đợi

Hiện nay thường phải chờ tối thiểu 2 giờ/lần thực hiện yêu cầu giải quyết/nhận kết quả. Nếu năm 2022 giảm còn 30 phút/trường hợp, thì tổng thời gian tiết kiệm được sẽ là: 74.484.085.059 đồng cho năm 2022.

2.5. Tiết kiệm chi phí luân chuyển hồ sơ, tài liệu giấy

Hiện nay, các BPMC khi tiếp nhận hồ sơ trực tiếp, hoặc qua bưu chính thì sẽ luân chuyển hồ sơ giấy đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Việc chuyển hồ sơ giấy được thực hiện bằng nhiều cách thức, do nhân sự tại BPMC tự chuyển hồ sơ do mình nhận, hoặc cử một người thu gom của nhiều lĩnh vực để chuyển, hoặc chuyển thông qua dịch vụ bưu chính công ích. Tuy nhiên, dù cho có thực hiện chuyển hồ sơ giấy bằng cách thức nào nêu trên thì cũng phát sinh chi phí, tối thiểu là 45 phút/ngày (thường ngày 3 lần, tối thiểu 30 phút/lần = 90 phút cả chuyển hồ sơ và nhận kết quả), nếu chuyển qua đường bưu chính thì chi phí sẽ cao hơn, mức tối thiểu là 4.000 đồng /hồ sơ. Khi chuyển sang hình thức chuyển hồ sơ điện tử sẽ tiết kiệm được tối thiểu: 3.435.749.460 đồng. Đặc biệt là lợi ích từ việc thực hiện xây dựng CQS, hiện đại hóa (số hóa) quản trị dịch vụ công, đẩy mạnh việc xã hội hóa những công việc không nhất thiết phải do nhà nước thực hiện, qua đó tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh để không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ đối với các yêu cầu chính đáng của cá nhân, tổ chức. Giúp cơ quan HCNN tập trung thời gian, nhân lực thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước. Góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng CQS, cải cách nền hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước.

2.6. Đề án giúp nâng cao Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX), Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính (SIPAS), Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI), Chỉ số đánh giá chuyển đổi số (DTI), Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), Chỉ số đánh giá chi phí tuân thủ TTHC tỉnh (APCI), Chỉ số chỉ đạo, điều hành và đánh giá chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp trong thực hiện TTHC, dịch vụ công theo thời gian thực trên môi trường điện tử và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, tạo điều kiện thu hút đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

2.7. Đề án giúp xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, xây dựng mô hình giải quyết TTHC mới theo hướng thân thiện, hiệu quả với nhiều tiện ích, lợi ích thiết thực cho người dân, tổ chức, góp phần xây dựng hình ảnh chính quyền thân thiện, phục vụ.

(Có phụ biểu tính lợi ích đề án kèm theo)

III. LỘ TRÌNH THỰC HIỆN

1. Rà soát, tổng hợp thông tin, số liệu liên quan đến công tác xây dựng Đề án: từ tháng 2/2022 đến tháng 3/2022.

2. Xây dựng dự thảo Đề án và xin ý kiến Đề án của các Cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh; thống nhất nội dung Đề án án đối với các cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ: từ tháng 3/2022 đến tháng 6/2022.

3. Ban hành Đề án và chuẩn bị các điều kiện thực hiện trên địa bàn tỉnh: tháng 7/2022.

4. Triển khai thực hiện Đề án theo thời gian quy định ở các nội dung đổi mới của Đề án: tháng 7/2022.

5. Sơ kết, đánh giá hiệu quả, hạn chế của Đề án theo thời gian quy định ở các nội dung đổi mới của Đề án.

6. Tổng kết, đánh giá hiệu quả, hạn chế của Đề án để đề ra hướng triển khai trong giai đoạn 2026 - 2030: tháng 12/2025

 

PHỤ BIỂU TÍNH LỢI ÍCH ĐỀ ÁN

Mục

Nội dung

Số tiền
(Đồng)

I

Cơ quan nhà nước

 

1

Giảm số lượng BPMC: 12 BPMC x 34.200.000 đồng/BPMC/năm

410.400.000

2

Tiết kiệm chi phí luân chuyển hồ sơ, tài liệu giấy: 1,5 giờ/người/ngày x 195 người (chỉ tính cấp huyện, tỉnh) x 22 ngày/tháng x 12 tháng x 44.493 đồng/giờ làm việc

3.435.749.460

 

Tổng cộng:

3.846.149.460

II

Tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp

 

1

Tiết kiệm chi phí do tái sử dụng lại giấy tờ: Trung bình trên địa bàn tỉnh 1.589.674 bản sao chứng thực từ bản chính/01 năm x Tổng chi phí trung bình (thời gian phí chứng thực) 10.000 đồng/bản

15.896.740.000

2

Tiết kiệm chi phí do tăng tỷ lệ % thực hiện thủ tục theo phương thức điện tử: 388.631 hồ sơ x TB 2 giờ/lượt x 2 lượt x 44.493 đồng/giờ làm việc

69.165.436.332

3

Tiết kiệm chi phí do giảm thời gian chờ đợi: TB tiết kiệm 1,5 giờ/lần x 2 lần x 44.493 đồng/giờ làm việc x 558.021 hồ sơ

74.484.085.059

 

Tổng cộng:

159.546.261.391

 

 



1 Tại cấp tỉnh: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập Trung tâm Phục vụ hành chính công là đơn vị hành chính đặc thù thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có con dấu và tài khoản riêng để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Căn cứ tần suất tiếp nhận hồ sơ thủ tục hành chính, tình hình bố trí trụ sở của các cơ quan chuyên môn và điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh trình Hội đồng nhân dân thành phố quyết định số lượng Trung tâm Phục vụ hành chính công của thành phố. Trường hợp cấp tỉnh chưa đủ điều kiện tổ chức Trung tâm Phục vụ hành chính công, tại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, người đứng đầu cơ quan chuyên môn quyết định thành lập Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả thuộc văn phòng cơ quan chuyên môn đó; Tại cấp huyện: Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thành lập Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả thuộc Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện; Tại cấp xã: Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định thành lập Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã; Người đứng đầu cơ quan của trung ương được tổ chức theo hệ thống ngành dọc tại địa phương quyết định tổ chức Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả tại Văn phòng hoặc một đơn vị, tổ chức chuyên môn thuộc cơ quan này (trong trường hợp đơn vị tổ chức này không có văn phòng), đồng thời chỉ đạo việc bố trí cán bộ, công chức, viên chức đến Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh, Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả cấp huyện để tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính đối với những thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền.

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Quyết định 1170/QĐ-UBND năm 2022 phê duyệt Đề án Đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính giai đoạn 2022-2025 do tỉnh Hà Giang ban hành

  • Số hiệu: 1170/QĐ-UBND
  • Loại văn bản: Quyết định
  • Ngày ban hành: 21/07/2022
  • Nơi ban hành: Tỉnh Hà Giang
  • Người ký: Nguyễn Văn Sơn
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 21/07/2022
  • Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực
Tải văn bản